Tiểu luận Nguyên lý quản lý kinh tế

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

CƠ SỞ II THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


---------***---------

TIỂU LUẬN
Môn học: Nguyên lý quản lý kinh tế

Đề tài:
LÝ THUYẾT CẤT CÁNH CỦA W. ROSTOW VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI
VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thanh Dung

Mã lớp: 02
NHÓM 2
TP.HCM, tháng 05 năm 2021
—&œ–

i
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2

HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MSSV ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN


THÀNH CÔNG VIỆC
Hoàng Ngọc Sâm 1911115438 100%

Hồ Thị Thu Hà 1911115120 100%

Thạch Trọng Nghĩa 1911115314 100%

Lương Văn Quang 1911115425 100%

Phan Đào Uyên Phương 1911115409 100%

Nguyễn Ngọc Lâm 1911115222 100%

Trần Thị Thùy Linh 1911115245 100%

Bùi Khánh Ly 1911115264 100%

2
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU. .................................................................................................................... 4
1.1. Tính cấp thiết của đề tài. ........................................................................................ 4
1.2. Mục tiêu nghiên cứu. ............................................................................................. 4
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ......................................................................... 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu. ...................................................................................... 4
1.5. Cấu trúc của tiểu luận. ........................................................................................... 5
2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI. ................................................................................................... 5
2.1. Các cơ sở liên quan đến đề tài. .............................................................................. 5
2.1.1. Cơ sở lý luận................................................................................................... 5
2.1.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................ 7
2.2. Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow.......................................................... 7
2.2.1. Giới thiệu về W.Rostow.................................................................................. 7
2.2.2. Phân tích nội dung lý thuyết của W.Rostow. ................................................... 8
2.2.3. Một số lý thuyết phát triển kinh tế thông qua sản xuất cùng thời kỳ. ............... 9
2.2.4. Nhận xét về lý thuyết Rostow. ...................................................................... 10
2.2.5. Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết này: .............................................. 12
2.3. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. ............................................................................ 12
2.3.1. Phân tích Việt Nam qua các giai đoạn theo lý thuyết của W.Roscow. ........... 12
2.3.2. Nhận xét. ...................................................................................................... 19
2.3.3. Giải pháp phát triển bền vững cho Việt Nam. ............................................... 20
3. KẾT LUẬN................................................................................................................ 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 23

3
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế-xã hội khác nhau. Ở
mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử loài người đều có những hiểu biết và cách giải thích
các hiện tượng kinh tế-xã hội nhất định. Việc giải thích các hiện tượng kinh tế-xã hội ngày
càng trở nên hết sức cần thiết đối với đời sống kinh tế-xã hội loài người. Việc nghiên cứu
các lý thuyết phân tích sự phát triển kinh tế có ý nghĩa rất lớn không chỉ về mặt học thuật
mà cả về mặt thực tiễn. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa, với một điểm xuất phát rất thấp về kinh tế, do đó nền kinh tế
phát triển theo đúng quỹ đạo mong muốn là rất quan trọng và cần thiết. Nó cũng cung cấp
cho ta một hệ thống các biện pháp, cơ chế chính sách, công cụ để điều tiết hướng dẫn nền
kinh tế, khả năng vận dụng và thực tiễn ở Việt Nam.
Với những suy nghĩ trên, nhóm đã quyết định chọn đề tài tiểu luận môn Nguyên lý
Quản lý Kinh tế là : “Lý thuyết cất cánh của W. Rostow và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề sau: Nhật xét và so sánh Lý thuyết của
Rostow với các Lý thuyết phát triển khác, từ đó đưa ra ý nghĩa của lý thuyết này; kèm với
đó là Việt Nam qua các giai đoạn theo Lý thuyết cất cánh của W. Rostow và giải pháp bền
vững cho Việt Nam thông qua các điểm sáng cũng như những điểm chưa được giải thích
sáng tỏ của Lý thuyết cất cánh.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu là Lý thuyết cất cánh của W. Rostow và liên hệ thực tiễn tại Việt
Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở đây là Lý thuyết cất cánh của W. Rostow, lý
thuyết này đã, đang và sẽ ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế các nước, đặc biệt là Việt
Nam.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện, tiểu luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học để phân tích lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, tiểu luận còn sử dụng phương pháp tổng
hợp, thống kê, phương pháp so sánh,... nhằm giúp quá trình nghiên cứu diễn ra chuẩn xác
nhất.
4
1.5. Cấu trúc của tiểu luận.
Phần 1: Cơ sở lý luận
Phần 2: Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow
Phần 3: Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Phần 4: Kết luận
2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
2.1. Các cơ sở liên quan đến đề tài.
2.1.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát triển kinh tế
năm 1991” cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng của những đại lượng
chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính mối
liên quan với dân số.”
Trong tác phẩm “Kinh tế học của các nước phát triển”, thì nhà kinh tế học E.Wayne
Nafziger cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng hoặc sự tăng lên về thu
nhập bình quân đầu người của một nước.”
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể định nghĩa một cách khái
quát như sau: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập
bình quân đầu người.”
Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản sau:
Một là vốn: đây là yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Hai là con người: là yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là con người
có sức khỏe, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao động được tổ chức chặt chẽ.
Ba là kỹ thuật và công nghệ: kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến là yếu tố quyết
định chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế, vì nó tạo ra năng suất lao động cao, do đó tích
lũy đầu tư lớn.
Bốn là cơ cấu kinh tế: xây dựng được cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì tăng trưởng
kinh tế càng nhanh và bền vững.

5
Năm là thể chế chính trị và quản lý nhà nước: thể chế chính trị càng ổn định, tiến bộ
thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh. Nhà nước càng đề ra được các đường lối, chính sách
phát triển kinh tế đúng đắn thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh.
2.1.1.2. Phát triển kinh tế:
Theo WB, trong “Sự thách thức của phát triển” năm 1991 cho rằng: “Phát triển kinh
tế là sự tăng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục, sức
khỏe và bảo vệ môi trường.”
Hiện nay người ta định nghĩa khái quát phát triển kinh tế như sau: Phát triển kinh tế
là sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự tiến bộ của cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế và chất
lượng cuộc sống.
Như vậy, phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất là sự tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập bình
quân đầu người.
Thứ hai là sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng: Tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày
càng giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong tổng sản phẩm
quốc dân.
Thứ ba là đời sống của nhân dân ngày càng cao về phúc lợi xã hội, tiêu chuẩn sống,
giáo dục, sức khỏe và sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế mà cơ bản hơn là
phát triển kinh tế bền vững.
Phát triển kinh tế phụ thuộc các yếu tố sau:
Một là lực lượng sản xuất: Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao tức
công nghệ càng hiện đại và trình độ con người càng cao thì càng thúc đẩy phát triển kinh
tế nhanh.
Hai là quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất mà phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững và ngược lại thì
kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Ba là kiến trúc thượng tầng: Tuy là quan hệ phát sinh, những kiến trúc thượng tầng
có tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế, hoặc thúc đẩy sự phát triển kinh tế hoặc

6
kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong kiến trúc thượng tầng ảnh hưởng sâu sắc nhất là chính
trị.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là hai thuật ngữ khác nhau nhưng luôn có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Phát triển kinh tế bao hàm trong đó có tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững hơn. Vì vậy các chuyên gia của WB cho rằng: “Tăng trưởng chưa phải là phát
triển, song Tăng trưởng lại là một cách cơ bản để có phát triển và không thể nói Phát triển
kinh tế mà trong đó lại không có Tăng trưởng kinh tế.”
2.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Lý thuyết cất cánh của W. Rostow có ý nghĩa thực tiễn như sau:
Một là, lý thuyết này giúp ta đánh giá về thực trạng và xu thế phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Chẳng hạn, hầu hết các nước đang phát triển đang tiến hành CNH hiện nay
nằm trong khoảng giai đoạn chuẩn bị cất cánh và cất cánh tùy theo mức độ phát triển của
từng nước; các nước NICs (Newly Industrialized Countries - Các nước công nghiệp mới)
nằm trong giai đoạn chín muồi về kinh tế và các nước phát triển nằm trong giai đoạn kỷ
nguyên tiêu dùng hàng loạt (hậu CNH).
Hai là, lý thuyết này cho rằng mỗi giai đoạn khác nhau có các cực tăng trưởng khác
nhau. Vì vậy, Nhà nước cần phải có chính sách cơ cấu linh hoạt nhằm phát huy tối đa lợi
thế so sánh trong từng giai đoạn để đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước. Về điểm này,
nó rất gần gũi với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các “cực tăng trưởng”
và học thuyết kinh tế cơ cấu mới của Justin Yifu Lin.
Do đó, nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn đề tài “Lý thuyết cất cánh của W.
Rostow và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu.
2.2. Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow.
2.2.1. Giới thiệu về W. Rostow.
Walt Whitman Rostow (1916-2003) là một nhà kinh tế học, giáo sư và nhà lý luận
chính trị người Mỹ.
Rostow được biết đến với cuốn sách của mình: Các giai đoạn của tăng trưởng kinh
tế: Tuyên ngôn phi cộng sản (1960), được sử dụng trong một số lĩnh vực khoa học xã hội.
Các lý thuyết của Rostow được nhiều quan chức trong cả chính quyền Kennedy và Johnson

7
chấp nhận vì có thể là một biện pháp chống lại sự phổ biến ngày càng tăng của chủ nghĩa
cộng sản ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh.
2.2.2. Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow.
Các giai đoạn của mô hình tăng trưởng kinh tế của Rostow là một trong những mô
hình tăng trưởng kinh tế lịch sử chính. Mô hình giả định rằng tăng trưởng kinh tế xảy ra
trong năm giai đoạn cơ bản, với độ dài khác nhau:

1. Xã hội truyền thống


2. Tiền cất cánh
3. Cất cánh
4. Động lực để trưởng thành
5. Thời đại tiêu thụ hàng loạt cao

Xã hội truyền thống


- Đặc trưng bởi nền nông nghiệp tự cung tự cấp hoặc săn bắt và hái lượm
- Một số tiến bộ và cải tiến đối với các quy trình sản xuất và tiêu thụ , nhưng khả
năng tăng trưởng kinh tế bị hạn chế vì thiếu công nghệ hiện đại, thiếu sự dịch chuyển kinh
tế giai cấp hoặc cá thể
- Công nghệ vẫn còn hạn chế
- Không có quốc gia hoặc hệ thống chính trị tập trung.
Tiền cất cánh

- Đầu tư rộng rãi và tăng cường vào những thay đổi của môi trường tự nhiên để mở
rộng sản xuất (như thủy lợi, kênh mương, bến cảng).

- Ngày càng lan rộng công nghệ và những tiến bộ trong công nghệ hiện có.

- Thay đổi cấu trúc xã hội, với trạng thái cân bằng xã hội trước đây đang thay đổi.

- Sự di chuyển xã hội của cá nhân bắt đầu.

- Phát triển bản sắc dân tộc và lợi ích kinh tế chung.

Sự cất cánh

- Đô thị hóa tăng lên, tiến hành công nghiệp hóa, đột phá công nghệ xảy ra.

8
- Khu vực thứ cấp mở rộng và tỷ lệ của khu vực thứ cấp so với khu vực sơ cấp trong
nền kinh tế chuyển dịch nhanh chóng sang khu vực thứ cấp.

- Dệt may thường là người đầu tiên "cất cánh" ngành công nghiệp.

Giai đoạn trưởng thành

- Đa dạng hóa cơ sở công nghiệp; nhiều ngành mở rộng và những ngành mới bắt đầu
nhanh chóng.

- Chuyển dịch sản xuất từ định hướng đầu tư sang tiêu dùng lâu dài và tiêu dùng nội
địa.

- Cơ sở hạ tầng giao thông phát triển nhanh chóng.

- Đầu tư quy mô lớn vào cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, đại học, bệnh viện…).

Thời đại tiêu dùng cao

- Cơ sở công nghiệp chi phối nền kinh tế; khu vực sơ cấp có trọng lượng giảm đi
đáng kể trong nền kinh tế và xã hội.

- Tiêu dùng phổ biến và bình thường đối với hàng tiêu dùng có giá trị cao (ví dụ như
ô tô).

- Người tiêu dùng thường có thu nhập khả dụng, ngoài tất cả các nhu cầu cơ bản, đối
với hàng hóa bổ sung.

- Xã hội đô thị (một sự di chuyển từ các vùng nông thôn đến các thành phố).

2.2.3. Một số lý thuyết phát triển kinh tế thông qua sản xuất cùng thời kỳ.

2.2.3.1. Lý thuyết nhị nguyên (dualism) của Lewis.

Lý thuyết này do A. Lewis – nhà kinh tế học đạt giải Nobel năm 1979 chủ xướng. Lý
thuyết này cho rằng ở các nền kinh tế có hai khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực
truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và có đặc trưng là rất trì trệ, năng suất lao
động rất thấp (năng suất lao động biên tế xem như bằng không), lao động dư thừa; và khu
vực công nghiệp hiện đại có đặc trưng năng suất lao động cao và có khả năng tự tích lũy.
Do lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động thặng dư từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp không gây ảnh hưởng gì đến sản lượng nông nghiệp.
9
Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là để thúc đẩy sự phát triển, các
quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công nghiệp hiện đại bằng mọi giá mà
không quan tâm đến khu vực truyền thống.

Việc chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp có hai tác dụng:

- Một là, chuyển bớt lao động trong nông nghiệp chỉ để lại đủ tạo ra sản lượng cố
định. Từ đó, năng suất lao động trong nông nghiệp có khả năng tăng lên.

- Hai là, việc chuyển lao động này sẽ tạo điều kiện làm tăng lợi nhuận trong công
nghiệp làm đẩy mạnh sức tăng trưởng kinh tế nói chung.

2.2.3.2. Lý thuyết phát triển cân đối (balanced growth).

Những người ủng hộ quan điểm phát triển cân đối (như R Nurkse, Rosenstein -
Rodan.) cho rằng phải phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh
chóng công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu.

Luận cứ của họ như sau:

- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau, "đầu
ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia và như vậy, sự phát triển đồng đều và cân đối
chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.

- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như thế giúp tránh được các ảnh hưởng tiêu
cực của thị trường thế giới và hạn chế được mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác,
qua đó tiết kiệm được nguồn ngoại tệ.

- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối giữa tất cả các ngành là nền tảng vững chắc
đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước đang phát triển.

2.2.4. Nhận xét về lý thuyết Rostow.


2.2.4.1. Ưu điểm của lý thuyết.

Mô hình Rostow phân tích sự phát triển kinh tế qua từng giai đoạn khác nhau, với
những đặc điểm khác nhau, thích hợp tại từng giai đoạn. Trong khi đó, lý thuyết nhị nguyên
của Lewis gặp phải hạn chế khi cho rằng chỉ cần tập trung vào công nghiệp mà không quan
tâm đến sự phát triển của nông nghiệp. Hay ở lý thuyết phát triển cân đối, họ đề cập đến
10
việc phát triển kinh tế theo con đường công nghiệp hóa hướng nội, điều này đẩy các nền
kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài, không tận dụng được những
lợi ích từ bên ngoài, đồng thời, không cân nhắc đến vấn đề về nguồn lực để có thể đạt được
mục tiêu đề ra.

Tiêu chuẩn cất cánh. Các tiêu chuẩn cất cánh được đặt ra như một thang đo, giúp các
nền kinh tế dễ dàng xác định giai đoạn phát triển của mình, từ đó nỗ lực để đạt được các vị
trí cao hơn. Khác với lý thuyết của Rostow, lý thuyết nhị nguyên hay lý thuyết phát triển
cân đối phân tích sự phát triển thông qua các yếu tố sản xuất, không đưa ra được một cái
nhìn tổng quát cho các nền kinh tế, để từ đó có thể đạt được các trình độ phát triển cao hơn
của nền kinh tế.

2.2.4.2. Hạn chế của lý thuyết.

- Tăng trưởng là một quá trình liên tục chứ không phải đứt đoạn nên không thể phân
chia thành những giai đoạn chính xác như vậy. Ngoài ra, có thể nhìn thấy giai đoạn tiền cất
cánh và giai đoạn cất cánh có những đặc điểm rất giống nhau và rất khó để có thể phân biệt
được là nền kinh tế trên thực tế đang ở giai đoạn nào.

- Sự tăng trưởng và phát triển ở một số nước không nhất thiết phải giống phân chia
5 giai đoạn như trên, câu hỏi đặt ra là “Tại sao cất cánh lại xảy ra ở nước này mà không
xảy ra ở nước khác?” Lý thuyết chưa giải thích được điều đó. Rostow đưa ra năm bước
ngắn gọn hướng tới phát triển và các nhà phê bình đã trích dẫn rằng tất cả các quốc gia
không phát triển theo kiểu tuyến tính như vậy; một số bỏ qua các bước hoặc đi theo các con
đường khác nhau.

- Lý thuyết Rostow chỉ nghiên cứu sự tăng trưởng chứ chưa đi sâu nghiên cứu và
phân tích phát triển kinh tế, bỏ qua sự tác động của bối cảnh lịch sử, kinh tế xã hội. Cách
tiếp cận của Rostow không lấy tính đặc thù của mỗi nước làm điểm xuất phát. Rostow bỏ
qua một trong những nguyên tắc địa lý cơ bản nhất: địa điểm và hoàn cảnh. Rostow giả
định rằng tất cả các quốc gia đều có cơ hội phát triển như nhau, bất kể quy mô dân số, tài
nguyên thiên nhiên hay vị trí.

11
2.2.5. Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết này:
1. Có ý nghĩa trong việc xác định trình độ phát triển của mỗi quốc gia trong mỗi giai
đoạn.
2. Lý thuyết gợi ý về sự thúc đẩy hoàn thành những tiền đề cần thiết yếu (khoa học,
công nghệ) cho sự phát triển của mỗi nước trong từng giai đoạn.
2.3. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam.
2.3.1. Phân tích Việt Nam qua các giai đoạn theo lý thuyết của W.Roscow.
Chiến thắng trong các cuộc kháng chiến cứu quốc, tiếp đến là hàn gắn vết thương
chiến tranh và tìm cơ chế, mô hình phát triển, đến nay Việt Nam đã đạt được nhiều dấu ấn
quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực. Từ một quốc gia thuần nông, đại đa số người dân sống
ở nông thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một quốc gia có
mức thu nhập trung bình trên thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ
mô được duy trì, giúp cho nước ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã đạt đến giai đoạn 3: Cất cánh theo lý thuyết
của W. Rostow. Căn cứ vào các tiêu chí nổi bật, Việt Nam đạt được các đặc điểm sau:
● Cơ cấu kinh tế: Từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp sau đó là dịch vụ với tỷ
trọng Nông, lâm, thủy sản (53,9%), Công nghiệp và Xây dựng (29,2%), Dịch vụ
(29,2%)

Nguồn: Thống kê tình hình lao động và nhà ở của tổng cục thống kê năm 2019
● Lao động: Từ tỷ lệ thất nghiệp cao chuyển sang thấp chỉ còn 2,05% năm 2019

12
Nguồn: Thống kê tình hình lao động và nhà ở của tổng cục thống kê năm 2019

● Vốn đầu tư: tăng cao, cụ thể năm 2019 giải ngân vốn FDI năm 2019 đạt con số cao
kỷ lục từ trước tới nay với 20,38 tỷ USD

● Hoạt động Ngoại thương: từ nền kinh tế đóng tới phát triển nhờ nhập khẩu rồi cuối
cùng là xuất khẩu hàng công nghệ và nhập khẩu về hàng tiêu dùng

13
● Chỉ số phát triển con người HDI: từ mức thấp tới cao dần

● Từ thu nhập bình quân đầu người rất thấp tới trung bình, trung bình khá, khá và cao.
Xã hội chuyển từ tiết kiệm sang xã hội tiêu dùng. Đây là động lực lớn cho thay đổi
cơ cấu kinh tế

Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống - Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp

14
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động
trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng
4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây
dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập
thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế
trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng
(chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước.
Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng
trong toàn nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng.

Cơ cấu kinh tế Việt Nam năm 1986. Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây
dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn
đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình
quân thời kỳ này tăng 61,6%/năm.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng
thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn
đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng
39,53%/năm.

15
Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa,
xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền
Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định không
biết chữ, có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề phát triển cũng mạnh
mẽ. Năm 1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung học chuyên nghiệp, hơn 117 nghìn
sinh viên và 7,8 nghìn giáo viên. Đến năm 1985, số trường trung học chuyên nghiệp là 314
trường, với quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên
và 44,9% về số giáo viên so với năm 1977).
Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh - Thời kỳ 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới
nền kinh tế
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số
thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường
lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần
chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát triển
sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội. Giai đoạn
1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó: khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%;
khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Nếu so với tốc độ tăng chung của kinh tế thế giới và sự giảm
sút nhanh của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Đông Âu và Liên Xô khi chuyển sang
kinh tế thị trường, thì các tốc độ tăng trên của nền kinh tế Việt Nam là một kết quả đáng
ghi nhận. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hoá. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53%
GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm 1986; khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm
phần trăm. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

16
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất
nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là
đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông
nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương
thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có
hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; lương thực có hạt bình quân đầu người đạt
444,8 kg, gấp 1,6 lần; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần.
Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi
năm trong thời kỳ 1986-2000 đạt 11,09%. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn
đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến và
thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
Giai đoạn 3: Cất cánh - Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
Do tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, nên kinh tế – xã
hội nước ta đã có những biến đổi quan trọng, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế liên
tục tăng trưởng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang
phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP
năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Tốc độ tăng GDP tương đối cao, bình quân năm trong
giai đoạn 2001-2010 tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng 7,56%/năm của Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000, đây là một thành tựu phát triển kinh tế rất quan
trọng của đất nước ta trong giai đoạn này. Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm,
trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008.
Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia nhập
nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình trạng kém
phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ này. GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm
1990; thu nhập bình quân đầu người 1 tháng đạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp
của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Năng
suất lao động (NSLĐ) ngày càng được cải thiện đáng kể. Trong giai đoạn 2016-2019, NSLĐ
17
toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao hơn tốc độ 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Cơ
cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình
độ công nghệ sản xuất, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao
động qua đào tạo của các ngành kinh tế đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh
tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập
ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại
thương thực hiện trong giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2 lần giai đoạn
1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so
với GDP từ 112,5% năm 2000 tăng lên 142,2% năm 2005; 152,2% năm 2010 và 210,4%
vào năm 2019. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta có độ mở ngày càng cao và tăng lên
tương đối nhanh, nước ta đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ
được thị trường thế giới.
Trong thời kỳ này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc
gia Xóa đói giảm nghèo và Việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu quốc gia
Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn
2016-2020. Điều này đã góp phần quan trọng giúp cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của
nước ta trong thời kỳ này đạt được nhiều kỳ tích. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính
theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới năm 2002 đang ở mức là 28,9%, đến năm 2018
đã giảm xuống 6,7%.
Những dấu ấn trong sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta kể từ năm 1945 khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng, chính sách, đường lối nhất quán của Nhà nước về phát triển
kinh tế – xã hội. Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và trong khu vực
ASEAN. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc
độ tăng trưởng GDP; là một trong 30 nước có mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và là
nền kinh tế có quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ 25
thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm
2019 tăng lên 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67 trong số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ;
18
chỉ số HDI xếp hạng 117 trong số 177 quốc gia, vùng lãnh thổ. Ở khía cạnh ngoại giao kinh
tế, đến nay đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Trong nhiều
năm qua, Việt Nam tham gia tích cực vào việc đàm phán cũng như ký kết, phê chuẩn các
Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 16 FTA song phương và đa phương. Đặc biệt, ngày
30/3/2020, Nghị viện châu Âu đã thông qua FTA giữa EU và Việt Nam (EVFTA) và Quốc
hội nước ta phê chuẩn Hiệp định này vào ngày 08/6/2020.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, kinh tế – xã hội của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nhờ có các biện pháp đối phó
chủ động từ Trung ương tới địa phương, tác động y tế của dịch bệnh không nghiêm trọng
như nhiều quốc gia khác. Kinh tế vĩ mô và tài khóa giữ được ổn định, với mức tăng trưởng
GDP ước tính đạt 1,81%, trong 6 tháng đầu năm 2020. Tác động của cuộc khủng hoảng
Covid-19 đang diễn ra là khó dự đoán, tùy thuộc vào quy mô và thời gian kéo dài của dịch
bệnh. Đại dịch Covid-19 cũng cho thấy cần phải cải cách mạnh mẽ hơn để kinh tế phục hồi
trong thời gian tới, như: cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh tế số, nâng cao hiệu
quả đầu tư công. Đây là các nội dung chính mà Việt Nam cần thực hiện để cải cách nhanh
và mạnh hơn.
2.3.2. Nhận xét.
So với nhiều quốc gia, Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng không hề nhỏ. Sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam thuộc về một quá trình dài liên tục với một số tiềm năng
nhất định. Trong một thời gian dài và ngay cả hiện nay khi xây dựng kế hoạch phát triển,
các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà khoa học đều đưa ra yếu tố nguồn tài
nguyên của đất nước là tiềm lực quan trọng theo định tính.
Bên cạnh đó, lợi thế của chúng ta là số lượng người trong độ tuổi lao động lớn (62%
dân số) nhưng hạn chế là khoảng 70% của số lao động này xuất thân từ nông thôn và sản
xuất nông nghiệp. Trong mô hình tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội cần phải đặt ra nhiệm
vụ chuyển đổi nghề của lao động từ nông nghiệp với các dự kiến kinh phí đào tạo và điều
quan trọng là kinh phí đảm bảo điều kiện sống tối thiểu khi di cư ra thành phố và khu công
nghiệp.
Ngoài lợi thế tiềm năng đã nêu ở trên, hội nhập kinh tế mở ra cơ hội mới cho việc
thâm nhập và xác định thương hiệu ở thị trường mới nhưng đồng thời cũng tạo ra thách
19
thức cho Việt Nam. Trong lĩnh vực công nghệ nhờ có hội nhập kinh tế chúng ta đã tiếp cận
được công nghệ hạng 2 thông qua dự án ODA, doanh nghiệp FDI, từ đó đem đến nhiều cơ
hội quan trọng cho nền kinh tế.
2.3.3. Giải pháp phát triển bền vững cho Việt Nam.
Để đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển bền vững, chúng ta
phải lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên phát triển nhanh hơn, với mức đầu tư tập trung
hơn, tạo tiền đề thúc đẩy các ngành công nghiệp khác. Việc lựa chọn ngành ưu tiên phải
chú ý tới ưu thế vượt trội của Việt Nam so với các nước và khả năng thu hút đầu tư vào
ngành đó đồng thời cũng cần cân nhắc ưu tiên những vùng có vị trí thuận lợi về hạ tầng,
điều kiện dịch vụ... để nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế. Theo đó quan điểm
lựa chọn ngành kinh tế mũi nhọn phải là: ưu tiên ngành có thế mạnh, đảm bảo tăng trưởng
xuất khẩu, không nhất thiết phải phát triển mọi ngành kinh tế - kỹ thuật; ưu tiên các ngành
có khả năng đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư, theo yêu cầu phát triển của thị trường, hạn chế
tác động bằng kế hoạch; lựa chọn các ngành có khả năng giúp ổn định xã hội cao, nhất là
ổn định nông thôn; lựa chọn các ngành đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo yêu
cầu bảo vệ môi trường phù hợp khả năng nền kinh tế; lựa chọn các ngành có khả năng đầu
tư ra nước ngoài, hỗ trợ phát triển trong nước.
Có thể đưa ra ba nhóm công nghiệp để phân tích, lựa chọn mô hình phát triển như
sau:
Nhóm thứ nhất được lựa chọn ưu tiên bao gồm các ngành sử dụng nguyên liệu trong
nước kết hợp công nghệ tiên tiến, góp phần ổn định nông thôn, tạo vị thế của kinh tế Việt
Nam: phát triển các ngành công nghiệp chế biến dựa vào các nguồn nguyên liệu từ ngành
nông, lâm, thủy sản trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Các ngành này yêu
cầu vốn đầu tư không lớn, có khả năng giải quyết việc làm trong khu vực nông nghiệp và
nông thôn, tạo mối liên kết công - nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn. Nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Trồng rau, hoa quả và công nghiệp
chế biến.
Nhóm thứ hai được lựa chọn ưu tiên là các ngành sử dụng nhiều lao động, công nghệ
cao đang có thị trường: các sản phẩm của ngành công nghiệp này là các sản phẩm có độ
chính xác, có chất lượng cao và tạo giá trị gia tăng cao hơn, có mối liên kết với các ngành
20
công nghiệp trên. Công nghiệp dệt may, da giày. Công nghiệp cơ khí chế tạo theo hướng
ưu tiên phần thiết kế điều khiển, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin. Bên cạnh đó,
cần phát triển mạnh các ngành dịch vụ, đây là khu vực có tiềm năng lớn để giải quyết mối
quan hệ giữa hàm lượng vốn, lao động và công nghệ trong đầu tư. Trong đó, ưu tiên dịch
vụ sạch, giá trị gia tăng cao như: du lịch sinh thái - văn hoá; chăm sóc sức khoẻ cao cấp;
dịch vụ tài chính -ngân hàng, thông tin, xuất nhập khẩu…
Nhóm ngành thứ ba được lựa chọn ưu tiên phát triển dựa vào các ngành dựa vào công
nghệ - kỹ thuật cao. Đó là các ngành như công nghệ thông tin, viễn thông, các ngành công
nghiệp sản xuất ra nguyên vật liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp chế tạo, xây
dựng, ... các ngành này có nhiều vốn và cũng đòi hỏi công nghệ cao, các ngành công nghiệp
dầu khí, công nghiệp luyện kim, công nghiệp hóa chất…
Bên cạnh đó, việc tạo sự đồng thuận trong hội nhập kinh tế quốc tế cũng hết sức quan
trọng vì trong nền kinh tế phẳng hiện nay, không một quốc gia nào, không một vùng lãnh
thổ nào có lợi thế tuyệt đối. Không một quốc gia nào có thể đóng cửa để sản xuất một sản
phẩm hoàn chỉnh mà lại có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy cần phải xác định
rõ vấn đề độc lập tự chủ, chủ quyền quốc gia từ chính trị được thể hện trong kinh tế như
thế nào, có gì khác so với tư duy và nhận thức của thời kỳ trước. Độc lập tự do thể hiện
trong kinh tế ở thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế phải được hiểu là nền kinh tế Việt Nam hay
doanh nghiệp Việt Nam tham gia bình đẳng trong việc hình thành 1 sản phẩm hoàn chỉnh
thương hiệu quốc tế. Nguyên liệu chúng ta đưa vào sử dụng để tham gia chế tạo sản phẩm
có giá thành hợp lý, bù đắp lại được các bất ổn về môi trường sinh thái do khaithác tài
nguyên gây ra, đủ để đầu tư tạo một sự cân bằng mới với sự hỗ trợ của công nghệ. Đồng
thời đơn giá công nhân trong sản phẩm vừa bù đắp được chi phí lao động tái tạo đồng thời
có tích lũy để đào tạo nâng cao tay nghề và nâng cao đời sống. Thông qua các hoạt động
kinh tế, phân chia quyền lợi kinh tế mà làm các nước hiểu Việt Nam hơn, Việt Nam cũng
hiểu được mối quan tâm của các nước hơn. Thông qua việc bảo vệ quyền lợi kinh tế hợp
pháp hình thành cơ chế phối hợp cùng nhau trên các diễn đàn khu vực và quốc tế để bảo vệ
chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là bất biến nhưng phân chia lợi nhuận kinh tế phải
theo lợi thế so sánh.

21
3. KẾT LUẬN.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài tiểu luận “Lý thuyết cất cánh của W. Rostow và
liên hệ thực tiễn tại Việt Nam” sẽ cho chúng ta thấy được một cái nhìn rõ hơn về sự phát
triển của các nền kinh tế trên thế giới. Mô hình các giai đoạn tăng trưởng của Rostow là
một trong những lý thuyết phát triển có ảnh hưởng rất lớn trong thế kỷ qua, qua đó, Lý
thuyết giúp ta định hướng và xác lập cơ sở đối với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, nó
cũng dựa trên bối cảnh lịch sử và chính trị mà ông đã viết. Chính vì vậy, việc tham khảo và
áp dụng Lý thuyết cất cánh của ông cũng cần được điều chỉnh và đưa ra những hướng đi
phù hợp nhất cho nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.

22
TÀI LIỆU THAM KHẢO

https://www.gso.gov.vn/su-kien/2020/09/23410/

https://chienluocsong.com/kinh-te-phat-trien-p3-cac-giai-doan-phat-trien-cua-mot-quoc-
gia/

https://haiquanonline.com.vn/dan-so-viet-nam-962-trieu-nguoi-ty-le-that-nghiep-205-
117428.html

https://www.e-education.psu.edu/geog128/node/719

23

You might also like