triết đề cương

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

Câu 1 Nội dung ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất của lenin

I, Nội dung định nghĩa vật chất nêu trên gồm những khía cạnh cơ bản sau:
1. Vật chất là một phạm trù triết học.
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh vực vật lý, hóa học,
sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…) hay ngành khoa học thông thường
khác… Cũng không thể hiểu như vật chất trong cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô
tô, xe máy…).

“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù rộng nhất, khái
quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.

Bài liên quan: Phạm trù triết học là gì ?

Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình dung được cái
gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này trong một khoảng không gian
nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.

2. Vật chất là thực tại khách quan.


Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân
biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.

Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay không thì vật chất
luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.

3. Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác.
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý thức). Như thế, vật
chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau”, là tính thứ hai.

Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật
chất.

Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa có
con người. Đây  ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý thức.

Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác
quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất.
Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng
động, sáng tạo.

4. Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các dạng cụ
thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà các giác quan của con người
(tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.

Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp lại, phản ánh sự tồn
tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp lại, phản ánh của giác quan đối
với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.

Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh, là
hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.

II. Định nghĩa vật chất của Lênin có nhiều ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận to
lớn:
1. Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất.
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế giới hiện thực, vật chất có trước
cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức).

Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật chất chỉ là phức hợp
của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha hóa của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…).

Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học: Vật chất có
trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.

2. Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất.


Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới khách quan,
những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ là hư ảo, giả dối, không có
thật.

Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh…, Lênin
đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau, con người có thể nhận thức được
thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ nhận thuyết không thể biết.

Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: Con người có
nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng định là có.

Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức mạnh, ý chí, nghị lực để
chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ cuộc sống của con người và thúc đẩy xã
hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào thế bị động, bỏ mặc số phận mình cho một thế lực
siêu nhiên nào đó.

3. Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ thể cảm tính nào
của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại có thể đồng nhất hoàn toàn
với bản thân vật chất.
Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại
ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó hay chưa.

Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục những quan điểm
phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các dạng cụ thể như cái bàn, cái ghế,
ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, không khí…; đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận
động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học.

4. Định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiến các dạng hoặc hình thức mới của vật
thể.
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất, luôn luôn vận
động, định nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học (nhà vật lý học, nhà hóa học,
nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để tìm ra những kết cấu mới, những
dạng thức thuộc tính, quy luật vận động mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho
tàng tri thức của nhân loại.

Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), theo
lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử,
tức là 9 phản vật thể đầu tiên.

5. Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lênin đã
giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây là điều mà các nhà duy
vật trước Mác chưa đạt tới.

Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn của con người, tiêu
biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và phát triển xã hội.

Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích
những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động
của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể tìm ra các phương tán tối ưu để thúc
đẩy xã hội phát triển.

Câu 2 Khái niệm nguồn gốc bản chất ý thức

I. Khái Niệm Ý Thức


Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được quyết định với phạm
trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và
có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan biện chứng với vật chất.
II. Nguồn Gốc Ý Thức
1. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức)
– Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữa lại, tái hiện của hệ
thống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại.
>>>  Định nghĩa vật chất của Lênin 
– Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới
vật chất.– Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não con người,
là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
2. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và phát triển
của ý thức)
– Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật
khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ và sử dụng các công cụ để tạo ra của
cải vật chất.
+ Lao động của con người là hành động có mục đích – tác động vào thế giới vật chất khách quan
làm biến đổi thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
+ Trong quá trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng
tư duy trừu tượng của con người cùng ngày càng phát triển.
– Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.
+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần trao đổi kinh
nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời
và phát triển cùng với lao động.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiêm thực tiễn
và trao đổi chung giữa các thế hệ. Chính vì vậy, Ăngghen coi: lao động và ngôn ngữ là “hai sức
kích thích chủ yếu” biến bộ não của con vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật
thành phản ánh ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát triển ý
thức.

III. Bản chất của ý thức


Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại
duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ
không phải là sự phản ánh của vật chất.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con
người thông qua thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
– Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức
là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ
không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.

– Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có nghĩa là ý thức là sự
phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Nhu cầu đó đòi
hỏi chủ thể phản ánh phải hiệu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh
tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan, Song,
sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dự trên hoạt động thực tiễn và là sản
phẩn của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất của ý thức là có tính
xã hội.
Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn toàn đối lập với  chủ
nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường
coi ý tức là một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật
chất.
Câu 3 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ý nghĩa pp luận của việc nghiên cứu
mối quan hệ trên

Để phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thì trước tiên ta phải
hiểu và phát biểu được khái niệm về vật chất và ý thức
*Vật chất: Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
*Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ
quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý
thức ra khỏi bộ óc. Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên:
• Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất.
• Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác nhau của
vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản
ánh ý thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan hệ
xã hội của loài người.
* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất và ý thức quan hệ qua lại và chuyển hóa lẫn nhau :Vật chất có trước ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, vật chất là nguồn gốc, là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý
thức. Hay nói cách khác vật chất thế nào thì ý thức như thế ấy, vật chất thay đổi đến đâu thì ý
thức thay đổi đến đó.
- Ý thức là do vật chất sinh ra nhưng 1 khi ý thức ra đời nó có tác dụng tích cực trở lại với vật
chất sinh ra nó theo 2 trường hợp:
+ Nếu ý thức tiến bộ: phản ánh phù hợp với thực tế thì có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Nếu ý thức lạc hậu: phản ánh không phù hợp với quy luật khách quan thì có tác dụng kìm hãm
xã hội phát triển.
- Ý thức thuần túy: ý thức này dù tiến bộ hay lạc hậu thì bản thân chúng cũng không làm thay
đổi điều kiện hiện thực mà ý thức đó phải thông qua hành động thực tiễn của con người thì mới
trở thành hiện thực.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu thừa nhận vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì trong hành động
nhận thức cũng như hành động thực tiễn của con người phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách
quan tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
- Ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên ta phải biết phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người.
- Cần chống bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, ngồi chờ.
CÂU4
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau
Trong lịch sử triết học những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn
tại cô lập, tách rời nhau. Với quan điểm siêu hình giữa các sự vật, hiện tượng không có mối liên
hệ, ràng buộc quy định nhau. Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại, phép
biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Theo phép biện chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát các mối liên hệ,
tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng và các
quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó, phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng: mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến cùng ràng buộc, chi phối lẫn
nhau, vận động và biến đổi không ngừng. Trong thế giới không có sự vật, hiện tượng tồn tại cô
lập, biệt lập nhau. Phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các
sự vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới
dù có đa dạng và rất khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng tồn tại cụ thể của một thế giới duy
nhất là vật chất. Ý thức của con người không phải là vật chất nhưng không thể tồn tại biệt lập với
vật chất bởi vì ý thức cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
người; hơn nữa nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của mối liên
hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà còn khẳng định tính đa dạng của sự liên hệ;
bởi thế giới là một chỉnh thể với vô vàn các sự vật, hiện tượng khác nhau, chúng không ngừng
vận động và phát triển một cách đa dạng. Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong, có
mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ chung bao quát một số lĩnh vực hoặc
một lĩnh vực riêng biệt của hiện thực. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có mối
liên hệ bản chất và có mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu
nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự vật, có mối liên hệ giữa các mặt của mỗi sự vật. Phân loại các
mối liên hệ là cần thiết bởi vì mỗi loại liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát
triển của các sự vật. Sự phân loại còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Tuy nhiên, việc phân loại liên hệ chỉ có ý nghĩa
tương đối vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, mỗi mắt khâu của mối liên hệ
chung của toàn bộ thế giới. Đây là cơ sở khoa học không chỉ để phân ngành các khoa học mà còn
là cơ sở để hình thành các khoa học liên ngành.
CÂU 5
a) Phủ định của phủ định
I.
1. Định nghĩa về phủ định biện chứng:
– Trước khi tìm hiểu phủ định biện chứng là gì, ta cần hiểu thế nào là phủ định.

Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác trong quá trình vận
động và phát triển.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và
diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới.

Sự thay thế đó là phủ định. Phủ định là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
Không có phủ định, sự vật không phát triển được.

Ví dụ:
+ Trong quá trình phát triển của các phương tiện giao thông, xe máy là sự phủ định đối với xe
đạp. Xê ô tô là sự phủ định đối với xe máy.

+ Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ định cha. Ông cha ta
thường hay nói “con hơn cha là nhà có phúc” là ý như vậy.

– Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con
đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất; sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải
quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.

Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới
ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện
cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.

Ví dụ:
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 11 là sự phủ định đối với iPhone X.

+ Khi gieo trồng, cây lúa là sự phủ định biện chứng đối với hạt thóc.

+ Trong chăn nuôi, con gà đạp trứng ra đời là sự phủ định biện chứng đối với quả trứng.

2. Đặc điểm của phủ định biện chứng:


Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

2.1. Tính khách quan:


– Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong
bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.

– Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế, phủ định biện chứng là
một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật
có phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. 

– Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan của con người. Con người
chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững
quy luật phát triển của sự vật.
2.2. Tính kế thừa:
– Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó không thể là sự thủ
tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.

– Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự
phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và
chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới
phù hợp với hiện thực.

– Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt, tích cực và chỉ phủ
định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.

Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai đoạn sau bảo tồn tất cả
những mặt tích cực được tạo ra ở giải đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với
hiện thực.

Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái
cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện tại. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất
yếu của mối liên hệ và sự phát triển.

Ví dụ:
Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của cha mẹ
và bỏ qua những yếu tố lạc hậu.

– Tuy vậy, cũng cần lưu ý là, những nhân tố tích cực của sự vật cũ được giữ lại vẫn phải được
cải tạo, phải được biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.

3. Phủ định của phủ định: Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển:
– Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy, những
nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ. Khi đó, sự phủ định biện chứng lần 1 diễn
ra: Sự vật ban đầu không còn nữa mà bị thay thế bằng sự vật mới, trong đó những nhân tố tích
cực của sự vật ban đầu được giữ lại.

– Tuy nhiên, sau một thời gian, sự vật mới ra đời ở trên lại bị phủ định bằng sự vật mới khác. Đó
là sự phủ định lần 2. Cứ thế tiếp tục, tùy vào sự vật sẽ có phủ định lần 3, lần 4…, lần n.

Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định, sẽ có một sự vật mới dường như lặp lại (rất giống) với sự vật ban
đầu, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn với sự vật ban đầu đó, mà ở nấc thang cao hơn;
nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực đối với sự phát triển
tiếp tục của nó.

Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định dẫn đến sự xuất hiện sự vật mới mà dường như lặp lại sự vật ban
đầu thì ta có một chu kỳ phát triển. Ở đây có sự phủ định của phủ định.
Ví dụ:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) => Phủ định lần 1 tạo ra gà
mái con => Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh ra nhiều quả trứng.

+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) => Phủ định lần 1 tạo ra cây lúa =>
Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.

Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến nhiều quả trứng mới.
Từ một hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát triển lên nấc
thang cao hơn. Đó là kết quả phủ định của phủ định.

– Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại
bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố
tích cực mới.

Như thế, những lần phủ định biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng,
như việc sẽ ngày càng có nhiều quả trứng hơn, ngày càng có nhiều hạt thóc hơn.

– Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn.
Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
Các mặt đối lập ở đây là mặt khẳng định và mặt phủ định.

Phủ định lần 1 sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (như quả trứng ban đầu
đối lập với gà mái con; gà mái con là vật trung gian). Sau một hoặc nhiều lần phủ định tiếp theo
sẽ ra đời một sự vật mới đối lập với cái trung gian (nhiều quả trứng sinh ra đối lập với gà mái
con).

Mà đối lập với cái trung gian nghĩa là dường như tương đồng với sự vật ban đầu, dường như
quay trở lại thời điểm xuất phát (như việc một quả trứng sinh ra nhiều quả trứng, một hạt thóc
sinh ra nhiều hạt thóc).

Như thế ta thấy, đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của
phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. 
– Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Cứ thế, các chu kỳ phát triển cứ nối tiếp nhau
tạo thành sự phát triển, sự tiến lên vô cùng tận của thế giới, nhưng không phải theo đường thẳng
mà theo hình xoáy ốc.

– Sở dĩ nói “theo hình xoáy ốc” vì “hình xoáy ốc” đã biểu đạt được các đặc trưng của quá trình
phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên
của sự phát triển.

Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường
như quay lại cái đã qua, lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tân
của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp lên cao.

II. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định làm sáng tỏ chiều hướng vận động, phát triển của các sự vật
và có ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

1. Cái mới nhất định sẽ xuất hiện từ cái cũ nhưng ta không được phủ sạch cãi cũ.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ,
cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu. Cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa tất cả những gì
tích cực của cái cũ. Do đó, ta cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.

2. Chúng ta phải chủ động phát hiện, bồi dưỡng, thúc đẩy cái mới.
Trong thực tiễn, ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát
triển của cái mới. Mặc dù cái mới lúc đầu còn yếu ớt, ít ỏi, ta phải ra sức ủng hộ, bồi dưỡng, phát
huy cái mới, tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.

Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, gạn đục khơi trong, giữ lấy những gì
còn tích cực, có giá trị từ cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới. Chúng ta
phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận, đánh giá quá khứ.

3. Phải khắc phục thái độ bảo thủ, loại bỏ những hủ tục trong xã hội.
Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, chúng ta cũng phải khắc
phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.

Chúng ta phải nhận thức rõ những cái lỗi thời, ví dụ như những hủ tục cũ trong việc cưới xin,
tang lễ, hội hè…, quan niệm “có nếp có tẻ” trong việc sinh con… sẽ gây ra nhiều tốn kém và
nhiễu nhương.

b) Lượng chất

1. Cặp phạm trù chất và lượng


– Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.

Từ quan niệm trên chúng ta không nên đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc
tính.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Nhưng những thuộc tính này không tham
gia vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản mới quy định
chất của sự vật. Vì thế, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay
đổi. Khi các thuộc tính không cơ bản có thể thay đổi, nhưng không làm cho chất của sự
vật thay đổi.
+ Mặt khác, các thuộc tính cũng như chất của sự vật chỉ bộc lộ qua những mối liên hệ cụ
thể. Do đó, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ
là tương đối. Và như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất
tuỳ theo những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác.
+ Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, là cái vốn có và không tác rời sự vật.
Do đó, không thể có chất tồn tại “thuần tuý” hoặc là phụ thuộc vào cảm giác chủ quan
của con người như các nhà triết học duy tâm chủ quan quan niệm.
>>> Con đường biện chứng của quá trình nhận thức?
– Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính,
các yếu tố… cấu thành sự vật.
+ Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích thước dài
hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh
hay chậm v.v.. Nhưng đối với các sự vật phức tạp, không thể chỉ diễn tả bằng những con
số chính xác, mà còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hoá.
+ Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là, có cái ở trong quan này là
chất, nhưng trong quan hệ khác là lượng và ngược lại. Do đó, cần chống quan điểm siêu
hình tuyệt đối hoá ranh giới giữa chất và lượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến
đổi. Song, hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.

Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới
hạn, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Điểm giới hạn mà khi lượng đạt tới sẽ làm thay đổi về chất của sự vật thì gọi là điểm nút.

Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước ngoặt căn
bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình
biến đổi liên tục của các sự vật. Do vậy có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên
tục, là trạng thái liên hợp của các điểm nút.

– Khi sự vật mới ra đời với chất mới lại có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới được biểu hiện ở
quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.

Tóm lại: Quy luật lượng – chất đã chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật và hiện tượng.
Trước hết, lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút (Giới hạn của sự
thống nhất giữa chất và lượng) sẽ dẫn đến bước nhảy về chất; chất mới ra đời lại tạo nên
sự thống nhất mới giữa chất và lượng.
Tất nhiên, thế giới sự vật, hiện tượng là đa dạng, phong phú, do đó hình thức của các
bước nhảy cũng rất đa dạng và phong phú.

II. Ý nghĩa phương pháp luận


Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:

– Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về
lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút
ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành
bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc
làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư
tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước
nhảy liên tục.

– Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của
tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua
hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết
tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi
mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
“hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần
về lượng.

– Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách
quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể
hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa dạng, phong phú do
rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải
thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố.

Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu
của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động
vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một
tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi
có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.

c) Quy luật mâu thuẫn

Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt đối lập, từ đó tạo thành
những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự thống nhất và đấu tranh từ các mặt đối lập tạo ra
xung lực nội của sự vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế bưởi cái mới.
– Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất, đấu tranh
+ Mặt đối lập: Mạt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc điểm, những tính quy định
mà có khuynh hướng biến đổi trái ngược, tồn tại theo khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã
hội.
Ví dụ:
Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
Đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà mặt đối lập liên hệ, chúng
có tác động qua lại với nhau, theo đó mâu thuẫn biện chứng được tồn tại một cách khách quan,
phổ biến ở trong xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong mâu thuẫn biện chứng tư duy có sự phản ánh
mâu thuẫn đối với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận thức.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại nhưng không tách rời với
nhau của các mạt đối lập, tự tồn tại đó phải lấy sự tồn tại của mặt khác để làm tiền đề.
Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối lập. Khi ở một mức độ nào
đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang nhau, đó chỉ là trạng thái
vận động khi có sự diễn ra căn bằng.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lợi với nhau theo xu hướng là bài trừ, phủ định
lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào mối quan hệ
qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và các mặt đối lập, tính chất.
– Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển
+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác động khác nhau mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu thuẫn biện chứng bao gồm
sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối lập.
Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của mặt đối lập không tách
rời nhau.
+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các mặt đang tác động, làm
mâu thuẫn phát triển.
Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản. Tuy nhiên theo khuynh
hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này càng lớn lên và rộng dẫn ra đến khi nào trở thành
đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển hóa lẫn nhau và từ đó
mâu thuận được giải quyết. Nhờ sự giải quyết theo hướng này mà thể thống nhất mới sẽ thay thế
thể thống nhất cũ hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.
+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu tranh, đấu tranh và thống nhất
các mặt đối lập thì không thể tách rời khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay đổi, đấu tranh và thống
nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi và tính ổn định sự vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn
gốc của phát triển và vận động.
– Phân loại mâu thuẫn
+ Nếu dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được phân loại thành mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn được chia làm mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai đoạn nhất định thì mâu
thuẫn phân loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.
+ Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn
không đối kháng.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
– Để nhận thức được ban chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng, giải pháp cho hoạt động
thực tiễn cần phải nghiên cứu mâu thuẫn sự vật.
– Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn
có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực tiễn.
Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, có tính khách quan
phổ biến.
CÂU 6

-    Khái niệm lực lượng sản xuất

+ Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ
thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của
con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ
chinh phục giới tự nhiên của con người.

+ Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, công cụ
sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người) và người
lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng).

Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì, tư liệu sản
xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi con người).

-    Khái niệm quan hệ sản xuất

+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa người với
người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).

+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức -
quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.

Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau
trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.
-   Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện
chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của
xã hội.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong
đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình
thức kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của
quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể
diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản
xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội
dung vật chất của nó.

Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất
với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã
hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi
phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản
xuất, tổ chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì,
khai thác - sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ
có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định.

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng nhưng
trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác
động trở lại lực lượng sản xuất.

Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách
quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi
giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất
còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.

Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó luôn luôn
có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có
thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay
không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát
triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp”
sẽ có tác dụng tiêu cực.

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm khả năng
chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy sự
tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất của xã
hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất của xã hội.

Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng
sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn
luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai
trò là hình thức kinh tế cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những
hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những
hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thông nhất giữa
chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất.

Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, C. Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng
sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó
bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những
quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.

-    Ý nghĩa phương pháp luận

+ Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào thực trạng
(tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ
không phải căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh
tế thích hợp cho việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã
hội.

+ Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà
cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.

Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước những năm 80 của thế kỷ XX,
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, chưa tuân theo thật đúng yêu
cầu của quy luật này. Do đó đã dẫn đến tình trạng lực lượng sản xuất hiện có không được bảo
tồn, tái tạo và phát triển tốt. Thực tế đó là nguyên nhân căn bản và sâu xa dẫn tới sự khủng hoảng
kinh tế lớn, buộc các nước này phải tiến hành những cuộc cải ách, đổi mới theo hướng tạo lập sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với thực tế trình độ phát triển lực lượng sản suất, nhờ đó lực lượng
sản xuất của xã hội từng bước được phục hồi và phát triển.

CÂU 7
1/ cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của 1  xã hội nhất định.
Ở đây yếu tố Tổng hợp các Quan hệ sản xuất là tổng hợp Quan hệ sản xuất tàn dư, Quan hệ sản
xuất thống trị, Quan hệ sản xuất mầm mống.
Chẳng hạn: xã hội Phong kiến: Trong đó chiếm hữu nô lệ, nguyên thủy (là quan hệ tàn dư)
phong kiến (là quan hệ thống trị) tư bản chủ nghĩa (là quan hệ mầm mống)
Tính chất của cơ sở hạ tầng do giai cấp thống trị chi phối.
Tóm lại: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ
tầng của xã hội có giai cấp đối kháng luôn mang tính giai cấp. Vì vậy, không có cơ sở hạ tầng
chung cho mọi xã hội.
Ngoài ra, Cơ sở hạ tầng khác với kết cấu hạ tầng vì kết cấu hạ tầng không phải là khái niệm triết
học. Nó là khái niệm của môn khoa học khác (đường sá, cầu cống).
2/ Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật..  với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể, hiệp hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều phản ảnh cơ sở hạ tầng trực tiếp hoặc gián tiếp ->
tức là, lĩnh vực tinh thần đều phản ánh lĩnh vực kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp bóc lột, giai cấp đối kháng, thì quan điểm của giai cấp bị bóc lột cũng
nằm trong kiến trúc thượng tầng . Tuy nhiên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ vai trò quyết
định tính chất của kiến trúc thượng tầng .
Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện sự đối lập về quan điểm tư tưởng và cuộc đấu
tranh của các giai cấp  đối kháng.
Ví dụ: trong xã hội phong kiến, con vua thì lại làm vua.. cha chuyền con nối.
 
II/ Quan hệ biện chứng:
1/ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Thư nhất: cơ sở hạ tầng nào thì “sinh ra” kiến trúc thượng tầng ấy. Vì để làm chủ về kinh tế, thì
giai cấp  thống trị tổ chức ra bộ máy cùng với quy định luật lệ và những quan điểm tư tưởng
hướng xã hội hoạt động, bảo vệ quan hệ sản xuất thống trị ấy, bảo vệ lợi ích giai cấp mình.
Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định quan hệ khác như kinh tế chính trị...
Thứ 2: cơ sở hạ tầng hình thành tính chất kiến trúc thượng tầng , cơ sở hạ tầng biến đổi, sớm hay
muộn cũng dẫn đến sự biến đổi kiến trúc thượng tầng nhưng vô cùng phức tạp.
Ví dụ: Cơ sở hạ tầng quan hệ sản xuất tư bản thì kiến trúc thượng tầng là kiến trúc thượng tầng
tư bản.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì dẫn đến kiến trúc thượng tầng thay đổi nhưng phức tạp vì sự thay đổi
không đồng nhất thay đổi nhanh chậm khác nhau. Ví dụ, Trong xã hội hiện nay vẫn còn tư tưởng
gia trưởng phong kiến.  
2. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trên hai khía cạnh:
Thứ nhất: Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng Thể hiện ở chức năng xã hội của nó.
Chức năng này có hai mặt,
Mặt thứ nhất là kiến trúc thượng tầng bảo vệ, duy trì, củng cố, phat triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Mặt thứ 2:  Đấu tranh để xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ.
Thứ 2: Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nếu cùng chiều với quy luật
kinh tế khách quan, thì thúc đẩy cơ sởhạ tầng , còn ngược lại sẽ kìm hãm.
LIÊN HỆ : Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh đúng tình hình
thực tiễn, đb phản ánh phù hợp các QUAN HỆ SẢN XUẤT và đời sống vật chất của nhân dân
trong xã hội sẽ thúc  đẩy đất nước phát triển
Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật phản ánh không đúng tình hình thực tế, đb là phản
ánh không phù hợp các QUAN HỆ SẢN XUẤT và đời sống vật chất trong xã hội sẽ kìm hãm sự
phát triển của đất nước.
Sự tác động này phức tạp, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở đây Nhà nước sẽ tác động trực tiếp,
Thực chất mối quan hệ này là quan hệ kinh tế và chính trị. Trong đó kinh tế quyết định chính trị
và chính trị tác động trở lại kinh tế.
3. Vai trò của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng
- Trong kiến trúc thượng tầng, Nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng, làm
chức năng bảo vệ, duy trì quyền sở hữu tư liệu sản xuất và lợi ích của giai cấp thống trị thông
qua bộ máy quyền lực Nhà nước, bao gồm: cảnh sát, nhà tù, trại giam, quân đội, vũ khí tự vệ và
chiến đấu.
+ Các yếu tố khác như: triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học cũng tác động đến cơ
sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước và pháp luật chi phối.
+ Kiến trúc thượng tầng có sự tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhưng
bản thân nó không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
 + Xét đến cùng kinh tế là nhân tố quan trọng quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu Kiến
trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội, thì sớm hay muộn sẽ bị thay thế
bằng kiến trúc thượng tầng mới, tiến bộ nhằm thúc  đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
4. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay.
- Cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay nằm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
kinh tế phát triển còn thấp kém. Đó là một cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều thành phần.
Liên hệ:Nhiều THÀNH PHẦN KINH TẾ với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan
xen hỗn hợp: Thành phần kinh tế NHÀ NƯỚC ; Thành phần kinh tế tập thể; thành phần  Kinh tế
tư bản nhà nước; thành phần  KINH TẾ  cá thể, tiểu chủ; KINH TẾ  hỗn hợp
+ Các thành phần kinh tế được tổ chức thành một cơ cấu KINH TẾ  thống nhất vận hành theo
định hướng XÃ HỘI CHỦ NGHĨA do kinh tế NHÀ NƯỚC  quyết định. Thành phần kinh tế
NHÀ NƯỚC , tức là thành phần kinh tế định hướng XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ngày càng giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống xã hội.
+ Tính đa dạng, phức tạp và đan xen của cơ sở hạ tầng quy định tính phức tạp nhiều mặt của kiến
trúc thượng tầng ở nước ta, được biểu hiện cụ thể trên lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội.
+ Kết cấu của kiến trúc thượng tầng được quy định bởi hệ tư tưởng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là nền tảng tư tưởng duy nhất chỉ đạo toàn bộ đời sống xã hội đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân.
 
III: Ý nghĩa:
- Kiến trúc thượng tầng là do cơ sở hạ tầng sinh ra. Vì vậy, phải xây dựng và hoàn thiện một hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách, đầu tư chiến lược phù hợp với cơ sở hạ tầng, tức là phù hợp
với quan hệ sản xuất hiện tồn và cơ cấu thành phần kinh tế nhằm kích thích sản xuất, nâng cao
năng suất lao động.
LIÊN HỆ : Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉ ra: “Xây dựng cơ
chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là  thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng,
hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định
của các cơ quan công quyền”
- Cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, để củng cố kiến
trúc thượng tầng vững mạnh thì cần phải mở rộng và phát huy vai trò của các quan hệ sản xuất
trong đời sống xã hội, cụ thể:
+ Thực hiện mở rộng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đặt dưới sự quản lý của Nhà nước.
+ Thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm nhằm bảo
đảm lợi ích cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Qua đó, sẽ kích thích, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển, góp phần củng cố kiến trúc thượng tầng và tình hình an ninh chính trị
của quốc gia.
- Trong quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất thống trị và mầm
mống của quan hệ sản xuất tương lai.
+ Nhà nước và các tổ chức xã hội cần có cơ chế, chính sách loại bỏ dần các quan hệ sản xuất tàn
dư, lạc hậu và củng cố vững chắc quan hệ sản xuất thống trị hiện tồn
+ Từng bước ưu tiên phát triển những quan hệ sản xuất mới tiến bộ, khoa học nhằm thúc  đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động. Qua đó, góp phần củng cố kiến trúc
thượng tầng vững mạnh.
2. vận dụng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào trong đổi mới chính trị ở Việt Nam:
- Thực hiện đổi mới trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới
có bước đi, lộ trình, kế hoạch trên tinh thần Đảng lãnh đạo, NHÀ NƯỚC  quản lý, nhân dân lao
động làm chủ.
Đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị. Trước hết, Đổi mới kinh tế, từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong đó Cơ sở hạ
tầng Việt Nam hiện nay là cơ sở hạ tầng quá độ bao gồm nhiều loại hình quan hệ sản xuất.  Kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế  hợp tác làm nền tảng, đó là nguyên tắc.
Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Ví dụ: công
nghiệp hóa gắn với mất ruộng, giải quyết đời sống cho người lao động
Thứ 2 là: đổi mới chính trị:Đổi mới chính trị không phải thay đổi chế độ chính trị mà đổi mới tư
duy chính trị về Chủ nghĩa xã hội.
 Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị giới sự lãnh đạo của Đảng mà thực chất là đẩy
mạnh dân chủ hóa.  
Cụ thể là nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của đảng với các thành viên trong hệ thống chính trị và
giải quết tốt mối quan hệ  giữa các thành viên, thực chất là đẩy mạnh dân chủ hóa chủ nghĩa xã
hội.
 Kiến thức  thượng tầng của Việt Nam hiện nay:về mặt chính trị  nước ta đang xây dựng
định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác Leenin , tư tưởng Hồ Chí Minh là kim
chỉ nam  là nền tảng tư tưởng, là cơ sở chiến lược, sách lược  cách mạng cho Đảng lãnh
đạo, thể chế Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị. Nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do dân vì dân.
Chúng ta đổi mới toàn diện, nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm, chính trị là từng bước. 

CÂU 8
Với kết luận“Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự
nhiên”(1). C.Mác đã tìm thấy động lực phát triển của lịch sử không phải do một lực lượng siêu tự
nhiên nào, mà chính là thông qua hoạt động của con người dưới sự tác động của các quy luật
khách quan. Do đó, cần phải hiểu kết luận này từ hai khía cạnh khác nhau:

Thứ nhất, kết luận ấy của C.Mác là biểu hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật về lịch sử và
được xuất phát từ một sự thật hiển nhiên là: “Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc,
nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt
động chính trị, tôn giáo, triết học v.v.”(2). Từ sự thật hiển nhiên ấy, cho phép chúng ta khẳng
định rằng, lịch sử phát triển của xã hội loài người thực chất là lịch sử phát triển của sản xuất vật
chất. Để thoả mãn nhu cầu trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, loài người phải tiến
hành sản xuất ra của cải vật chất.

Sản xuất vật chất lại luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, sự phát triển đó bao giờ
cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động – cái mà con
người thường xuyên sáng tạo, cải tiến và phát triển qua các trình độ khác nhau. Do đó, nó kéo
theo sự biế đổi, thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất và hình thành các phương thức sản
xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất thay đổi kéo theo toàn bộ trật tự xã hội thay đổi, đó
chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội. Theo quy luật phát triển, hình
thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn, cao hơn sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế – xã hội cũ đã tỏ ra
lỗi thời và lạc hậu. Như vậy, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử
là một quá trình phát triển từ thấp đến cao theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người.

Thứ hai, động lực thúc đẩy các hình thái kinh tế – xã hội phát triển lại nằm ngay trong lòng xã
hội. Đó chính là các mâu thuẫn xã hội, mà trước hết là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa các
giai cấp (trong xã hội có giai cấp)… Chính sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các
hình thái kinh tế – xã hội thay thế nhau là con đường phát triển chung của lịch sử xã hội loài
người. Song, con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc còn chịu sự chi phối của những điều
kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hoá, về điều kiện quốc tế và thời đại v.v… Do
đó, lịch sử phát triển của xã hội loài người là thông qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến
cao. Tuy nhiên, cũng có những quốc gia, dân tộc có thể bỏ qua một, vài hình thái kinh tế- xã hội
nào đó. Việc bỏ qua ấy cũng phải được diễn ra theo một quá trình lịch sử – tự nhiên tuyệt đối
không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của quốc gia, dân tộc ấy.

Như vậy, nếu chúng ta quy các quan hệ xã hội vào các quan hệ sản xuất, rồi đem quy các quan
hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì sẽ thấy được sự phát triển của các
hình thái kinh tế – xã hội như là một quá trình lịch sử – tự nhiên.

CÂU 9
a)   Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Khác với các hoạt động khác, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những
công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất định làm biến đổi chúng theo mục
đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện
một cách tất yếu khách quan và không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử.
Chính vì vậy, hoạt độne thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và
có tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.

Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú. Trong có ba hình thức
cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học.

Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt
động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo
ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.

Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong
xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.

Thực nghiêm khoa học lả một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là hoạt động được
tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng
thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác đinh những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng
nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể
thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối
quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò
quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn
tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những
điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con
người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác. Các
hình thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm
phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.

b)  Nhận thức và các trình độ nhận thức


Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Đó là
quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức. Quan điểm này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản
sau đây:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.

Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; coi nhận thức là sự
phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của
chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người
chưa nhận thức được.

Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng. tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá
trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc,
chưa toàn diện sâu sắc, toàn diện hơn,..

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sỡ chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình. Đó là quá trình đi từ trình độ
nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến
trình độ nhận thức khoa học, V.V..

Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh
nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông
thường và những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức đó có thể bổ sung cho nhau,
làm phong phú lẫn nhau.

Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trìu tượng, có tính hệ thống trong việc khái
quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối
quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận
thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn
chặt với hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ sở hiện thực đề kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận
đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở
chỗ chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí
nghiệm trực tiếp. Do đó, nó chỉ dem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc,
chưa phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, nhận thức kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thế chứng minh được đầy đủ tính
tất yếu. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức
lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối
của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri
thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực
tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con nsười, thông qua đó mà nâng những tri thức kinh
nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có tính phổ biến.

Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong
hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc
điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông
thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày.
Vì thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách từ giác và gián tiếp từ sự phản
ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn
ra dưới dạng trừu tượng lôgích. Đó là cái khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận
thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lạ vừa có tính hệ thống, có căn cứ
và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả
ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối
tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động
thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình
nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất
liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những
tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề
ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức
khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu
tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa
học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường,
làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con
người nhận thức thế giới.

c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức


Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý,
kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.

Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất
yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con người tất yếu phải tác động
vào các sự vật, hiện tuợng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự
vật, hiện tuợng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng,
đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật
vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng
hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải đo đạc diện tích và đong lường sức
chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và
phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít ở những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn
từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư
sản lúc bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây, nhất là khám phá và giải mã bản đồ
gien người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn
bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người... Có thể nói,
suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không
nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực
tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của
minh. Cùng vĩ thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về
thế giới nếu nó xa rời thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà
các giác quan của con nguời ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgích không ngừng
được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài"
các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn đóng vai trò là tiêu
chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa thực tiễn là
thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, thực tiễn không
ngừng bổ sung, điều chỉnh, sữa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã từng khẳng
định: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn
toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý".

Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết
định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn
hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin
đã cho rằng "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức".

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực
tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn,
đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kểt thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên
hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan,
duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại,nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi
vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực
tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận
mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì chỉ là lý luận
suông. Ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ
biến thành thực tiễn mù quáng.
CÂU 10

Khái niệm chân lý

Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân lý dùng để chỉ
những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và
chứng minh bởi thực tiễn.

Ví dụ, hiểu biết sau đây là một chân lý: “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là ngược lại,
trái đất xoay quanh mặt trời”.

-   Các tính chất của chân lý

Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

+ Tính khách quan của chân lý là nói: tính phù hợp nữa tri thức và thực tại khách quan; không
phụ thuộc ý chí chủ quan.

Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “quả đất có hình cầu chứ không phải hình vuông” là phù hợp
với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn
năm trước thời Phục hưng.

+ Tính cụ thể của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các
điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,...).

Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều kiện xác định nhằm đảm
bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là
2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,...

+ Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một
giới hạn nhất dịnh, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong
điều kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tại khách quan.

Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt
đối bằng 2 vuông (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có độ cong khác 0) thì
định lý đó không còn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới (sự
phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn - tức chân lý tuyệt đối).

-     Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan; còn chân lý
tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý
tuyệt đối chính là tổng số của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân
loại.

Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của
ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó
có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt.

-     Vai trò của chân lý đối với thực tiễn

Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn. Đó là các hoạt
động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một
cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá
trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt
động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri
thức đúng đắn về thực tế khách quantrong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là
một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động
thực tiễn.

Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận
động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát
triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.

Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức con ngưòi cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một
quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn
để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.

Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt
động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát
huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.
CÂU 11 Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội

– Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.


+) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy định nội
dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản ánh cái lôgíc khách
quan của tồn tại xã hội.
+) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi khi tồn tại xã
hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội cũng dần biến
đổi theo.
+) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào
cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến
cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong
các tư tưởng ấy. Như vậy, sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội phải được xem xét một
cách biện chứng.
– Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở:
+) Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những thay đổi
của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của một số hình
thái ý thức xã hội v.v tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ
lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi.
+) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức, trong những điều
kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát
triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực
tiễn của con người vào mục đích nhất định.
+) Ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên cơ sở kế
thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có tính tất yếu khách quan; có tính
chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Lịch sử phát
triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của suy tàn của nền kinh
tế.

CÂU 12

a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông

- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Cuộc sống vĩnh cửu
là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở thành bất diệt.

- Khổng Tử: Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là giá trị cao nhất
của con người, đặc biệt là con người quân tử.

- Mạnh Tử: quy tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập
quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tư tưởng, rèn luyện để giữ được đạo đức của
mình.

- Tuân Tử: Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là các, nhưng có thể cải biến được,
phải chống lại cái ác, con người mới tốt được.

- Đổng Trọng Thư: Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm cực đoan. Ông quan niệm
Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời con người bị quyết
định bởi “thiên mệnh”.
- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô vi” theo lẽ tự
nhiên, không trái với tự nhiên.

Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính đa
dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức...
Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính
chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
 

b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước K.C.Mác.
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì mất đi nhưng
linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hồn để hướng đến Thiên
đường vĩnh của.

- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.

- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống trần thế là tạm
bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.

- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.

- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, còn
L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Con người và tự
nhiên là thống nhất, không thể tách rời.

Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước C.Mác, dù là đứng trên nền tảng thế
giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con
người. Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt
đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự
nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.

c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.

Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.C.Mác chỉ ra hạn chế của Feuerbach trong việc
xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như tình yêu, tình bạn,
không thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. K.C.Mác vạch rõ: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” (Toàn tập, tập 3,
tr.11).

* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội

- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối
đời sống của cơ thể con người.

- Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh
thần của con người.

 Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng
vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người;
mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con
người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân
trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quas trình hình thành và phát triển của con người luôn
luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:

- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.

Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao
gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.

Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và
hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.

* Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.

Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó,
bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.

- Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôm cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử
cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của
mình.

- Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác - Lênin không phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác - Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa
con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội.

* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

- Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con
người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng
hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.

- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến
giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.

- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con
người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương
ứng với điều kiện tồn tại của con người.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày càng
mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại
hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người

You might also like