Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

Khoa luật Hành chính – Nhà nước

Lớp Luật Hành chính – Nhà nước 45(B)1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI

VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG


Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải
Nhóm: 08
Thành viên:
1 Tạ Hoàng Ý Nhi 2053801014188
2 Trần Thị Nhung 2053801014203
3 Lê Thị Như Quỳnh 2053801014228
4 Nguyễn Thị Thanh Thảo 2053801014245
5 Nguyễn Hoàng Đăng Huy 1953801090041
6 Võ Nguyễn Hà Duyên 1751101030020

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 10 năm 2021.


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1. CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG..........................1
Câu 1.1. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề
trên?........................................................................................................................... 1
VẤN ĐỀ 2. SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
................................................................................................................................... 4
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?....................................................................................................4
Câu 2.2. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?..................................4
VẤN ĐỀ 3. ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN
ĐƯỢC....................................................................................................................... 7
Câu 3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS
2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu;.............................................7
Câu 3.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không
thể thực hiện được được xác định như thế nào ? Vì sao ?..........................................8
Câu 3.3. Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể
thực hiện được có thuyết phục không ? Vì sao ?.......................................................8
VẤN ĐỀ 4. XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI
SẢN......................................................................................................................... 10
Câu 4.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?...............................................10
Câu 4.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên có xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì...............................12
Câu 4.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu.......................................................................................................................... 13
Câu 4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và
hợp đồng bị che giấu...............................................................................................13
Câu 4.5. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?..........................14
Câu 4.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ)?.......................................................................................................15
Câu 4.7. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ..................................................................................................15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao
2. Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP. Thủ Dầu
Một tỉnh Bình Dương;
3. Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức, Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 67-70.
4. Lê Minh Hùng (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam.
5. Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
1

VẤN ĐỀ 1. CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG


 Tình huống: Tháng 1 năm 2018, A (pháp nhân), B (cá nhân) và C (cá nhân) gửi
cho D một đề nghị giao kết hợp đồng (là điều khoản về phương thức giải quyết
tranh chấp, bằng văn bản và có chữ ký của cả 3 chủ thể). Tháng 1 năm 2020 và
tháng 2 năm 2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của
mình nhưng D không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
cho C (C không thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D).
Sau đó, các bên có tranh chấp về sự tồn tại của Hợp đồng (thỏa thuận về giải quyết
tranh chấp) và Tòa án đã xét rằng: (1) bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015; (2) chấp nhận
chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 BLDS 2015
và (3) chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.
Câu 1.1. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề
trên?
Suy nghĩ của nhóm về hướng giải quyết của Tòa án về sự tồn tại của hợp đồng về 3
vấn đề trên như sau:
 Vấn đề 1: Tòa án đã xét rằng bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sau đây viết
tắt là BLDS 2015)
Việc tòa nhận định rằng bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015 là hợp lí. Bởi lẽ:
 Đối với loại hợp đồng như trên, có hai trường phái đó là trường phái phát hành và
trường phái tiếp nhận. Việt Nam theo trường phái tiếp nhận.
 Căn cứ khoản 1 Điều 400 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng được giao kết vào thời
điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.” thì việc C không thừa nhận đã
nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D và D không chứng minh được đã gửi
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C. Việc không chứng minh được cộng với
C không thừa nhận này có thể hiểu theo hướng là C vẫn chưa nhận được chấp nhận
giao kết. Như vậy, hợp đồng vẫn chưa được giao kết nên không tồn tại là hợp lý.
 Vấn đề 2: Tòa án xét rằng việc chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp
lý theo quy định của Điều 394 BLDS 2015
2

Việc Tòa án xét rằng việc chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo
quy định của Điều 394 BLDS 2015 là chưa hợp lí lắm. Bởi lẽ:
Căn cứ Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 qui định:
“Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới
của bên chậm trả lời.
Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”
Khi Tòa án xét về sự tồn tại của hợp đồng phải xét trong cả hai trường hợp:
 Trường hợp (TH) 1: Nếu A, B, C có ấn định thời hạn trả lời thì thì việc trả lời chấp
nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó.
 Trường hợp (TH) 2: Nếu A, B, C không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp
nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý. BLDS đề cập
đến thời gian hợp lý nhưng không nêu rõ bao lâu là hợp lí sẽ làm cho việc xét xử và
áp dụng còn nhiều vướng mắt. Khoảng thời gian trong tình huống này là hai năm và
hai năm một tháng. Việc xác định nó có phải là khoảng thời gian hợp lí không còn
phải dựa vào nhiều yếu tố như: mức độ quan trọng, cần thiết của hợp đồng, hợp
đồng có những điều khoản chỉ phù hợp trong một thời gian nhất định, nhận định của
Tòa đối với nội dung của hợp đồng từ trong thực tế cuộc sống… mới có thể kết luận
được.
 Như vậy, theo nhóm thì ở vấn đề này vẫn chưa thật hợp lí.
 Vấn đề 3: Tòa xét rằng chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.
Việc Tòa xét rằng chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới là chưa hợp lí. Bởi
lẽ:
 Thứ nhất, căn cứ khoản 1 Điều 393 BLDS 2015: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn
bộ nội dung của đề nghị”. Tình huống nêu rõ: “Tháng 1 năm 2020 và tháng 2 năm
2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình”, mà
không nói gì thêm có thể hiểu là ông A chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị.
 Thứ hai, căn cứ Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 qui định:
“Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
3

được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới
của bên chậm trả lời.
Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.”
Như vậy, nếu như ở vấn đề hai Tòa án nhận định việc “chấp nhận chưa được thực
hiện trong thời hạn hợp lý” tức hợp đồng không thể có hiệu lực thì ở vấn đề 3 này
không thể nhận định rằng đây là một đề nghị giao kết mới được. Nếu nhận định như
vậy thì sẽ rơi vào trường hợp bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời và khi bên đề
nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận
này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
 Tóm lại, điều này là mâu thuẫn và chưa hợp lí.
4

VẤN ĐỀ 2. SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP


ĐỒNG
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng
trong giao kết hợp đồng?
Theo Khoản 2, Điều 404 BLDS 2005 quy định về Thời điểm giao kết hợp đồng
dân sự: “2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà
bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết.”. Tức là BLDS 2005 coi im lặng trong giao kết là một sự trả lời chấp
nhận giao kết.
Theo Khoản 2, Điều 393 BLDS 2015 quy định về Chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng: “2. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được
xác lập giữa các bên.”
Như vậy, điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS năm 2005 là BLDS 2015 đã bổ
sung chế định về im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng tại quy định về chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng, xem sự im lặng của bên được đề nghị không được
coi là chấp nhận đề nghị giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen
đã được xác lập giữa các bên.
Thực tế, trong thời gian qua, nhiều tranh chấp phát sinh từ việc im lặng trong khi
nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, việc BLDS 2015 quy định cụ thể vấn đề này
nhằm hạn chế những trường hợp phát sinh tranh chấp không đáng có từ việc im lặng
này. Hơn nữa, việc điều chỉnh này giúp mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh, phù
hợp với thói quen, tập quán giao kết hợp đồng, mua bán hàng hóa.
 Như vậy, BLDS 2015 đã khắc phục sự bất cập của BLDS 2005.
Câu 2.2. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng
chuyển nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa áp dụng Án lệ 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống trên là thuyết phục. Bởi lẽ trong án lệ 04/2016/AL việc ký kết hợp
đồng mua bán nhà của ông Tiến, bà Tý và ông Ngự, bà Phấn chỉ có chữ kí của ông
Tiến mà không có chữ ký của bà Tý trong khi diện tích đất chuyển nhượng là tài sản
của gia đình ông Ngự bà Phấn dẫn tới câu hỏi bà Phấn trước đó đã đồng ý cho việc
5

chuyển nhượng hay không? Bên cạnh đó trong tình huống trên, ông Chu và bà Bùi
chuyển nhượng đất của hộ gia đình mà không biết đã có sự đồng ý của các con của
2 ông bà hay chưa.
Trong cả hai sự việc trên, Án lệ 04/2016/AL cho biết có cơ sở xác định bà Phấn
biết chuyện chuyển nhượng nhà đất cho ông Ngự và bà Phấn, việc bà Tý khiếu nại
là không có căn cứ. Trong tình huống trên lại cho biết “ông Văn đã xây dựng
chuồng trại trên đất chuyển nhượng để ông Văn được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và gia đình ông Chu, ông Bùi không ai có ý kiến gì” 1. Như vậy ta thấy
Án lệ 04/2016/AL và tình huống trên là hai vụ việc tương tự nhau. Mà theo Nghị
quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về lựa
chọn, công bố và Áp dụng án lệ, “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên
cứu, áp dụng án lệ để giải quyết những vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có
tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau” (khoản 2 Điều
8)
Theo tác giả Đỗ Văn Đại : “Chúng ta thấy án lệ 04/2016/AL có hướng xử lý khá
thuyết phục nhưng việc vận dụng án lệ trong lĩnh vực hợp đồng hay lĩnh vực khác
không hề đơn giản do việc đánh giá tương tự rất khó…Cụ thể theo Tòa dân sự:
“Trên thực tế có nhiều trường hợp người quản lý tài sản chung (một trong các đồng
chủ sở hữu) chuyển nhượng tài sản thuộc sở hữu chung nhưng không có đủ các
đồng chủ sở hữu tham gia ký kết văn bản chuyển nhượng hoặc sự đồng ý bằng văn
bản của các chủ sở hữu chung khác. Tuy nhiên, có căn cứ xác định là những chủ sở
hữu chung này đồng ý việc chuyển nhượng đó,sau này do giá trị tài sản tăng lên
hoặc vì lý do nào đó, những chủ sở hữu chung này và cả người trực tiếp giao kết
hợp đồng chuyển nhượng tài sản, đã lợi dụng việc khi chuyển nhượng tài sản không
có sự đồng ý bằng văn bản của các chủ sở hữu chung khác để yêu cầu tuyên bố giao
dịch vô hiệu.Trong trường hợp này, Tòa dân sự cho rằng cần phải xác định đã có sự
thống nhất ý chí của các đồng chủ sở hữu về việc chuyển nhượng không vô hiệu do
vi phạm điều kiện về ý chí của các đồng chủ sở hữu. Qua thực tế xét xử, Tòa dân sự
thấy cần chấp nhận những căn cứ xác định của đồng chủ sở hữu là:

 Những chủ sở hữu chung biết chuyện và không phản đối;


 Những sở hữu chung này có tham gia một giai đoạn nào đócủa việc chuyển nhượng
như tham gia nhận tiền…;
1
Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
6

Tuy khi chuyển nhượng chủ sở hữu chung này không biết nhưng sau khi biết việc
chuyển nhượng đã sử dụng chung tiền chuyển nhượng hoặc người chuyển nhượng
chia tiền chuyển nhượng tài sản…”
 Tóm lại, xét thấy án lệ là khuôn mẫu cho các vụ việc có tính chất tương tự và được
sử dụng nhiều lần. Án lệ có tính bắt buộc đối với các vụ án tương tự. Mà như phân
tích ở trên, vụ việc bà Chu ông Bùi và vụ việc án lệ 04/2016/AL có tính chất tương
tự cho nên việc áp dụng án lệ 04/2016/AL là hợp lý.
7

VẤN ĐỀ 3. ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC


HIỆN ĐƯỢC
Tình huống: Ông A thế chấp quyền sử dụng đất của mình cho Ngân hàng. Hợp
đồng thế chấp đã được xác lập phù hợp với quy định về hình thức, đăng ký nhưng
trên đất có căn nhà thuộc sở hữu của người khác (không thuộc tài sản thế chấp). Khi
có tranh chấp, Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được.
Câu 3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS
2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu;
Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được quy định tại Điều
408 Bộ Luật dân sự 2015 như sau:
“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia
biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ
trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể
thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường
hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng
phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”
Khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 được coi là trường hợp đặc thù của hợp đồng vô
hiệu, và cũng là hoàn cảnh đặc thù của nghĩa vụ không còn tồn tại vì không có đối
tượng hoặc đối tượng của nghĩa vụ không khả thi 2
Ngoài các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì trong trường hợp
đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được thì việc giao kết, hình thành hợp
đồng cũng không có ý nghĩa do quyền và nghĩa vụ của các bên cũng không thể
được thực hiện. Chính vì vậy, Bộ luật bổ sung thêm trường hợp ngay từ khi giao
kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng bị vô hiệu. So
với Bộ luật dân sự năm 2005 thì quy định này của Bộ luật dân sự năm 2015 đã có 2
điểm mới:
2
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2 tr.226.
8

Thứ nhất, thời điểm để xác định đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện
được: khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 đề cập tới hai điều kiện đối tượng hợp đồng
không thể thực hiện được phải xảy ra vào trước thời điểm “ký kết” 3. Nghĩa là cho
tới khi hợp đồng được giao kết, thì đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện
được.
Thứ hai, điều luật đã bỏ đi cụm từ “vì lý do khách quan”. Điều này có nghĩa đối
tượng của hợp đồng không thể thực hiện được có thể vì lí do khách quan, hoặc vì lí
do khác không phải là khách quan. Khác với khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 thì
khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 quy định lí do này phải là “khách quan”. Điều này
gây ra những vướng mắc trong thực tiễn, đó là các trường hợp không thực hiện
được hợp đồng không chỉ vì lí do khách quan, mà còn vì các lí do khác, bao gồm cả
lí do chủ quan của các bên tham gia, hoặc đó là một thực tế, nhưng do sự sơ suất
chủ quan của bên bị thiệt hại mà hợp đồng không thể thực hiện được.
 Như vậy, theo BLDS 2015 thì lí do để hợp đồng được coi là vô hiệu do có đối
tượng không thực hiện được vào thời điểm giao kết hợp đồng, mà không cần phải
xác định là lí do khách quan hay chủ quan.
Câu 3.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng
không thể thực hiện được được xác định như thế nào ? Vì sao ?
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được không bị giới hạn.4 Bởi vì:

 Hiện nay các quy định của Bộ luật dân sự không cho biết thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu trên do đối tượng không thể thực hiện được là bao nhiêu.
 Bên cạnh đó, hợp đồng vô hiệu trong trường hợp rất đặc biệt là “đối tượng không
thể thực hiện” nên sẽ là thuyết phục khi chúng ta theo hướng thời hiệu yêu cầu Tòa
án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không bị giới hạn.
Câu 3.3. Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không
thể thực hiện được có thuyết phục không ? Vì sao ?
Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực
hiện được là thuyết phục. Bởi vì theo khoản 2 điều 408 BLDS 2015 quy định:
3
Tại khoản 1 Điều 411 BLDS 2005, điều này được viết là thời điểm “kí kết” hợp đồng. Thuật ngữ “kí kết”
trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa giao kết, xác lập hợp đồng.
4
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt
Nam 2018 (xuất bản lần thứ bảy), Bản án số 97-100, trang 788-789.
9

“Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia
biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ
trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể
thực hiện được.”
Trong trường hợp này :

 Ông A thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng thì ông A phải biết trên mảnh đất
đó có căn nhà không thuộc quyền sở hữu của mình. Nhưng ông A không cho phía
Ngân hàng biết.
 Bên cạnh đó, phía Ngân hàng khi thực hiện nhận thế chấp quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, ngân hàng sẽ tiến hành những thủ tục sau
với sự phối hợp cùng với khách hàng là bên thế chấp. Ngân hàng phải kiểm tra tính
pháp của tài sản thế chấp theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai 2013 về “Điều
kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa
kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; Góp vốn bằng quyền sử dụng đất”. Do đó,
Ngân hàng phải biết có căn nhà không thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp là ông
A.
10

VẤN ĐỀ 4. XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN
TÀI SẢN
 Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
 Nguyên đơn là bà Trần Thị Diệp Thủy khởi kiện bị đơn là bà Nguyễn Thị Thanh
Trang yêu cầu bà Trang trả lại cho nguyên đơn số tiền 100.000.000 đồng.
 Ngày 23/11/2013 bà Trang có mượn bà Thủy số tiền 100.000.000 đồng, có thiết lập
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đảm bảo cho việc vay mượn.
Nhưng đến hạn bà Trang chỉ trả cho nguyên đơn 5.000.000 đồng.
 Ngày 15/11/2016 nguyên đơn thay đổi nội dung khởi kiện yêu cầu bà Trang trả số
tiền còn lại. Tòa án tuyên bà Trang trả số tiền còn lại cho nguyên đơn, tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa 2 bên xác lập ngày 23/11/2013 vô
hiệu
 Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
 Năm 2009, bà Thu (nguyên đơn) cho bà Anh (bị đơn) vay tiền nhiều lần với tổng số
tiền là 3,7 tỷ đồng.
 Cuối năm 2009, vợ chồng bà Anh đề nghị cấn trừ đất ở Bình Dương cho bà Thu để
trả nợ, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết mà làm thủ tục chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Vượng (anh trai bà Anh) với giá 680 triệu đồng, thực tế,
giá nhà đất trên là gần 5,6 tỷ đồng và các bên vẫn chưa hoàn tất thủ tục chuyển
nhượng. Ngày 14/02/2010, bà Anh trả bà Thu 600 triệu đồng. Bà Thu khởi kiện yêu
cầu vợ chồng bà Anh trả 3,1 tỷ đồng và tiền lãi theo lãi suất Nhà nước.
 Tòa án xác định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh và vợ
chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà
Thu, đồng thời buộc vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc và lãi cho bà Thu, tuyên giao
dịch giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng vô hiệu và phong tỏa nhà đất
đề đảm bảo thực hiện nghĩa vụ với bà Thu.
11

Câu 4.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Giao dịch giả tạo là hợp đồng mà việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí
nội tâm và kết quả thực hiện của bên tham gia; là giao dịch được xác lập nhằm che
giấu việc thực hiện một hợp đồng khác mà các bên thật sự mong muốn thực hiện.
Giao dịch giả tạo mà các bên ”tự nguyện” tham gia nhưng mục đích giao dịch được
thể hiện không phù hợp với mục địch các bên thực sự quan tâm, hướng tới, mong
muốn đạt được. Yếu tố giả tạo thông qua dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để
tạo nên sự thiếu thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của bên xác lập giao dịch.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được cụ thể hóa tại Điều 124 BLDS năm 2015:
1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ
luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Từ Điều 124, ta suy ra có 2 loại giao dịch giả tạo:
- Thứ nhất: Giao dịch được xác lập để che giấu một giao dịch khác (hợp đồng giả
cách)
Là hợp đồng giả tạo do các bên lập ra để che đậy một hợp đồng khác. Việc lập một
hợp đồng giả tạo để che đạy một hợp đồng thật bên trong này có sự thông đồng giữa
các bên. Xét về mục địch thì hợp đồng được che đậy bên trong mới là hợp đồng mà
các bên mong muốn xác lập nhưng thực tế lại xác lập một hợp đồng khác nhằm mục
đích trốn tránh những bất lợi mà đáng lẽ các bên phải gánh chịu nếu hợp đồng thật
được hình thành. Hợp đồng giả cách chỉ là hình thức bên ngoài chứ không có giá trị
đối với các bên.
Hợp đồng giả cách được xác lập có thể được dùng để che giấu thông tin chủ thể
thực sự tham gia hợp đồng hoặc che đậy nội dung, mục đích thật sự mà các bên
mong muốn khi tham gia quan hệ hợp đồng.
Về mặt hậu quả pháp lý thì hợp đồng giả cách đương nhiên bị vô hiệu. Hợp đồng
thật có thể được công nhận nếu tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định.
12

Ví dụ: A và B thoả thuận mua bán nhà có giá trị thực tế là 2 tỷ, tuy nhiên để giảm
tiền thuế phải đóng mà hai bên thoả thuận ghi trong hợp đồng giá trị của căn nhà
này là 1 tỷ. Như vậy, ta thấy rõ rằng không có sự ngang giá trong lợi ích giữa A và
B nếu như theo hợp đồng hai bên đã ký kết. Theo hợp đồng này, thì căn nhà của A
là 1 tỷ, tuy nhiên, trên thực tế là căn nhà này giá trị 2 tỷ và B cũng phải trả cho A 2
tỷ. Hợp đồng ghi giá 1 tỷ (dù có công chứng) là hợp đồng giả tạo và bị vô hiệu còn
hợp đồng thực tế giữa 2 bên (2 tỷ) thường vi phạm về hình thức và có thể có hiệu
lực nếu tuân thủ đúng quy định của luật (Điều 129 BLDS năm 2015)
- Thứ hai: Giao dịch được xác lập nhưng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
trong hợp đồng (hợp đồng tưởng tượng)
Hợp đồng tưởng tượng là hợp đồng không có thật, chỉ được các bên thông đồng
lập ra nhằm để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý còn thiếu sót, hoặc để che đậy một
sự thật khác trái pháp luật, hoặc trái đạo đức xã hội. Nói cách khác, hợp đồng tưởng
tượng là hợp đồng mang tính hình thức, chứ các bên hoàn toàn không có ý định tạo
lập nên sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên hợp đồng đó.
Ví dụ: A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham nhũng. A ký hợp đồng
giả bán tài sản đó đi cho anh em ruột của mình nhằm mục đích tẩu tán tài sản đó đi.
 Đặc điểm chung của hai loại giao dịch này đó là sự nhất trí, thông đồng từ trước của
các bên xác lập giao dịch giả tạo nhằm tạo nên cái nhìn sai lầm cho người khác đối
với giao dịch đó.
 Bên cạnh đó hai loại giao dịch này cũng có sự khác biệt cơ bản là hợp đồng giả cách
là nếu như trong hợp đồng giả cách bên cạnh một hợp đồng giả tạo được các bên
xác lập còn có một hợp đồng thực sự được che đậy bên trong do đó các bên vẫn
ràng buộc lẫn nhau bởi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thực chất, thì trong
hợp đồng tưởng tượng hoàn toàn không có một hợp đồng thực chất nào mà chỉ có
một hợp đồng tưởng tượng được các bên lập nên, do đó không có bất kì sự ràng
buộc thực tế nào giữa các bên.
Câu 4.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết
hợp đồng? Các bên có xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì
Trích từ bản án, phân đoạn cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng là:
13

“Xét thấy, sau khi lập giấy thỏa thuận mua bán đất ngày 21/11/2013 các bên chưa
đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định. Theo đơn khởi
kiện ban đầu của nguyên đơ yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng sau đó
nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng
ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu vì đây là giao dịch giả
tạo che dấu cho việc vay mươn và buộc bà Trang trả lại cho nguyên đơn số tiền đã
nhận là 95.00.000 đồng.5”
Căn cứ Điều 129 BLDS 2005 hay khoản 1 Điều 124 BLDS 2015, các bên xác lập
giao dịch có giả tạo nhằm mục đích che giấu một giao dịch dân sự khác. Cụ thể là
trong bản án, các bên có xác lập có giả tạo với mục đích nhằm che dấu cho việc vay
mượn của bà Trang.
Câu 4.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị
che giấu

 Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo: Tòa án đã vô hiê ̣u hợp đồng
giả tạo, căn cứ theo ghi nhâ ̣n của bản án: “Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất xác lập giữa Trần Thị Diê ̣p Thủy và bà Nguyễn Thị Thanh Trang
theo hình thức “giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
23/11/2013 vô hiê ̣u.”

 Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng bị che giấu: Tòa án đã giữ nguyên
hiê ̣u lực của hợp đồng bị che giấu, yêu cầu bà Trang tiếp tục thực hiê ̣n nghĩa vụ trả
nợ 95.000.000đ còn lại cho bà Thủy, căn cứ theo ghi nhâ ̣n của bản án:

 “Bà Nguyễn Thị Thanh Trang có nghĩa vụ trả lại cho bà Trần Thị Diê ̣p Thúy số
tiền đã nhận là 95.000.000 đồng (chín mươi lăm triê ̣u đồng).
 “Ghi nhận sự tự nguyê ̣n của nguyên đơn bà Trần Thị Diê ̣p Thủy về viê ̣c không yêu
cầu tính lãi suất 95.000.000 đồng (chín mươi lăm triê ̣u đồng) đối với bị đơn bà
Nguyễn Thị Thanh Trang.”
Câu 4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo
và hợp đồng bị che giấu.
Theo quan điểm của nhóm, hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu là hợp lí dựa vào những lý do sau:

5
Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
14

 Cơ sở pháp lý: Căn cứ theo Khoản 1 Điều 124 BLDS 2015: “Khi các bên xác lập
giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao
dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác
có liên quan.”
 Cơ sở thực tế được ghi nhâ ̣n tại bản án: “Bị đơn bà Trang xác định có mượn bà
Thủy số tiền 100.000.000 đồng ngày 23/11/2013, với hình thức trả góp 1.000.000
đồng/1ngày (mô ̣t triê ̣u đồng mô ̣t ngày) góp trong vòng 06 tháng tính từ ngày
23/11/2013 là 180.000.000 đồng. Để đảm bảo cho viêc̣ vay mượn, hai bên lâ ̣p hợp
đồng thỏa thuâ ̣n chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức đă ̣t cọc
100.000.000 đồng.”
Có thể thấy, thỏa thuâ ̣n ban đầu là nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000đ,
các bên thiết lập thêm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đảm bảo cho
việc vay mượn. Tuy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được xác lập
nhưng ý chỉ mấu chốt của các bên chính là thực hiện hợp đồng vay chứ không phải
là thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì vâ ̣y, có thể kết luâ ̣n
rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp
đồng giả tạo nhằm che dấu cho hợp đồng vay mượn bên trong. Hợp đồng vay mượn
mới là hợp đồng thể hiện đúng ý chí của các bên trong quan hệ dân sự trên.
 Do đó, việc tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và
giữ nguyên hiệu lực hợp đồng vay mượn là hoàn toàn hợp lý và đúng căn cứ pháp
luật.
Câu 4.5. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng
ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả
tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu vì:
 Trong quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà Thu 3,1
tỷ đồng.
 Vợ chồng bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả nợ bà
Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết mà làm thủ tục chuyển
nhượng nhà đất trên cho vợ chồng ông Vượng (anh trai bà Anh).
15

 Số tiền chuyển nhượng không phù hợp vì giá thực tế của nhà đất trên là gần 5,6 tỷ
đồng mà hai bên chỉ thỏa thuận chuyển nhượng với giá 680 triệu đồng và thực tế,
các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.

Câu 4.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để
trốn tránh nghĩa vụ)?
Theo quan điểm của nhóm, hướng xác định trên của Tòa án là hợp lí và có căn cứ
xác thực, phù hợp với quy định tại Điều 129 BLDS 2005: “Trong trường hợp xác
lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô
hiệu”. Hướng xác định này cũng đảm bảo được lợi ích của bên thứ ba là bà Thu.
 Vợ chồng bà Anh chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng ông Vượng với giá rẻ hơn
thực tế rất nhiều, cụ thể chỉ bán với giá 680 triệu đồng so với giá thực tế là 5,6 tỷ
đồng vì mục đích chính là trốn tránh việc thực hiện cam kết chuyển nhượng nhà đất
cho bà Thu. Hơn nữa, ông Vượng lại chính là anh trai của bà Anh. Từ hành vi này,
ta có thể thấy rằng vợ chồng bà Anh không hề có thiện chí trong việc thực hiện trả
nợ cho bà Thu mà chỉ muốn trốn tránh nghĩa vụ.
 Do đó, Tòa án hoàn toàn có căn cứ để xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với
vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu.
Câu 4.7. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
Hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh
nghĩa vụ trong trường hợp trên là:
 Giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng bị
tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều 129 BLDS 2005: “Trong trường hợp xác
lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô
hiệu”.
 Vợ chồng bà Anh có trách nhiệm trả lại cho vợ chồng ông Vượng 4 tỷ đồng (số tiền
ông Vượng đã thanh toán cho vợ chồng bà Anh vào ngày 26/8/2010 để nhận chuyển
nhượng nhà đất) và vợ chồng ông Vượng trả lại cho vợ chồng bà Anh nhà đất theo
quy định tại khoản 2 Điều 137 BLDS 2005:
 “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
16

bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.

-HẾT-

You might also like