ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 90

- •> .

ỉ-'"' ' ' - -

GIÁO TRÌNH CƠ SỞ VĂN HÓA


(Lưu hành nội bộ)

Chương 1: Dần luận


(Thời gian: 3 giờ)

1. Khái niệm văn hóa


1.1 Những định nghĩa về văn hóa
Văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa), theo nghĩa
chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn văn hóa. Trong khi theo nghĩa
rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín
ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động… Chính với các hiểu rộng này, văn hóa mới là
đối tượng đích thị của văn hóa học. Một cách hiểu khác, văn hoá là sản phẩm do con
người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn
hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà
chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ kuitura. Những chữ này có chung
gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hoá với
hai khía cạnh: trồng trọt, thính ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào
tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm
chất tốt đẹp. Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và
thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng
vào thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp. Vào thế
kỉ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như
một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hoá (văn minh) thế giới có thể
phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hoá của họ chiếm vị trí cao
nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hoá hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát
triển tạo thành văn minh, E.B Taylo (E.B. Taylor) là đại diện của họ. Theo ông, văn
hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một
thành viên của xã hội. Theo F. Boa (F. Boas), ý nghĩa văn hoá được quy định do
khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì
thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực.

1
Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn hoá không xét ở mức độ thấp cao mà ở
góc độ khác biệt. A. L. Kroibơ (A.L. Kroeber) và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn)
quan niệm văn hoá là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại
PTIT 6 bằng biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại
hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra. Tóm lại, khái niệm
văn hóa là: “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA CỦA UNESCO: Trong ý nghĩa rộng nhất, “Văn
hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và
xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của
con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa
đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta
trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một
cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của
bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công
trình vượt trội lên bản thân”.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa”.
Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực
vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà
có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người
làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao
đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm
chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo
vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ
mình và không ngừng lớn mạnh.”
Gần đây nhất, trong một bài viết của mình, PGS. Nguyễn Từ Chi đã quy các
kiểu nhìn khác nhau về văn hóa vào hai góc độ:
– Góc rộng, hay góc nhìn “dân tộc học”, đây là góc chung của nhiều ngành
khoa học xã hội.
– Góc hẹp, góc thông dụng trong cuộc sống hàng ngày, còn gọi là góc báo chí.
Theo cách hiểu góc rộng – văn hóa là toàn bộ cuộc sống (nếp sống, lối sống) cả
vật chất xã hội và tinh thần của từng cộng đồng. Ví dụ: nghiên cứu văn hóa Việt Nam
là nghiên cứu lối sống của các dân tộc Việt Nam.
Văn hóa từ góc nhìn “báo chí” tuy cũng có những cách hiểu rộng hơn hay hẹp
hơn, nhưng trước đây thường gắn với kiến thức của con người, của xã hội. Ngày nay,
văn hóa dưới góc “báo chí” đã hướng về lối sống hơn là về kiến thức mà theo tác giả
là lối sống gấp, đằng sau những biến động nhanh của xã hội.
1.2. Phân biệt văn hóa với văn hiến, văn vật, văn minh
1.2.1. Khái niệm văn minh
Văn minh là danh từ Hán – Việt (văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của
đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp,
từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc La tinh là civitas với nghĩa
gốc: đô thị, thành phố, và các nghĩa phái sinh: thị dân, công dân.
Văn minh trong tiếng Đức là để chỉ các xã hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức
đô thị và chữ viết.
Tuy vậy, người ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ văn minh đồng nghĩa với văn hóa.
Các học giả Anh và Pháp thường sử dụng lẫn lộn hai khái niệm văn hóa (culture), văn
minh (civilisation) để chỉ toàn bộ sự sáng tạo và các tập quán tinh thần và vật chất
riêng cho mọi tập đoàn người.
Thực ra, văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện
vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại. Như
vậy, văn minh khác với văn hóa ở ba điểm: Thứ nhất, trong khi văn hóa có bề dày của
quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại. Thứ hai trong khi văn hóa bao gồm
cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật.
Thứ ba, trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính
siêu dân tộc – quốc tế. Ví dụ nền văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp và
văn hóa Việt Nam, văn hóa Nhật Bản, văn hóa Trung Quốc… Mặc dù giữa văn hóa và
văn minh có một điểm gặp gỡ nhau đó là do con người sáng tạo ra.
1.2.2. Khái niệm văn hiến

3
Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm văn
hiến. Có thể hiểu văn hiến là văn hóa theo cách dùng, cách hiểu trong lịch sử. Từ đời
Lý (1010) người Việt đã tự hào nước mình là một “văn hiến chi bang”. Đến đời Lê
(thế kỉ XV) Nguyễn Trãi viết “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang”–
(Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ văn hiến mà Nguyễn Trãi
dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh
thần, đạo đức được chú trọng.
Văn hiến (hiến= hiền tài)– truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. GS. Đào
Duy Anh khi giải thích từ “văn hiến” khẳng định: “là sách vở” và nhân vật tốt trong
một đời. Nói cách khác văn là văn hóa, hiến là hiền tài, như vậy văn hiến thiên về
những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyên tải, thể hiện tính dân tộc,
tính lịch sử rõ rệt.
1.2.3. Khái niệm văn vật (vật = vật chất)
Truyền thống văn hóa tốt đẹp biểu hiện ở nhiều nhân tài trong lịch sử và nhiều
di tích lịch sử. “Hà Nội nghìn năm văn vật”. Văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ
những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, khái niệm văn vật cũng thể
hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử. Khái niệm văn hiến, văn vật thường gắn với
phương Đông nông nghiệp trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây
đô thị.
2. Đặc trưng và chức năng của văn hóa
2.1. Đặc trưng
Đặc trưng thứ nhất tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân hiệt hệ thống với
tập hợp nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện
thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát
triển của nó. Như có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm
mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa
thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện
cần thiết để ưng phó vơi môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của
xã hội – có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền’ đê’ xác định
khái niệm văn hóa (nền văn hóa).
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa là thước đo
mức độ nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa, theo muc đích có thể
chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ
cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức
và giá trị thấm mĩ…
Đặc trưng thứ ha của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân
biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá
trị tư nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác
động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo
gỗ…) hoặc tinh thần (như việc đặt tôn. truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên.
Đặc trưng thứ tư là tính lịch sử
1.3.2. Chức năng
Trước hết, văn hóa có chức năng tổ chức. Xã hội loài người được tổ chức theo
những cách thức đặc biệt thành những làng xã, quốc gia, đô thị, hội đoàn, tổ nhóm,
v.v. mà giới động vật chưa hề biết tới – đó là nhờ văn hóa. Làng xã, quốc gia, đô thị…
của mỗi dân tộc lại cũng mỗi khác nhau – cái đó cũng do sự chi phối của văn hóa.
Chính tính hệ thống của văn hóa là cơ sở cho chức năng này.
Thứ hai, văn hóa có chức năng điều chỉnh. Mọi sinh vật đều có khả năng thích
nghi với môi trường xung quanh bằng cách tự biến đổi mình sao cho phù hợp với tự
nhiên qua cơ chế di truyền và chọn lọc tự nhiên. Con người thì hành xử theo một cách
thức hoàn toàn khác hẳn: dùng văn hóa để biến đổi tự nhiên phục vụ cho mình bằng
cách tạo ra đồ ăn, quần áo, nhà cửa, vũ khí, máy móc, thuốc men… Tính giá trị là cơ
sở cho chức năng điều chỉnh của văn hóa. Nhờ có chức năng điều chỉnh, văn hóa trở
thành mục tiêu và động lực của sự phát triển trong xã hội loài người.
Thứ ba, văn hóa có chức năng giao tiếp. Một trong những đặc điểm khu biệt
con người với động vật là ở sự hợp quần thành xã hội, mà xã hội không thể hình thành
và tồn tại được nếu thiếu sự giao tiếp. Văn hóa tạo ra những điều kiện và phương tiện
(như ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu) cho sự giao tiếp ấy, văn hóa là môi trường
giao tiếp của con người. Đến lượt mình, văn hóa cũng là sản phẩm của giao tiếp: các
sản phẩm của văn hóa thì còn có thể được tạo ra bằng hoạt động của các cá nhân riêng
rẽ chứ bản thân văn hóa thì chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động xã hội mà thôi. Tính
nhân sinh là cơ sở cho chức năng giao tiếp của văn hóa.
Thứ tư, văn hóa có chức năng giáo dục. Văn hóa thực hiện được chức năng
giáo dục trước hết là do nó có năng lực thông tin hoàn hảo. Ở động vật, thông tin
được mã hóa trong cấu trúc tế bào và thần kinh và truyền đạt bằng con đường di
truyền; ngoài ra, ở động vật cao cấp, thông tin còn được truyền đạt bằng cách quan sát
và bắt chước hành vi của cha mẹ, công việc này mỗi thế hệ mới lại bắt đầu lại từ đầu.

5
Trong cả hai trường hợp, từ thế hệ này sang thế hệ khác, lượng thông tin không tăng
lên.
Con người thì không thế. Nhờ văn hóa, thông tin được mã hóa bằng những hệ
thống ký hiệu tạo thành những sản phẩm nằm ngoài cá nhân con người, do vậy mà nó
được khách quan hóa, được tích luỹ, được nhân bản và tăng lên nhanh chóng từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Sự tích lũy và chuyển giao những giá trị tương đối ổn định
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội trong cộng đồng
người qua không gian và thời gian và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong
tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận... từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo
nên truyền thống văn hóa trên cơ sở tính lịch sử của nó chính là chức năng giáo dục
của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá
trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Ngoài
bốn chức năng cơ bản trên, còn có thể nói đến các chức năng khác của văn hóa
như chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí, v.v., song chúng
đều chỉ là những chức năng bộ phận hoặc phái sinh từ bốn chức năng cơ bản đã nêu
(vd: chức năng thẩm mỹ và chức năng giải trí chỉ có ở thành tố nghê ̣ thuâ ̣t là một bộ
phận của văn hoá; chức năng nhận thức hàm chứa trong chức năng giáo dục.
Chương 2: Văn hóa với tự nhiên, xã hội và cá nhân
(Thời gian: 3 giờ)
1. Văn hóa và tự nhiên
1.1. Đối lập văn hóa với tự nhiên
Quan hệ văn hoá - con người và xã hội là một phần của bộ ba “con người - văn
hoá - tự nhiên”. Không có tự nhiên sẽ không có văn hoá. Điều này đúng vì hai lẽ.
Thứ nhất, tự nhiên tạo nên con người; con người, đến lượt mình, lao động
không ngừng để tạo nên văn hoá; như vậy, văn hoá là sản phẩm trực tiếp của con
người và sản phẩm gián tiếp của tự nhiên. Văn hoá là cái tự nhiên được biến đổi bởi
con người.
Thứ hai, trong quá trình sáng tạo văn hoá, con người vẫn phải sử dụng các tài
nguyên phong phú của tự nhiên và năng lực tự nhiên tiềm tàng của chính mình. Các
giá trị văn hoá không thể tồn tại được nếu không có tự nhiên làm môi trường và chất
liệu cho nó: mọi sản phẩm vật chất đều chế tạo từ các vật liệu tự nhiên hoặc có nguồn
gốc từ tự nhiên, và mọi sản phẩm tinh thần đều không thể tồn tại ngoài bộ não là cái
vật chất tự nhiên sinh ra chúng.
Ví dụ: Động thực vật đã được con người thuần dưỡng, nuôi nấng, chăm sóc;
cảnh vật: “người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Một ngọn núi, một
dòng sông, một tảng đá – tự nhiên thuần tuý đấy, nhưng một khi được con người biết
đến, đặt tên cho: núi này là “Hàm Rồng”, vịnh này là “Hạ Long”, đá kia là “hòn Vọng
Phu”… – tất cả bỗng có linh hồn, bỗng trở thành sống động, thân thương, tất cả đã trở
thành văn hoá!
Nói như vậy không có nghĩa là ranh giới giữa văn hoá và tự nhiên đã bị xoá
nhoà. Tuỳ theo mức độ tỉ lệ “chất văn hoá” / “chất tự nhiên” trong mỗi đối tượng mà
ta có thể nói rằng đối tượng này thuộc về tự nhiên, còn đối tượng kia thuộc về văn
hoá: Vịnh Hạ Long tuy có được con người đặt cho một cái tên, gắn cho một truyền
thuyết, nhưng nếu không có cái chất văn hóa đó thì tự thân thiên nhiên nơi đây cũng
đã là một cảnh đẹp phi thường và là một khu vực địa chất có giá trị rồi – do vậy vịnh
Hạ Long là một di sản tự nhiên. Kinh thành Huế thì khác: tuy được xây dựng từ các
vật liệu tự nhiên, trong một khung cảnh tự nhiên, nhưng nếu không có sự sáng tạo của
những kiến trúc sư và những người thợ tài ba thì đất đá đó chỉ là những vật liệu tự
nhiên thông thường, khung cảnh đó chỉ là một vùng đồi núi thông thường – vậy thì
kinh thành Huế thuộc về văn hoá.

7
1.2. Môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa
Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên gồm vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên, đất đai, sông hồ… Môi trường tự nhiên là yếu tố quan trọng của đời sống
con người, đồng thời cũng là yếu tố đầu vào quan trọng đối với kinh tế - văn hóa. Hoạt
động của các doanh nghiệp vì vậy cũng không thể tránh khỏi tác động từ môi trường
tự nhiên và tác động đến môi trường tự nhiên. Sự thay đổi của môi trường tự nhiên có
thể dẫn đến những thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp. Sự quan tâm của chính
phủ, của người tiêu dùng đến bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ sự phát
triển bền vững thì áp lực đối với các doanh nghiệp trong quá trình triển khai hoạt động
sản xuất như việc sử dụng nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên, sử dụng công nghệ xử lý
chất thải… ngày càng tăng cao, tạo ra những thách thức không nhỏ đối với doanh
nghiệp.
Môi trường văn hóa, xã hội: Môi trường văn hóa, xã hội thể hiện các thái độ
xã hội và các giá trị văn hóa. Nó bao gồm yếu tố nhân khẩu, tốc độ tăng dân số, cơ cấu
dân số, quan điểm sống, quan điểm về thẩm mỹ, các giá trị, chuẩn mực đạo đức… Ví
dụ, xu hướng già hóa của dân số sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực dịch vụ y tế, du lịch các nhà dưỡng lão… Trình độ học vấn gia tăng sẽ có thể
làm tăng chất lượng nguồn nhân lực, một trong những yếu tố tạo nên lợi thế về năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi tham gia hoạt động trên thị trường quốc tế.
Trong cộng đồng cổ truyền, nhiều làng xã có hương ước - đó là luật lệ qui ước
do dân làng đặt ra thực hiện trong phạm vi của làng. Còn Nhà nước thì ban hành các
văn bản pháp luật nhằm đảm bảo trật tự xã hội.
Dưới góc độ tiếp cận này có thể khẳng định rằng, vấn đề môi trường có vị trí
quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của con người. Sự xáo trộn về MTTN
cũng như MTVH sẽ tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người. Một khi MTTN
bị tàn phá và ô nhiễm, con người sẽ luôn phải sống trong nỗi lo âu về thiên tai như
giông bão, lũ lụt, mất mùa, đói kém, bệnh tật... Nếu MTVH bị phá vỡ, tệ nạn xã hội sẽ
gia tăng làm phá vỡ cấu trúc gia đình - làng xã, hậu quả là cả một cộng đồng người rơi
vào tâm trạng bất an. Sự phản ánh trên cho thấy, môi trường có liên quan trực tiếp hay
gián tiếp đến cuộc sống con người. Để xử lý mối tương tác đó, con người phải vận
dụng vốn tri thức và kinh nghiệm của mình để tìm được “tiếng nói chung” với môi
trường.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay đang xuất hiện những vấn đề phức tạp trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và môi trường. Có thể tiếp cận những vấn
đề này dưới các góc độ sau:
Do sự gia tăng dân số và do nhu cầu đòi hỏi không giới hạn của con người đã
làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt không chỉ đối với nguồn tài
nguyên không tái tạo mà ngay cả với nguồn tài nguyên tái tạo. Càng ngày thiên nhiên
càng tỏ ra “đuối sức” trước nhu cầu của con người và trước tình hình đó, con người
phải tìm ra giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của chính bản thân mình. Để
đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm hàng ngày, con người không thể chỉ dựa dẫm
vào thiên nhiên và sử dụng phương pháp canh tác cổ xưa mà phải đưa khoa học và kỹ
thuật, công nghệ vào nhằm cải tạo giống tăng năng suất. Tuy nhiên nảy sinh ra mặt
trái của nó. Phát huy giá trị văn hóa - đạo đức chính là thành tố cơ bản nhất để kéo con
người lại với con người nhằm nâng cao tính nhân bản, nhân ái trong cộng đồâng
người. Thái độ của con người đối với con người là tiêu chuẩn đầu tiên trong sự phát
triển về mặt văn hóa-đạo đức.
MTVH trong bối cảnh hiện nay đang phát triển theo chiều hướng cực kỳ sôi
động song cũng hết sức phức tạp. Trong đó lĩnh vực đáng quan tâm là những diễn biến
của quá trình giao lưu văn hóa. Giao lưu văn hóa đang trở thành chiếc cầu nối tiềm ẩn
những sắc thái văn hóa mới nhưng cũng đã xuất hiện những mặt trái đáng báo động
trong MTXH. Sự pha trộn những sắc thái văn hóa khác nhau trong một không gian
“người tiêu thụ” có trình độ dân trí chưa cao và chưa đồng đều đã làm nảy sinh những
khuynh hướng không có lợi trong MTXH ở nước ta hiện nay. Các giá trị văn hóa đạo
đức đang “đánh vật” với chủ nghĩa thực dụng để tồn tại; văn hóa dân tộc đang đối mặt
một cách gay gắt với những khuynh hướng tiêu cực của văn hóa ngoại lai. Đây là một
thách thức lớn đối với môi trường sống của con người trong bối cảnh hiện nay. Vấn đề
được đặt ra là “trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc
biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức về cội nguồn và lòng tự hào dân tộc, khắc
phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn”. Văn
hóa mang lại cho nhân dân những giá trị tinh thần cao, làm phong phú bộ mặt tinh
thần xã hội.
1.3. Bản năng và văn hóa
Các công trình về văn hóa học khẳng định, bản năng là cái "vốn có" gắn với sự
sống, là cái tự nhiên, không phải là văn hóa, còn "văn hóa là sự chế ngự bản năng".

9
Con vật thì bản năng là cái thống trị, còn ở con người thì cái văn hóa là cái chủ đạo,
nó điều hòa bản năng và cơ chế xã hội.
Có thể khẳng định con người có bản năng sinh vật và bản năng xã hội. Đôi khi
có sự có sự hòa nhập giữa chúng, tức có sự chuyển hóa, khó phân biệt rạch ròi.
Bản năng hay phản xạ bản năng thường là phản xạ tự động từ hệ thần kinh thực
vật như đói thì thèm ăn, khát thì thèm uống. Thấy chanh thì chảy nước bọt. Nhưng đó
vẫn là cảm ứng và thể hiện nhu cầu bản năng sinh tồn của con người. Bản năng là vốn
có, có khả năng di truyền, nên là "thói quen", nhưng thói quen thì không hẵn là bản
năng mà gần như bản năng. Thói quen là do tập luyện mà thành. Nhưng trong đời
sống xã hội thì thói quen do xã hội được tạo nên mang tính rộng lớn, ở chiều sâu văn
hóa xã hội và tác động lâu dài là tập tính xã hội = bản năng xã hội.
Bản năng xã hội rất khác bản năng sinh vật, không chỉ là ở tính chất mà cả ở
nguồn gốc hay ở độ bền vững như thế nào đó. Rất cần thiết phân biệt bản năng sinh
học và bản năng xã hội, tìm ra cả cái khác và cái chung gắn liền với nhau. Bản năng
xã hội hay bản năng văn hóa (tập tính, lối sống, nếp sống) gọi tắt là văn hóa.
Bản năng xã hội lại bắt nguồn từ bản năng sinh vật. Chẳng hạn lao động sản
xuất của con người là phát triển nhảy vọt từ "hoạt động sản xuất" thô sơ của động vật
bậc cao. Mác và Ăngghen cho rằng "bản năng xã hội là một trong những đòn bẩy quan
trọng nhất của sự phát triển của con người từ khỉ". Bản sắc văn hóa dân tộc bị chi phối
bởi ba nguyên lý không tách rời nhau: nguyên lý cùng cội nguồn- cùng dòng máu,
nguyên lý cùng chỗ ở, sau cùng là nguyên lý cùng lợi ích (theo GS.Trần Quốc
Vượng).
Bản năng xã hội của con người là dựa trên những phản xạ có điều kiện, nhưng
nó được mã hóa vào gen văn hóa (di truyền) hay thậm chí ảnh hưởng thành thói quen
trong gen tự nhiên sinh học. Ví dụ như ý thức, lao động, ngôn ngữ, giao tiếp… là bản
năng xã hội.
Bản năng sinh vật và bản năng xã hội trong con người, loài người không hoàn
toàn tách biệt và cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Con người bao giờ cũng mang theo
bản năng, bản năng tồn tại trong con người, từ bản năng sinh vật thuần tuý, nó trở
thành bản năng người khi thông qua môi trường xã hội, môi trường văn hóa trong hoạt
động của con người.
Cơ chế văn hóa xã hội và bản năng văn hóa cũng có khi bị trục trặc, khủng
hoảng, lão hóa, gây ra những cú xốc xã hội. Phải dần dần mới ổn định, phát triển theo
cái mới dưới tác động của bản năng có ý thức. Đổi mới tư duy, cải cách hay cách
mạng xã hội là vượt qua thời kỳ rối loạn ấy, khắc phục cái bản năng sinh vật và vô
thức cộng đồng là rất khó.
Bản năng nào có ý thức và nhằm vào thoả mãn theo hướng Chân - Thiện - Mỹ
thì mới là bản năng văn hóa (hành động theo qui luật của cái đẹp). Lòng vị kỷ, ham
muốn quyền lực, sắc dục, của cải cũng có sẵn ở con người như hành vi bản năng.
Nhưng tham lam, cá nhân vị kỷ chỉ vì mình mà hại người khác, xâm phạm lợi ích
người khác là trở thành hành vi xấu. Hồ Chí Minh khuyên cán bộ "ít ham muốn vật
chất" chứ không phải khuyên bỏ ham muốn vật chất. Bản thân Người không ham tiền
tiền, địa vị mà chỉ có một lòng ham muốn: ham học, ham làm, ham hiểu biết, ham
muốn dân tộc độc lập tự do, ai cũng được học hành, có cơm ăm áo mặc, tiến bộ, dân
giàu nước mạnh, người người hạnh phúc, sống trong nhân ái, hoà bình và hữu nghị…
Đó là bản năng văn hóa, tinh hoa văn hóa Hồ Chí Minh.
Trong thực tiễn, có những người tha hóa về đạo đức, lối sống, tha hóa về tư
tưởng chính trị, tôn giáo hay trong lao động. Đó là những tha hóa bản chất người dù
với những hình thức, sắc thái và có tính lịch sử rất khác nhau. Nói cách khác là sự tha
hóa từ văn hóa sang bản năng, hơn nữa là bản năng xấu, tức bản năng phi văn hóa, phi
nhân tính- nhân cách (bản năng có 2 nghĩa: nghĩa tự nhiên, trung tính và nghĩa xấu,
tiêu cực).
Nếu hiểu nhân cách chỉ là cái bên ngoài con người, tức môi trường xã hội
chuyển hóa vào con người (con người là sản phẩm của hoàn cảnh) mà không hiểu bản
năng, sự kết hợp cả hoàn cảnh và bản năng trong hoạt động của con người thì không
thể hiểu được sự hình thành con người và nhân cách con người.
Chính trên cơ sở bản năng sinh vật và bản năng xã hội (văn hóa), hình thành
nhu cầu sinh vật và nhu cầu xã hội (văn hóa) trong quá trình đáp ứng, thỏa mãn nhu
cầu - động cơ thúc đẩy hành động cũng chính là quá trình hình thành nên nhân cách.
Khi không nhận thấy và quan tâm chiều sâu sự chuyển hóa biện chứng cả hai
chiều nói trên, khi hiểu một chiều bản năng và văn hóa là hai cái hoàn toàn khác nhau,
xa lạ với nhau, hoặc chỉ thấy một chiều xấu, tốt, sẽ thiếu công cụ phương pháp luận
biện chứng khi phân tích sự tồn tại bản chất người và các sự chuyển hóa bản chất
người cụ thể: sự hoàn thiện nhân cách hoặc sự tha hóa nhân cách, văn hóa và phản văn
hóa.
Khi chuyển sang phát triển theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và mở cửa hội nhập, nước ta quả là có một bước dài tiến bộ về kinh tế xã hội và
phát triển con người. Nhưng cũng đã đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, nhất là vấn

11
đề tha hóa, khủng hoảng nhân cách trên nhiều phương diện liên quan tớ quan hệ giữa
bản năng và văn hóa trong từng môi trường xã hội.
1.4. Thích nghi và biến đổi tự nhiên
Theo Morin, trái đất hoàn toàn không phải là sự cộng gộp hành tinh vật lý, sinh
quyển và nhân loại lại với nhau. Trái đất chính là một hệ thống tổ chức “một khối tổng
thể” sinh học – nhân học phức hợp, trong đó sự sống nảy sinh từ lịch sử của trái đất và
nhân loại nảy sinh từ sự sống của trái đất. Mối quan hệ giữa nhân loại và tự nhiên
không thể bị hình dung theo cách quy giản hay tháo rời. Nhân loại là một thực thể
mang tính chất hành tinh và sinh quyển. Con người vừa là tự nhiên, vừa là siêu nhiên,
bởi lẽ mặc dù bắt rễ trong tự nhiên vật lý và sống động, nhưng lại trồi lên khỏi cái tự
nhiên ấy và tự phân biệt với tự nhiên bằng văn hóa, tư tưởng, và lương tâm, ý thức”.
Con người tồn tại vớis2 loại tự nhiên: tự nhiên ngoài ta (môi trường) và tự
nhiên trong ta (bản năng), có hai loại xã hội: xã hội ngoài ta (cộng đồng) và xã hội
trong ta (cá nhân). Và cách ứng xử của con người bao giờ cũng mang tính thống nhất
biện chứng giữa hai mặt: vừa thích nghi với tự nhiên để tồn tại và cải tạo tự nhiên để
vượt qua những giới hạn tự nhiên nhưng không trái với quy luật để làm cho cuộc sống
được an sinh và tốt đẹp hơn. Ứng xử hai mặt là biểu hiện của tư duy lưỡng hợp âm
dương: trong âm có dương, trong dương có âm, cân bằng âm dương, âm dương đối
xứng vừa động vừa tĩnh và phát triển.
Với bản thân con người cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai phần: phần
CON (tự nhiên) và phần NGƯỜI (văn hóa) trong con người. Con người vừa phải thỏa
mãn những nhu cầu bản năng để tồn tại vừa phải thỏa mãn những nhu cầu văn hóa để
trở thành người hơn (nhân tính khu biệt với thú tính). Tạo hóa đã đặt ra một nghịch lý
vĩ đại mà từ khi thành con người, dù ở đâu, thời nào, dù thuộc mầu da gì trên hành
tinh này hôm nay và mãi mãi mai sau đều phải đối mặt giữa cái hữu hạn và cái vô hạn,
giữa cái trần tục và cái thánh thiện. Là CON, con người phải tuân theo quy luật sinh,
lão, bệnh, tử, con người biết mình sẽ chết nhưng nó lại muốn trở thành bất tử; là CON,
con người rất tham lam, phàm ăn tục uống... nhưng là NGƯỜI nó lại muốn trở thành
thánh thiện xứng đáng với con người – hoa của đất! Nghịch lý ấy ở trong anh, trong
tôi, trong tất cả mọi người và có mặt khắp mọi nơi mọi lúc kể cả nơi những suy tư sâu
kín nhất của con người, lúc nào chúng ta cũng phải đối diện với nó và ranh giới cũng
mỏng manh như sợi tóc. Nghịch lý ấy chính là động cơ thôi thúc con người phải sáng
tạo nên những giá trị văn hóa.
Người phương Tây, dưới ảnh hưởng của đạo Cơ đốc, quan niệm con người là
sản phẩm hoàn thiện nhất của Chúa, còn tự nhiên là những gì hỗn mang hoang dã cần
phải tổ chức và sắp xếp lại cho phù hợp với con người. Từ đó nẩy sinh quan niệm con
người là trung tâm vũ trụ
Còn người phương Đông coi con người là một thành viên của vũ trụ (nhân sinh
tiểu vũ trụ), con người với đất trời là thống nhất (thiên địa nhân hợp nhất) cho nên họ
nghiêng về chiều hướng thích nghi và sống hài hòa cùng môi trường với một sự đồng
cảm sâu sắc “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Môi trường là
người bạn tri âm, người bạn đồng hành vô tận của con người. Mọi sáng tạo của họ gắn
bó với môi trường từ việc ăn ở đi lại, việc chọn nguồn nước, lập làng, dựng nhà, đến
việc xây dựng cơ đồ của một quốc gia.
Đạo Phật cho rằng con người bị tham, sân, si làm mờ cái tâm Phật nên không
thoát được vòng trầm luân, do đó “đời là bể khổ tình là dây oan” (Nguyễn Du) phải
quẩn quanh trong kiếp luân hồi. Đạo Phật khuyên người ta phải diệt dục, từ bỏ cái bản
ngã để đến với cái vô ngã đến với Phật ở cõi niết bàn. Chữ “niết bàn” là phiên âm từ
Nirvana (sanscrit) gồm tiền tố “nir” phủ định từ và thân từ “vana” là dục vọng hay sự
sống, để chỉ nơi mà con người đã tắt (sự sống) không còn dục vọng. Nói theo Nguyễn
Du là “sự đời đã tắt lửa lòng”. Các sư sãi, các phật tử đều phải tuân theo giới để kiềm
chế dục vọng, trong đó “ngũ giới” là cơ bản nhất.
Khổng Tử đề cao nhân tính nơi con người khi ông nói: Nhân chi sơ tính bản
thiện (con người sinh ra vốn là thiện). Do đó ông chủ trương giáo dục để con người
hiểu được đạo lý làm người. Văn hóa là cai trị bằng văn và phải giáo hóa con người.
Vì thế Khổng Tử chủ trương “đức trị”. Còn Hàn Phi Tử, tiếp nhận quan điểm của thầy
mình – Tuân Tử, cho rằng “nhân chi sơ tính bản ác”, ác đây có nghĩa là vụ lợi (giống
như thuyết duy lợi của người Anh sau này). Do đó Tuân Tử chủ trương “lễ trị” và sau
này Hàn Phi Tử quy phạm hóa, điển chế hóa thành “pháp trị”...
Vấn đề cốt lõi đặt ra là cần nhận biết và tìm ra mối quan hệ không thể tách rời
giữa nhu cầu bản năng và ứng xử văn hóa. Nhu cầu bản năng là tự nhiên. ở con người
những nhu cầu ấy được thỏa mãn theo lối an sinh, tiếp nối bền vững. Đó là cứu cánh
của bản thân văn hóa. Con người không thể tồn tại nếu như không được thỏa mãn
những nhu cầu bản năng; xã hội càng phát triển thì loài người càng tìm nhiều cách rất
phong phú đa dạng để đáp ứng ngày càng cao những nhu cầu chính đáng đó. Nhưng vì
là con người cho nên những nhu cầu bản năng ấy phải được giới hạn, rèn giũa, được

13
thỏa mãn trong mối quan hệ cân bằng giữa con người với con người, giữa con người
với tự nhiên theo lý tưởng thẩm mỹ của con người….
Chính cách ứng xử của con người với “tự nhiên trong ta” (bản năng) theo quy
luật vừa thích nghi vừa cải tạo đã tạo nên “tính cách” của cả một dân tộc hay “nhân
cách” của từng cá nhân tùy theo sự lựa chọn của họ dưới tác động của môi trường văn
hóa.
Như vậy cách ứng xử với tự nhiên và xã hội đã trở thành nhân tố mang tính
quyết định đối với nhân cách văn hóa – một hệ giá trị đạo đức khu biệt với giá trị sử
dụng và gắn chặt hơn với giá trị thẩm mỹ và được đo bằng những thước đo của hệ
thống bậc thang giá trị với những chuẩn mực được xã hội thừa nhận.
2. Văn hóa và xã hội
2.1. Khái niệm xã hội
Theo nghĩa thứ nhất, “xã hội” là toàn bộ đời sống của tập hợp các cá thể. Với
nghĩa này “xã hội loài người”, “xã hội loài vật” là các khái niệm để chỉ kiểu quan hệ,
tương tác, liên kết giữa các cá thể. Trong quan niệm này, sự phân biệt lớn nhất cần
phân biệt đó là “xã hội” loài người với “xã hội” loài vật. Điểm khác biệt căn bản giữa
xã hội loài người và xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi
đó con người lại sản xuất” . Trong quá trình tiến hóa chính lao động và ngôn ngữ
(tiếng nói) đã biến loài vượn thành loài người. Đặc trưng quan trọng nhất của xã hội
loài người là sản xuất vật chất, con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, tạo ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Cũng trong quá trình sản xuất vật chất ấy, con người đồng thời sáng tạo ra các mặt của
đời sống xã hội, như nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…làm biến
đổi giới tự nhiên, biến đổi các thể chế xã hội, và biến đổi cả bản thân mình. Với quan
niệm xã hội như vậy, phát triển xã hội được coi là quá trình thay thế các hình thái kinh
tế-xã hội với các hình thái kinh tế - xã hội khác. 
Theo nghĩa thứ hai: khái niệm xã hội để chỉ một tập đoàn người được quan
niệm như một thực thể tập hợp của các thành viên của nó, hoặc là để chỉ một môi
trường của con người mà cá nhân hòa nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn
bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn ti, trật tự tác động lên cá nhân. Các tập
hợp người này có quy mô, tính chất, chức năng vai trò và tên gọi khác nhau, chúng
hình thành và phát triển trong một không gian địa lý và văn hóa nhất định: Gia đình
(tế bào của xã hội), các nhóm (xã hội trung lưu, nhóm tinh hoa, các nhóm tình
nguyện…), các cộng đồng (tộc người, nghề nghiệp, lợi ích…), các tổ chức, các quốc
gia, các chế độ xã hội (xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa…), các nền văn hóa
(xã hội phương Tây…)
Phạm trù “xã hội” theo nghĩa này, thực chất là xác định những “tập hợp con”
của xã hội loài người. Xã hội ở đây được đặc trưng bởi các mô hình của các mối quan
hệ giữa các cá nhân, đặc trưng văn hóa và tổ chức.
Theo nghĩa thứ ba, (nhiều tác giả gọi là “nghĩa hẹp”): Với cách tiếp cận hệ
thống và cấu trúc chức năng, có thể chia xã hội thành các tiểu hệ thống, như: Hệ thống
kinh tế, hệ thống chính trị, hệ thống văn hóa-xã hội…Mỗi hệ tiểu hệ thống đó thực
hiện một chức năng nhất định (lĩnh vực) trong tổng thể hệ thống xã hội. Với cách tiếp
cận này khoa học xã hội đã nghiên cứu từng lĩnh vực cấu thành xã hội. Có nhiều tác
giả coi các lĩnh vực của đời sống xã hội là các mặt, các phương diện của đời sống xã
hội (Hoàng Chí Bảo 2010, Phạm Xuân Nam 2014). 
Báo cáo của Chính phủ Việt Nam về phát triển xã hội tham gia Hội nghị
Thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội tại Copenhaghen, Đan Mạch tháng
3 năm 1995, trong đó nêu 10 vấn đề xã hội là: 1.Giải quyết việc làm; 2.Xóa đói giảm
nghèo; 3.Hòa nhập xã hội; 4.Vấn đề gia đình; 5.Phát triển giáo dục; 6.Dân số, kế
hoạch hóa gia đình; 7.Chăm sóc sức khỏe nhân dân (cộng đồng); 8.Bảo trợ xã hội (bảo
hiểm xã hội và trợ giúp xã hội); 9.Vấn đề môi trường; 10.Hạn chế, ngăn ngừa các
hành vi phạm tội: ma túy, mại dâm, buôn lậu, tham nhũng, làm giàu bất chính….
2.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội
Một trong những giá trị văn hoá cơ bản đã tạo nên Con Người, đã làm cho loài
“homo sapiens” trở nên khác biệt hẳn so với các đồng loại của mình trong giới tự
nhiên là khả năng tạo ra các nhóm xã hội mà trong đó con người ý thức được ý nghĩa
của nó. Trong khi động vật chỉ mới biết tập hợp thành bầy đàn một cách tự phát theo
bản năng thì con người biết tập hợp lại thành thị tộc, bộ lạc, làng xã, đô thị, dân tộc,
quốc gia, khu vực…
Xã hội tạo nên văn hóa đó và đến lượt mình văn hóa tác động tới sự phát triển
của xã hội. Nhóm xã hội (subculture) nào cũng đồng thời góp phần vừa bảo tồn vừa
phát triển văn hoá của mình, song tuỳ theo tính chất của từng loại nhóm xã hội mà vai
trò của chúng trong việc bảo tồn và phát triển văn hoá có khác nhau.
Các nhóm xã hội nào có tính đồng nhất cao thì khả năng bảo tồn tốt, còn nhóm
xã hội nào có tính đa dạng cao thì khả năng phát triển tốt.
Thị tộc có tính đồng nhất cao hơn bộ lạc (do cùng huyết thống), làng xã có tính
đồng nhất cao hơn đô thị, dân tộc có tính đồng nhất cao hơn quốc gia…, chính bởi vậy

15
mà thị tộc, làng xã, dân tộc có khả năng bảo tồn văn hoá tốt hơn; ngược lại, bộ lạc, đô
thị, quốc gia có khả năng phát triển văn hoá nhanh hơn.
Trên thế giới, đâu đâu con người cũng tiến đến những tổ chức xã hội tương
đồng, nhưng mỗi cộng đồng dân tộc lại có những nét đặc thù riêng trong cách tổ chức
của mình. Các cộng đồng làm nông nghiệp khép kín hơn, có tính đồng nhất cao hơn
nên các nền văn hoá nông nghiệp bền vững hơn, cũng có nghĩa là trì trệ hơn; còn các
cộng đồng sống bằng chăn nuôi, buôn bán, sản xuất công nghiệp… thì quan hệ giao
lưu rộng hơn, do vậy dễ thay đổi hơn, phát triển nhanh hơn, dễ đồng hoá kẻ khác và
cũng dễ bị kẻ khác đồng hoá.
Liên quan đến mối quan hệ giữa văn hoá và xã hội còn là hàng loạt vấn đề thu
hút sự quan tâm của dư luận như tính cách dân tộc, vai trò của nhà nước đối với văn
hoá, văn hoá đại chúng (culture populaire, culture de masse) và văn hoá thượng lưu
(grande culture, culture de élite)…
3. Văn hóa và cá nhân
3.1. Sự hình thành nhân cách của cá nhân
Những yếu tố chi phối đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Theo quan điểm tâm lý học mácxít, không phải con người khi được sinh ra đã
có sẵn nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ dần dần từ các bẳn năng nguyên
thủy.  V.I.Lênin khẳng định : “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo
đức của xã hội mà con người là thành viên”.
Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố như : yếu tố
sinh thể; môi trường xã hội; giáo dục và tự giáo dục; hoạt động và giao tiếp. Mỗi yếu
tố đều có vai trò nhất định. Sau đây sẽ phân tích từng yếu tố và vai trò của chúng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
Yếu tố sinh thể
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng xương,
bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã hội cụ thể.
Ngay từ lúc trẻ em ra đời, mỗi đứa trẻ đã có những đặc điểm hình thái – sinh lý của
một con người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Những thuộc tính sinh
học có ngay từ lúc đứa trẻ ra đời được gọi là những thuộc tính bẩm sinh. Những đặc
điểm, những thuộc tính sinh học của cha, của mẹ được ghi lại trong hệ thống gen
truyền lại cho con cái và được gọi là di truyền. Yếu tố sinh thể bao gồm các đặc điểm
hình thể như cấu trúc giải phẫu sinh lý, đặc điểm cơ thể, đặc điểm của hệ thần kinh và
các tư chất.
Yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã
hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có thể phân
thành hai lại là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Giáo dục và nhân cách
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ
đạo (theo quan điểm của tâm lý học Mácxít). Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể
hiện ở những điểm sau :
Thứ nhất, giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách. Vì giáo dục là một quá trình tác động có mục tiêu xác định, hình thành một mẫu
người cụ thể cho xã hội, một mô hình nhân cách phát triển, đáp ứng những yêu cầu
của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Điều đó được thể hiện qua việc thực
hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo của nhà trường và các tổ chức giáo dục ngoài nhà
trường.
Thứ hai, thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh
nghiệm xã hội - lịch sử đã được kết tinh trong các sản phẩm văn hóa vật chất và tinh
thần của nhân loại.Thế hệ trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm đó đển biến chúng thành
kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình.
Thứ ba, giáo dục có thể đem lại cho con người những cái mà các yếu tố bẩm
sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Ví dụ, đứa trẻ được
sinh ra, theo thời gian nó được tăng trưởng, nhưng tự nó không thể biết đọc, biết viết
nếu không được học chữ. Một ví dụ khác, năm 1945, 90 % dân ta mù chữ, nhưng với
một lòng quyết tâm giáo dục không mệt mỏi, dân ta đã xoá mù trong một khoảng thời
gian ngắn nhất.
Thứ tư, giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi
phối sự hình thành và phát triển nhân cách như các yếu tố sinh thể (bẩm sinh di
truyển), yếu tố hoàn cảnh sống, yếu tố xã hội.
Thứ năm, giáo dục có thể bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố
bẩm sinh – di truyền không bình thường, hoàn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây
nên. Ví dụ, giáo dục cho người bị khuyết tật, bị bệnh hoặc gặp phải hoàn cảnh không
thuận lợi.

17
Thứ sáu, giáo dục uốn nắn những sai lệch của nhân cách về một mặt nào đó so
với các chuẩn mực, do tác động tự phát của môi trường gây nên và làm cho nó phát
triển theo hướng mong muốn của xã hội. Ví dụ, hoạt động giáo dục trong các trường
giáo dưỡng (giáo dục lại).
Thứ bảy, giáo dục có thể đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục có thể “hoạch
định nhân cách trong tương lai” để tác động hình thành và phát triển phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Như vậy, giáo dục không chỉ tính đến trình độ hiện tại của sự
phát triển nhân cách mà còn tính đến bước phát triển tiếp theo của nhân cách.
Học tập và rèn luyện của bản thân
Trước hết, phải nhận thức rõ được vai trò quyết định trực tiếp của hoạt động cá
nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách bản thân.
Phải tích cực tham gia trực tiếp vào các hoạt động mới mẻ để trải nghiệm
những kinh nghiệm những kinh nghiệm thực tiễn.
Ở mỗi một giai đoạn nên xác định, xây dựng một kế hoạch hoạt động cụ thể.
Kế hoạch hoạt động sẽ định hướng cho bản thân và mô hình hoá nhân cách của mình
trong tương lai gần.
Phải thường xuyên thay đổi các hình thức hoạt động và nâng cao dần mức đội
hoạt từ dễ đến khó hơn, từ đơn giản đến phức tạp hơn, để có thể thử sức mình và
trưởng thành hơn sau mỗi lần thử sức đó.
Đặc biệt phải nhận thức và thực hiện hành động một cách tự giác, tự ý thức,
tuyệt đối không tham gia hoạt động vì yêu cầu gián tiếp của xã hội, của người khác
mà phải tham gia tích cực, độc lập dựa trên quan điểm của chính mình.Tự giáo dục
hay tự hoàn thiện nhân cách
4. Văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây
Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp – nông thôn. Tính
chất nông nghiệp - nông thôn là đặc điểm nổi bật nhất, là bản sắc dễ thấy nhất của
văn hoá phương Đông. Đặc điểm này thuộc về loại hình văn hoá: Văn hoá phương
Đông chủ yếu là văn hoá gốc nông nghiệp, trong khi văn hoá phương Tây chủ yếu
thuộc loại hình gốc du mục và thương nghiệp.
Nền sản xuất cổ truyền của các xã hội phương Đông về cơ bản đều là nền sản
xuất nông nghiệp. Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung
đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là
sự có mặt của những con sông lớn: Sông Nin ở Bắc Phi; sông Tigrơ, sông Ơphơrat ở
Tây Á; sông Ấn (Hindus), sông Hằng (Gangga) ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông
Dương Tử (Trường Giang) ở Trung Quốc; sông Mêcông ở bán đảo Trung – Ấn, sông
Mênam ở Thái Lan, sông Hồng ở Trung Quốc, Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông
này tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng
chính từ các dòng sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn hoá - văn
minh phương Đông. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đưa ra các cụm từ
như “văn minh sông Hồng”, “văn minh sông Mã”, “văn minh sông Ấn - sông Hằng”,
v.v. Có thể nói, ngay từ đầu, văn hoá - văn minh phương Đông đã là văn hoá - văn
minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn hoá phương Đông cho đến tận
ngày nay.
Không chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến ở nhiều
quốc gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích trồng
lúa trên thế giới nằm ở châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92% tổng sản
lượng của thế giới. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc
gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra loại hình văn hoá gốc nông nghiệp, tạo ra
bản sắc nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương Đông.
Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương
Đông rất đa dạng. Có thể nêu ra ở đây một vài ví dụ. Trước hết xin nói về văn hoá vật
chất liên quan đến những nhu cầu thiết yếu nhất của con người, đó là ăn, mặc, ở, đi
lại. Nguồn lương thực chính của người phương Đông chủ yếu là lúa gạo và các loại
ngũ cốc do nền sản xuất nông nghiệp tạo ra. Người phương Đông thường ăn cơm với
các loại thực phẩm mang tính tự cung tự cấp như rau, cá và một số loại thịt gia cầm.
Các loại gia vị, hương liệu như ớt, tiêu, rau thơm, cari, v.v. vốn là sản phẩm của sản
xuất nông nghiệp cũng được dùng phổ biến ở nhiều nơi. Vì thực phẩm mang tính tự
cung tự cấp nên thường tươi, sống và người dân thường ăn nóng.
Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở phương Đông, phổ biến nhất là tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên. Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp,
nhất là nông nghiệp ở thời kì sơ khai khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất
cả đều phụ thuộc vào thiên nhiên, vào ý Trời. Vì vậy, ở khắp nơi, từ Đông Bắc Phi –
Tây Á đến đất nước mặt trời mọc, các quần đảo Đông Á, từ Bắc Á rồi lưu vực sông
Hoàng Hà rộng lớn cho đến các đảo cực nam Indonesia, v.v. đâu đâu người ta cũng
thờ cúng các vị Thần liên quan đến sản xuất nông nghiệp như Thần Mặt trời, Thần
Đất, Thần Nước, Thần Lúa, Thần Gió, Thần Sông...
Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là hàng loạt các lễ hội nông nghiệp

19
như lễ hội té nước, lễ hội cầu mưa, cầu nắng, hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng
được mùa...Ngoài tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, một loại tín ngưỡng nữa cũng khá
phổ biến là tín ngưỡng phồn thực. Với ý nghĩa “phồn” – “nhiều”, “thực” – “nảy nở”,
tín ngưỡng này mang triết lí sống điển hình cho cư dân nông nghiệp luôn hướng tới sự
sinh sôi, là ước mong duy trì và phát triển sự sống.
Về tư tưởng triết học và phương thức tư duy, phương Đông thiên về
“chủ toàn” và tổng hợp: Theo nhận xét của GS Cao Xuân Huy, phương Đông, xét về
tư tưởng triết học, thiên về chủ toàn, trong khi phương Tây thiên về chủ biệt. Khi nhìn
nhận vấn đề, phương Đông thường chú trọng đến tính toàn diện, toàn thể, toàn cục. Tư
tưởng triết học chủ toàn có quan hệ mật thiết với phương thức tư duy tổng
hợp và phép biện chứng. Khi xem xét một sự vật, hiện tượng, người phương Đông
thường nhìn nó một cách tổng thể, xem nó như một hệ thống - cấu trúc hoàn chỉnh, ở
đó các yếu tố tạo nên chỉnh thể có quan hệ với nhau, ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Người phương Đông ít chú ý đến việc phân tích từng yếu tố tách “rời” như phương
Tây mà quan tâm nhiều hơn đến mối quan hệ giữa chúng. Có thể lấy ví dụ qua cách
chữa bệnh truyền thống. Các thầy thuốc phương Đông thường xem cơ thể con người
là một “chỉnh thể hệ thống”, do vậy sự tồn tại của các cơ quan trong cơ thể con người
có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi một cơ quan nào đó bị yếu hoặc mắc bệnh thì
các thầy thuốc Đông y thường không chỉ chữa cơ quan đó mà còn chú ý đến toàn bộ
cơ thể. Khi toàn bộ cơ thể khoẻ thì sẽ “kéo” cơ quan bị yếu khoẻ lên. Trái lại, y học
phương Tây lại nặng về phân tích và chú ý đến yếu tố, do vậy thường can thiệp trực
tiếp vào cơ quan bị đau yếu trong cơ thể: đau chỗ nào thì tiêm, chích, cắt bỏ chỗ ấy.
Dĩ nhiên, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó (vì vậy ngày
nay ta mới đi theo cách Đông – Tây y kết hợp). Đau ruột thừa chẳng hạn, nếu không
can thiệp bằng cách cắt bỏ kịp thời ngay chỗ đau thì chắc chắn sẽ gây hậu quả khôn
lường.
Óc tư duy tổng hợp của phương Đông có mặt mạnh là giúp con người có cái
nhìn toàn diện nhưng đôi khi cũng có hạn chế là dễ “bỏ qua” những tiểu tiết quan
trọng. Óc phân tích của người phương Tây giúp con người có điều kiện đi sâu được
vào các chi tiết. Có lẽ đó cũng là một trong những lí do khiến nền khoa học – kĩ thuật
của phương Tây phát triển.
Trong quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Đông nặng về tính
cộng đồng và cách ứng xử tình cảm, mềm dẻo: Cả hai phẩm chất này, suy cho cùng,
cũng là do loại hình văn hoá gốc nông nghiệp chi phối. Trong sản xuất nông nghiệp,
các gia đình nông dân cùng canh tác trên một cánh đồng, ruộng đất nhà này tiếp giáp
ruộng đất nhà kia. Để có được năng suất, những người nông dân trong làng không thể
không liên kết với nhau. Chỉ có đoàn kết con người mới chống được thiên tai. “Lụt thì
lút cả làng” vì vậy chỉ có sự đồng tâm hiệp lực của cả làng, cả xã thì mới đắp được
đập, được đê ngăn nước. Muốn chống hạn, diệt sâu bệnh, chuột bọ,... cũng cần sức
mạnh của cả làng. Môi trường canh tác mang tính tập thể như thế chính là cơ sở để
nảy sinh tính cộng đồng. Đặc trưng này của văn hoá phương Đông khiến mỗi người
khi hành động luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội. Trong làng,
người dân thường tránh những việc làm phương hại đến tập thể. Từ đây nảy sinh quan
điểm sống vì tập thể. Vì tập thể, người ta sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân. Cũng vì thế
mà người phương Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm (trong khi phương Tây
thì coi trọng quyền lợi). Quả thực, trong việc chống chọi với thiên tai, địch hoạ, nếu
không có tinh thần trách nhiệm được đề lên thành nghĩa vụ thì không thể có được
chiến thắng.
Nếu so sánh với văn hoá phương Tây thì cũng thấy một sự khác biệt nhất định.
Có thể nói, trong quan hệ ứng xử, phương Tây thiên về cá thể, trọng lí. Đối với
phương Tây, con người cá nhân được đề cao. Điều này có điểm mạnh là phát huy cao
độ sức sáng tạo cá nhân, tránh được sự dựa dẫm theo kiểu “cha chung không ai khóc”.
Hơn nữa lối ứng xử trọng lí giúp con người sống theo pháp luật một cách có ý thức -
điều mà các xã hội nông nghiệp phương Đông phải phấn đấu rất gian khổ mới có
được.
Trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đông nghiêng về hoà đồng,
thuận tự nhiên: Đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên của văn hoá phương Đông
thường được đặt trong sự so sánh với đặc điểm chinh phục tự nhiên của văn hoá
phương Tây. Văn hoá phương Tây thiên về giải thích, cải tạo thế giới. Nói như C.
Mac: “Vấn đề là cải tạo thế giới”. Tất nhiên nói như trên không có nghĩa là đối lập
tuyệt đối giữa văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây trong vấn đề đối xử với
môi trường tự nhiên.
Thái độ hoà đồng với tự nhiên của văn hoá phương Đông đã được hình thành từ
rất lâu và định hình trên cơ sở của những quan niệm về con người trong các học thuyết
phương Đông. Theo nhiều tác giả, con người trong quan niệm của tất cả các tôn giáo
phương Đông và trong hầu hết các học thuyết triết học phương Đông truyền thống đều
không đối lập với giới tự nhiên. Nó luôn luôn được coi là một thành tố, một bộ phận
của giới tự nhiên [Hồ Sĩ Quý].

21
Về phương thức sống, văn hoá truyền thống phương Đông trọng tĩnh,
hướng nội và khép kín: Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự ổn định. Người
dân thường rất sợ những điều xảy ra bất thường. Lối sống hài hoà với tự nhiên, tình
cảm với mọi người, suy cho cùng, cũng là nhằm đạt tới sự ổn định. Từ đây xuất hiện
phương thức sống trọng tĩnh, hướng nội và khép kín.
Sống trong các công xã nông thôn cô lập, tách biệt, xét ở một góc độ nào
đó, tính tự trị đồng nghĩa với hướng nội và khép kín. Trong xã hội phong kiến, mô
hình làng xã “kín cổng cao tường” cùng với những thiết chế xã hội ngặt nghèo của nó
càng làm cho “tầm nhìn” của cư dân nông nghiệp không vượt khỏi “lũy tre làng”. Nền
nông nghiệp tự cấp tự túc chỉ tạo ra được những sản phẩm vừa đủ để lưu thông trong
phạm vi “chợ làng”, không trở thành hàng hoá thương nghiệp của nền kinh tế thị
trường kiểu phương Tây. Đó cũng là hướng nội, khép kín. Lối sống trọng tĩnh, hướng
nội và khép kín không thể tạo ra sự phát triển đột biến. Có lẽ đây cũng là một trong
nhiều nguyên nhân làm cho chế độ phong kiến phương Đông kéo dài sự trì trệ nhiều
thế kỉ. Trái với phương Đông, phương Tây trọng động, hướng ngoại và cởi mở. Điều
này cũng dễ hiểu. Ở đó nền kinh tế thương mại và du mục buộc người ta phải năng
động, phải đi tìm thị trường ở bên ngoài và mở rộng quan hệ.
Chương 3: Biến đổi văn hóa
(Thời gian: 3 giờ)
1. Tính ổn định

1.1. Khái niệm


Văn hóa luôn mang hai hàm nghĩa tĩnh và động. Xét từ góc độ tĩnh, thuộc tính
bản chất nhất của văn hóa là tính “nội nguyên”(1), tức chỉ nguyên nhân nội tại, những
phát sinh trong nội bộ văn hóa. Ngoài ra, văn hóa còn có tính giáo dục, thuộc tính căn
bản và nổi bật, có chức năng làm cho sự phát triển của kinh tế và văn hóa có mối quan
hệ nội tại tự nhiên và sâu sắc.
Ở Trung Quốc, từ thời cổ đại, văn hóa được xem là “văn tự và giáo hóa”. Ở
phương Tây, từ “văn hóa”(Culture) bắt nguồn từ tiếng Latinh, nghĩa gốc là trồng trọt,
nuôi dưỡng, luyện tập, khai khẩn, khai phát. Vì thế, ở phương Đông hay phương Tây,
văn hóa đều biểu trưng cho hoạt động của loài người và đều coi trọng nghĩa từ nguyên
của văn hóa là mang tính giáo dục. Tính giáo dục của văn hóa được thể hiện chủ yếu
thông qua sự kế thừa và truyền bá. Văn hóa là sự ngưng tụ tri thức và kỹ năng của loài
người, truyền bá, kế thừa, học tập lẫn nhau từ đời này qua đời khác.
C.Mác chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa của loài người trước hết thuộc về lao
động vật chất cảm tính, tôn giáo, gia đình, nhà nước, luật pháp, đạo đức, khoa học,
nghệ thuật v.v.. đều là phương thức đặc thù của sản xuất, hơn nữa, còn thực sự chi
phối quy luật phổ biến của sản xuất. Như vậy, lao động, thực tiễn v.v.. những hoạt
động tự giác có ý thức, có mục đích của loài người đã xác nhận rõ “sự tồn tại loài” của
con người, đó chính là nguồn gốc bản chất chân thực của con người và là nguồn gốc
bản chất của văn hóa. Do đó, hoạt động thực tiễn căn bản nhất của lao động loài người
bao gồm cả những hoạt động sáng tạo văn hóa: sáng tạo tự nhiên - xã hội - con người,
những sáng tạo tinh hoa của văn minh tinh thần nhân loại như nghệ thuật, tôn giáo,
triết học v.v.. Văn hóa vốn có bản chất thực tiễn, nó quyết định công năng lịch sử xã
hội một cách cơ bản nhất, nó tham dự năng động, tự giác, sáng tạo và ảnh hưởng đến
công năng bản chất của hoạt động kinh tế. Thuộc tính kinh tế và công năng của văn
hóa là sự thể hiện tập trung nhất tính thực tiễn của văn hóa.
1.2. Phân tích
Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói
chung và có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù. Những đặc trưng cơ bản riêng biệt
này được hình thành, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử,

23
chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nhiều học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành
Việt Nam học, Văn hóa học, Văn hóa Việt Nam đã có nhiều ý kiến đa chiều về đặc
trưng văn hóa Việt Nam, tạo nên bức tranh phong phú, nhiều màu sắc, đôi khi là
tương phản, nhưng tổng hợp lại, văn hóa Việt Nam có những nét chung tương đối khái
quát, thể hiện ở 5 đặc trưng sau:
Một là, tính cộng đồng làng xã, thể hiện rõ ở 6 phẩm chất: Tính đoàn kết, giúp
đỡ; Tính tập thể thương người; Tính dân chủ, làng xã; Tính trọng thể diện; Tình yêu
quê hương, làng xóm; Lòng biết ơn. Bên cạnh những phẩm chất tốt, tính cộng đồng
làng xã cũng để lại nhiều tật xấu trong văn hóa: Thói dựa dẫm; Thói cào bằng, chụp
mũ; Bệnh sĩ diện, háo danh; Bệnh thành tích; Bệnh phong trào; Bệnh hình thức v.v..
Hai là, tính trọng âm. Bảy phẩm chất tốt được biểu hiện trong tính trọng âm là:
Tính ưa ổn định; Tính hiền hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; Thiên hướng thơ
ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách. Bên cạnh đó, tính trọng âm cũng là
mảnh đất hình thành những bệnh xấu như: Bệnh thụ động, khép kín; Bệnh lề mề,
chậm chạp; Bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn; Bệnh sùng ngoại v.v..
Ba là, tính ưa hài hòa, thể hiện ở bốn phẩm chất: Tính mực thước; Tính ung
dung; Tính vui vẻ, lạc quan; Tính thực tế. Tuy nhiên, tính ưa hài hòa cũng gây mặt
hạn chế, như: Bệnh đại khái, xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi quý; Bệnh trung bình chủ nghĩa;
Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán...
Bốn là, tính kết hợp, thể hiện ở hai khả năng: Khả năng bao quát tốt; Khả năng
quan hệ tốt. Mặt trái của tính kết hợp này cũng tạo ra những hậu quả xấu như: Thói
hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh sống bằng quan hệ…
Năm là, tính linh hoạt. Biểu hiện của tính linh hoạt được thể hiện ở 2 phẩm
chất tốt: Khả năng thích nghi cao; Tính sáng tạo. Tính linh hoạt nhiều khi cũng dẫn
đến hậu quả xấu như: Thói tùy tiện, cẩu thả; Bệnh thiếu ý thức pháp luật…
Tổng hợp 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ta thấy phẩm chất, giá trị
cốt lõi tốt nhất là lòng yêu nước; tinh thần dân tộc; lòng nhân ái, thương người; tính
cộng đồng làng xã; tính tinh tế.
2. Tính truyền thống
1.2. Khái niệm
Văn hóa của mỗi dân tộc luôn là một dòng chảy không ngừng và ở đó, quan hệ
giữa truyền thống với hiện đại có vai trò rất quan trọng. Việc giải quyết hài hòa quan
hệ này sẽ vừa giúp xác định tính chất, diện mạo văn hóa của mỗi dân tộc, vừa góp
phần tạo ra động lực cho phát triển.
Tuy nhiên, giải quyết quan hệ giữa truyền thống và hiện đại như thế nào lại là
bài toán mà mỗi thời kỳ cần phải tìm ra lời giải. Bởi, trong tiến trình phát triển, tính
liên tục lịch sử của văn hóa luôn đặt ra những vấn đề mới mà mỗi dân tộc phải giải
quyết để phát triển nền văn hóa của mình. Đó cũng là cách tiếp cận của PGS, TS
Nguyễn Văn Dân trong bài viết dưới đây, khi lý giải một số vấn đề của thực trạng văn
hóa...
1.2.1. Phân tích
Trong tiến trình đổi mới, con người và văn hóa Việt Nam luôn có sự liên hệ với
cội nguồn truyền thống. Truyền thống là những kinh nghiệm đấu tranh sinh tồn của
một dân tộc đã được đúc kết thành các giá trị và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Truyền thống bao gồm tất cả các lĩnh vực của xã hội, nhưng tập trung nhiều nhất
trong lĩnh vực văn hóa. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn của một dân tộc, truyền thống
có ý nghĩa vô cùng to lớn. Vừa là nguồn sống vừa là nguồn sáng tạo của dân tộc. Vì
thế, truyền thống không phải là những vật trưng bày chết cứng trong viện bảo tàng,
mà nó luôn tồn tại trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai. Báo cáo phát triển con
người 2004 của UNDP cũng cho rằng, phải nhìn nhận truyền thống từ hiện tại và
tương lai thì chúng ta mới thực hiện thành công công cuộc phát triển. Đồng thời,
UNDP cũng khuyến cáo: "Việc bảo vệ truyền thống bằng mọi giá sẽ kéo lùi sự phát
triển con người" Có nghĩa là, xét từ góc độ hiện tại theo tinh thần lịch sử, không phải
mọi truyền thống đều có giá trị như nhau, không phải mọi truyền thống đều có tác
động tích cực phục vụ công cuộc phát triển. Vì thế, việc xác định giá trị truyền thống
tích cực là một vấn đề rất quan trọng.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng đã đúc kết ý kiến về các giá trị
truyền thống cơ bản của người Việt Nam để đưa ra một định nghĩa về bản sắc dân tộc
như sau: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc
còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo"

25
Những tác động tích cực của giá trị văn hóa truyền thống: Trước hết, cần khẳng
định rằng những giá trị truyền thống cơ bản đã nêu vẫn có ý nghĩa tác động tích cực
đến việc xây dựng con người mới và nền văn hóa đương đại của chúng ta. Lòng yêu
nước không chỉ thể hiện ở tinh thần giữ nước, mà nó còn hun đúc cho mọi người Việt
Nam tinh thần quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam giàu đẹp. Lòng tự cường dân
tộc đã tiếp cho người dân một sức mạnh để đưa đất nước nhập vào dòng chảy phát
triển của thế giới. Tính cần cù sáng tạo đã giúp con người và văn hóa Việt Nam đạt
được những tiến bộ rất quan trọng. Cần cù sáng tạo được thể hiện trong học tập,
nghiên cứu và trong lao động, sản xuất. Lòng khoan dung cũng là một giá trị truyền
thống quan trọng của dân tộc ta. Xưa ông cha ta có câu: "Đánh kẻ chạy đi, không ai
đánh người chạy lại". Nay Đảng ta có câu: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước". Cũng với tinh thần khoan dung, chúng ta đang xây dựng một nền văn hóa có
khả năng dung hợp các thành tựu tiến bộ của các nền văn hóa trên thế giới. Đức tính
giản dị cũng là một giá trị văn hóa truyền thống quan trọng của dân tộc, đã được Đảng
và Bác Hồ nâng lên thành phương châm sống của con người mới Việt Nam. Truyền
thống thương người như thể thương thân cũng đang tạo cho văn hóa Việt Nam một nét
đẹp riêng và có tác động không nhỏ đến sự phát triển con người và xã hội.
Những tác động tiêu cực của các hủ tục đến lối sống và văn hóa của người Việt
Nam hiện nay
Từ quan điểm lịch sử, không phải mọi truyền thống văn hóa đều có những giá
trị tích cực như nhau, thậm chí có những truyền thống ở thời kỳ này có giá trị tích cực,
nhưng ở giai đoạn khác lại có giá trị tiêu cực. Cũng có truyền thống khi được phát huy
theo quan điểm khoa học và tiến bộ thì sẽ đem lại giá trị tích cực, còn khi được khai
thác theo quan điểm phản khoa học và phản tiến bộ thì sẽ có tác động tiêu cực.
Ở nước ta hiện nay, trong lĩnh vực văn hóa tập tục, nhiều yếu tố lạc hậu, phản
tiến bộ đã được hạn chế. Tuy nhiên, trong thời đại của tự do văn hóa thì nhiều hủ tục
khác lại đang có cơ hội được phục hồi. Tục lệ cưới xin, ăn uống linh đình đang quay
trở lại với mức độ rầm rộ hơn xưa. Hủ tục về ma chay cũng vẫn còn tồn tại khá nặng
nề ở một số nơi.
Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, truyền thống "tôn sư trọng đạo" và hiếu học
của người phương Đông là một nét đẹp văn hóa. Tuy nhiên, truyền thống tôn sư trọng
đạo nhiều khi được hiểu một cách tuyệt đối hóa, dẫn đến cách truyền thụ kiến thức
theo kiểu thầy đọc, trò nghe, làm cho học sinh trở thành cái máy tiếp thu thụ động, hạn
chế óc tìm tòi sáng tạo của học sinh. Điều này hiện nay đang bị nhiều người lên tiếng
phê phán.
Trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo (không bàn tới hiện tượng lợi
dụng tự do tín ngưỡng - tôn giáo để đạt mục đích ở ngoài tín ngưỡng - tôn giáo) cũng
đang bị lợi dụng, làm cho nạn mê tín dị đoan tăng lên. Lễ hội tràn lan. Lễ hội cũ được
phục hồi, lễ hội mới được sáng tạo thêm. Đã có thống kê trong tháng giêng, cả nước
đã có tới một nghìn lễ hội, trong đó có 65 lễ hội cấp quốc gia, còn tính cả năm thì
nước ta có khoảng 9 nghìn lễ hội thuộc đủ các loại và các cấp(5). Lễ hội diễn ra ngày
này sang ngày khác, có lễ hội diễn ra hàng tháng trời, có lễ hội kéo dài cả mùa xuân...
Tình trạng trên có cả nguyên nhân bên trong lẫn nguyên nhân bên ngoài.
Nguyên nhân bên trong: 1. Tâm lý, tâm linh xa lánh cõi trần. Tất nhiên, tự thân
nguyên nhân này không mang tính tiêu cực. Chỉ khi nào bị lợi dụng và được kết hợp
với các nguyên nhân khác thì nó mới tạo ra tác động tiêu cực.
Trình độ dân trí chưa được cập nhật và nâng cao một cách có hệ thống. Chúng
ta chưa kế thừa đúng đắn truyền thống văn hóa.
Nguyên nhân bên ngoài: Chúng ta không thể không kể đến một nguyên nhân
bên ngoài rất quan trọng là tác động của toàn cầu hóa văn hóa dưới sự hậu thuẫn của
toàn cầu hóa kinh tế. Khía cạnh lợi ích kinh tế của một số lễ hội phương Tây do toàn
cầu hóa văn hóa đem lại hiện đang được khai thác triệt để ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong những ngày lễ, các nhà kinh doanh thực hiện một chiến dịch quảng cáo rầm rộ
để tiêu thụ các sản phẩm ăn theo. Còn các phương tiện truyền thông thì tuyên truyền a
dua thiếu chủ kiến, một kiểu tuyên truyền theo đuôi công chúng.
Rõ ràng, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khắc phục những hạn chế
của một số tập quán lạc hậu là một công việc có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát
triển trí tuệ con người và xây dựng nền văn hóa mới.
3. Tính biến đổi
Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận
động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự phát triển của xã hội
loài người. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu hóa cùng với sự tác động và
nảy sinh của các yếu tố bên ngoài và nội tại xã hội Việt Nam, sự xung đột về hệ giá trị
giữa văn hóa nông nghiệp - nông thôn truyền thống với văn hóa công nghiệp - đô thị
hiện đại vẫn tiếp diễn. Những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã và đang tập trung
nghiên cứu, đề xuất nhiều hướng đi, nhiều giải pháp phát triển văn hóa, con người
Việt Nam trong hiện tại và tương lai với mong muốn 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa

27
Việt Nam sẽ được bảo tồn và dịch chuyển theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Một
số đề tài đã được công bố, trong đó nổi bật là đề tài cấp Nhà nước “Hệ giá trị Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” thuộc chương
trình Khoa học và Công nghệ  trọng điểm KX-04/11-15 Nghiên cứu khoa học lý luận
chính trị giai đoạn 2011-2015 do GS,TSKH Trần Ngọc Thêm làm Chủ nhiệm. Trong
đề tài này, khi bàn về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tác giả đề xuất chuyển đổi đặc
trưng văn hóa Việt Nam đến năm 2030 theo hướng sau:
Đặc trưng 1: Tính cộng đồng làng xã nên chuyển thành tính cộng đồng xã hội.
Đặc trưng 2: Tính trọng âm chuyển sang tính nguyên tắc, kỹ luật.
Đặc trưng 3: Tính ưa hài hòa nên chuyển thành tính hài hòa thiên về dương
tính.
Đặc trưng 4: Tính kết hợp nên chuyển thành tác phong công nghiệp.
Đặc trưng 5: Tính linh hoạt nên chuyển thành tính linh hoạt trong nguyên tắc.
4. Tính kế thừa
4.1. Khái niệm
Kế thừa trong văn hoá là quá trình sử dụng di sản văn hoá quá khứ trên cơ sở
đó sáng tạo ra di sản văn hoá mới. Di sản văn hoá là những giá trị văn hoá mà loài
người đạt được trong thời kỳ đã qua, được khắc phục, tiếp thu một cách có phê phán,
được phát triển và được ứng dụng cho phù hợp với các nhiệm vụ, các điều kiện lịch sử
cụ thể của thời đại mới, phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của tiến bộ xã hội. Sự
kế thừa trong văn hoá được thực hiện nhờ ngôn ngữ.
4.2. Phân tích
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã
xác định văn hoá không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban
chấp hành TƯ Đảng khoá IX tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự
phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá trên các mặt sau : “Đảm bảo sự gắn kết giữa
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với
không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển
đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước” (Văn kiện Hội nghị TƯ 10  khoá IX).  Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X  tháng 4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định : “...Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát
triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiện vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của
xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh
doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng
phản văn hóa, phi văn hóa...”. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì
văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; vì vậy hai lĩnh vực kinh tế và văn hoá luôn
giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với sự vận động và phát triển của xã hội.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, phải hướng đến
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người được hạnh phúc và phát triển
toàn diện. Chính vì vậy, văn hoá đóng vai trò là mục tiêu cả trước mắt và lâu dài của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh sẽ không có
sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Văn hoá với tư cách là một di sản, là toàn bộ
sản phẩm vật chất, tinh thần mang giá trị lịch sử - văn hoá, khoa học, thẩm mỹ do con
người sáng tạo ra và được con người trao truyền, tái tạo trong quá trình lịch sử thích
ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn của chính con người, dân tộc, giai
cấp, nhân loại.
Kế thừa là tính quy luật chung của sự phát triển trong mối liên hệ tất yếu giữa
cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển của sự vật, biểu hiện trong sự thống nhất
giữa gián đoạn và liên tục trong sự vận động và phát triển của sự vật, là cái gạch nối
biện chứng giữa cái phủ định với cái bị phủ định.
Kế thừa trong sự phát triển văn hoá luôn luôn chịu sự tác động của con người,
gắn liền với hoạt động khám phá, sáng tạo của con người vì con người là chủ thể sáng
tạo và hưởng thụ mọi giá trị văn hoá. Kế thừa trong sự phát triển văn hoá còn chịu sự
chi phối của tính giai cấp, tính dân tộc và cả tính nhân loại. Cho nên trong quá trình kế
thừa, nó còn hàm chứa trong lòng sự kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại theo quy luật
giao lưu văn hoá.
Khuynh hướng phát triển chung của văn hoá bao giờ cũng là quá trình biện
chứng thống nhất giữa sự lọc bỏ và sự kế thừa, giữa cái phê phán và tiếp thu, giữa cái
gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc và sự giao lưu giữa các nền văn hoá. Trong đó kế thừa
là thuộc tính quan trọng nhất của văn hoá. Trong quá trình kế thừa thì truyền thống
đóng vai trò đặc biệt. Truyền thống là tính kế thừa có ý thức và được xã hội công nhận
trở thành chuẩn mực giá trị đạo đức, phong tục tập quán. Tính kế thừa trong sự phát
triển văn hoá không những gắn liền thái độ xã hội đối với truyền thống dân tộc mà còn

29
gắn liền với việc mở rộng giao lưu với bên ngoài để tiếp thu những tinh hoa văn hoá
của nhân loại.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là một trong hai nội dung cơ bản
nhất của sự kế thừa trong sự phát triển của văn hóa, bởi vì nếu không bảo tồn và phát
huy di sản văn hoá dân tộc thì văn hoá không tồn tại và phát triển đúng với bản chất
của nó. Di sản văn hoá vật thể và phi vật thể gắn kết với nhau tạo nên hệ thống các giá
trị, chuẩn mực xã hội và khẳng định bản sắc văn hoá riêng của một cộng đồng, một
dân tộc. Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là cả một quá trình lọc bỏ và tiếp
thu, giữ lại, duy trì lại, truyền lại trong kế thừa những giá trị văn hoá vật thể và phi vật
thể.
5. Tiếp xúc - giao lưu và tiếp biến văn hóa
- Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học
hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung,
tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hoá.
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức:
+ Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du
lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện.
+ Còn hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược
thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc gia
khác. Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này lắm khi không thuần nhất. Có khi
trong cái vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính cưỡng bức. Hoặc trong quá trình bị
cưỡng bức văn hoá, vẫn có những yếu tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.
2. Giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, văn hóa Việt Nam đã có những
cuộc tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa phương Đông và phương Tây bằng
những con đường và hình thức khác nhau. Cùng với sự hình thành các yếu tố văn hóa
bản địa, giao lưu và tiếp biến với văn hóa Đông - Tây đã trở thành động lực to lớn cho
sự biến đổi, phát triển và làm nên những sắc thái riêng của nền văn hóa Việt Nam.
a. Giao lưu và tiếp biến với văn hoá Đông Nam Á
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu với văn hoá Đông Nam á của người Việt cổ,
theo GS Hà Văn Tấn(1), diễn ra qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, trước nền văn
hoá Đông Sơn, và giai đoạn thứ hai là từ văn hoá Đông Sơn (thiên niên kỷ thứ I tr.CN)
trở đi đến thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ I tr.CN.
+ Giai đoạn thứ nhất, việc tiếp xúc và giao lưu văn hoá chủ yếu diễn ra giữa các
bộ lạc hay nhóm bộ lạc trong phạm vi đất nước ta. Lúc ấy văn hoá Việt Nam vẫn
mang các đặc trưng Đông Nam Á cả về vật chất cũng như tinh thần.
- Giai đoạn thứ hai, vào thời kỳ Đông Sơn- thời kỳ kết tinh tinh thần dân tộc,
kết tinh văn hoá. Không chỉ giữa các nền văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và
văn hoá Đồng Nai có sự trao đổi, tiếp xúc lẫn nhau, mà các nền văn hoá này đã có trao
đổi tiếp xúc khá mạnh mẽ với văn hoá Đông Nam Á. Chứng cứ là, người ta tìm thấy
khá nhiều trống đồng Đông Sơn ở Thái Lan, Ma Lai, Inđônêxia, và miền nam Trung
Quốc (thuộc khu vực văn hoá Đông Nam Á). Nhiều trống đồng có hoa văn, hình
người, hình chim tìm thấy ở Tấn Ninh (Nam Trung Quốc) mang phong cách Đông
Sơn. Rất nhiều rìu đồng đuôi én tìm thấy ở Inđônêxia được sản xuất theo phong cách
Đông Sơn (kiểu rìu làng Vạc- Nghệ An). Các đồ đồng này hoặc bằng con đường buôn
bán mà có mặt ở các nước trong khu vực, hoặc được chế tạo tại chỗ theo phong cách
Đông Sơn mà họ chịu ảnh hưởng.
b. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa
Giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao
lưu, tiếp biến liên tục qua nhiều thời kỳ của lịch sử. Trung Hoa là một trong những
trung tâm văn hóa lớn ở phương Đông, có nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ.
- Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nông nghiệp xuất phát từ nông nghiệp
trồng khô (trồng kê và lúa mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà. Do
nằm trên ngã ba đường của các luồng giao lưu kinh tế - văn hóa Đông - Tây, Nam -
Bắc trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên Âu - Á, nên văn hóa Trung Hoa vừa
mang những đặc điểm văn hóa du mục của các cư dân phương Bắc và Tây Bắc, vừa
thâu hóa nhiều tinh hoa của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các cư dân
phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn liền với
lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh phạt về mặt quân sự và truyền bá văn
hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây lưu vực sông Hoàng Hà theo hướng từ
Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Cùng với sự bành trướng về phương Nam của các
triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra quá trình Trung Hoa thâu hóa văn hóa
phương Nam, Hán hóa các nền văn hóa phương Nam. Vị trí địa lý và những diễn biến
của lịch sử đã tạo các điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc thường xuyên giữa văn hóa Việt
Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không thể phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn. Vấn đề đặt ra là trong cuộc tiếp xúc
không cân sức này, người Việt làm thế nào để văn hóa dân tộc vẫn tồn tại và phát
triển, vẫn khẳng định được bản sắc văn hóa của mình?

31
- Quá trình giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa
diễn ra với hai hình thức: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến
thế kỷ X và từ 1.407 đến 1.427. Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, các đế
chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hoá về phương diện văn hoá
nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Hoa.
+ Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ hai của quan
hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng
diễn ra giao lưu tự nhiên giữa tộc người Hán với cư dân Bách Việt. Nghiên cứu lịch
sử văn minh Trung Hoa người ta thấy có nhiều yếu tố văn hóa phương Nam đã được
người Hán tiếp nhận từ thời cổ đại, những yếu tố này nhập sâu vào văn hóa Hán, được
hệ thống hóa, nâng cao "chữ nghĩa hóa" rồi truyền bá trở lại phương Nam dưới dáng
vẻ mới.
- Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà nước quân chủ Đại Việt được mô phỏng theo
mô hình nhà nước phong kiến Trung Hoa. Nhà Lý, nhà Trần về tổ chức chính trị xã
hội lấy cơ chế Nho giáo làm gốc tuy vẫn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật giáo. Đến
Sự kết hợp các cặp đôi
Cặp đôi Lưỡng phân, Â-D
Trời - Đất Trời Đất Trời Người Đất
lưỡng hợp
Trời - Người

Đất - Người Người

nhà Lê đã hoàn toàn tự nguyện và chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc.
- Cũng cần nhận thức rõ rằng ngay cả trong giao lưu cưỡng bức, người Việt
luôn có ý thức chống lại sự đồng hóa về phương diện văn hóa, chuyển thế bị động
thành thế chủ động bằng cách bản địa hóa văn hóa Hán để tự làm giàu cho bản thân
mình mà không bị đồng hóa về phương diện văn hóa.
c.. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ
Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và
thế giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhiều bình diện
có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các
thương gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền bá, văn
hóa, tôn giáo.
- Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, không gian
văn hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên kỷ đầu Công
nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu thổ
Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến ba
vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
khá toàn diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la môn đến từ Ấn
Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở tất cả các mặt:
tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với việc truyền bá các thành
tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v..
- Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương quốc
Chăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Người Chăm đã tiếp nhận mô
hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và phát triển các
thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ để tạo dựng nên
nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn Độ, Đông Nam Á
và văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các lĩnh vực, đặc biệt là chữ
viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật
Giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ cần chú ý những
đặc điểm sau:
+ Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần
cơ bản là hỗn dung tôn giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với tín
ngưỡng bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các hiện
tượng tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn hóa bản địa,
người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một dòng Phật giáo dân
gian thờ Tứ Pháp hết sức đặc sắc .v.v..
+ Phật giáo Ấn Độ đến Giao Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn
là một hiện tượng văn hóa. Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Độ ảnh
hưởng đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ đạo, nghệ
thuật .v.v..Cũng hình thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ thuật có giá
trị: hệ thống chùa, tháp .v.v..
+ Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đối trọng
với ảnh hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn hoá của người
Việt.
d. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây đặc biệt ở nửa sau của thế kỷ
XIX đã tạo bước chuyển có tính chất bước ngoặt trong sự phát triển của văn hóa Việt
Nam.

33
- Giao lưu với văn hóa phương Tây đã từng diễn ra rất sớm trong lịch sử.
Nghiên cứu văn hóa khảo cổ, người ta thấy trong văn hóa Óc Eo có nhiều di vật của
các cư dân La Mã cổ đại, chứng tỏ đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi.
Thế kỷ XVI, các linh mục phương Tây đã vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay thuộc
tỉnh Nam Định) và chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng như các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, giao lưu
văn hóa toàn diện thực sự diễn ra khi Pháp xâm lược Việt Nam.
- Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền văn
hóa trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn hóa Việt Nam. Lần
đầu tiên trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương Tây giai đoạn
1858 - 1945 đã khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào vòng quay
của văn minh công nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi trên các
phương diện: Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một
tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất hiện của các
phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt Nam ...Thứ ba là sự xuất hiện của báo
chí, nhà xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ
mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa ...
Như vậy, với lối ứng xử thông minh, mềm dẻo, qua mỗi chặng đường thử
thách, văn hóa dân tộc lại trưởng thành và phát triển lên một bước mới. Cuộc hội nhập
lần thứ nhất, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán đã làm giàu cho văn hóa
Việt Nam, khiến cho dân tộc đủ mạnh, tạo cơ sở cho sự phát triển trong kỷ nguyên
Đại Việt. Hội nhập lần thứ hai, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã góp phần hiện
đại hóa văn hóa dân tộc trên mọi phương diện.
e. Giao lưu và tiếp biến trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập lần thứ ba, hướng tới mục tiêu
xây dựng một nền văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
- Những thuận lợi
+ Chúng ta có một quốc gia độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, từ Mục
Nam Quan đến mũi Cà Mau. GLTBVH trong thời đại ngày nay là hoàn toàn tự
nguyện.
+ Cả dân tộc là một khối thống nhất với một nền văn hoá đa dạng phong phú
+ Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có những bước phát triển đáng kể
trên tất cả các mặt, kinh tế, chính trị, khoa học, giáo dục, công nghệ.
+ Trình độ học vấn, nhận thức về văn hoá và vai trò của văn hoá của tất cả các
cấp lãnh đạo cũng như người dân được nâng cao, ý thức về quốc gia, lòng tự hào dân
tộc được khơi dậy mạnh mẽ, người dân được thoả sức sáng tạo và hưởng thụ những
giá trị văn hoá vật chất, tinh thần ở mọi khía cạnh.
+ Vị thế của đất nước được nâng cao, bình đẳng với tất cả các quốc gia trên thế
giới
+ Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII đã xác định rõ: Văn hoá vừa là nền tảng,
vừa là động lực phát triển xã hội.
+ Đảng ta chủ trương mở cửa giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đối với lĩnh
vực văn hóa vừa tiếp thu, học hỏi những tinh hoa văn hoá thế giới dưới mọi hình
thức, vừa kiên quyết chống văn hoá độc hại. Đồng thời ra sức gìn gữ và phát huy các
giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Những khó khăn
+ Việc tiếp thu những giá trị văn hoá tiên tiến của thế giới với mục đích: Đưa
nước ta ngày càng phát triển, nhất là hạ tầng cơ sở vật chất và khoa học công nghệ,
song một vấn đề lớn đặt ra và ngày càng trở lên gay gắt là sự mâu thuẫn giữa bảo tồn
và phát triển.
+ Tiếp thu khoa học công nghệ cũng đồng nghĩa với việc tiếp thu lối sống, tác
phong công nghiệp => nếp nghĩ, lối sống, đến cả không gian thôn dã của một nền văn
hoá nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.
+ Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với các giá
trị đạo đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nhập vào đời sống văn hoá
của nhân dân ta.
+ Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo lối sống
hưởng thụ, trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm màu thương
mại, tiếp thu văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận các giá trị truyền thống.
+ Một số cấp lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò
của văn hoá đối với đời sống xã hội
+ Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhiều phương diện:
+ Giao lưu TBVH trong thời đại tin học, kinh tế tri thức=> GLTBVH trở lên đa
dang và phức tạp cả về nội dung, loại hình lẫn phương thức
+ Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách chống phá
chúng ta về mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá, nhằm từng bước
chuyển hoá về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của nhân dân ta.

35
Chương 4: Cơ cấu của hệ thống văn hóa
(Thời gian: 3 giờ)

1. Văn hóa nhận thức (về thế giới, về con người)


1.1. Nhận thức vê vũ trụ

VHNT truyền thống Việt Nam cũng nằm trong một chỉnh thể và có mối
quan hệ quy định lẫn nhau theo từng cặp âm dương.

Nhận thức về vũ trụ Nhận thức về con người

Nhận thức không Nhận thức về thời Con người tự Con người xã
gian gian nhiên hội

Nhận thức về vũ trụ

Triết lý âm - dương

Nguốn gốc Bản chất, Hai quy luật Hai hướng phát triển
khái niệm của triết lý Â - D

Triết lý âm - dương và tính


cách người Việt
Nhận thức về cấu trúc không gian văn hóa

Triết lý về cấu trúc KGVH: Tam tài


và ngũ hành

Cấu trúc sơ lược về không Cấu trúc chi tiết về


gian văn hóa: Tam tài KGVH: ngũ hành

Nguồn gốc ÂD trong Phương Tư duy


KGVT với người dân nông
nông các thành vị trong trong số lẻ-
nghiệpVN được xác định bằng
nghiệp tố của ngũ > tư duy
tọa độ: Trời - con người - Đất
phương ngũ hành hành tổng hợp
(đầu đội trời chân đạp đất)
Nam của biện chứng
Biến thể Trời – Đất – Nước Ngũ hành trong NH
Cơ chế hoạt động ngũ hàng
Tương sinh Tương khắc

Nhận thức về cấu trúc thời gian


Triết lý về cấu trúc TGVT

Lịch Âm - Dương Hệ đếm can chi

Nguồn gốc:ĐNA; Lịch A-D Cách tính: Cơ sở hình thành: Ứng dụng
= chuyển động mặt trăng + Định ngày: Mặt trời Ngũ hành x 2
CĐ mặt trời Định tháng: MT

1.1.2. Nhận thức về con người


Nhận thức về con người

Con người tự nhiên Con người xã hội

Vũ trụ - Âm dương, Ngụ Vũ trụ -> AD, Ngũ hành, con


hành - AD, NH người -> AD, NH

Giải mã A- D, Ngũ hành Giải mã A - D, NH -> Mô hình


Trong cơ thể con người số phận con người

Đông y: - Bắt bệnh Thuyết tử vi như một KH dự


- Chữa bệnh báo xác suất

37
Mối quan hệ bản chất của hệ thống VHNT Việt Nam được thể hiện qua con
đường phát triển từ Âm - dương - Tam tài - Ngũ hành; từ nhận thức về vũ trụ - nhận
thức về con người. Quan hệ đồng nhất - đối lập chính là cách thức cơ bản của con
đường phát triển của ba khái niệm cũng là ba triết lý nhận thức từ bản chất vũ trụ đến
không gian vũ trụ, từ đơn giản đến phức tạp này con đường đồng nhất Âm - dương là
cũng là con đường hình thành nhận thức hông gian với người dân nông nghiệp.
2. Văn hóa vật chất (sản xuất vật chất và đời sống vật chất)
2.1. Văn hóa sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Đó là quá trình sáng tạo với mục đích nhất định và được thực hiện thông qua lao động.
Lao động sản xuất vật chất xét về lịch sử là nguồn gốc hình thành con người và
xã hội loài người. Con người và xã hội loài người được hình thành trong quá trình
phát triển và chuyển hóa lâu dài của tự nhiên từ giới vô sinh đến hữu sinh, từ động vật
đến loài người. Từ một loài động vật cao đẳng là vượn người, qua quá trình biến đổi
lâu dài thông qua lao động sản xuất vượn người trở thành loài người. Ph. Angghen
viết: "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như
thế đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói rằng: lao động đã sáng
tạo ra bản thân con người"
+ Phương thức sản xuất: - Nông nghiệp lúa nước (tự túc tự cấp).
Các nghề thủ công (sản xuất nông cụ và đồ dùng hàng ngày): nghề rèn,
nghề gốm sứ, dệt vải, làm đồ gỗ, kim hoàn…  hình thành những làng nghề với các
sản phẩm nổi tiếng
Kinh đô Thăng Long phát triển thành trung tâm buôn bán sầm uất với 36 phố
phường chuyên doanh các mặt hàng thủ công (Thăng Long Kẻ chợ).
Các di sản văn hóa vật thể: - Kiến trúc kinh thành, lăng tẩm, đình, chùa… 

2.2. Văn hóa đời sống vật chất


2.2.1. Ẩm thực
+ Cơ cấu bữa ăn: CƠM - RAU – CÁ là tính chất sông nước và thực vật  là Tận
dụng tự nhiên - Lương thực chính trong bữa ăn là cơm.
- Từ gạo, nếp à cháo, phở, bún, miến, bánh đa, bánh cuốn, bánh chưng, bánh
dầy… - Rau (dưa, cà) là thực vật - Cá và các loại thủy - hải sản là sông nước
+ Đồ uống:  - Nước uống thông dụng là nước chè xanh, chè trà.
+ Tính tổng hợp: - Trong cách chế biến thức ăn  - Trong cách ăn.
+ Tính linh hoạt: - Ăn uống theo mùa, theo vùng miền.- Ăn uống để điều hòa,
cân bằng giữa cơ thể với môi trường. - Dụng cụ ăn
+ Tính cộng đồng:  - Bữa ăn của người Việt là ăn chung gia đình, bạn bè.  -
Trong bữa ăn người Việt thích trò chuyện.
+ Tính mực thước, lễ nghi:- Ý tứ, nhường nhịn - Coi trọng lễ nghi 
2.2.2. Phục sức
- Trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo cánh, khăn chít đầu, thắt lưng.: - Trong
các dịp lễ hội,  phụ nữ mặc áo dài  hoặc áo “mớ bảy  mớ ba”.
- Trang phục  nam giới thường ngày:  áo cánh, quần lá tọa. - Trang phục lễ tết,
lễ hội: quần ống sớ, áo dài the đen.
Đặc điểm văn hóa trang phục:
- Chất liệu may mặc: tận dụng các chất liệu tự nhiên (tơ tằm, tơ chuối, sợi
bông, đay, gai...).
- Coi trọng tính bền chắc
- Ưa các gam màu tối: nâu, đen phù hợp với công việc lao động “chân lấm tay
bùn”. Chất liệu và màu sắc: tận dụng và thích nghi với tự nhiên
- Thích trang phục kín đáo, giản dị , - Có ý thức về việc làm đẹp
2.2.3. Cư trú và đi lại
Cư trú
Tận dụng và thích nghi với tự nhiên:
Dấu ấn của xứ sở thực vật: Vật liệu làm nhà: tận dụng các loại vật liệu tự nhiên
như gỗ, tre, nứa, rơm rạ, lá cọ, lá mía, ngói. Nhà ở thân thiệnvới môi trường: cây xanh
bao bọc, chở che.
Dấu ấn sông nước: Thích làm nhà gần sông, suối, ven kênh rạch, Nhà sàn, Nhà
mái cong hình thuyền, Dùng thuyền làm nhà ở
Ứng xử với xã hội: Kiến trúc nhà ở của người Việt mang tính cộng
đồng, không gian mở . Ngôi nhà truyền thống của người Việt phản ánh lối sống, cách

39
tư duy, ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, là sự thẩm thấu trong đó tâm hồn
người Việt.
- Văn hóa đi lại:
- Giao thông đường thủy chiếm ưu thế ; - Giao thông đường bộ kém phát
triển, Dấu ấn sông nước đã chi phối các hoạt động vật chất à Thẩm thấu vào chiều sâu
tâm thức, tư duy, trong cách nghĩ, cách nói của người Việt.
Các hoạt động vật chất của con người bao gồm: sản xuất vật chất, ăn, mặc, ở, đi
lại, trước hết là để đáp ứng nhu cầu tồn tại, nhưng qua đó cũng thể hiện sự ứng xử của
con người với môi trường tự nhiên và xã hội  à đặc trưng văn hóa.
2.2.4. Văn hóa tổ chức xã hội
Trong xã hội phong kiến thời Đại Việt, các đơn vị tổ chức cộng đồng chủ yếu
bao gồm:  Gia đình - Làng xã - Quốc gia-  Đô thị.
+ Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống : - Gia đình; - Gia tộc
Đặc điểm gia đình Việt Nam truyền thống: - Sự chi phối của lối sống nông
nghiệp; - Sự chi phối của tư tưởng Nho giáo
Sự chi phối của văn hóa nông nghiệp:
Tính cộng đồng:  Gia đình gồm nhiều thế hệ cùng chung sống (tam đại, tứ đại
đồng đường)  các thành viên gắn bó, phụ thuộc nhau: Trẻ cậy cha, già cậy con…Con
dại cái mang
Sự chi phối của quan niệm Nho giáo: Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền;
Chế độ gia đình đa thê; Coi trọng tôn ti, thứ bậc, lễ giáo; à Tư tưởng trọng nam khinh
nữ (nam tôn nữ ti).
Gia tộc Việt Nam truyền thống: - Nhiều gia đình trong một dòng họ tập hợp,
liên kết thành một gia tộc.; - Sống quần tụ trong một làng; - Gắn kết với nhau bởi
nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên; - Là chỗ dựa cho các gia đình về vật chất và tinh thần.
+ Văn hóa làng Việt truyền thống: Do lối sống định cư, làng là cộng đồng có
vai trò nòng cốt, làm nền tảng cho tổ chức xã hội Việt Nam (bản làng, buôn làng,
thôn, ấp, phum, sóc).
Đặc trưng văn hóa làng. Tính cộng đồng trong văn hóa làng
cơ sở hình thành tính cộng đồng
-Phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước: Cuộc sống định cư quan hệ huyết
thống, láng giềng; Tính chất thời vụ nông nghiệp : à cần sự tương trợ trong LĐSX
-Điều kiện tự nhiên & xã hội đặc biệt: Thiên tai; Địch họa; => Phải đoàn kết để
tạo nên sức mạnh
BIỂU HIỆN TÍNH CỘNG ĐỒNG TRONG VĂN HÓA LÀNG
Nếp sống: gắn bó, sẻ chia, đùm bọc
Tín ngưỡng: thờ chung vị Thành Hoàng làng
Phong tục , lễ hội: hôn nhân, hội hè, đình đám
Tác động của tính cộng đồng đến lối sống, tư duy và ứng xử của người
Việt xưa và nay:
Tích cực: Tinh thần đoàn kết tương trợ, {Tay đứt ruột xót , Môi hở răng
lạnh , Chị ngã em nâng, Lá lành đùm lá rách}
 Ứng xử trọng tình
Tiêu cực: Tư tưởng bè phái, bao che, “chủ nghĩa thân quen” {Tát nước theo
mưa, Rút dây động rừng..}
Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại; Ứng xử cào bằng, kìm hãm vai trò cá nhân
Tính tự trị: - Cơ sỡ hình thành tính tự trị:
Phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước:  =>  Sống định cư, không thích sự
di chuyển, đổi thay.
Phương thức sản xuất nông nghiệp tiểu nông:  Mỗi làng là một đơn vị kinh tế
độc lập, tự cung tự cấp, hướng nội, khép kín
Về không gian địa lý :  Mỗi làng sống quần tụ trong một không gian khép kín
Về tình cảm: Các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hang, Giao lưu tình
cảm khép kín trong phạm vi làng
Về tổ chức hành chính : Làng có chức năng  tự quản: - Luật pháp - Lập pháp -
Hành pháp
Hương ước – tập tục – lệ làng: là luật pháp của mỗi làng, được cụ thể hóa, gắn
liền với phong tục tập quán và ăn sâu vào tâm thức cư dân trong làng tồn tại song song
với luật pháp nhà nước nhưng có hiệu lực hơn{ Phép vua thua lệ làng} ràng buộc các
thành viên trong làng vào một nề nếp, khuôn phép, tạo thành nếp sống chung ổn định
của mỗi làng.
=>Mỗi làng tồn tại như một “vương quốc” nhỏ khép kín,  độc lập với làng khác
và tự chủ trong quan hệ với  quốc gia => Tự Trị
Tác động của tính tự trị đến lối sống, tư duy và tính cách của người Việt xưa và
nay:
Tích cực:Tinh thần độc lập, tự chủ
Tiêu cực: Tư tưởng địa phương cục bộ (Phép vua thua lệ làng, Nhập gia tùy
tục) Lối sống khép kín, bảo thủ (Đóng cửa bảo nhau)

41
+ Trên nền tảng của phương thức sản xuất  nông nghiệp tiểu nông đã hình
thành hai đặc trưng cơ bản của văn hóa làng: tính cộng đồng và tính tự trị
+ Văn hóa tổ chức quốc gia  - Quốc gia - Đất nước đối với người Việt là một
khái niệm gắn bó thiêng liêng; - Là cộng đồng xã hội quan trọng thứ hai sau làng.
Tổ chức nhà nước phong kiến Đại Việt : - Tổ chức theo mô hình nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền; - Nhà nước phong kiến Đại Việt quản lí xã hội bằng
luật pháp;
+ Các bộ luật thời phong kiến Đại Việt: Năm 1042 (nhà Lý): Luật hình
thư;  Năm 1244 (nhà Trần): Quốc triều hình luật ;  Năm 1483 (Lê Thánh Tông): Luật
Hồng Đức;  Năm 1815 (nhà Nguyễn): Luật Gia Long
Từ khi có bộ luật chính thống, các quan hệ xã hội bị khuôn vào thiết chế của
nhà nước phong kiến. Pháp luật thời phong kiến bị chi phối bởi các đặc trưng văn hóa
truyền thống:
+ Sự chi phối của văn hóa nông nghiệp:
- Tính cộng đồng: chịu trách nhiệm hình sự liên đới (quan hệ huyết thống, hôn
nhân, láng giềng).à Người dân trong xã hội phong kiến không được pháp luật công
nhận với tư cách cá nhân, mà họ bị hòa tan trong cái chung của cộng đồng họ mạc,
làng xã.
- Tính tự trị: Luật tục của làng có hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước (Phép
vua thua lệ làng) à hình thành thói quen hành xử không tôn trọng pháp luật.
+ Sự chi phối của Nho giáo: Tam cương, Ngũ thường vừa là đạo lý và cũng là
pháp lý: - Tội bất trung bị xử nặng nhất
-  Quốc triều hình luật qui định nghĩa vụ của con cái:  Không được kiện cha mẹ
(điều 511);  Phải che giấu tội của cha mẹ (điều 504);  Chịu thay hình phạt cho cha mẹ
(điều 38)…
Ý thức về quốc gia – dân tộc của người Việt: Ý thức về quốc gia – dân tộc của
người Việt thể hiện ở hai tư tưởng nổi bật: Lòng yêu nước, ý thức độc lập dân tộc và
Tinh thần đoàn kết cộng đồng
Do điều kiện tự nhiên và lịch sử đặc biệt:  Ranh giới quốc gia khá biệt lập,
Thiên tai,  Liên tục phải chiến đấu chống giặc ngoại xâm à lòng yêu nước, ý thức về
độc lập chủ quyền  à tinh thần đoàn kết dân tộc.àĐó là các giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc ta, đã được tích tụ, hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử à trở thành
đạo lý sống của người Việt à là nhân tố cơ bản đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Các giá trị tinh thần truyền thống ấy thực chất là
sự mở rộng các đặc trưng văn hóa làng ở cấp độ quốc gia.
Tính tự trị làng xã à ý thức về độc lập, chủ quyền quốc gia:
Ở cấp độ làng: Trống làng nào làng ấy đánh…,
Ở cấp độ quốc gia:  Sông núi nước Nam vua Nam ở… (Lý Thường Kiệt)
 Như nước Đại Việt ta từ trước… (Nguyễn Trãi)
Tính cộng đồng làng xã tinh thần đoàn kết dân tộc:
 Ở cấp độ làng: Chị ngã em nâng; Lá lành đùm lá rách; Một con ngựa đau cả
tàu bỏ cỏ...
Ở cấp độ quốc gia: Nhiễu điều phủ lấy giá gương…; Bầu ơi thương lấy bí
cùng…
Quan hệ nhà -  làng - nước.  Đối với người Việt, Quốc gia - Đất nước gắn bó
thân thương, gần gũi như là một ngôi làng lớn (đất nước là sự mở rộng của làng - là
một “siêu làng”).
+ Văn hóa đô thị Việt Nam thời phong kiến: - Đô thị không phát triển: - Bị chi
phối bởi nông thôn
+ Hệ giá trị của văn hóa truyền thống Việt Nam:  Là những đặc trưng văn hóa
tiêu biểu Có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng,  Đã được đánh giá, chọn lọc qua
trường kì  lịch sử  Làm nên cốt lõi của sức sống dân tộc à Chi phối đến lối sống và
cách ứng xử của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng.
2.2.5. Văn hóa giao tiếp xã hội
Văn hóa giao tiếp của người Việt bị chi phối bởi; - Lối sống nông nghiệp trồng
trọt; - Quan niệm Nho giáo        
Dấu ấn nông nghiệp trồng trọt:
+ Tính cộng đồng: - Coi trọng việc giao tiếp (Lời chào cao hơn mâm cỗ).; -
Thói quen tìm hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp.
+ Ứng xử trọng tình: - Đặt tình cao hơn lý: {Một bồ cái lý không bằng một tí
cái tình…Yêu nhau chín bỏ làm mười…}
- Giữ ý, nhường nhịn, cả nể: Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau.; Học ăn học nói, học gói học mở. Một sự nhịn, chín sự lành…   
- Thái độ đắn đo, cân nhắc, thiếu tính quyết đoán trong trong giao tiếp (thích
nói vòng vo, đưa đẩy, bóng gió):
Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo…
Dấu ấn Nho giáo:- Trọng danh dự hơn giá trị vật chất:{Tốt danh hơn lành
áo….Đói cho sạch, rách cho thơm…Giấy rách phải giữ lấy lề….Trâu chết để da,
người ta chết để tiếng…

43
- Coi trọng thứ bậc sĩ diện:  Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh
hùng mà thôi. Đem chuông đi đánh nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy
danh.; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp,…Tốt khoe, xấu che
- Tâm lý sợ dư luận, tai tiếng: Trăm năm bia đá thì mòn …;  Nghìn năm bia
miệng hãy còn trơ trơ… dư luận trở thành một thứ vũ khí có uy lực để ràng buộc cá
nhân với cộng đồng, duy trì sự ổn định của làng xã.
2.2.6. Văn hóa tinh thần
2.2.5.1. Văn hóa tâm linh
Sự dung hòa giữa các hệ tư tưởng và tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo,
tam giáo đồng nguyên       
Phật giáo: Giai đoạn đầu của thời Đại Việt, Phật giáo phát triển mạnh và đạt
tới cực thịnh vào thời Lý – Trần (XI-XIII)    là quốc giáo.
- Từ TK XV, Nho giáo là quốc giáo:
- Tư tưởng, giáo lý Phật giáo đã lan tỏa và thấm sâu vào triết lý sống của dân
tộc, với sự hiện diện của hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước từ Bắc chí
Nam.
+ Đặc điểm của Phật giáo trong văn hóa truyền thống Việt Nam: Tính nhập
thế ,  Tính tổng hợp
Tính nhập thế: Phật giáo luôn đồng hành với cuộc sống của chúng sinh bằng
những việc làm thiết thực: - Coi trọng tu tại gia – Phật tại tâm ,: - tích cực Tham gia
các hoạt động xã hội.
Tính tổng hợp: Phật giáo Việt Nam dung hợp với các tín ngưỡng dân gian bản
địa: - Dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên; - Dung hợp với tín ngưỡng thờ
Mẫu  - Dung hợp với các tín ngưỡng thờ thần, thánh, Thành Hoàng, thờ các anh hùng
dân tộc…
+ Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác: - Đạo Cao Đài (1926): Phật +
Nho + Lão + Thiên Chúa giáo; - Đạo Hòa Hảo (1939): Phật giáo Tịnh Độ tông + Đạo
Ông bà :
Đến nay, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi
nhất ở Việt Nam: Mái chùa che chở hồn dân tộc; Nếp sống ngàn năm của tổ tiên
 Phật giáo ảnh hưởng đến lối sống của người Việt:
+ Tích cực: - Coi trọng tu nhân tích đức vì sợ nhân quả, nghiệp báo.;
- Đề cao tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha.
+ Tiêu cực: -  Thủ tiêu bản ngã và khát vọng cá nhân.;
-  Coi trọng an phận, nhẫn nhục, dĩ hòa vi quí. àtriệt tiêu tinh thần
phản kháng.
Nho giáo trong cấu trúc văn hóa truyền thống Việt Nam :
Sự tiếp nhận và vâ ̣n dụng Nho giáo một cách linh hoạt:- Tư tưởng trung quân,;-
Khái niệm nhân, nghĩa; Tư tưởng trọng nam khinh nữ
Vai trò của Nho giáo trong văn hóa truyền thống: Trong suốt chiều dài lịch sử
của xã hội phong kiến, Nho giáo đã chi phối sâu sắc và toàn diện đời sống văn hóa -
tinh thần của xã hội Việt Nam.à Bầu khí quyển văn hóa Nho giáo.
Nho giáo đã chi phối các lĩnh vực:
+ Xây dựng chuẩn mực đạo đức xã hội: (Tam cương, ngũ thường, thuyết
Chính danh)
+ Làm nền tảng để tổ chức, quản lý, duy trì sự ổn định của đời sống cộng
đồng: (từ trong gia đình đến ngoài xã hội).
à Ưu điểm: tạo nên một nền tảng xã hội trọng đạo đức, trọng lễ nghĩa, có tôn ti
thứ bậc.
Hạn chế: trói buộc con người trong tư tưởng về nghĩa vụ, bổn phận, kìm hãm
sự phát triển ý thức về quyền cá nhân và tinh thần phản kháng à bảo thủ, trì trệ.
Đạo giáo:
- Đạo giáo triết học (Đạo gia):  - Là một hệ thống quan niệm triết học về vũ trụ
quan của người Trung Hoa cổ đại do Lão Tử và Trang Tử sáng lập (Đạo Lão –
Trang).
- Khái niệm trung tâm của Đạo gia: Đạo.  à Đạo được hiểu như một qui luật vô
hình của vũ trụ, xuyên suốt, chi phối vạn vật.
- Đạo giáo phù thủy:  Là một hỗn hợp nhiều luồng tín ngưỡng và ma thuật:
- Đạo giáo thần tiên:  Là môn phái đạo giáo có tính chất quí tộc. Những người
theo môn phái này được gọi là các Đạo sĩ, sống thoát tục, lên núi tu luyện phép thuật.
Khi tu đắc đạo à thành Tiên, Thánh.
 Trong nền tảng tư tưởng của văn hóa truyền thống VN, Đạo giáo không phát
triển thành một dòng tư tưởng độc lập, mà kết hợp với tư tưởng Nho giáo, thái độ ứng
xử của tầng lớp trí thức Nho học.
Ba luồng tư tưởng: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo không bài xích nhau mà có
sự dung hợp, hòa đồng
Tam giáo đồng nguyên (đồng qui): vì mục đích nhân văn, vì cuộc sống hòa
mục, hạnh phúc cho con người (Nho trị thế, Phật trị tâm, Lão trị thân).

45
Tín ngưỡng : - Tín ngưỡng phồn thực; - Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng; - Tín
ngưỡng thờ Mẫu (sùng bái tự nhiên) - Tín ngưỡng thờ Tứ Bất tử; - Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên; - Tín ngưỡng thờ Thổ Công (Gia Thần)
Phong tục:   - Phong tục hôn nhân; - Phong tục tang ma; - Phong tục trong lễ
tết, lễ hội.
2.2.6.2. Văn hóa tri thức
Ngôn ngữ : - Trong di sản văn hóa truyền thống tồn tại cả hai loại chữ viết: chữ
Hán và chữ Nôm; - Từ thời Lê trở đi (TK XIV – XV), chữ Nôm đã được dùng phổ
biến trong đời sống và trong sáng tác văn chương.
Giáo dục và khoa học :
a. Giáo dục, thi cử: - Các triều đại phong kiến rất quan tâm đến việc học hành
và thi cử.
- Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) cho xây dựng Văn Miếu.
- Năm 1075 vua Lý Nhân Tông (1066 – 1127) mở khoa thi đầu tiên để chọn lựa
nhân tài, lịch sử của nền giáo dục Việt Nam bắt đầu từ đây.
- Năm 1076 vua Lý Nhân Tông cho xây Quốc Tử Giám - trường đại học đầu
tiên của nước Đại Việt để đào tạo con em quan lại, quí tộc.
- Đến TK XV (thời Lê), các trường tư được mở ở làng  đối tượng được đi
học và đi thi được mở rộng cho tầng lớp bình dân. 
- Đặc điểm của giáo dục Nho giáo:
- Mục đích giáo dục: đào tạo người quân tử :  làm quan “trị nước chăn dân”.
 Đề cao vinh quang của người đỗ đạt (tục xướng danh, ban áo mão và đãi yến tiệc,
vinh qui bái tổ, khắc bia tiến sĩ).
Nội dung giáo dục: Không coi trọng truyền thụ tri thức khoa học mà chủ yếu là
giáo dục tư tưởng, đạo đức, lễ nghĩa, các phép ứng xử.
Các sách giáo khoa của Nho giáo:
+ Tứ thư: - Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử ; - Đại học: dạy phép làm
người để trở thành người quân tử ; - Trung dung: dạy cách sống dung hòa, không thiên
lệch; - Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử
+ Ngũ kinh: - Kinh thi: thơ ca dân gian TQ; - Kinh thư: truyền thuyết, lịch sử
TQ; - Kinh lễ: ghi chép các nghi lễ; - Kinh dịch: tư tưởng triết học cổ TQ; - Kinh xuân
thu: ghi chép các sự kiện xảy  ra ở nước Lỗ (quê hương Khổng Tử).
- Phương pháp truyền thụ tri thức: Coi trọng việc ghi nhớ máy móc các tư
tưởng của thánh hiền; thầy đọc trò chép, học thuộc lòng.
2.2.6.3. Văn hóa nghệ thuật
Các loại hình nghệ thuật truyền thống: - Văn chương; - Hội họa; - Điêu khắc; -
Sân khấu dân gian; - Âm nhạc: các làn điệu dân ca
Văn chương truyền thống Việt Nam:
Đặc điểm: - Hai dòng văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm cùng song song
phát triển.
 Nghệ thuật sân khấu truyền thống:  - Chèo, múa rối nước: Bắc bộ; - Tuồng:
Trung bộ; - Cải lương: Nam bộ.
Ngoài ra còn có các làn điệu dân ca truyền thống đặc trưng của mỗi vùng miền.
Đặc điểm của nghệ thuật truyền thống:- Tính tổng hợp; - Tính biểu cảm:à dấu
ấn văn hóa nông nghiệp trồng trọt
Tính tổng hợp: + Nghệ thuật sân khấu: - Tổng hợp các loại hình ca – múa –
nhạc; - Không có sự phân chia các thể loại bi / hài à tạo cảm xúc thẩm mỹ tổng hợp
cho người xem (chèo Quan Âm Thị Kính…).
+ Âm nhạc:  Đàn bầu chỉ có một dây nhưng có thể phát ra đủ mọi âm thanh với
cao độ, trường độ như ý muốn.
Tính biểu cảm:
+ Âm nhạc: - Đề tài: tình yêu quê hương, đôi lứa…; - Giai điệu: trữ tình, sâu
lắng, tốc độ chậm, âm sắc trầm, chú trọng luyến láy..à đàn bầu rất thích hợp để thể
hiện tâm trạng, cảm xúc trầm buồn, sâu lắng.
- Vũ kịch Việt Nam thường gắn với những động tác tay mềm dẻo, uyển
chuyển, biểu cảm bằng ánh mắt và các động tác cơ thể.

47
Chương 5: Tiếp cận văn hóa Việt Nam
(Thời gian: 4 giờ)
1. Điều kiện hình thành văn hóa Việt Nam
1.1 Khái niềm tiếp cận

Vấn đề văn hóa hiện nay trở thành trung tâm và sự chú ý của giới nghiên cứu
trên thế giới. Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề văn hóa được tập trung đề
cập. Mặc dù từng góc độ, từng phương diện và cách tiếp cận khác nhau nhưng những
nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng văn hóa là một cái gì đó nó giúp cho con người
“không bị đứt đoạn với quá khứ”, “không bị hẫng hụt trước tương lai”. Ở góc độ đánh
giá một cách tổng thể, đến nay “văn hóa” vẫn là một khái niệm phức tạp và khó xác
định. Nói một góc độ nào đó, văn hóa là một khái niệm phản ánh tổng thể sự thể hiện
và sự phát huy những năng lực bản chất của con  người trong tất cả các dạng tồn tại
hoạt động của con người và là sự phản ánh tổng thể các hệ thống giá trị do con người
sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn - lịch sử - xã hội của mình.
Với ánh sáng văn hóa của Chủ nghĩa Mác-Lênin và sự kết tinh văn hóa hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam, sự chắt lọc tinh hoa nhân loại kết hợp với những hoạt
động thực tiễn phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đưa ra một quan niệm về văn
hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Từ quan niệm trên, chúng ta thấy văn hóa có nhiều quan điểm tiếp cận khác
nhau. Về quan điểm hệ thống, văn hóa là một hệ thống những phát minh do con người
sáng tạo ra trong quá trình lao động và tác động chi phối đến các mặt của đời sống xã
hội. Về quan điểm phát triển, văn hóa là tổng hòa các phương thức sinh hoạt vật chất
và tinh thần của con người, cùng với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con
người ngày càng hoàn thiện hơn. Trong quá trình lao động sản xuất vật chất và sản
xuất tinh thần, văn hóa là thể hiện trình độ của con người, của mỗi một con người. Và
do đó, phát triển văn hóa cũng chính là phát triển con người. Về quan điểm toàn diện,
văn hóa là một kiến trúc thượng tầng mà trong đó bao gồm cả ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, tôn giáo,… và các công trình kiến trúc được tạo ra do hoạt động thực
tiễn của con người. Văn hóa còn mang tính khoa học, bởi vì nội hàm văn hóa không
quá rộng, cũng không quá hẹp, nó phù hợp với mọi điều kiện cuộc sống xã hội trong
quá trình phát triển của con người. Bản chất văn hóa hướng đến chủ nghĩa nhân văn
cao cả, văn hóa cũng được hiểu là đồng nghĩa với những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Đó
chính là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người.
Như vậy nói đến văn hóa là nói đến con người, nói đến việc phát huy những
năng lực bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do
đó, văn hóa hàm chứa trong đó tính chất nhân văn cao, nó hình thành những chuẩn
mực đánh giá các giá trị văn hóa, như là chuẩn mực để đánh giá các thành tựu của sự
phát triển, như là cái khung cơ bản, phổ biến trong các bậc thang giá trị của xã hội.
Xét về chức năng, văn hóa có chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng
thẩm mỹ, chức năng dự báo, chức năng hành lang an toàn,… Có thể còn nhiều cách
tiếp cận khác nhau, các tên gọi khác nhau về chức năng của văn hóa, nhưng xuất phát
từ cơ sở lý luận của văn hóa chúng ta có thể nêu lên luận điểm có tính chất khái quát
về chức năng của văn hóa, đó chính là, văn hóa nhằm tạo ra được những khả năng,
những điều kiện và môi trường tối ưu nhất, phù hợp nhất cho sự  bộc lộ và phát huy
những năng lực bản chất con người, làm cho con người trở thành tốt hơn, đẹp hơn,
hoàn thiện hơn trong mỗi giai đoạn lịch sử của mình.

1.2. Tính đặc thù


Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển
hình.
-Người Việt thích cuộc sống định cư ổn định, không thích sự di chuyển, đổi
thay, gắn bó với quê hương, xứ sở ( An cư lạc nghiệp). Bảo thủ, tự trị, hướng nội:
( Ta về ta tắm ao ta…)
Cư dân nông nghiệp Việt Nam rất sùng bái tự nhiên:  Cầu mong mưa thuận gió
hòa để có  cuộc sống no đủ (lạy Trời, ơn Trời…) Có nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái
tự nhiên
Cuộc sống định cư tạo cho người Việt tính gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai
trò cá nhân: Một cây làm chẳng nên non…; - Xấu đều hơn tốt lỏi; - Thà chết một đống
còn hơn sống một người…
Lối sống trọng tình nghĩa, ứng xử hiếu hòa, nhân ái, không thích dùng sức
mạnh, bạo lực:
- Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; - Dĩ hòa vi quí; - Một sự nhịn chín
sự lành; - Lời nói chẳng mất tiền mua…; - Yêu nhau chín bỏ làm mười…

49
Tư duy tổng hợp - biện chứng:  ứng xử mềm dẻo, linh hoạt: - Tùy cơ ứng biến;
- Liệu cơm gắp mắm;- Nhập gia tùy tục;- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; - Đi với Bụt
mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy
Tư duy nông nghiệp nặng về kinh nghiệm, cảm tính: Trăm hay không bằng tay
quen - Sống lâu lên lão làng ứng xử tùy tiện, chủ quan: - Trông mặt mà bắt hình
dong; - Yêu nên tốt, ghét nên xấu;
- Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; - Thương nhau
thương cả lối đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng…
Những đặc điểm nổi bật trên đây của văn hóa truyền thống Việt Nam được thể
hiện rõ nét trong tất cả các lĩnh vực:- Văn hóa vật chất - Văn hóa tinh thần - Văn hóa
tổ chức xã hội.
2. Điều kiện tự nhiên – kinh tế
+ Đặc điểm tự nhiên: + Vị trí và cấu tạo địa lí; - Việt Nam ở trung tâm Đông
Nam Á…
+ Đặc điểm tự nhiên: - Địa hình đa dạng; - Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa
nhiều;  xứ sở thực vật.
- Nhiều sông ngòi  đồng bằng phù sa. Bờ biển chạy dài suốt chiều dài đất nước
(hơn 3.000 km). vùng sông nước - trồng lúa nước.
Phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước giữ vị trí chủ đạo, là đặc trưng
gốc chi phối sự hình thành các đặc trưng bản sắc của văn hóa Việt Nam.{Văn hóa Việt
Nam = Văn hóa lúa nước}
+ Kinh tế - định vị gốc của văn hóa:
Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều,sông ngòi chằng chịt , đồng bằng phì nhiêu màu
mỡ nông nghiệp trồng trọt phát triển. Hình thành văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt
-Sống định cư, không thích di chuyển => Trọng tĩnh
- Tôn thờ sùng bái tự nhiên mong muốn hòa hợp với thiên nhiên.
- Cuộc sống định cư tạo nên tính cộng đồng cao.
=>Hình thành lối sống trọng tình,trọng văn trọng phụ nữ.
- Phương thức sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên nên hình thành
kiểu tư duy tổng hợp biện chứng.
- Do tư duy tổng hợp biện chứng nên hình thành thái độ ứng xử linh hoạt mềm
dẻo
3. Điều kiện chủ thể
 + Đặc điểm lịch sử: - Liên tục bị xâm lược và đấu tranh chống xâm lược, giao
lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa
+ Đặc điểm xã hội: - Thành phần xã hội: nông dân giữ vị trí chủ đạo; - Tổ chức
xã hội: làng là đơn vị cộng đồng nền tảng;  văn hóa làng là hạt nhân cơ bản làm nên
bản sắc văn hóa Việt Nam.
Chủ thể văn hóa Việt Nam: Chủ thể văn hóa Việt Nam là những tộc người đã
và đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam - đó là một cấu trúc đa tộc người, hiện nay
gồm 54 dân tộc. Cấu trúc đa tộc người ở Việt Nam bao gồm:
- Các tộc người bản địa:- Có mặt trên lãnh thổ Việt Nam từ thời tiền sử, xuất
phát từ nhiều nguồn gốc nhân chủng và ngôn ngữ. Chủ thể văn hóa Việt Nam là một
cấu trúc đa tộc người, đa văn hóa.  Tộc người Việt (người Kinh) đóng vai trò chủ
thể; văn hóa của người Việt giữ vai trò hạt nhân đối với sự hình thành bản sắc văn hóa
Việt Nam.
4. Điều kiện lịch sử xã hội
4.1. Văn hóa Việt Nam bản địa
+ Dấu ấn văn hóa ĐNÁ tiền sử ở Việt Nam:- Văn hóa Núi Đọ, Sơn Vi- Văn
hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Nông nghiệp trồng trọt (lúa nước).
Văn hóa bản địa Việt Nam (thời sơ sử)
- Thời sơ sử là thời kì hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên của Việt Nam: nhà
nước Văn Lang của các vua Hùng.
- Thời sơ sử tồn tại trong khoảng 2.000 năm trước Công Nguyên, với sự chi
phối của các yếu tố:
- Văn minh lúa nước ; - Văn minh đồ đồng ; - Sự hình thành nhà nước  định
hình và phát triển rực rỡ nền văn hóa bản địa Việt Nam - văn hóa Đông Sơn.
+ Diện mạo văn hóa Đông Sơn:
- Không gian văn hóa: Bắc bộ và bắc Trung bộ.
- Thời gian văn hóa: 1.000 năm (từ TK VII tr.CN - TK III s.CN).
+ Phương thức sản xuất: - Nông nghiệp trồng lúa nước ; - Các nghề thủ công:
làm mộc, đan tre nứa, nghề dệt, nghề sơn (sơn đồ mộc), làm thủy tinh,
+ Tổ chức xã hội: - Cư dân sống định cư, quần tụ thành làng  - cơ sở hình thành
làng Việt truyền thống.
+ Phong tục: ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình, các tục ma chay, cưới xin cũng
hình thành…

51
+ Lễ hội và tín ngưỡng nông nghiệp: Hội mùa, hội cầu nước, lễ hiến tế, hội
khánh thành trống đồng…
+ Tín ngưỡng phồn thực và ý niệm về sự cặp đôi, đối ngẫu: trai/gái; đực/cái.
+ Các truyện thần thoại và truyền thuyết dân gian: Sự tích trăm trứng; Sự tích
bánh chưng bánh dày; Sự tích quả dưa đỏ; Sự tích trầu cau; Thánh Gióng; Sơn Tinh
Thủy Tinh; Chử Đồng Tử
4.2. Tính thống nhất
Nền văn hóa truyền thống Việt Nam là sản phẩm của quá trình lịch sử lâu dài từ
buổi đầu dựng nước đến cuối thế kỷ XIX thông qua quá trình tương tác với môi
trường tự nhiên và xã hội đã hình thành các đặt trưng văn hóa theo thời gian đã hình
thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc biểu hiện qua lối sống, thói quen, cách tư
duy ứng xử…
Văn hóa truyền thống Việt Nam bao gồm hai cơ tầng văn hóa là tầng văn hóa
bản địa và tầng văn hóa ngoại sinh.
Trong đó tầng văn hóa bản địa hình thành từ thời tiền sử và sơ sử nằm trong cơ
tầng chung của văn hóa đông nam á đó là nền tảng của văn minh lúa nước. Và tầng
văn hóa ngoại sinh là những yếu tố văn hóa được tiếp nhận qua quá trình tiếp xúc và
giao lưu với hai nền văn hóa lớn của phương đông là trung hoa(nho giáo) và ấn
độ(phật giáo) trong mười thế kỷ đầu công nguyên.
Nếu mười thế kỷ đầu công nguyên được coi là thời kỳ quá độ giao thoa với
các  nền văn hóa ngoại sinh thì từ thế X đến XIX cùng với những hưng thịnh và suy
vong của các triều đại phong kiến (ngô-đinh-lý-trần-lê-nguyễn) là thời kỳ định hình
các đặc trưng bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam.
Trong phong tục tập quán, có những phong tục, tập quán mang bản sắc dân tộc,
duy trì tinh thần cộng đồng. Những thuần phong mỹ tục cùng với toàn bộ nền văn hóa
ấu nói lên những nét hồn nhiên, chất phát, yêu đất nước, yêu con người, lạc quan,
quyêu đời và đậm đà tình nghĩa, Việt Nam là một quốc gia đa tộc người.. Mỗi người
dân có vốn văn hóa riêng, tạo nên những vùng địa - tộc người rất phong phú, đa dạng.
Nhưng do yêu cầu chống thiên tai, chống ngoại xâm và do sự giao lưu, hội nhập văn
hó, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam vẫn có mẫu số chung của một nền văn hóa thống
nhất trong đa dạng, một ý thức chung về vận mệnh của cộng đồng; tính cụ thể trực
quan là biểu hiện đậm nét trong tư duy dân gian. Với các yếu tố văn hóa ở ngoài vào 
(Nho giáo, Phật giáo) thì vừa tiếp thu, tuy nhiên ngay trong các mặt tiếp thu đã có sự
thay đổi nhất định về nội dung.
Nhìn một cách tổng thể trên tầng vĩ mô ta thấy cấu trúc tư duy truyền thống của
người Việt bao gồm bốn yếu tố chính, đó là yếu tố bản địa, Nho, Phật, Lão liên hệ mặt
thiết với nhau, không tách rời nhau. Ba yếu tố sau lấy yếu tố thứ nhất làm cơ sở, thậm
chí còn phải lăng kính của yếu tố thứ nhất, nhưng chúng đã bổ sung làm phong phú
cho yếu tố thứ nhất đến nỗi nhiều khi rất khó phân biệt yếu tố nào thuộc vào một trong
bốn yếu tố trên.
Sự hòa quyện bất phân giữa bốn yếu tố này tạo nên cho người Việt truyền
thống một quan điểm sống, một lối suy nghĩ tương đối hoàn chỉnh để xuất cũng như
xử, hành cũng như tàng. Về hình thức, đó là những cái khác nhau, thậm chí có những
yếu tố đối lập nhau, nhưng chúng lại thống nhất, hòa quyện, nhào nặn và tạo nên một
cái chỉnh thể, đó là tư duy người Việt. Giữa chúng cũng vô hình chung có sự phân
công, hợp tác, nương tựa, bổ sung cho nhau. Mỗi yếu tố đều có cái mạnh, cái yếu, sở
trưởng, sở đoản của mình. Mỗi yếu tố đều xem xét, phản ánh những mặt, những đời
sống khía cạnh khác nhau của đời sống con người. Nho giáo thì mạnh về chính trị - xã
hội, đề cao tam cương - ngũ thường, coi trọng những quan hệ vua tôi, cha con, chồng
vợ. Lão giáo chủ trương xa lánh những gì là nhân tạo, quay về bắt chước tự nhiên,
sống tự nhiên như nhiên, vô vi đạm bạc. Cả hai đạo đều không hề đả động đến vấn đề
sống chết, họa phúc, sướng khổ. Chẳng hạn, Nho giáo cho rằng chưa biết được việc
sống thì làm sao biết được việc chết, giàu sang tại mệnh, phú quý tại trời; còn Lão
giáo lại cho rằng sống chết, sướng khổ, họa phúc là những điều tự nhiên, không cần
can thiệp để ý vì trong cái này đã có cái kia và ngược lại, cụ thể trong phúc có họa,
trong họa có phúc. Những lý giải đó không thỏa mãn nhu cầu nhận thức, tâm lý của
người Việt cổ truyền. Đạo Phật với một hệ thống giáo lý phong phú, chặt chẽ, trong
đó có những học thuyết có thể giải quyết được những nhu cầu, nhiệm vụ hầu như bỏ
trống này. Sự phân công mang tính tự phát do nhu cầu cuộc sống quy định, đã hình
thành nên một cách tự nhiên tư duy của người Việt truyền thống. Có điều, nếu Nho
giáo hơi nghiêng về nhập thể thì Phật - Lão giáo lại hơi nghiêng về xuất thế. Điều này
đã được Mâu Tử nói rõ từ thế kỉ II. Nếu Nho giáo nghiêng về đối nhân xử thế, Lão
giáo nghiêng về lối sống, thì Phật giáo nghiêng về triết học tâm linh. Cái chung của cả
ba đạo trên là tu dưỡng đạo đức. Tất nhiên đi sâu thì việc tu dưỡng này cũng mang
những sắc thái khác nhau. Như vậy, nếu xét tư duy người Việt truyền thống trên góc
độ lý luận, triết học thì tỷ trọng tham gia của Phật giáo trong sự tổng hợp trên là lớn
hơn, căn bản hơn, có hệ thống hơn. Chính vì vậy mà nó tồn tại lâu dài hơn, bề thế hơn,
vững chắc hơn.
Vậy, bốn yếu tố trên đã diễn ra sự đan xen, bổ sung, thống nhất với nhau như

53
thế nào? Trước hết, ta thấy học thuyết nhân quả, luân hồi của nhà Phật không những
không những còn có điểm tương đồng và ở một khía cạnh nhất định, nó đã củng cố và
đặt cơ sở cho quan niệm đó. Trong các bản luận, kinh, luật của Phật giáo Việt Nam và
Trung Quốc cổ ta thấy có cả khái niệm linh hồn, cái mà Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ
bác bỏ. Ngay quan niệm tam giới, lục đạo của Phật giáo cũng rất gần với quan niệm
tam phủ của tín ngưỡng bản địa đến nỗi rất khó phân biệt cái nào thuộc giáo nào, cái
nào của bản địa. Ngay trên bàn thờ ở một số nơi ta thấy có cả Phật, Tiên, Thánh, Tổ
tiên... Trong dân gian, trên bàn thờ của nhiều nhà cũng vậy. Ngay trong một số chùa,
nơi được gọi là thánh địa của Phật giáo cũng không còn là Phật giáo thuần túy nữa,
bởi lẽ có mặt cả thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp, thần đá, thần hổ, có mặt cả
các đức ông, các mẫu, v.v... Chính sự tổng hợp bốn yếu tố trên đã tạo nên cho người
Việt truyền thống một cấu trúc tư duy tương đối hoàn chỉnh, toàn diện giữa cá nhân và
xã hội, tâm linh và thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của đời sống con người trong xã hội
Việt Nam cổ truyền. Cũng chính nhờ sự tổng hợp này mà cái bên ngoài biến thành cái
bên trong, cái của người biến thành cái của mình. Trong sự tổng hợp tạo nên cấu trúc
tư duy truyền thống của người Việt. Phật giáo chiếm vị trí không nhỏ. Chính vì vậy,
ảnh hưởng của Phật giáo thông qua sự tham gia của yếu tố Phật giáo vào cấu trúc tư
duy truyền thống là cực kỳ sâu sắc.
Chương 6: Diễn trình văn hóa Việt Nam
Thời gian: 4 giờ

1. Giai đoạn hình thành những nền tảng


1.1. Tiền sử
Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu
có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN
Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành,
phát triển và định vị của văn hoá Việt Nam. Giai đoạn này có thể được chia làm hai
thời kì. Thời tiền sử từ buổi đầu đầu đến cuối thời đại đá mới và thời sơ sử cách đây
khoảng trên dưới 4000 năm.
Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài
người. Cách đây khoảng 40- 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng
đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết
tích còn lại, chúng ta biết rằng người vượn (Homo – Erectus) đã có mặt ở nhiều vùng
từ Bắc tới Nam. Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là Văn hoá núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ
học thuộc sơ kì thời đại đồ đá cũ phát hiện được ở núi Đọ, thuộc huyện Triệu Hoá,
tỉnh Thanh Hoá).
Thời gian từ 20 đến 15 nghìn năm TCN, con người (người hiện đại- Homo
sapiens) đã cư trú trên một địa bàn rất rộng, họ là chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi từ
Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam, từ Sơn La ở phía Tây đến vùng
sông Lục Nam ở Phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các gò đồi của vùng
trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, người Sơn Vi còn sống cả trong các hang
động núi đá vôi.
Đây là các bộ lạc săn bắt (bắn), hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ.
Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác, đã có
nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi là những hòn đá
cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt, nạo hay cắt, có loại cắt ngang ở
một đầu, có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh, có loại công cụ có lưỡi chạy xung quanh theo
rìa tròn của viên cuội, hoặc có lưỡi ở hai đầu.
Dù điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng,
phong phú của các loài quần động thực vật phương Nam, song vết tích cư trú của loài

55
người thời nàychỉ hạn chế ở một số vùng, trên các gò đồi, trong một số hang động vì
thời kì này những đồng bằng Bắo Bộ đều đang ở giai đoạn hình thành, chưa thích hợp
cho đời sống định cư lâu dài của con ngưòi.
Dựa vào kĩ thuật chế tác công cụ của cư dân Sơn Vi, giáo sư Hà Văn Tấn cho
rằng họ đã có tư duy phân loại. Tư duy phân loại này thể hiện trong lựa chọn   nguyên
liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ. Người nguyên thuỷ đã biết dùng
lửa. Họ chôn người ngay trong nơi cư trú, thức ăn chủ yếu là nhuyễn thể, những cây,
những quả, hạt và một số động vật vừa và nhỏ.
Việc chôn người chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ
về một thế giới khác, mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao
động được chôn bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy.
Trong giai đoạn tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay đổi
quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước
vào thời đại đồ đá mới. Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến bộ về  phương
thức sản xuất cũng như kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên ấm, ẩm ướt, khí hậu
môi trường có những biến đổi lớn, thuận tiện cho sự tồn tại, phát triển của con người,
động và thực vật. Thời kì này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại
nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng,Triết tre, gỗ…
lý về cấuKĩ thuật
trúc chế Tam
KGVH: tác đátàiđược hoàn
thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều. Đặc vàbiệt
ngũcon
hành
người đã biết làm gốm,
thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu
cho giai đoạn này là văn hoá Hoà Bình. Cư dân văn hoá Hoà Bình sống chủ yếu trong
các hang động núi đáCấu vôi.trúc
Họsơthích cư không
lược về trú trong các khu vực gần cửaCấu hang,
trúc thoáng
chi tiết về
đãng, có ánh sáng. Môigian
trườngvăn hoạt
hóa: động
Tam tàicủa họ rất rộng bao gồm hang-KGVH:
thung-ngũ hành
thềm
sông, suối. Vì thế, văn hoá Hoà Bình còn được gọi là nền văn hoá thung lũng. Văn
hoá Hoà Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay.
Nguồn -ÂD Phương Tư
KGVT với người dân NNVN
Gần đây, người ta đã tìm thấy hạt và quả của nhiều loài cây thuộctrong
gốc NN cácđậu và
họ rau vị trong trong
được xác định bằng tọa độ phương thành tố > tư
họ bầu bí, được coi làTrời
đã -thuần dưỡng trong một
độisố di chỉ Nam
văn hoá ngũ
con người - Đất (đầu của Hoà của
Bình.
ngũVì vậyhành tổng
đã có một nền nông nghiệp trời chânxuất
sơ khai đạp đất)
hiện trong lòng văn hoáNH Hoà Bình.hành
Cuộc sống biện
tron
định cư tương đối là một nhân tố tạo cho sự nảy sinh nghề trồng trọt. Tất nhiên vai trò
của nó còn rất nhỏ bé  so với các hoạt động truyền thống hái lượm, và săn bắt (bắn).
Có lẽ các hoạt động này vẫn là hoạt động kinh tế cơ bản của họ.
Sự xuất hiện củaBiến
nôngthểnghiệp
Trời – trồng
Đất – trọt và muộn hơn một chút trong các văn
hoá thuộc trung kì và hậu kì đá Nước
mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánhCơdấuchếmột
hoạt bước
động ngũ hàng

chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản
Tương sinh Tương khắc
xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh
tồn. Trong giai đoạn trung kì và hậu kì của thời đá mới mà con người đã mở rộng
không gian sinh tồn, con người đã chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi,
trước núi và ven biển. Ở vùng sinh thái ven biển, nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời
kì này được đặc trưng bởi các nền văn hoá Đa Bút (Thanh Hoá), Quỳnh Văn (Nghệ
An), Hạ Long…với những làng định cư lâu dài, ổn định, trong đó, bên cạnh quan hệ
dòng máu đã xuất hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp.
Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên, những hang
động và những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho sinh hoạt
và sản xuất. Điều này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích nghi một cách hài
hoà với tự nhiên.
Thời kì này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng
xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội,
những mảnh thổ hoàng… Người Hoà Bình, theo GS. Hà Văn Tấn có lẽ đã có những
biểu hiện về nhịp điệu, thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch trên các hòn đá cuội
được tìm thấy trong hang động. Dù mới chỉ giả thiết về số đếm, cách tính ngày…
những di vật được tìm thấy trong văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một
bước phát triển tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về thời gian vũ trụ còn được
thể hiện bằng những hoa văn, kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ…vẽ
trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nông lịch sơ khai.
Những điều kiện định cư lâu dài và sự phát triển của nông nghiệp đã làm hình
thành rõ nét tính địa phương của văn hoá trong những khu vực hẹp vào cuối thời đại
đá mới (cách đây khoảng 5000 năm). Thời kì này cũng xuất hiện những tín ngưỡng
nguyên thuỷ. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành
một trong những thần linh quan trọng đối với con người.
1.2. Văn hóa sơ sử
Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam, từ lưu vực sông Hồng cho đến
lưu vực sông Đồng Nai, đã bước vào thời đại kim khí.
Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hoá lớn là Đông
Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam).
Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người
Việt cổ.

57
Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của
người Chăm và vương quốc Chămpa.
Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn
hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai- Đa Đảo sinh sống vào
những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay, văn hoá Óc Eo
thường được gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỉ II đến hết
thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long.
Văn hoá Đông Sơn:
Nhiều học giả đã thừa nhận rằng chí ít văn hoá Đông Sơn hình thành trực tiếp
từ ba nền văn hoá ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Các nền văn hoá Phùng
Nguyên- Đồng Đậu- Gò Mun thuộc giai đoạn đồng thau (từ khoảng 2000 đến 700
năm TCN) phân bố ở lưu vực sông Hồng. Trong giai đoạn này con người vẫn sử dụng
đá, gỗ, tre, nứa, xương, sừng… để chế tạo công cụ và vũ khí. Đồ gốm đạt độ nung cao
hơn, dày và cứng hơn, đa số có màu xanh mốc. Bên cạnh đó, việc xuất hiện của vật
liệu mới- đồng, đã gây ra những tác động to lớn đối với kinh tế, xã hội và văn hoá của
các cộng đồng người.
Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước, họ đã biết chăn nuôi một số gia
súc như trâu, bò, lợn gà,…Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hoá
dày. Bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng.
Cư dân văn hoá thời đại đồng thau miền Bắc Việt Nam có đời sống tinh thần
phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của họ. Đặc biệt, họ
đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ
của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau.
Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động
sản xuất nông nghiệp và kĩ thuật chế tác đá, đúc đồng.
Vào khoảng thế kỉ VII TCN, các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương
tiến tới chỗ hoà chung vào một nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc
các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn
hoá được hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt- Trung cho đến bờ sông
Gianh Quảng Bình, mặc dù theo các nhà khảo cổ học nhà nước này vẫn có những
dáng hình địa phương. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng chưa có một văn hoá tiền
Đông Sơn nào trước đó lại có phạm vi phân bố rộng như vậy
Một số sách cổ của Trung Quốc như Thuỷ kinh chú, Giao châu ngoại vực kí…
đã ghi chép về nghề trồng lúa nước của người Việt cổ ở giai đoạn này. Vì thế, cư dân
văn hoá Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp trồng lúa. Họ canh tác trên nhiều loại
đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng chờ mưa. Thời kì này họ có
thể đã có những kĩ thuật trị thuỷ như đắp đê chống lụt. Các loại hình nông cụ của cư
dân Đông Sơn đã khá đa dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng
kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong kĩ thuật canh tác. Nông nghiệp dùng cày phát
triển (có nhiều lưỡi cày đồng, với các chủng loại phù hợp với từng loại đất). Cũng có
thể ngay từ thời kì này người ta đã biết làm một năm hai vụ. Bên cạnh trồng trọt là
chăn nuôi, việc chăn nuôi trâu bò đã phát triển, trước tiên là để đảm bảo sức kéo cho
nông nghiệp. Trên trống đồng người ta tìm thấy khắc hoa văn hình bò, trong một số di
chỉ khảo cổ học còn tìm thấy tượng đầu gà.
Kĩ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kì này, với một trình độ điêu
luyện đáng kinh ngạc. Số lượng và loại hình công cụ, vũ khí bằng đồng tăng vọt. Đặc
biệt, người Đông Sơn đã đúc những hiện vật bằng đồng kích thước lớn, trang trí hoa
văn phong phú, mà cho tới ngày nay nó vẫn là biểu tượng của văn hoá dân tộc. Đó là
những trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng, chứng tỏ trình độ kĩ thuật và bàn
tay tài hoa của người thợ Đông Sơn.
Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển, đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn
hoá Đông Sơn. Ngoài những ngành nghề kể trên, người Đông Sơn còn biết chế tạo
thuỷ tinh, làm mộc, sơn, dệt vải, đan lát, làm gốm, chế tác đá.
Làng xóm thời kì này thường phân bố ở những nơi đất cao, thậm chí ở sườn núi
hay trên những quả đồi đất.. nhưng bao giờ cũng nằm gần các sông lớn hay các chi
lưu của chúng. Khoảng cách giữa làng và sông thường từ 1 đến 5 km… Việc chọn nơi
cư trú như vậy cho thấy người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự
nhiên. Bởi lẽ đất cao sẽ khô ráo mà lại tránh được ngập lụt vào mùa mưa. Làng thời kì
này có quy mô tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay, có chừng vài trăm
người. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu
vực cư trú đông đúc. Đó là hiện tượng thường gặp đối với cư dân nông nghiệp ở
những vùng đồng bằng phì nhiêu.
Có lẽ do hiện tượng chiến tranh đã trở nên thường xuyên (thể hiện trong các
truyền thuyết, và tỉ lệ cao của các loại vũ khí, đồ dùng cho binh lính) nên chung quanh
làng, có những vành đai phòng thủ, mà khả năng lớn là các luỹ tre làng. Công trình
phòng thủ thực sự với hệ thống thành luỹ quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta
mới chỉ biết đến có một, đó là thành ốc Cổ Loa.

59
Người Đông Sơn đã có những phong tục, y phục khá phong phú, không phải
chỉ biết có ở trần, đóng khổ, mặc vỏ sui như nhiều người thường nghĩ. Dựa trên trang
trí trên cán dao găm hình người, hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ, ta biết được ít
nhất có bốn kiêủ để tóc. Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quần áo theo phương
châm giản dị, gọn gàng tới mức tối đa: Ở trần, đóng khố, đi chân đất. Riêng với nữ
phổ biến mặc váy thay khố. Tuy vậy cũng có một số áo cánh dài tay, áo xẻ ngực bên
trong có yếm. Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết,
khố dài thêu… Người Đông Sơn ưu thích đồ trang sức, họ đeo đồ trang sức ở tay, cổ
tay và cả ở chân. Đồ trang sức thường được làm bằng đồng, thuỷ tinh, song không
thấy đồ vàng bạc hay đá quý. Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân
Đông Sơn bắt đầu ăn gạo tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng
nổ dân số vào giai đoạn đầu của văn hoá Đông Sơn, khiến cho cư dân phải mở rộng
diện cư trú đến những vùng đất mới. Phương thức quảng canh, trồng cấy đại trà ở
những vùng đất mới này không thích hợp với giống lúa nếp. Từ đó suy ra hệ quả là
gạo tẻ trở thành thành phần chính trong cơ cấu lương thực, gạo nếp trở thành quý
hiếm, được dùng chủ yếu trong lễ tết cầu cúng. Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu,
rau quả, thuỷ sản. Mô hình cơm- rau- cá trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn
chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo và sự hoà hợp cao độ của người Đông Sơn với môi
sinh. Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng những vật liệu dễ bị phá huỷ theo
thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong, mái tròn, và là nhà sàn. Lựa chọn kiểu
kiến trúc nhà sàn cũng là sự ứng xử thông minh trước môi trường của người Việt cổ.
Về phương tiện đi lại, chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển chủ yếu là đường sông
và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai, trên lưng. Và con
người đã biết thuần dưỡng voi, dùng voi để chuyên chở.
Thời kì này là thời kì hình thành những huyền thoại, thần thoại. Hệ thống thần
thoại này dù đã bị vỡ ra từng mảnh trong thời kì Bắc thuộc, trước sự tiếp biến với văn
hoá Hán cũng như với các tôn giáo lớn từ bên ngoài, song vẫn còn lại ít nhiều qua các
ghi chép  về sau này của người Việt và dưới dạng sử thi- thần thoại ở các bài mo “Đẻ
đất đẻ nước” của người Mường. Song nếu đã có một hệ thống thần thoại, thì tính đa
thần giáo hẳn còn rõ nét. Những huyền thoại này đã phản ánh quá trình khai phá và
chiếm lĩnh các đồng bằng của cư dân Việt cổ, quá trình hội nhập các bộ lạc hay nhóm
bộ lạc. Qua đó, ta có thể thấy rõ những mối quan hệ của con người thời bấy giờ với tự
nhiên và xã hội.
Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghề nông trồng lúa
nước. Đó là tục thờ mặt trời, mưa dông, các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông
nghiệp khác như hát đối đáp gái trai, tục đua thuyền, tục thả diều,…
Đặc điểm nổi bật của thời kì này theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước là tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp. Đó là một loại tư duy phân loại chia đôi đã tồn
tại khá lâu và có ở nhiều vùng trên thế giới. Ở Đông Nam Á và Việt Nam lối tư duy
này tồn tại lâu dài tạo thành một đặc điểm khá nổi bật. Người xưa cho rằng thế giới
được chia đôi: Có đàn ông ắt có đàn bà, có đực tất có cái, có âm ắt có dương. Người
Đông Sơn còn có tư duy khoa học, điều này thể hiện ở tri thức thiên văn học, khái
niệm số đếm, khái niệm lịch pháp…Phong tục tập quán của người Đông Sơn cũng rất
đa dạng ví như tục nhuộm răng ăn trầu, xăm mình, ăn đất nung non, uống nước bằng
mũi, giã cối làm lệnh, tục ma chay, cưới xin… Các lễ hội: hội mùa với lễ hiến sinh
trâu bò, hội cầu nước với lễ hiến tế, hội khánh thành trống đồng.
Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá phát triển thể hiện
đời sống tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Nhạc cụ đáng lưu ý là trống đồng, sau đó
là sênh, phách, khèn. Giao lưu văn hoá thời kì này rất rộng rãi. Ngoài giao lưu với Sa
Huỳnh và Đồng Nai, ở phía Bắc có mối quan hệ và tiếp xúc với các cư dân Nam
Trung Hoa, phía Đông với các hải đảo, phía Tây với lục địa. Các nhà nghiên cứu Việt
Nam phần đông đều nhất trí cho rằng đã hình thành một quốc gia Văn Lang và một
nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hoá Đông Sơn.
Dựa trên những chứng cứ về mật độ phân bố và quy mô của các di tích khảo cổ
học (nơi cư trú, mộ táng, công xưởng…) trên các địa hình khác nhau từ miền núi,
đồng bằng, duyên hải và đảo, của các hiện vật khảo cổ học, các nhà nghiên cứu đều
thống nhất cho rằng có một sự mở rộng các quan hệ giao lưu giữa các công xã. Loại
hình công xã thời hậu kì đá mới là loại hình công xã thị tộc phát triển. Xã hội của
người Việt đến đây vẫn hoàn toàn là xã hội nguyên thuỷ.
Văn hoá Sa Huỳnh:
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hoá thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung
(từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi tên theo một địa điểm khảo cổ học ven biển
tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hoá Sa Huỳnh.
Nền văn hoá này có quan hệ gốc gác với các nền văn hoá hậu kì đá mới, sơ kì
thời đại đồng thau ven biển như văn hoá Bàu Tró, Hoa Lộc, Hạ Long, nhất là văn hoá
Bầu Tró, có không gian phân bố cận kề với văn hoá Sa Huỳnh.

61
Văn hoá Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kì thời đại đồng thau (hơn 4000 năm cách ngày
nay) cho tới sơ kì thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7- 6 TCN tới thế kỉ 1- 2 trước và sau
công nguyên). Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là giữa các nhóm di tích của cả ba
giai đoạn sơ, trung kì (thời đại đồng thau) và hậu kì (sơ kì thời đại sắt) đều có những
đặc trưng chung và văn hoá Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn
từ những di tích của thời đại đồng thau và chắc chắn có sự tham gia ảnh hưởng của
một số yếu tố văn hoá khác.
Về giới hạn dưới hay thời điểm kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh, dựa trên những
niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn (Phú Hoà- Đồng Nai), Quế Lộc
(Quảng Nam) và những hiện vật văn hoá Hán như tiền Ngũ Thù, Vương Mãng ở di
tích Hậu Xá (Hội An- Quảng Nam), có thể chấp nhận niên đại muộn nhất của các di
tích là thế kỉ I, II SCN.
Chủ nhân Văn hoá Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hoá hậu kì đá
mới, sơ kì đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hoá Bàu Tró mà chủ nhân văn hoá
trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Mã Lai- Pôlinêdi. Trong quá
trình hình thành và phát triển của mình, văn hoá Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội
nguồn hay giao lưu với những văn hoá hậu kì đá mới- sơ kì đồng thau của miền cao
nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hoá trên được coi là tiền Môn- Khơme
hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí
Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hoá này nói
tiếng Nam Đảo hay Malai- Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.
Đặc trưng văn hoá:
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng
chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình
Châu- Quảng Ngãi). Tuy vậy, nguồn gốc của hình thức mai táng này đòi hỏi phải có
nhiều nghiên cứu tiếp. Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây
cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông, đã phát hiện nhiều khu mộ- những
bãi mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình
cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn, phân bố
thành cụm hay lẻ tẻ. Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tuỳ táng với các chất liệu đá,
đá quý, thuỷ tinh, đồng, sắt và gốm. Ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng
trẻ em (Hậu Xá- Hội An- Quảng Nam, Mỹ Tường- Thuận Hải), hầu như các chum chỉ
còn đồ tuỳ táng, cát trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hoả táng,
có thể do hình thức mộ tượng trưng.
Ở những giai đoạn sớm và giữa, đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để
chế tác công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối, đồ sắt chiếm lĩnh cả về số lượng và
chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng
phương pháp rèn). Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số
lượng lên đến hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai,
liềm, thuổng, kiếm ngắn,… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hoá Đông
Sơn ở phía Bắc, văn hoá Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của
đồ sắt của văn hoá Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn.
Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nông nghiệp trồng lúa ở
những đồng bằng ven biển cồn bàu. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa
thành phần, họ sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển, của rừng, biết phát triển
các nghề phổ thông, từng bước họ đã mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong
khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và rộng hơn với Ấn Độ, với Trung Hoa. Đặc
biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển miền
Trung, vào những thế kỉ trước, sau công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị
hay cảng thị sơ khai.
Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hoá Sa Huỳnh
là chứng cớ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại, số lượng của
các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ của cư
dân văn hoá này, đều chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai.
Sự trùng hợp về địa bàn phân bố, của niên đại kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh và niên
đại mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật
đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức, của táng thức, của các ngành nghề kinh tế cho thấy
Nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Nhà nước Chămpa được
hình thành trên cốt lõi của văn hoá Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn
hoá ngoại sinh Trung Hoa, Ấn Độ. Và sự “Ấn Độ  hoá” ban đầu chỉ xảy ra ở lớp mặt
của văn hoá (tôn giáo) ở tầng lớp trên của xã hội.
Văn hoá Đồng Nai:
Sau thời đại đá cũ, bẵng đi một thời gian dài, đến khoảng hơn 4000 năm cách
ngày nay, trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện một lớp cư dân mới. Họ thuộc chủ nhân
của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm), sinh sống ở
các tiểu vùng sinh thái khác nhau. Đông Nam Bộ vào những thiên niên kỉ II- I TCN đã
trở thành một trong ba trung tâm văn hoá lớn của thời đại kim khí. Văn hoá Đông Sơn
ở miền Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam.

63
Văn hoá Đồng Nai được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hoá
tại chỗ ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Hàng trăm di tích của các
giai đoạn sớm, giữa, muộn đã được phát hiện và nghiên cứu. Những di tích này phân
bố suốt từ vùng đồi gò cao cho tới trung, hạ lưu các con sông và ven biển. Mỗi một
tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức sản xuất- văn hoá thích hợp.
Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di
tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc
Ninh- Bình Long.
Vùng liên kết đồi bazan- đá phiến- phù sa cổ dọc hệ thống Sông Bé- Đồng Nai,
nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ- mộ táng- xưởng thủ công đơn hay đa ngành,
tiêu biểu nhất là Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa.
Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm Cỏ với những di chỉ, di chỉ
kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Đinh Ông, Rạch Núi.
Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu Đồng Nai – Vàm Cỏ và
những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu vùng kinh tế – văn hoá mới tạo
thành từ đầu thiên niên kỉ I TCN như Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giồng Phệt,
Giồng Cá Vồ…
Ở cả năm tiểu vùng văn hoá tiền – sơ sử Đông Nam Bộ, di vật được đưa ra khỏi
lòng đất từ nhiều dạng di di tích khảo cổ khác nhau với nhiều chất liệu gốm, đá, gỗ,
đồng, sắt, xương…
Một loại hình nữa là đàn đá- đây là chế phẩm đặc thù của văn hoá Đồng Nai,
đàn đá có mặt ở nhiều di tích, có niên đại khoảng 3000 năm cách ngày nay. Đặc biệt là
ở Bình Đa, lần đầu tiên đàn đá được tìm thấy trong một tầng văn hoá cổ, cùng với tổ
hợp di vật gốm đá khác. Phát hiện này đã giúp xác định được niên đại đàn đá, khẳng
định sự tồn tại của một nhạc cụ cổ truyền ở Đồng Nai nói riêng và ở nước ta nói
chung. Nghề đúc đồng và luyện kim đồng đã xuất hiện vào khoảng 4000 năm cách
ngày nay. Tuy vậy, dựa trên những tư liệu mới, có thể thấy rằng đồ đồng đã khá phổ
biến vào khoảng 3000 năm cách ngày nay. Nhiều di chỉ đúc đồ đồng đã được phát
hiện ở Suối Chồn, Cái Vạn, Dốc Chùa, Bưng Bạc…với hàng loại khuôn đúc loại hai
mang liên hoàn nhiều vật đúc. Về loại hình ít nhất có ba loại rìu, giáo, mũi dao. Ngoài
ra trên khuôn đúc còn thấy lưỡi đục, lưỡi câu, mũi xiên, chuông, lục lạc, lao ngạnh,
kim, bông tai…Ở giai đoạn muộn có loại hình qua.
Giai đoạn muộn của văn hoá Đồng Nai được đặc trưng bởi những khu mộ
chum kiểu mộ chum văn hoá Sa Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt, bằng
đá, đá mã não, thuỷ tinh bên cạnh những hiện vật gốm, đá điển hình của văn hoá Đồng
Nai. Về sự xuất hiện của những di tích mộ chum này, hiện nay còn khá nhiều ý kiến
chưa thống nhất.
Nghề gốm và nghề làm gốm đã xuất hiện trong những di tích sớm và tồn tại
trong suốt quá trình lịch sử cư dân văn hoá Đồng Nai. Chế tạo và sử dụng đồ dùng
đun nấu- ăn uống đơn giản về dáng vẻ, mộc mạc và trang trí không cầu kì, song gốm
được nung ở độ nung cao và bằng kĩ thuật bàn xoay.
Về đời sống kinh tế của cư dân văn hoá Đồng Nai; dựa trên hệ thống tư liệu,
các nhà nghiên cứu cho rằng những hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong đời
sống kinh tế truyền thống Đông Nam Bộ  là trồng lúa cạn không dùng sức kéo, trồng
rau đậu, cây có quả- củ cho bột bằng phương pháp phát- đốt đặc thù của nông nghiệp
nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, tôm và nhuyễn thể của sông
biển. Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế- kĩ thuật và văn văn hoá của những nhóm
cư dân trong văn hoá Đồng Nai, cần nhấn mạnh đến đặc thù của quá trình chuyên môn
hoá- phân công lao động- phân vùng kinh tế hoà nhập với từng miền sinh cảnh. Cần
có sự quan tâm đặc biệt tới mối ràng buộc thiết yếu giữa những ngành kinh tế chủ đạo
nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và cả nghề trồng lúa nước ở những tiểu
vùng khả thực nhất (trồng hoa màu, cây có củ- quả và chăn nuôi) và những ngành
cung ứng lương thực- thực phẩm tiền sử khác (săn bắn, đánh cá và hái lượm theo phổ
rộng những sản phẩm thực- động vật của rừng, suối, sông đầm lầy và biển). Giữa
nông nghiệp- khai thác- thủ công (sản xuất đá- công cụ và trang sức; chế luyện kim
loại- đúc đồng và rèn sắt, chế tạo gốm- đồ đựng, bàn xoa và dọi se sợi, dệt vải) và
thông thương nội, ngoại.
Đời sống tinh thần của cư dân văn hoá Đồng Nai được biết đến qua những hiện
vật nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình
gần ôvan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu, tượng lợn, rùa
bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng ở Dốc Chùa, tượng Trút Long giao bằng
đồng… Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh. Ngoài ra còn có sự hội
nhập của không ít yếu tố văn hoá láng giềng như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai hai
đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hoá Sa Huỳnh.
Ở giai đoạn cuối của nền văn hoá này, khi kim loại thực sự đã chiếm vị trí quan
trọng, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân, mở rộng những tiểu vùng kinh tế
sản xuất và khai thác mới, củng cố những liên hệ kinh tế- văn hoá nội vùng, tạo thành
những điều kiện tập trung của cải phân bố giàu nghèo và cố kết quyền lực trung tâm,

65
hình thành cơ cấu xã hội có giai cấp sơ khai và Nhà Nước khởi thuỷ vào những thế kỉ
đầu công nguyên.
Kết luận:Thời sơ sử, trên dải đất Việt Nam ngày nay có ba nền văn hoá: Phức
hệ văn hoá Bàu Trám- Sa Huỳnh, phức hệ văn hoá Phùng Nguyên- Đông Sơn, phức
hệ văn hoá Đồng Nai là ba đỉnh cao của văn hoá Đông Nam Á, miền Đông bán đảo
Đông Dương. Ba phức hệ văn hoá đó đã phát sinh từ những nền tảng chung của các
văn hoá thời đại đá mới ở miền này, với những tộc người Nam Á, Nam Đảo luôn có
tiếp xúc ngôn ngữ và giao lưu văn hoá với nhau. Ba phức hệ văn hoá đó phát triển độc
lập theo thế chân vạc ở miền Đông bán đảo Đông Dương, nhưng luôn có mối quan hệ
qua lại nhiều chiều với nhau, bồi bổ cho nhau, làm phong phú cho nhau, đồng thời
phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Ba phức hệ văn hoá ấy đều sẽ
phát triển thành ba nền văn minh lớn, ứng với ba quốc gia cổ: Văn Lang- Âu Lạc, Sa
Huỳnh- Chămpa, Phù Nam. Ba phức hệ văn hoá ấy đều thu nhận nhiều yếu tố ngoại
sinh và bản địa hoá các yếu tố ấy để phát triển. Do vậy, ba nền văn hoá ấy đều phát
sáng rực rỡ, lan toả ảnh hưởng ra toàn vùng Đông Nam Á
2. Văn hóa Việt Nam thời Bắc thuộc
Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nói rằng: “Bị đô hộ hàng mười thế kỷ bởi một
nước có văn hóa cao hơn, số dân đông hơn gấp bội mà sau mấy ngàn năm – Ta vẫn là
ta – hẳn không phải vì mũi tên nhọn hơn, bắp thịt cứng hơn mà chủ yếu là nhờ văn
hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, chứ văn hóa lấy sức đọ sức,
lấy số đọ số thì dân Việt Nam, nước Việt Nam chỉ còn là đối tượng khảo cổ học”.
Thủ đoạn đồng hóa của phương Bắc.
Tư tưởng Hán hóa của các thế lực phong kiến phương Bắc chinh phạt phương
Nam để sát nhập lãnh thổ, biến nước ta thành quận huyện của người Hán. Đầu tiên thể
hiện ở việc di dân tự do một cách ồ ạt cả dân thường và quan lại, để người Hán sống
quần cư quần canh, lẫn lộn với các dân tộc Âu Lạc, nhằm phá vỡ cơ cấu dân cư truyền
thống sản xuất lúa nước nhiệt đới. Trong cuộc di cư cưỡng bức từ phương Bắc này,
ngoài các công dân trung bình, hoặc tinh hoa, còn cả tội phạm, trộm cắp, tù tội, kẻ bị
lưu đày; cả những người bất mãn, đầu bò đầu bướu, thất sủng với quan lại phải bỏ xứ
hành phương Nam, mà nước Âu Lạc chúng ta là cái túi phải hứng chịu. Áp đặt chế độ
chính trị và một hệ thống quan lại người Hán cai trị..vv. Tình trạng đau đớn này bắt
đầu từ năm 179 TCN, khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc, chia thành hai quận Giao Chỉ và
Cửu Chân.
Sách Hậu Hán thư chép rằng: “Xưa thời Bình đế, Tích Quang người Hán Trung
làm Thái thú Giao Chỉ, dạy dỗ dân Di (người Việt), dần dần hóa theo lễ nghĩa, danh
tiếng ngang với Nhâm Diên”. Thực chất, Tích Quang là Thái thú Giao Chỉ, và Nhâm
Diên là Thái thú Cửu Chân đem cách ăn mặc, cưới xin, ma chay… lễ nghĩa của người
Hán áp đặt vào đời sống người Việt.
Từ thời Tây Hán, Nho giáo đã bắt đầu du nhập vào nước ta. Đến thời Sĩ Nhiếp
làm Thái thú Giao Chỉ thì sự học chữ Hán và Nho học mới trở thành quy củ và thịnh
hành. Bọn phong kiến phương Bắc sử dụng Nho giáo như một công cụ thống trị.
Chúng ta hãy hình dung: khi người Hán vượt sông Dương Tử tiến xuống phía
Nam chinh phạt nền văn minh lúa nước của người Bách Việt thì hầu hết cộng đồng bị
Hán hóa. Nước ta bi kịch chồng bi kịch đồng hóa bởi người Hán và cả những người
Bách Việt đã bị Hán hóa nữa. Vậy mà, thật lạ lùng và diệu kì là dân tộc ta chỉ là một
bộ phận nhỏ của cộng đồng Bách Việt mà “ta vẫn cứ là ta”, không bị đồng hóa. Vì
sao?
Dân tộc Việt kiên cường, bền bỉ chống đồng hóa
Công cuộc chống đồng hóa dân tộc Việt Nam thật vô cùng bền bỉ, dai dẳng
trong suốt quá trình vừa duy trì, gìn giữ, phát triển văn hóa bản địa, vừa tiếp thu có
chọn lọc để làm phong phú văn hóa dân tộc. Người Việt chúng ta không có nhu cầu
đồng hóa, không chịu bị đồng hóa.
Chống đồng hóa trước hết là giữ gìn tiếng nói Việt – tiếng mẹ đẻ. Suốt ngàn
năm Bắc thuộc dài đằng đẵng vẫn không thể biến cả dân tộc ta “ăn theo nói leo” thành
người Hán, nói tiếng Hán. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã khẳng định rằng: Tiếng
tiếng mẹ đẻ – tiếng Việt hơn 1000 năm trước đây dù có biến đổi theo thời đại nhưng
so với ngày nay cơ bản là không khác mấy. Thực sự, thời nước ta sống trong ngàn
năm Bắc thuộc tăm tối chỉ có một bộ phận nhỏ trí thức và quan lại ở kinh kỳ, phố thị
mới học nói tiếng Hán, viết chữ Hán. Còn ở làng xã thì lại quá xa xôi, mờ mịt. Làng
vẫn tồn tại với tiếng Việt.
Làng xã Việt Nam là một cơ cấu kinh tế – xã hội hạ tầng thật kì diệu vừa có
nhiều khiếm khuyết nhưng cũng thừa ưu việt. Nó đóng cửa trong tù túng, cố thủ chối
từ hội nhập nhưng trong thời đại lịch sử đặc biệt suốt ngàn năm Bắc thuộc lại là sức
mạnh đề kháng cường tráng chống lại sự đồng hóa và đã chống đồng hóa thành công.
Cây tre hiền hòa gắn liền với người Việt. Làng nọ cách làng kia chỉ một cánh đồng,
hay một con ngòi nhỏ cũng có thể… khác nhau vài ba nếp văn hóa dân gian; mỗi làng
thờ một ông Thành hoàng làng, mỗi làng một hội làng khác nhau… Thậm chí trong
một làng, mỗi dòng họ cũng tự thân cố kết và giữ gìn bản sắc, nếp nhà nếp dòng họ để

67
không lẫn với dòng họ khác, nhà khác. Lịch sử đã chứng minh: Nước ta đã nhiều phen
mất nước nhưng chưa bao giờ mất làng. Làng là đơn vị hành chính – kinh tế – xã hội –
nơi cố thủ cuối cùng trước nạn đồng hóa của phương Bắc. Ấy là chưa kể cách đây cả
ngàn năm địa lý nước ta hiểm trở, xa xôi, rừng rú hoang dã đầy lam sơn chướng khí,
người Hoa Hạ xứ lạnh không chịu nổi khí hậu nhiệt đới ẩm ướt gió mùa. Quan lại
người Hán có thể “với” xuống châu, huyện, chứ chưa bao giờ cắm xuống tận làng.
Làng vẫn do người Việt điều hành và “lũy tre làng” cứ như một bức tường vòng tròn
vô hình ngăn chặn thế giới văn hóa Hán xâm nhập.
Ngay cả tầng lớp trí thức ở kinh kỳ, phố thị khi bị cưỡng bức tiếp nhận Nho
học khuôn thước quy củ thì cũng bị văn hóa trồng lúa nước với nguyên lý MẸ làm
mềm đi đến mức khúc xạ Nho giáo. Chẳng hạn, Nho giáo áp đặt xã hội, dòng họ, gia
đình theo một hệ thống tôn ti trật tự với nguyên tắc “tam cương”, ngũ thường”. Nước
có quốc pháp, nhà có gia quy thì cái trật tự nghiêm ngặt này lại hoà trộn với lối ứng
xử Mẹ – Nước mềm mại: “Con hơn cha là nhà có phúc”, “Giàu vì bạn, sang vì vợ”.
Nho giáo áp đặt “tam tòng tứ đức”, “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” trọng nam
khinh nữ… thì người Việt lại phải kháng bằng “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông
cũng cạn”, “Của chồng công vợ”. Thực tế trong lịch sử người Việt đã thờ Mẹ – Âu
Cơ, đề cao, khâm phục Bà Trưng Bà Triệu, nữ tướng Lê Chân…
Cái căn nguyên phản kháng, chối từ Nho học trọng nam khinh nữ có từ gốc, từ
nền tảng văn hóa dân tộc Việt. Trước khi Nho học du nhập sang Giao Chỉ thì người
Việt cổ đã gọi mẹ là Cái: sông Cái, ngón chân Cái, đường Cái, cột Cái… “Con dại Cái
mang”. Mẹ nguyên bản của người Việt gắn với những gì to lớn, kì vĩ, cơ bản, trụ cột
chứ không phải người cha… Vua Mai Hắc Đế lấy họ mẹ chứ không phải học cha, sau
này nhiều quan lại nhà Lý cũng mang họ mẹ. Chính nguyên lý Mẹ trong văn hóa
người Việt là đã chứa đựng nội tại tiềm tàng sức kháng cự kiên cường chống đồng
hóa.
Sau khi Tần Thủy Hoàng chinh phạt vùng Lĩnh Nam của cộng đồng Bách Việt
thì sai Nhâm Ngao và Triệu Đà cai trị. Và Triệu Đà đã thực hiện chiến lược “Hoà tập
Bách Việt”, xin Tần Thuỷ Hoàng di dân 50 vạn người Hoa Hạ từ Trung Nguyên
xuống Lĩnh Nam để thực hiện cuộc trộn lẫn người Bách Việt và người Hoa Hạ, gọi là
“Hoa Việt dung hợp”.
Nhưng rồi, chính Triệu Đà và những người Hán di cư đi đồng hóa thì lại bị
đồng hóa lại. Ly khai nhà Tần, chống lại nhà Tần, đến khi Lục Giả theo lệnh Hán Cao
Tổ xuôi Nam phủ dụ thì Triệu Đà đã biến thành người Việt lúc nào không biết: Triệu
Đà ở nhà sàn, ăn trầu cau bôi vôi, đôi khi còn bôi răng đen và vẽ hình săm trên mình
để hòa nhập (hay là mị dân, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của người Việt?) Trong
Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép về “vua Triệu Đà”: “Khi sứ đến, vua ngồi xổm mà
tiếp Lục Giả”… Vua ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất
cả lễ nghĩa”. Sức mạnh văn hóa tiềm tàng của người Việt như một dòng nước ngầm
âm thầm chảy trong lòng đất đã làm cho văn hóa ngoại lai dần dần biến đổi ra thuần
Việt đến mức không nhận ra.
Nói đến việc chống đồng hóa, dân gian vẫn lưu truyền một nhân vật tên là Cao
Biền giỏi địa lý và phong thủy vâng lệnh vua Đường sang nước ta vừa cai trị vừa đi
trấn yểm long mạch, huyệt thiêng… để phá đất phát tích đế vương. Bỏ qua màu sắc
mang tính dị đoan thì chúng ta cũng đọc được tư tưởng, âm mưu, thủ đoạn của tập
đoàn phong kiến phương Bắc quyết triệt hạ văn hóa dân tộc ta, và dập tắt ý đồ xưng đế
vương chống lại “thiên triều” để dễ bề dồng hóa. Trong truyện cổ tích “Lẩy bẩy như
Cao Biền dậy non” do Học giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, có chi tiết: Cao Biền cưỡi
diều ném cái búa bằng gang để yểm bùa ở Núi Rồng-Nghệ An, bay đến Thanh Hóa
“thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to
được” nên Cao bỏ đi. Việc làm hủy diệt hồn khí thiêng sông núi nước Nam của Cao
Biền bị nhân dân ta căm ghét và một lần Cao Biền lại bay đi trấn yểm thì bị dân chúng
vùng Ninh Bình dùng cung nỏ bắn rơi. Cao Biền bị thương phải về Trung Quốc cứu
chữa, còn cái diều rơi xuống một quả núi ở Ninh Bình về sau người ta gọi là núi Cánh
Diều. Lịch sử được ghi lại bằng chữ viết và hình ảnh, nhưng lịch sử cũng được ghi
bằng huyền thoại dân gian. Bắn rơi cánh diều của Cao Biền như một thông điệp của
nhân dân gửi đi toàn cõi về cuộc chiến chống đồng hóa.
Mặc dù suốt ngàn năm đô hộ, phong kiến phương Bắc dùng đủ mọi thủ đoạn để
Hán hóa dân tộc ta, nhưng người Việt vẫn kiên cường giữ gìn văn hóa dân tộc. Quan
lại Hán và các thương gia người Hán mang nước tương, ngũ vị hương với cách nấu
chiên xào của người Hoa Hạ du nhập vào nước ta, nhưng cho đến ngày nay cơ cấu bữa
ăn của phần lớn cư dân Việt vẫn là nước mắm, hành tỏi, nghệ, giềng, bữa ăn thì ít thịt
mà nhiều cá, rau củ quả, luộc hấp và ăn tươi sống là chính.
Người Việt không chịu được cái tiết tấu nhịp điệu hùng tráng, thậm chí ồn ã
của nhã nhạc, kinh kịch, diễn xướng Trung Hoa nên vẫn cứ duy trì nhạc dân gian trữ
tình nhẹ nhàng là các điệu hát xoan, hát giặm, chèo, tuồng… Các tục nhuộm răng đen,
ăn trầu cau, dùng quan tài hình thuyền, hoặc đục khoét rỗng thân cây để đựng chôn
người chết, xăm mình…vẫn được giữ nguyên suốt mấy ngàn năm; chúng chỉ mai một
đi theo thời gian cách đây mấy chục năm để phù hợp với thời đại khoa học – kỹ thuật

69
mới.
3. Giai đoạn văn hóa thời Bắc Thuộc: Tiếp biến văn hóa Trung Hoa, Ấn
Độ (Xem chương 3)
4. Giai đoạn văn hóa truyền thống Đại Việt hội nhập và phát triển rực rỡ
Thành tựu chính trị - Tổ chức nhà nước - Luật pháp
Thành tựu kinh tế, khoa học kĩ thuật
Đời sống kinh tế: Nông nghiệp; Thủ công nghiệp; Khoa học kỹ thuật.
Thành tựu giáo dục, văn học nghệ thuật
Đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng
Đạo đức: Hoàn cảnh lịch sử và bối cảnh xã hội của nước Đại Việt từ thế kỷ X
đến thế kỷ XIX đã ảnh hưởng sâu sắc đến đạo đức xã hội. Trong khoảng thời gian từ
thế kỷ X đến XV, tư tưởng yêu nước thương dân được xem là tiêu chuẩn đạo đức cao
nhất trong đánh giá con người và các hoạt động xã hội. Đền thờ Đồng Cổ, Hai Bà
Trưng, Phùng Hưng... được các vua nhà Lý dựng ngay ở Kinh thành.
Những người có công lớn với đất nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi v.v... được cả nước tôn thờ. Hội làng Gióng (Phù Đổng - Bắc Ninh) với nội
dung lễ hội chống ngoại xâm được nhân dân cả nước về dự. Chuẩn mực đạo đức đó
thạm chí đã hướng các sư có tài năng và có tâm huyết vào con đường nhập thế cứu
dân giúp nước. Phù Văn quốc sư đã khuyên vua Trần Thái Tông khi vua này có ý định
đi tu ở núi Yên Tử: "Phàm đã làm vu trong thiên hạ, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm
tấm lòng của mình" .
Tôn trọng người già là một đạo đức phổ biến ở nơi thôn xóm và được nhà nước
đề cao. Mới lên ngôi, Lý Công Uẩn "Xa giá về châu Cổ Pháp", ban tiền, lụa cho các
bậc kỳ lão về kế sách dựng nước. Các đại thần như Lưu Thánh Đàm, Tô Hiến Thành...
rất được các vua nhà Lý coi trọng. Khi có công việc cần góp ý cho triều đinh, vua có
thể cho mời người già dự tiệc yến và xin ý kiến như Hội nghị Diên Hồng đã diễn ra
khi quân xâm lược Nguyên vào nước ta.
Tôn giáo, tín ngưỡng: Tục thờ cúng tổ tiên là một phong tục lâu đời của người
Việt. Gia đình nào dù nghèo hay giàu cũng đều có bàn thờ tổ tiên và hàng năm cúng
giỗ cha mẹ, ông bà. Con cháu xa nhà đến ngày giỗ ông bà, cha mẹ đều nhớ về quê.
Những dòng họ lớn, có học thức thường soạn gia phả để giáo dục các thế hệ tiếp giữ
gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình.
- Lễ hội vẫn là những sinh hoạt hào hứng nhất và mang nhiều bản sắc dân tộc.
Bên cạnh những ngày hội mùa, hội thần, hội cầu mưa... cổ truyền, xuất hiện hàng loạt
lễ hội như: Lễ tết Nguyên đán, Lễ sinh nhật vua, Hồi thề trăm quan, Lễ Thanh minh,
Tế Đoan Ngọ, Rằm tháng 7….
5. Giai đoạn văn hóa hiện đại
5.1. Thời cận đại

Tiếp xúc văn hoá Đông Tây và quá trình chuyển biến văn hóa - xã hội ở Việt
Nam thời cận đại là một vấn đề lớn trong tiến trình lịch sử văn hoá nói riêng và lịch sử
dân tộc nói chung. Thời kỳ cận đại, Việt Nam trở thành một thuộc địa điển hình của
thực dân Pháp. Từ rất sớm, thực dân Pháp đã có chính sách và ý đồ đồng hóa văn hóa
nước ta, xóa bỏ ảnh hưởng Nho học, hạn chế những giá trị truyền thống, tạo ra một
môi trường văn minh phương Tây cưỡng chế, du nhập hầu hết những loại hình sinh
hoạt văn hóa phương Tây vào Việt Nam nhằm thống trị lâu dài nước ta. Gần một thế
kỷ thống trị nước ta, thực dân Pháp đã có hàng loạt chính sách đưa văn minh phương
Tây vào nước ta với «sứ mệnh khai hóa văn minh» - một thứ lôgíc thực dân quen
thuộc. Trong quá trình đó, văn hóa - xã hội Việt Nam dần dần có sự chuyển biến, cùng
với sự thay đổi mô hình, thiết chế văn hóa, các hình thức sinh hoạt văn hóa mới cũng
dần hình thành ở nước ta. Nhiều lĩnh vực tỏ ra bắt rễ nhanh và đạt đến một trình độ
khá thuần thục trong toàn bộ sinh hoạt hoạt văn hóa nước ta. Trên cơ sở văn hóa
truyền thống giàu bản sắc, dân tộc ta đã «thâu hóa», tiếp biến những giá trị mới của
phương Tây, nhào nặn với những giá trị truyền thống, tạo nên những giá trị mới đích
thực, hiện đại và quý báu.
Cuộc đụng độ và tiếp xúc văn minh Đông Tây ở nước ta thời cận đại để lại
nhiều di sản văn hóa quý giá, đặc biệt là tạo ra tiền để của sự hiện đại hóa văn hóa
nước nhà. Sự chuyển đổi khá sâu sắc cơ cấu kinh tế - xã hội cũng như thể chế chính
trị, trong đó sự sụp đổ của nhà nước phong kiến - triều Nguyễn, sự xuất hiện chế độ
thuộc địa, sự giải thể xã hội cổ truyền và sự ra đời một xã hội theo mô hình phương
Tây (dù dưới hình thức thực dân)... đặt văn hóa Việt Nam trước áp lực của tính hiện
đại. Tất cả điều đó đã tạo nên những biến chuyển căn bản về mô hình, thiết chế, đến
các thành tố văn hóa, kể cả lối sống. Điều đó cũng để lại cho lịch sử văn hóa nước nhà
những bài học kinh nghiệm quý báu mà ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
dân tộc ta có những điều kiện để bảo vệ, xây dựng đất nước độc lập, cường thịnh và
chủ nghĩa xã hội với nền văn hóa mới dân tộc, khoa học và đại chúng. Công cuộc đổi

71
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hiện nay cung cấp cái nhìn mới, đúng đắn
hơn, tạo ra khả năng khai thác, phát huy những di sản đó.
2.4.2. Thời hiện đại
  + Đổi mới là quá trình vận động của văn hóa nước ta vươn tới những chuẩn
mực mới của tiến bộ và phát triển, như là những tiêu chuẩn chung của thế giới hiện
đại; thì chính trong đổi mới đã xuất hiện một quá trình khác của văn hóa - mang tính
biện chứng sâu sắc đó là quá trình trở về với những truyền thống văn hóa dân tộc, giữ
gìn bản sắc dân tộc.
Đây là một thành tựu rất có ý nghĩa trong văn hóa. Sự trở về với các giá trị
truyền thống, những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, diễn ra trên một "giải tần rộng"
phong phú:
- Trở về đạo lý dân tộc: bầu ơi thương lấy bí cùng. "Uống nước nhớ nguồn",
"Ăn quả nhớ người trồng cây"…'
- Tôn thờ những anh hùng, liệt sĩ trong lịch sử, trong các cuộc kháng chiến;
- Tu sửa, tôn tạo di tích văn hóa, lịch sử, đình, chùa…;
- Chăm lo các truyền thống họ mạc, thân tộc…;
- Khai thác phát huy các hội lễ, giữ gìn các tập tục tốt đẹp;
- Khai thác văn nghệ dân gian, hàng mỹ nghệ, kiến trúc dân tộc…;
- Các nghệ sĩ khai thác sâu các truyền thống nghệ thuật dân tộc trên các lĩnh vực:
Ca nhạc, kiến trúc, mỹ thuật, múa, thơ ca…;
- Sâu xa hơn là việc đề cao chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng tin về
Đảng, về nhân dân của mình.
Trong thành tựu chung, văn hóa các dân tộc thiểu số cũng đã phát triển khá nhanh,
góp phần tạo nên sự phong phú văn hóa Việt Nam.
- Tiếng vang của hoạt động mỹ thuật, múa rối nước, ca múa nhạc Việt Nam… ở
nhiều nước trên thế giới nói lên trình độ và sức quyến rũ của những truyền thống nghệ
thuật dân tộc.
+ Thể chế văn hóa được mở rộng, năng lực sáng tạo được tăng cường, quản lý
nhà nước ngày càng được đề cao đã mở ra môi trường văn hóa ngày càng phong phú,
đa dạng, được hướng dẫ và định hướng ngày càng rõ ràng hơn.
Sự hình thành những cơ chế mới, đội ngũ mới, những thiết chế và luật pháp là
những cơ sở rất quan trọng cho bước phát triển lâu dài của văn hóa nước ta.
+ Nhận thức về văn hóa đạt tới những tiến bộ mới: Văn hóa là động lực phát
triển. Văn hóa thấm vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xã hội văn hóa. Phải coi trọng
giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc. Văn hóa bắt đầu từ mối quan tâm rèn luyện của
mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng làng xóm…
Trong những năm gần đây, mối quan tâm thực tế của các cấp ủy, chính quyền
Trung ương và địa phương đối với văn hóa đã tăng lên. Nhu cầu phát triển văn hóa trở
thành mối quan tâm thường xuyên trong mỗi gia đình và cộng đồng. Những húy kỹ
thuật đã giảm bớt (về thị trường, tự do sáng tạo, giao lưu văn hóa…). Khối lượng
sách, báo, phim ảnh nghiên cứu về văn hóa tăng nhanh, Việt Nam học, Văn hóa học
từng bước hình thành. Chúng ta có thế và lực mới để phát triển văn hóa.
Những mặt yếu kém: Sa sút về tư tưởng, đạo đức, lối sống; đáng chú ý là sự sa
sút trong cán bộ, đảng viên; Thiếu những công trình văn học, nghệ thuật có sức mạnh
tư tưởng và thẩm mỹ cao; Sản phẩm văn hóa độc hại lan tràn. Hủ tục mê tín, dị đoan
phát triển; Trình độ thông tin còn thấp; Giao lưu văn hóa còn rất hạn hẹp; Đổi mới về
thể chế còn chậm. Việc tăng cường quản lý Nhà nước chưa theo kịp yêu cầu. Đầu tư
ngân sách thấp. Xuất hiện sự thiếu hụt cán bộ văn hóa chủ chốt.

73
Chương 7: Sáu vùng văn hóa Việt Nam
Thời gian 4 giờ

1. Khái niệm vùng văn hóa


- Vùng văn hóa là một không gian văn hóa nhất định, được tạo thành bởi các
đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lý của một hay nhiều tộc người, sáng tạo ra một hệ
thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện trong môi
trường xã hội nhân văn thông qua các hình thức ứng xử của con người với tự nhiên, xã
hội và ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử phát triển lâu dài.
- Có hai yếu tố tạo bản sắc văn hóa vùng:
+ Yếu tố về môi trường sinh thái - tự nhiên mà từ đó sinh ra/quy định cách
thức cư trú, canh tác, đấu tranh sinh tồn và phát triển.
+ Yếu tố chứa đựng các hình thức biểu hiện văn hóa của con người, tạo ra
cung cách nhận thức - hoạt động riêng, tạo ra nếp sống, phong tục tập quán, văn học
nghệ thuật, ngôn ngữ và các quan hệ giao lưu kinh tế - văn hóa,… giữa nội bộ cộng
đồng hay với cư dân của các vùng đất/ địa phương khác.

2.1. Vùng văn hóa Tây Bắc


2.1.1. Phân tích và phân vùng
Gồm các tỉnh Lai Châu, Lào Cao, Sơn La, Yên Bái và một phần tỉnh Hòa Bình,
hiện có hơn hai mươi tộc người cùng cư trú xen cài với nhau, nhưng trong đó tộc Thái
(với những yếu tố tiếp biến từ văn hóa Đông Nam Á) nổi lên như một sắc thái đại diện
cho văn hóa Tây Bắc.
Từ điều kiện cảnh quan, môi trường sống đã tạo nên những nét đặc trưng, cả về
vật chất dẫn tinh thần, cho văn hóa vùng này. Các tộc người trong vùng đều có tín
ngưỡng ''vạn vật hữu linh'' và tín ngưỡng nông nghiệp. Trong xã hội cổ truyền Tây
Bắc tuy chưa có văn hóa chuyên nghiệp (bác học), nhưng mỗi tộc người đều có một
kho văn hóa nghệ thuật riêng với ngôn từ giàu có và đủ thể loại, nghệ thuật múa dân
tộc cũng là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc (''xoè'' Thái đã trở thành biểu tượng
văn hóa Tây Bắc), âm nhạc và ca hát ở đây cũng rất đặc biệt: Hệ nhạc cụ hơi có lưỡi
gà bằng tre, bằng đồng, hoặc bằng bạc... không thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác, thơ
ca Tây Bắc được sáng tác để hát chứ không phải để đọc, nghệ thuật trang trí trang
phục đã ở một trình độ cao. Giao lưu văn hóa giữa các tộc người trong vùng diễn ra
rất tự nhiên.
2.1.2. Đặc điểm riêng
+ Chủ thể văn hóa Tây bắc chủ yếu là người Thái
+ Nông nghiệp lúa nước nổi tiếng với hệ thống dẫn nước “Mương – phai – lái –
lịn”; làm nương, rẫy.
+ Nhà chủ yếu là nhà sàn.
+ Tín ngưỡng “mọi vật có linh hồn”
+ Trang trí trang phục, khăn piêu Thái, cạp váy Mường, bộ trang phục phụ nữ
H’Mông
+ Văn hóa nghệ thuật Tây bắc có nhiều đặc sắc riêng (âm nhạc, thơ văn)

2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc


2.2.1. Phân tích và phân vùng
Gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, phần
đồi núi Phú Thọ, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc
là người Tày - Nùng, ngoài ra còn có các tộc khác như H'Mông, Dao, Hoa, Lô Lô, Sán
Chày..., nhưng trong đó văn hóa Tày - Nùng giữ vai trò chủ thể và có ảnh hưởng tới
văn hóa của các tộc người khác. Do vị trí địa lý - lịch sử mà từ lâu vùng đất này đã
gắn bó chặt chẽ với trung tâm đất nước, với người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Đồng thời
đây cũng là vùng cửa ngõ, hành lang giao lưu văn hóa giữa nước ta với phía Bắc, nên
bên cạnh những ảnh hưởng văn hóa của người Kinh thì còn thấy rõ thống ảnh hưởng
của văn hóa Hán. Những đặc trưng văn hóa chung của vùng được thể hiện qua nếp
sống lâu đời của các cư dân ở đây, qua các phương thức lao động, qua cách ứng xử
với môi trường tự nhiên, qua các thói quen trong sinh hoạt (ăn, mặc, ở, đi lại) của họ.
Tín ngưỡng của các cư dân ở đây pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng nông
nghiệp, thờ cúng tổ tiên...) với các ảnh hưởng Đạo giáo, Phật giáo và Khổng giáo.
Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng thể hiện tập trung ở các lễ hội cổ truyền (mà
điển hình là hội Lồng tồng - hội xuống đồng), và sinh hoạt văn hóa chợ, đây là một
sinh hoạt văn hóa đặc thù ở vùng Việt Bắc. Các thể loại văn học dân gian Việt Bắc
khá đa dạng và phong phú. Một điều đáng chú ý nữa là tầng lớp tri thức Tày Nùng
hình thành từ rất sớm đầu tiên là các trí thức dân gian (như các thày Mo, Then, Tào,
Pụt) và sau đó là tầng lớp trí thức Nho học, rồi Tây học. Ngày nay việc đào tạo trí
thức, cán bộ khoa học cho Việt Bắc cũng được Nhà nước ta rất chú ý.
2.2.2. Đặc điểm riêng

75
+ Chủ thể văn hóa Việt Bắc là người Tày – Nùng
+ Địa bàn: hệ thống núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng.
+ Nhà ở: nhà sàn và nhà đất
+ Nhạc cụ (khèn, sáo), múa sạp, múa xòe; trống đồng (Laha), tục xăm mình,
thuyền độc mộc (Kháng);
+ Tín ngưỡng: hướng con người tới thần bản mệnh, trời – đất, tổ tiên.
+ Lễ lồng tồng (xuống đồng), với hệ thống chữ Nôm Tày được xây dựng trong
giai đoạn cận đại. Tiếp nhận Nho-Phật-Lão, văn hóa chợ tình Sapa - là nơi để nam nữ
thanh niên trao duyên, tỏ tình.
2.3. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
2.3.1. Phân tích và phân vùng
Là vùng đồng bằng thuộc lưu vực những dòng sông Hồng, sông Mã, với cư dân
chủ yếu là người Việt và nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Châu thổ Bắc Bộ là
vùng văn hóa - lịch sử cổ, là cái nôi hình thành dân tộc Việt, là trung tâm của các nền
văn minh lớn: Đông Sơn, Đại Việt..., do vậy nó mang trong mình truyền thống văn
hóa dân tộc bền chắc, vừa thích ứng kịp thời với những biến động lịch sử - thể hiện ở
chỗ luôn tiếp thu những ảnh hưởng bên ngoài để tái tạo nên giá trị và bản sắc riêng -
vừa đóng vai trò định hướng cho đường đi của dân tộc và đất nước. Đây là vùng đất
có sức hút những tinh hoa muôn nơi, rồi từ đó lại tỏa đi muôn nơi những giá trị văn
hóa, khiến nó trở thành biểu tượng cao đẹp của văn hóa truyền thống Việt Nam.
2.3.2. Đặc điểm riêng
- Chủ thể: Kinh sống quần tụ thành làng xã.
- Biểu tượng: văn hóa Đông Sơn (trống đồng - cổ), VH Đại Việt (chùa - trung
cổ), cội nguồn của VH Trung Bộ, Nam Bộ.
-Nông nghiệp - lúa nước; đào mương, đắp bờ, đắp đê , VH lễ hội, nhiều danh
nhân, Đại học đầu tiên Quốc Tử Giám (1076).
- Vùng châu thổ Bắc Bộ nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, cái nôi
hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu, hiện tại cũng là vùng văn hóa
bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống.
- Văn hóa nghệ thuật phát triển; Đình chùa miếu mạo, tạo dựng văn hóa
làng. Nơi ảnh hưởng nhiều văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ; thơ ca, âm nhạc phát
triển. Dấu ấn đề lại nhưng nhà quân sự, nhà thơ nhà văn nổi tiếng: Nguyễn Trãi,
Nguyên Du, Hồ Xuân Hương. Kiến trúc có Kinh thành Thăng Long, Quốc Tử
Giám, chùa một cột.

2.4. Vùng văn hóa Trung Bộ


2.4.1. Phân tích và phân vùng
Bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà
Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Do vị
thế địa lý - lịch sử, Trung Bộ đã trở thành trạm trung chuyển, là nơi dừng chân của
người Việt trước khi tiến về phía Nam mở cõi. Nơi đây đã diễn ra sự giao lưu trực tiếp
giữa người Việt và người Chăm, người Việt đã tiếp nhận di sản văn hóa Chàm (cả hữu
thể và vô thể) và Việt hóa để trở thành của mình. Sự tiếp biến văn hóa này đã khiến
văn hóa của người Việt Trung Bộ thay đổi so với của người Việt Bắc Bộ. Điều kiện tự
nhiên, môi trường đã làm cho vùng đất này hình thành một nền văn hóa biển bên cạnh
nền văn hóa nông nghiệp.
2.4.2. Đặc điểm riêng
-Biểu tượng: (khô cằn, khắc nghiệt, bão lụt), con người cần cù, hiếu học
- Là nơi diễn ra sự giao lưu trực tiếp giữa người Việt và người Chăm.
- Xưa người Chăm sinh sống ở đây: VH Chăm thể hiện ở tháp Chàm, thờ Linga
– Yoni.
- Làng làm nông nghiệp tồn tại đan xen với làng của ngư dân. Bên cạnh lễ cúng
đình của làng nông nghiệp là lễ cúng cá ông của làng làm nghề đánh cá.
- Tiểu vùng xứu Huế

2.5. Vùng văn hóa Tây Nguyên


2.5.1. Phân tích và phân vùng
Bao gồm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng, là địa bàn sinh sống
của hơn hai mươi tộc người thuộc về hai nhóm ngôn ngữ chủ yếu: Môn - Khơmer và
MãLai - Nam Đảo. Đây là vùng tương đối khép kín, ít giao lưu với bên ngoài, nên tới
gần đây các dân tộc Tây Nguyên còn bảo lưu khá nguyên vẹn văn hóa truyền thống
của mình, một nền văn hóa ít nhiều mang tính bản địa Đông Nam Á cổ đại trước khi
tiếp xúc với hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Nền sản xuất nương rẫy đã qui
định những sắc thái văn hóa của vùng này: Toàn bộ văn hóa tộc người cơ bản vẫn là

77
văn hóa dân gian, tín ngưỡng nông nghiệp với trình độ tư duy thần bí, ''văn hóa cồng
chiêng'' và ''văn hóa nhà mồ'' là truyền thống đặc trưng nổi bật của văn hóa vùng này.
2.5.2. Đặc điểm riêng
Địa bàn: 5 tỉnh – Gialai, Kontum, Đăklăk, Đăk Nông, Lâm Đồng.
-Chủ thể: 20 dân tộc, các ngôn ngữ: Môn-Khmer và Nam Đảo
(Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Mơ Nông, Kơ Ho…).
Biểu tượng: nhiều trường ca (Sử thi), lễ hội đâm trâu, cồng chiêng 3.825 bộ;
nông nghiệp nương rẫy, già làng, nhà sàn dài / buôn.
- Lễ cầu an cho cây trồng vào đầu mùa lúa mới, Nghệ thuật tạo hình: Tượng
nhà mồ - chủ yếu là tượng người.
2.6. Vùng văn hóa Nam Bộ

2.6.1. Phân tích và phân vùng


Thuộc địa phận các tỉnh Nam Bộ, hình thành trên vùng châu thổ của hai hệ
thống sông chính là Cửu Long ở phía tây và Đồng Nai ở phía đông. Đây là một vùng
đất mới đối với người Khơ Me, Việt, Hoa. Điều kiện tự nhiên, môi trường của nam Bộ
đã tạo cho vùng đất này những sắc thái văn hóa tiêu biểu, những ''tính cách'' riêng của
mình. Đặc trưng đầu tiên dễ nhận thấy là quá trình giao lưu văn hóa diễn ra với một
tốc độ mau lẹ, tạo cho văn hóa Nam Bộ tính chất cởi mở, hướng ngoại. Văn hóa Nam
Bộ là sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống của vùng đất gốc (các tộc người Việt,
Hoa, Khơ-Me...) với điều kiện tự nhiên lịch sử vùng đất mới, làm nảy sinh những yếu
tố văn hóa riêng biệt thể hiện ở cả đời sống vật chất và tinh thần.
2.6.2. Đặc điểm riêng
- Địa bàn: lưu vực sông Đồng Nai và Cửu Long – kênh rạch chằng chịt
(5.700km), 50% lúa, 70% trái cây cả nước. đây là vùng đất cửa sông giáp biển.
- Chủ thể: Khmer (khoảng TK 13-14), người Việt đến khai phá vùng đất này
vào khoảng TK XVI, Chăm, Hoa (TK 18-19) hòa nhập vào dân bản địa:, Stiêng, Mạ,
Chơ Ro…
- Nhà làm ven kênh rạch (VM kênh rạch); bữa ăn giàu thủy sản; phóng khóang,
năng động; tín ngưỡng tôn giáo phong phú (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo,
tín ngưỡng địa phương như Cao đài, Hòa hảo… đi đầu trong quá trình giao lưu hội
nhập với VH phương Tây.
Chương 8: Danh nhân văn hóa việt Nam
Thời gian: 4 giờ
Phân tích được khái niệm và các ý nghĩa, đặc điểm về danh nhân, danh nhân
thế giới, danh nhân văn hóa, danh nhân văn hóa thế giới;
Phân tích và vận dụng được các tiêu chí khoa học để chọn ra được các danh
nhân văn hóa của các địa phương, của vùng văn hóa, của dân tộc và của nên văn hóa
thế giới;
Phân tích được các tiêu chí về danh nhân văn hóa VN và danh nhân văn hóa thế
giới mà chủ tịch Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc được phong tặng;
Phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập.
1. Nội dung chương:
1. Danh nhân
1.1.1. Khái niệm danh nhân
1.1.2. Khái niệm danh nhân văn hóa
- Danh nhân văn hóa là những con người, những nhân vật nổi tiếng, kiệt xuất,
có cống hiến lớn lao cho nền văn hóa dân tộc, được lịch sử, dân tộc biết đến, ghi nhận
và đánh giá cao; đại diện, biểu trưng cho một nền văn hóa dân tộc
- Danh nhân văn hóa thế giới là những danh nhân nổi tiếng trên thế giới, những
nhân vật có đóng góp xuất sắc không chỉ cho sự phát triển văn hóa dân tộc mà còn cho
sự phát triển văn hóa chung của nhân loại; là đại diện, biểu trưng cho một nền văn hóa
thế giới đa bản sắc, vừa thấm đẫm văn hóa dân tộc, vừa thấm đượm tinh hoa văn hóa
nhân loại. 
2.1. Tiêu chí danh nhân văn hóa Việt Nam
2.2. Tiêu chí danh nhân văn hóa thế giới
2. Các danh nhân văn hóa Việt Nam
2.1. Nguyễn Trãi
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, tổ
tiên ông ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải
Dương).

79
Nguyễn Trãi chính là một trong số ít những vị quân sư kiệt xuất nhất trong sử
Việt. Vai trò của ông không khác gì Khổng Minh Gia Cát Lượng ở Trung Quốc, Đào
Duy Từ của chúa Nguyễn. Dù không trực tiếp cầm quân ra trận, những tư tưởng về
mặt quân sự của ông vẫn có tác động rất lớn đến kết cục của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
của Lê Lợi.

Nguyễn Trãi – nhà ái quốc lớn, anh hùng dân tộc:

Trong những năm bị giặc Minh giam lỏng ở Đông Quan, Nguyễn Trãi đã nung
nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù nhà”, khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn,
Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng Bình
Ngô sách, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân Lam
Sơn suốt mười năm kháng chiến. Một mình ông đảm trách cả một mặt trận quan
trọng: mặt trận chính trị ngoại giao. Với sở học uyên bác, trí tuệ sắc bén, ông đã liên
tiếp gửi thư cho bọn tướng giặc, đánh những đòn cân não làm tan rã tinh thần của
chúng.

Cuối cùng Nguyễn Trãi đã thực hiện được ước mơ cháy bỏng của ông: đánh đuổi
được giặc Minh, mang lại độc lập cho đất nước. Chính ông đã thay mặt Lê Lợi viết
bản Bình Ngô đại cáo tổng kết chiến thắng oanh liệt của dân tộc.

Ngay cả khi bị bọn lộng thần đố kị, vu cáo, thậm chí bị hạ ngục, khiến ông buộc
lòng phải hai lần xin về trí sĩ tại Côn Sơn, tấm lòng yêu quốc ái dân của ông vẫn
không.

Trọn cả cuộc đời cống hiến cho nước, cho dân, lập được những kì tích sáng chói,
Nguyễn Trãi trở thành một anh hùng dân tộc vĩ đại, kế tục truyền thống của Hai Bà
Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo… đời trước, sát cánh với người anh hùng cứu
nước Lê Lợi đương thời.

Nguyễn Trãi – nhà chính trị kiệt xuất, bậc hiền tài quốc gia.

Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cộng sự với triều đình nhà Lê
với tư cách một nhà chính trị, một nhà mưu lược. Ông đã thi thố tài kinh bang tế thế
trên các mục tiêu chiến lược: đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước, xây
dựng triều đại Hậu Lê thành một triều đại hưng thịnh. Bên cạnh đó ông xây dựng một
sự nghiệp văn chương kì vĩ.
Suốt cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đã tỏ rõ ông là một nhà chính
trị kiệt xuất có tầm tư tuởng cao nhất của thời đại bấy giờ. Đánh giặc đương nhiên
phải dùng tới vũ dũng. Nhưng đối lập với những kẻ hữu dũng nhưng vô mưu, vô trí,
vô nhân, Nguyễn Trãi, với tầm vóc của một nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, vị
quân sư của Lê Lợi, đã cống hiến và đặt nền móng tinh thần, tư tưởng cho cuộc kháng
chiến.
Khoan dung độ lượng: Mở lượng khoan hồng đối với quân địch thất bại, giữ tình
hòa hiếu lâu dài giữa hai nước cũng là một trong những tư tưởng quân sự chủ đạo của
Nguyễn Trãi.
Ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã chủ trương vừa đánh, vừa tiếp
xúc, trao đổi thư từ với các tướng lĩnh nhà Minh, có đánh, có hòa, đấu tranh có lý, có
tình thuyết phục phù hợp với tâm lý, tư tưởng của những đối tượng khác nhau, làm
cho chúng phải nể phục.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sau trận tập kích thành Đa Căng trên đường
tiến vào Nghệ An vào tháng 9/1424, nghĩa quân Lam Sơn càng đánh càng thắng lợi.
Trong trận chiến ở Tây Đô, nghĩa quân Lam Sơn bắt được nhiều vợ con quân địch,
nhưng đều tha cho về nhà làm ăn, khiến danh tiếng của nghĩa quân lại càng vang dậy.

Những đóng góp của Nguyễn Trãi – nhà tư tưởng, nhà chính trị kiệt xuất, bậc
hiền tài quốc gia – đã giúp cho triều đại Hậu Lê tiến bộ vượt bậc và đạt tới cực thịnh
vào đời Lê Thánh Tông. Nguyễn Trãi xứng đáng sánh ngang với các nhà chính trị lỗi
lạc của mọi thời đại.

Nguyễn Trãi – Một nhân cách vĩ đại

Ngoài những cống hiến vô cùng lớn lao cho đất nước, Nguyễn Trãi được toàn thể
dân tộc tôn vinh còn vì nhân cách cao cả của ông.

Con người có nhân cách là người biết tự trọng, quyết chí tu thân, có lí tưởng sống
cao đẹp và suốt đời hành động theo lí tưởng đó.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Nguyễn Trãi đã mang nặng hoài bão nhập thế giúp đời.
Thiên tài của ông đã may mắn gặp được bậc minh quân, được trọng dụng trong công
cuộc vĩ đại: đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại nền thái bình thịnh trị cho đất nước.

Và ông hướng tới một lí tưởng mới: nếu không còn điều kiện để làm một quốc sĩ
thì hãy làm một con người thật sự trong sạch và thánh thiện.

Ông hiểu thấu rằng luân lí, đạo đức, thuần phong mĩ tục… là nền tảng cho đời
sống hạnh phúc lâu dài của con người.

81
Không hề giáo điều với chủ nghĩa ẩn cư, khi được ông vua trẻ Lê Thái Tông mới
lên ngôi mời ra giúp việc triều đình, Nguyễn Trãi lại vui vẻ “nhập thế”. Ông lại lao
vào một cuộc chiến đấu mới hết sức gay go. Với trách nhiệm của một bậc lương thần,
ông ra sức chèo chống để hạn chế những hành động sai quấy của cả vua lẫn bọn quan
lại trong triều. Chính vì vậy, ông trở thành tảng đá cản dòng đối với bọn gian thần.

Nguyễn Trãi – nhà văn hóa lớn

Nguyễn Trãi là nhà văn lớn toả bóng rợp ngàn năm cho hậu thế. Trước ông, thơ
nôm đã xuất hiện và còn để lại chứng tích ở đời Trần với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố,
Chu Văn An, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Biểu… (hầu hết tác phẩm của họ đã thất
truyền). Những tác phẩm còn sót lại được viết khá bóng bẩy nhưng vẫn còn mang
nặng khuôn sáo thơ cổ điển Trung Hoa.

Thơ quốc âm của Nguyễn Trãi là di sản quí báu nhất của thời kì sơ khai nền văn
học dân tộc. Ông chính là một trong những “ông tổ thơ nôm” đã đặt nền móng cho
nền thơ ca thành văn của dân tộc sẽ phát triển không ngừng ở các thời đại sau.

Nghệ thuật quân sự - Đánh vào lòng người


Đánh vào lòng người (tâm công kế) là chiến lược cơ bản đã được Nguyễn Trãi
dâng lên Lê Lợi trong Bình Ngô sách, góp phần quyết định vào cuộc kháng chiến
chống quân Minh.
Trong Ức Trai di tập, Nguyễn Trãi chỉ chú trọng "đánh vào lòng người". Tâm
công kế là chủ trương đánh vào lòng địch với hai phương thức chủ yếu là dụ hàng các
tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân, khi thì để hòa hoãn tạm thời với địch để bảo
toàn lực lượng, khi ưu thế thuộc về nghĩa quân thì dùng lý lẽ để buộc địch chấm dứt
chiến tranh, rút quân về nước.
Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã triệt để tiến công ngoại
giao, kết hợp với đấu tranh quân sự. Khi quân địch bị dồn vào thế bất lợi, nghĩa quân
Lam Sơn không tiến hành đánh địch ngay mà kết hợp giữa việc bao vây và kêu gọi kẻ
địch đầu hàng. Đây là nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh của Nguyễn
Trãi.
Coi trọng đánh vào tinh thần, tư tưởng quân địch, làm suy sụp ý chí chiến đấu
của chúng, thực hiện "không đánh mà thắng". Đó là một trong những tư tưởng quân sự
xuyên suốt và độc đáo nhất của Nguyễn Trãi. 
Thực hiện tâm công kế, trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi 5 lần
trực tiếp vào thành quân Minh vận động chúng đầu hàng, bản thân ông cũng đã nhân
danh Lê Lợi và nghĩa quân viết trên 60 bức thư cho các viên tướng chỉ huy của nhà
Minh như Vương Thông, Sơn Thọ, Phương Chính, Thái Phúc, Dã Tung, Liễu
Thăng… để lên án hành động của quân xâm lược và dụ chúng đầu hàng để tránh phải
đối đầu trực tiếp.
Theo quan điểm của Nguyễn Trãi, đánh vào tinh thần là trước tiên, rồi mới
đánh vào thành trì. Trong 15 thành quân Minh trấn giữ, nghĩa quân chỉ tiêu diệt hai
thành bằng bạo lực vũ trang, số còn lại đều bằng vận động, dụ hàng hoặc buộc địch
phải giao nộp đại bản doanh của chúng.
Nhờ chiến thuật đúng đắn này, Nguyễn Trãi vừa tránh cho nghĩa quân Lam Sơn
chỗ mạnh của quân Minh trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, vừa tiết kiệm xương
máu binh sĩ để kháng chiến lâu dài.
Bên cạnh vận động kẻ thù, Nguyễn Trãi cũng tích cực kêu gọi ngụy quân lầm
đường lạc lối quay về với chính nghĩa cũng là một chiến thuật quân sự độc đáo của
Nguyễn Trãi. Đây cũng là mũi tiến công quan trọng, góp phần làm suy yếu nhanh
chóng chế độ đô hộ của nhà Minh.
2.2. Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông (1442-1497) có tên húy Lê Tư Thành, là vị hoàng đế thứ năm
của nhà hậu Lê.
Thứ nhất, Ông có công lớn trong việc mở rộng lãnh thổ dân tộc.
          Năm 1470, vua Champa là Bàn La Trà Toàn, một mặt cầu viện nhà Minh, mặt
khác xuất 10 vạn quân ra cướp Hoá Châu (Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà nẵng
ngày nay). Để chấm dứt sự quấy phá của Champa, vua Lê Thánh Tông thân chinh
đem 26 vạn quân đi đánh Champa, vua Trà Toàn bị đánh bại. Sau chiến thắng này,
vua Lê Thánh Tông cho một số quân đóng tại kinh đô Champa chứ không rút hết về
nước như trước nữa. Trong khi khi vua Lê Thánh Tông đánh vào kinh đô của Champa
thì một viên tướng của Champa là Bố Trì Trì đem quân chạy về phía Nam đèo Cả, tự
lập làm Vua, xin sắc phong được nhà Lê đồng ý. Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài
ở phía Nam, vua Lê Thánh Tông cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả
(Bình Định và Phú Yên ngày nay) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lại
lấy phần thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Cheo Reo để Lập nước Nam Bàn.
          Như vậy, bằng việc xuất quân đánh vào kinh đô Đồ Bàn. Vua Lê Thánh Tông
không những đã lấy lại được vùng đất Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay
mà còn mang về cho lãnh thổ Đại Việt thêm phần đất Bình Định. Biên giới Đại Việt
về phía Nam kéo dài đến đèo Cù Mông.

83
Thứ hai, đưa Đại Việt trở thành quốc gia hùng cường trong khu vực.
          Việc đầu tiên mà Lê Thánh Tông làm sau khi lên ngôi vua chính là xây dựng
cho mình một bộ máy rường cột hoàn chỉnh.
          Vua Lê Thánh Tông ít sử dụng con cái của các bậc trung thần có công trước đó
mà chú trọng sử dụng nhân tài được đào tạo Nho học đương thời. Câu nói “Hiền tài là
nguyên khí của quốc gia” do Thân Nhân Trung biên soạn, chính là ở thời đại thịnh trị
này của vua Lê Thánh Tông. Điều này giúp cho quanh vua Lê Thánh Tông toàn là
những người tài như Quách Đình Bảo, Phan Phu Tiên, Thân Nhân Trung, Ngô Sĩ
Liên, Lương Thế Vinh, Vũ Hữu, Đỗ Nhuận, Nguyễn Quang Bật. Họ là những người
tài giỏi thật sự, chẳng con ông cháu cha gì hết, ở đó cùng với ông, tất cả cùng nhau
góp trí tuệ để xây dựng nên một Đại Việt hùng cường và giàu mạnh.
Về mặt vũ khí quân sự, theo các sử gia, dưới thời Lê Thánh Tông đã có những
tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ thuật và sáng chế cùng kỹ năng chế tạo vũ khí cực
kỳ tinh xảo của Đại Việt thời nhà Hồ về vũ khí tầm xa như hỏa thương, hỏa hổ, súng
thần công,… hợp với số vũ khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc kháng
chiến với nhà Minh đã tạo nên cho Đại Việt một kho vũ khí đa dạng và hùng mạnh, có
thể vượt xa so với vũ khí châu Âu cùng thời về sát thương và chất lượng.
Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, đề cao ý thức độc lập, chủ quyền, bảo vệ
biên cương, xây dựng vũ khí quân sự tân tiến, Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm
các chính sách phát triển kinh tế như: sửa đổi luật thuế khoá, điền địa, khuyến khích
nông nghiệp, mở đồn điền, kêu gọi người dân phiêu tán về quê, đặt ra luật quân điền
chia đều ruộng cho mọi người. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới
thời trị vì của vua Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại
Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Thương mại và giao dịch buôn bán
với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân
đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiện cho việc mua bán, Lê Thánh Tông đã từng khuyến
dụ các quan rằng: “Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở
đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày
họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh
giành khách của nhau”.
Về mặt văn hoá, Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn
hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn
hóa dân tộc. Các tác phẩm: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc
âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ… là những giá trị văn hóa
tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Không chỉ vậy, Lê Thánh Tông còn là một nhà
thơ lớn. Không chỉ làm thơ, mà vua còn sáng lập ra Hội Tao đàn Nhị thập bát tú gồm
28 học giả giỏi nhất Đại Việt thời bấy giờ.
          Thứ ba, Vua Lê Thánh Tông đóng góp vào lịch sử dân tộc một bộ luật rất
tiến bộ mang tên “luật Hồng Đức”.
          Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác của bộ Quốc triều hình luật. Luật Hồng
Đức là một công trình pháp luật tiêu biểu của nhà Hậu Lê.
Bộ luật Hồng Đức được coi là bộ luật nổi bật nhất, quan trọng nhất và có vai trò rất
đặc biệt nhất trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam.
Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác của bộ Quốc triều hình luật (Lê triều
hình luật). Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại
chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân,
của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định của bộ luật tập chung
bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại.
Đặc biệt bộ luật Hồng Đức còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền
thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của
quốc gia…
Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu
pháp luật của các triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến
Trung Hoa để xây dựng lên một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của
Việt Nam.
Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già yếu… được xếp vào nhóm
“đối tượng dễ bị tổn thương” cần có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng thì hơn 500
năm trước, trong bộ luật Hồng Đức đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội,
nhất là của quan chức đối với nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm
tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê.
Có thể nói bộ luật Hồng Đức hay Quốc triều hình luật là văn bản pháp lý bậc
nhất, là đỉnh cao nhất của thành tựu pháp luật Việt Nam so với các triều đại trước đó
và cả về sau. Đánh giá về giá trị của bộ luật Hồng Đức, sách Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú viết: “Đời vua Lê có ban hành bộ Hồng Đức hình luật,
các đời sau vẫn theo bộ luật ấy”.[14, tr304]

85
Những điều đó đã đủ thấy rằng bộ luật Hồng Đức đã được vận dụng vào công
quyền Việt Nam và được xem là chuẩn mực của nền cổ luật nước ta qua nhiều triều
đại; bên cạnh tính giai cấp nó còn mang tính nhân đạo, tiến bộ và tính dân tộc đặc
trưng.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định vua Lê Thánh Tông là vị vua có rất nhiều
đóng góp cho sự phát triển của dân tộc.
          Mặc dù, là một minh quân, với nhiều công lao to lớn như chúng tôi đã trình bày.
Nhưng cuộc đời của vị vua này cũng mang nhiều khiếm khuyết đáng trách. Sau đây,
chúng tôi xin mạn phép luận bàn về những hạn chế xoay quanh của đời vị vua này như
sau:
Thứ nhất, Lê Thánh Tông được Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét:
“ Những công trình thổ mộc vượt quá quy mô xưa, tình nghĩa anh em thiếu hẳn lòng
nhân ái. Đó là chỗ kém vậy.” [9, tr207] Sở dĩ, có chuyện đánh giá như vậy là vì vua Lê
Thánh Tông đã thiếu tình người trong việc đối đãi với những anh trai của mình.
Theo các bộ chính sử thời phong kiến của nước ta, Lê Nghi Dân là con trưởng
của vua Lê Thái Tông –Lê Nghi Dân đã được vua cha lập làm Hoàng thái tử. Sau sự
việc chính biến Thiên Hưng, Lê Nghi Dân lên ngôi vua, 8 tháng sau, Lê Nghi Dân bị
phế truất bởi các đại thần đứng đầu là Lê Lăng. Sau khi phế truất Lê Nghi Dân, các
đạu thần có ý muốn đưa anh trai của Lê Thánh Tông lên làm vua là Lê Khắc Xương,
nhưng ông này một mực từ chối. Sau đó, mới đến lượt Tư Thành được chọn lên ngôi.
Chuyện chẳng có gì đáng để bàn bởi đây là một quyết định sáng suốt và có lợi cho dân
tộc.
Nhưng hành động sau đó của vua Lê Thánh Tông xứng đáng là vết đen lớn
nhất cuộc đời ông. Vua Lê Thánh Tông đã bức tử anh trai Lê Khắc Xương của mình,
buộc các con của Lê Khắc Xương phải đổi sang họ Bùi (họ mẹ) để trừ hậu họa khi đã
ở đỉnh cao của quyền lực.
Thứ hai, Năm 1464, Lê Thánh Tông chính thức ban chiếu minh oan cho
Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá. Tước bá này là hạ cấp của Nguyễn Trãi
lúc sinh thời. Cho đến năm 1512, Lê Tương Dực mới truy tặng Nguyễn Trãi làm Tế
Văn hầu. Nguyễn Trãi là công thần số một của nhà Lê. Ông cũng chết oan do thói xử
bạc đối với công thần mà họ Lê học ở Chu Nguyên Chương (thái tổ nhà Minh). Dù Lê
Thánh Tông có rửa oan cho Nguyễn Trãi nhưng hạ tước phẩm cho một người đã mất
là một việc làm thiếu rộng lượng và đáng chê trách.
Thứ ba, việc Lê Thánh Tông đối xử với Trường Lạc hoàng hậu của mình
không được chu toàn. Ông giam hoàng hậu vào lãnh cung khiến bà oán hận. Về sau
khi nhà vua bị bệnh, lở loét khắp người, theo sử sách ghi lại đây là bệnh giang mai.
Việc lây nhiễm bệnh này cũng qua con đường tình dục. Sử thần đương thời là Vũ
Quỳnh đã dám bình luận “vua nhiều phi tần quá nên mắc phải bệnh nặng (bệnh giang
mai).”Nhắc lại người vợ của vua bị nhốt vào lãnh cung. Khi nghe tin vua lâm bệnh
trầm trọng, bà đã hết sức “đau buồn” cầu xin được gặp nhà vua để làm trọn “tình
nghĩa” vợ chồng. Bà đã tẩm thuốc độc vào tay rồi xoa lên các vết thương đang lở loét
ấy, khiến bệnh của nhà vua càng thêm trầm trọng, dẫn đến nhanh chóng tử vong. Việc
này, đã được cố giáo sư Trần Quốc Vượng, một trong tứ trụ của nền sử học Việt Nam
giải ảo.
2.3. Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà
văn hoá lớn của thời Lê -Mạc - một nhà trí thức có cuộc đời hoạt động đặc biệt, đã để
lại nhiều tác phẩm thơ văn lớn phản ánh suy tư của ông về cuộc sống. Những tư tưởng
đạo đức của ông phản ánh sâu sắc thời kỳ biến động dữ dội của xã hội Việt Nam thế
kỷ XVI. Tư tưởng nhân đạo, thân dân, yêu hoà bình, khoan dung, gắn con người với
thiên nhiên, tin tưởng vào khả năng của thế hệ trẻ… làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trở
thành nhà văn hoá lớn của nhân dân Việt Nam.
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm vào tuổi trưởng thành thì nhà Lê cũng bắt đầu giai
đoạn cực kỳ suy yếu dưới thời vua Lê Uy Mục (1505-1509) " vua nghiện rượu, hay
giết người, hoang dâm, thích ra oai, giết hại người tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ
ngoại chuyên quyền, trăm họ oán giận, người đời gọi là vua Quỷ". Tiếp đó là triều vua
Lê Tương Dực (1510- 1516) "mặt thì đẹp mà người lệch,tính thích dâm, là vua Lợn"
"ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm
cướp nổi dậy" (Đại Việt sử ký toàn thư). Năm 1508, Mạc Đăng Dung vốn là chàng
đánh cá khoẻ ở làng Cổ Trai thuộc vùng Đồ Sơn đã thi trúng võ cử được lên chức Đô
chỉ huy sứ. Năm 1526, ông được phong tước Thái Sư và đã hiếp vua phải nhường ngôi
để lập ra nhà Mạc. Trong nước biến loạn, nhà Mạc tuy thay thế nhà Lê nhưng chưa
được lòng dân. Cựu thần nhà Lê là Lê Ý, Nguyễn Kim dựng cờ “Lê Trung hưng” ở
Thanh Hoá. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở ẩn suốt hai mươi năm, cùng hai người bạn thân
là Bùi Doãn Đốc và Nguyễn Thừa Hưu (tam hữu: Tùng, Mai, Trúc) không ra dự thi
tiến sĩ. 

87
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt tới trình độ cao của trí tuệ đương thời, đặc biệt là
về lý số. Ông thông thiên văn, đạt địa lý và tri nhân tâm. Ông khát khao cống hiến tài
năng và trí tuệ cho đất nước và nhân dân. Nhưng đất nước đầy binh lửa, núi xương,
sông máu chất ngất thảm thê “Mãn mục can qua khổ vị hưu” (Trước mắt đầy rẫy
chiến tranh, cái khổ bao giờ hết !). Giữa cái ren rối và bất ổn của thời cuộc, dù học
rộng, tài cao thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không dễ dàng toàn tâm phù Lê, phù Mạc
hay phù Trịnh? Dù thông tuệ đến sâu cùng quy luật của trời đất, xã hội và lòng người,
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không sao ngăn nổi khát vọng quyền lực của các tập đoàn
phong kiến Lê - Mạc - Trịnh. Và cuối cùng, ông đã nghiêng về giúp nhà Mạc. Trong
hơn 30 năm phò bốn triều nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng nhiều cựu thần nhà Lê
và sáu con trai đã đóng góp vào lịch sử phát triển đất nước một bước rất quan trọng.
Về mặt đạo đức, ông đã khơi gợi sự đổi mới kinh tế và đặc biệt là sự đổi mới về tư
tưởng trong quan hệ vua tôi. Khi thấy bọn gian thần lộng hành, lòng dân ly tán, đất
nước ngàn cân treo sợi tóc, muôn dân lầm than thống khổ, ông đã dâng sớ để chém
đầu bọn nịnh thần. Nhưng ý kiến của ông không được chấp nhận. Ông ghét bọn tham
nhũng và sống thẳng thắn, cương trực. Có người cho rằng ông là người ba mang, phục
vụ cả Trịnh, Nguyễn và Mạc. Qua các tác phẩm của ông thì thấy rõ tầm tư tưởng đạo
đức của ông rất rộng, gắn với nhân cách kẻ sĩ lúc đó. Nếu đúng là ông phục vụ cả
Nguyễn, Trịnh, Mạc thì ở đó, ta đã thấy ông nêu rõ cách xuất xử trong các thời loạn
lạc phải thông minh và mềm dẻo như thế nào.
Các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai đặc điểm lớn: một là sâu
sắc, hai là gần dân. Cả hai đặc điểm này đều gắn với bản chất triết lý thông tuệ và tính
dân dã của ông. Sống gần trọn thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe nhiều, nhìn
thấy nhiều, do đó suy tư rất nhiều. Người ta thường gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà
thơ, nhà triết lý đầy suy tư. Tính triết lý đó phản ánh rất rõ trong tư tưởng đạo đức của
ông. Sau khi đã “đọc khắp muôn thiên”, ông có tham vọng tổng kết các tri thức được
chung đúc trong dân gian, nâng lên hoàn chỉnh rồi lại trả về với cuộc sống thực. Vì
vậy, các lời răn dạy đạo đức của ông giản dị mà sâu sắc. Hầu như ông nhìn thấy
những người nông dân quanh thôn ấp đang chờ đợi lời khuyên nhủ của ông giữa cái
nhân tình thế thái bon chen, thiện ác lẫn lộn. Ông dặn dò mọi người: “Giữ miệng cho
hay biếng nói năng. Gìn lòng hôm sớm hãy khăng khăng”.
Các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ gắn với cuộc sống xã
hội mà còn gắn cả quan hệ của con người với thiên nhiên. Theo ông, chỉ có lao động,
chỉ có phấn đấu mới xây dựng được cuộc sống gắn bó với tự nhiên. Phải lao động,
phải phấn đấu con người mới được hưởng hạnh phúc trong tự nhiên. Ông luôn cầu
mong cho mưa thuận gió hoà. Ông mong mỏi những vụ mùa bội thu, xóm thôn no đủ,
thuyền về gối bến đông vui, chợ búa đi về tấp nập, trẻ chăn trâu ca hát, làng quê yên ả,
tiếng sáo diều ngân vang khắp đồng quê, người già câu cá bên suối. Khát vọng thực sự
của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nhà được sum họp, người người được hưởng hạnh
phúc. Trong tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm, để có mối quan hệ thiên -
nhân tương dữ thì mỗi người phải nỗ lực.
Trên cở sở doanh hư, cơ ngẫu, tiêu trưởng, lý số, phân tích xã hội trong sự vận
động và nhìn thấu suốt tận cùng cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã chỉ ra thế đất, thế nước và biện chứng của một nền hoà bình bền vững dài
lâu.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỷ XVI, nhìn thấy mọi đổi thay của đất
nước, mọi đau buồn của nhân dân, nhưng ông luôn lạc quan và tin tưởng. Ông viết
rằng: “Chín mươi thời kể xuân đã muộn,/ Xuân ấy qua thời xuân khác tươi”. Tư tưởng
của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sự trường xuân của mọi thế hệ là một tư tưởng đạo đức
lớn gắn bó với toàn bộ khát vọng đạo đức chung của dân tộc. Ông không coi sự tiếp
nối các thế hệ như đông tàn rồi xuân đến, như tre già rồi măng mọc. Ông cho rằng, thế
hệ nọ nối tiếp thế hệ kia như một mùa xuân mới tiếp nối một mùa xuân muộn. Cả
cuộc đời ông đã làm hết sức cho lý tưởng này. Ông tin các tài năng trẻ sẽ nở rộ, “nghé
đã mọc sừng thì nhất định sừng sẽ vượt qua tai”. Ông dầy công trao gửi cho thế hệ trẻ
những tri thức, niềm khát khao cuộc sống. Tuổi trẻ  không phụ công ông, đã trở thành
những Nguyễn Dữ, Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan danh tiếng, tiếp nối chí lớn
của thầy, góp sức vào phấn đấu cho cái thiện thắng cái ác, cái đẹp thắng cái xấu.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà văn hoá lớn, nhà thơ triết lý, nhà hiền triết thông kim
bác cổ, tài danh lỗi lạc "tác giả lớn của văn học thế kỷ XVI và của cả giai đoạn văn
học thế kỷ XVI, XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII" (Từ điển Văn học Việt Nam). Ông đã
để lại tập thơ chữ Nôm "Bạch Vân Quốc ngữ thi tập" "có cả ngàn bài" theo lời "Bài
tựa" của chính ông, và nhiều bài thơ chữ Hán. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập
đến nhiều vấn đề hiện thực xã hội, là tiếng nói về đạo lý ở đời. Vũ Khâm Lân đã khen
"văn chương của tiên sinh thường bộc lộ cái tấc dạ ưu thời mẫn thế, không cần điêu
luyện mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà ý vị, câu câu đều có ngụ ý răn
đời" "ý nghĩa thanh cao mà siêu thoát", Phan Huy Chú thì cho rằng đọc qua thơ ông,
dù nghìn năm sau còn tưởng như trăng trong, gió mát". 

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ

89
sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: "Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở". La
Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá
Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài
"Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi của tạo hóa). Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê
Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng Trình “ như
núi Thái sơn, sao Bắc Ðẩu / nghìn năm sau như vẫn một ngày/. Đạo Cao Đài đã suy
tôn ông là một trong ba vị Thánh cùng với Tôn Trung Sơn và Victor Hugo. 
2.1. Lê Quý Đôn
2.2. Nguyễn Đình Chiểu
2.3. Nguyễn Ái Quốc

You might also like