Professional Documents
Culture Documents
Chuyên Đề Chẩn Đoán BN CTSN
Chuyên Đề Chẩn Đoán BN CTSN
NỘI DUNG
1. TỔNG QUAN
1.1. Dịch tễ học
Chấn thương sọ não (CTSN) vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và di
chứng nặng nề ở những người dưới 40 tuổi trên toàn thế giới. Nguyên nhân chính gây
chấn thương sọ não là tai nạn giao thông (TNGT), rồi đến té ngã, tại nạn lao động, tai
nạn bất cẩn hay thể thao. Mặc dù CTSN đang có xu hướng giảm ở các nước phát triển
như Châu Âu, Nhật, Bắc Mỹ, Úc nhưng lại gia tăng nhanh chóng ở những nước đang
phát triển nhanh như Trung Quốc, Brazil, Colombia, Ấn Độ,.... Tần suất bệnh thay đổi
từ 67 đến 317/100.000 dân, tỷ lệ tử vong vào khoảng 4-8% đối với CTSN trung bình
và đến 50% đối với CTSN nặng. Tại Mỹ hàng năm có khoảng 1,7 triệu người bị
CTSN, trong đó 75% có chấn động não hay CTSN nhẹ, tử vong hàng năm theo trung
tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ là khoảng 52.000 người, 275.000 người nhập viện và
xấp xỉ 1,4 triệu người được cấp cứu. Có đến 80.000 trường hợp được phẫu thuật mở sọ
lấy máu tụ ở Mỹ, và con số này cao hơn ở Pakistan. Ở Việt Nam, tử vong do TNGT
hàng năm khoảng 11.000 người, đứng thứ 3 trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương. Bệnh viện Chợ Rẫy mỗi năm nhận vào khoa cấp cứu khoảng 22.000 trường
hợp chấn thương sọ não. Số cấp cứu chấn thương sọ não tại bệnh viện Chợ Rẫy là
70%-80% do TNGT. Tử vong do TNGT chiếm 60%, trong số này một nửa chết trước
khi vào viện.
1.2. Định nghĩa
Trước đây, định nghĩa về chấn thương sọ não còn chưa rõ ràng. Thuật ngữ “chấn
thương đầu” thường được hiểu như là chấn thương sọ não nhưng thực tế nó bao hàm
rộng hơn, gồm cả chấn thương mặt và da đầu, khác với triệu chứng của CTSN. Ngày
nay đa số tác giả thống nhất định nghĩa: CTSN là tổn thương sọ và mô não do lực tác
động từ bên ngoài, cũng như hậu quả của các va chạm trực tiếp, lực tăng tốc-giảm tốc
đột ngột, các vật thể xuyên (như đạn bắn...) hay sóng lan từ vụ nổ.
Tổn thương ở não được xếp thành hai loại: nguyên phát và thứ phát. Tổn thương
nguyên phát do có lực cơ học tác động, xuất hiện ngay sau chấn thương như: tổn
thương da đầu, tổn thương hộp sọ, giập não, máu tụ trong sọ, tổn thương sợi trục lan
2
tỏa. Trong khi đó, các tổn thương thứ phát xảy ra một thời gian sau chấn thương ban
đầu và là hậu quả của tổn thương nguyên phát như: phù não, sung huyết não, thiếu oxy
não, giảm tưới máu não, tăng áp lực nội sọ, viêm màng não, áp xe não. Biến chứng
chấn thương sọ não được chia thành hai loại: tổn thương não khu trú và lan tỏa hoặc
tổn thương xuất hiện cùng lúc cả hai loại.
Nguyên nhân chấn thương sọ não kín:
- Tai nạn giao thông
- Tai nạn lao động
- Tai nạn sinh hoạt
- Tai nạn do thảm họa
- Tai nạn do xã hội
- Chấn thương đầu do sinh đẻ
Tổn thương sọ não được chia làm 2 khu vực:
- Khu vực ngoài hộp sọ bao gồm:
+ Rách da đầu
+ Tụ máu dưới da đầu, thường trên 16 tuổi
+ Tụ máu dưới lớp Galea: < 16 tuổi
+ Tụ máu dưới màng xương, chấn thương do sinh đẻ
- Khu vực từ hộp sọ vào trong bao gồm:
+ Nứt xương sọ
+ Vỡ lún sọ
+ Vỡ nền sọ
+ Máu tụ ngoài màng cứng
+ Máu tụ dưới màng cứng
+ Máu tụ trong não
+ Giập não: khu trú hoặc lan tỏa (khu trú: nhẹ hơn; lan tỏa: nặng hơn)
+ Xuất huyết trong não thất
Lượng ít: hấp thu nhanh, hồi phục nhanh
Lượng nhiều: hấp thu chậm, hồi phục chậm
+ Xuất huyết thân não:
3
Trong chấn thương sọ não, cần phải đánh giá đầy đủ các tiêu chuẩn trong đó tri
giác là một tiêu chuẩn quan trọng. Nhiều tác giả dựa vào thang điểm Glassgow (GCS)
phân chia chấn thương sọ não thành ba nhóm chính để dễ dàng theo dõi:
- Nhóm nhẹ: GCS từ 14 – 15
- Nhóm trung bình: GCS từ 9 – 13
- Nhóm nặng: GCS < 9.
Tuy tri giác có vai trò quan trọng nhưng không thể dựa vào tri giác đơn thuần để
tiên lượng tình trạng bệnh nhân. Muốn đánh giá tiên lượng bệnh nhân phải thực hiện
4
đầy đủ các tiêu chuẩn như dấu thần kinh khu trú, dấu hiệu sinh tồn, các phản xạ nuốt,
sặc, điện não đồ (EEG), mạch não đồ (DSA) hoặc Doppler mạch máu não, trong đó tri
giác cũng góp phần nhỏ trong tiên lượng bệnh nhân. Chính vì thế, đánh giá chết não
(brain death) là một đánh giá tổng hợp của nhiều tiêu chuẩn trong đó có tri giác. Phân
chia tri giác thành ba nhóm giúp cho các nhà lâm sàng thực hành, thiết lập kế hoạch
theo dõi và chăm sóc các bệnh nhân CTSN tốt hơn. Dựa vào nhóm nặng của thang
điểm Glasgow, đa số các trường hợp nặng được khuyến cáo nên được đặt nội khí quản
để dễ dàng trong công tác theo dõi, chăm sóc và điều trị thuận lợi hơn.
Trong thực hành lâm sàng hàng ngày, tri giác không phải lúc nào cũng giữ một
vai trò quyết định trong chấn thương sọ não. Cũng có khi thể tích khối máu tụ tăng lên
nhưng tình trạng tri giác không giảm, điều này có lẽ do thể tích khối máu tụ tăng chậm
làm cho não thích nghi dần nhưng màng não bị kích thích mạnh hơn nên đau đầu nhiều
hơn, thậm chí có những trường hợp thể tích khối máu tụ có tăng biểu hiện rõ trên CT-
Scan đầu mà tri giác vẫn cải thiện hơn. Vì vậy, không nên dựa vào tri giác một cách
đơn độc để đánh giá tất cả các tổn thương do chân thương sọ não gây ra. Nếu trong
trường hợp tri giác giảm, nguy cơ biến chứng xuất hiện trong não hoặc thương tổn
máu tụ và phù não gia tăng, CT Scan não phải được thực hiện ngay ở thời điểm này.
Khoảng 56-60% bệnh nhân CTSN nặng với GCS ≤ 8 có một hoặc nhiều hơn các
cơ quan khác bị tổn thương, trong đó có 25% tổn thương phải can thiệp phẫu thuật. Có
4 -5% tỷ lệ gãy xương cột sống có liên quan tới CTSN nặng, đa số là từ C1 – C3 có
liên quan tới các rễ C2 – C4 (chi phối cơ quan hô hấp). Vì vậy, cần chú ý cố định cột
sống cổ đối với các bệnh nhân CTSN nặng đến khi có kết quả hình ảnh cột sống cổ.
Bên cạnh đó, chú ý sơ cấp cứu ban đầu, khác đánh giá tầm soát các tổn thương phối
hợp để có hướng xử trí đa chuyên khoa phù hợp trên bệnh nhân.
2. PHÂN LOẠI
Có nhiều cách phân loại CTSN đã được đưa ra: Từ phân loại theo cơ chế, kín
-hở, do đè ép hay lực nổ, phân loại theo loại tổn thương nguyên phát – thứ phát, phân
loại theo hình ảnh CT scan. Phân loại theo độ nặng của CTSN thường được áp dụng
5
trên lâm sàng, trong khi đó phân loại theo mã ICD của WHO thường dùng trong hành
chính.
2.1. Phân loại theo độ nặng
Phân loại thường dùng nhất để xếp độ nặng của CTSN là thang điểm hôn mê
Glasgow (GCS) được đưa ra bởi Teasdale và Jennett năm 1974 để mô tả mức độ mất ý
thức sau CTSN Thang điểm Glasgow được đánh giá 3 yếu tố bao gồm mở mắt, trả lời
và vận động, tổng cộng tử 3-15 điểm. Tốt nhất được đánh giá sau khi đã cấp cứu bệnh
nhân, vì tri giác bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng bởi tụt huyết áp và thiếu oxy. Dựa vào
thang điểm GCS, bên nhân CTSN được chia làm 3 cấp độ:
- CTSN nặng: GCS 3-8 đ
- CTSN trung bình: 9-13 đ
- CTSN nhẹ: 14-15 đ
2.2. Phân loại theo đặc điểm chấn thương
- CTSN kín: có hay không có tổn thương da đầu, hộp sọ, não vẫn được che phủ.
Thường do đầu va chạm với các vật không sắc nhọn, không có sự thông thông thương
trực tiếp giữa dịch não tủy và mô não với môi trường bên ngoài, dù cho có trường hợp
xương sọ bị vỡ, thậm chí có khi mảnh xương sọ rời ra và chèn ép hay làm rách màng
não, gây giập não bên trong.
- Vết thương sọ não: Tổn thương da đầu và hộp sọ, mô não thông thương bên
ngoài xuyên qua các thương tích của màng não, xương sọ và da đầu. Các vết thương
sọ não có thể do đạn bắn thẳng, do mảnh bom mìn, cũng có thể do các vậy không sắc
nhọn nhưng va chạm với lực mạnh. Một nguy cơ lớn trong các vết thương sọ não là vi
khuẩn xâm nhập vào dịch não tủy và mô não.
2.3. Phân loại theo cơ chế sinh cơ học
Tổn thương có thể được phân loại theo đầu có bị đập bởi một vật (tổn thương va
chạm hay tiếp xúc - trực tiếp) hay không, và/hoặc não di động trong hộp sọ hay không
(tổn thương không tiếp xúc hay quán tính, do lực tăng tốc - giảm tốc). Các tổn thương
khu trú hầu hết là do hậu quả của lực va chạm như nứt sọ, máu tụ trong não, máu tụ
ngoài màng cứng. Các tổn thương do lực không tiếp xúc thường là các tổn thương lan
tỏa như chấn động não, máu tụ dưới màng cứng và tổn thương sợi trục. Tuy nhiên, về
6
mặt thực hành, khó có thể phân biệt theo cơ chế nào do không rõ hoàn cảnh va chạm
khi CTSN.
2.4. Phân loại theo giải phẫu bệnh học
Hệ thống phân loại giải phẫu bệnh học mô tả vị trí và loại tổn thương theo mục
đích điều trị. Một bệnh nhân có thể gồm nhiều loại tổn thương theo phân loại này.
Năm 1991, Marshall đưa ra hệ thống phân loại theo CT scan, dựa vào bể trung não,
đường giữa và các khối máu tụ, được chia làm 6 nhóm. Phân loại này dự kiến tiên
lượng cả nguy cơ tăng áp lực nội sọ và kết quả điều trị.
Bảng 2.2. Phân loại tổn thương não lan tỏa trên CT scan
Phân loại Hình ảnh trên CT scan Tiên lượng
tử vong
Lan tỏa loại I (Không tổn Không tổn thương nội sọ trên CT 6.4%
thương)
Lan tỏa loại II (Không phù, Bể còn, đường giữa lệch < 5mm hay
không di lệch đường giữa) không có tổn thương khối > 25 ml. Có 11%
thể có xương vỡ và dị vật.
Lan tỏa loại III (Phù não) Bể bị ép hoặc mất, đường giữa lệch 0-
5mm 29%
Không có tổn thương khối > 25 ml.
Lan tỏa loại IV (Lệch đường Đường giữa lệch > 5mm 44%
giữa) Không có tổn thương khối > 25 ml.
Loại V (Mổ lấy được) Bất kì tổn thương được mổ lấy ra 30%
Loại VI (Không lấy được) Tổn thương đậm độ cao hay hỗn hợp > 34%
25ml không mổ lấy được
Trên CT scan đầu không cản quang, chúng ta có thể tiên lượng cho bệnh nhân
sau CTSN. Chúng ta phân độ Marshall (1992) và gần đây hơn chúng ta có thang điểm
Rotterdam (2006) dựa vào các đặc điểm trên CT scan. Thang điểm Rotterdam cải thiện
giá trị tiên lượng 6 tháng hơn so với thang điểm Marshall.
Bảng 2.3. Phân độ Rotterdam
Hình ảnh trên CT Scan Điểm
Bể nền Bình thường 0
Mờ 1
7
Xóa 2
Lệch đường giữa Không hoặc ≤ 5 mm 0
> 5 mm 1
Tổn thương choáng chỗ Không 0
ngoài màng cứng Có 1
Xuất huyết dưới nhện Không 0
hoặc trong não thất Có 1
Tử vong: (1 điểm) 0%; (2 điểm) 7%; (3 điểm) 16%; (4 điểm)26%; (5 điểm) 53%; (6
điểm) 61%
Khi vỡ sọ nhiều mảnh xuất hiện trong tình huống có rách da bên trên làm thông
thương ổ gãy với môi trường bên ngoài thì gọi là vỡ sọ hở. Trong trường hợp lún sọ
hở, cần xác định có liên quan xoang hơi hay có bằng chứng rách màng cứng không vì
sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Đây là những vấn đề cần chỉ định mổ cấp cứu để lấy
bỏ sọ lún và vá lại màng cứng để phòng tránh nhiễm trùng. Toác khớp sọ là tình trạng
đường khớp sọ bị toác rộng ra hơn bình thường, thường xuất hiện ở trẻ em nhiều hơn
người lớn.
9
cho màng cứng, ở người lớn thì động mạch màng não giữa cho những nhánh rất lớn ấn
sâu vào bản sọ trong của hộp sọ. Khi đường vỡ sọ đi qua động mạch màng não giữa sẽ
gây đứt nhánh động mạch màng não giữa và áp lực chảy từ động mạch lớn nên nó sẽ
làm bóc tách màng cứng với bản sọ trong, làm khối máu tụ hình thành và tăng lên
nhanh chóng.
Ngoài ra, máu chảy từ xương sọ nứt hoặc các tĩnh mạch màng.
Chiếm tỷ lệ khoảng 6% bệnh nhân CTSN nặng. Khác với máu tụ DMC, chỉ có
1/3 bệnh nhân máu tụ NMC mê ngay sau chấn thương, 1/3 có khoảng tỉnh và 1/3
không hôn mê, đa số máu tụ NMC kèm theo nứt sọ (90% ở người lớn và 75% ở trẻ
em). Máu tụ NMC ít gặp ở trẻ em vì xương sọ mềm và động mạch màng não giữa
chưa hoặc chỉ tạo ấn nhẹ vào bản sọ trong hộp sọ nên ít có khả năng bị tổn thương.
Máu tụ NMC cũng ít gặp ở lớn tuổi do màng cứng dính rất chặt vào bản sọ trong dù
cho áp lực động mạch lớn cũng không làm bóc tách được khoang tiềm năng này.
Hình ảnh kinh điển của máu tụ NMC trên CT scan là khối tăng đậm độ hình thấu
kính lồi hai mặt, ít kết hợp với tổn thương hơn so với máu tụ DMC. Máu tụ NMC cũng
có thể xuất hiện muộn ở đối bên do bóc màng cứng sau khi phẫu thuật lấy khối máu tụ
NMC/DMC giải áp quá nhanh. Nếu có vùng giảm đậm độ trong khối máu tụ hoặc có
bằng chứng thoát thuốc cản quang khi chụp CT scan có cản quang được cho là máu tụ
tối cấp, máu đang chảy, dự báo khối máu tụ sẽ tăng lên nhanh chóng và thường có tiên
lượng kém. Trong một nghiên cứu, bệnh nhi có máu tụ NMC đậm độ hỗn hợp, GCS
thấp ở thời điểm nhập viện thì có tỷ lệ cao máu đang chảy trong ổ máu tụ lúc phẫu
thuật, khối máu tụ lớn và tỷ lệ tàn phế – tử vong cao. Ở người lớn, 75% máu tụ NMC
xuất hiện ở thái dương, 90% đi kèm với nứt sọ.
11
Hình 3.3. Máu tụ ngoài màng cứng tối cấp, có vùng giảm đậm độ trong khối máu tụ
Khoảng 10% máu tụ NMC có nguồn chảy từ tĩnh mạch, thường do rách các
xoang tĩnh mạch. Những vị trí máu tụ NMC tĩnh mạch thường gặp: (1) cực thái dương
12
do rách xoang bướm đỉnh, đôi khi do vỡ cánh lớn xương bướm, máu tụ NMC vùng
thường tự giới hạn do áp lực chảy rất thấp; (2) đỉnh đầu do tổn thương xoang tĩnh
mạch dọc trên; (3) ngay phía trên xoang ngang do tổn thương xoang ngang bởi đường
nứt sọ đi qua đây.
Hình 3.5. Các vị trí thường gặp của máu tụ NMC có nguồn chảy từ tĩnh mạch
(A), (B) vùng đỉnh đầu; (C) hố sau – chẩm; (D) cực thái dương.
3.1.3. Máu tụ dưới màng cứng
Máu tụ dưới màng cứng (DMC) là tổn thương thường gặp nhất với 24% trong
CTSN nặng. Khối máu tụ nằm trong khoang dưới màng cứng, giữa màng cứng và não
(khoang tiềm năng giữa lớp trong màng cứng và màng nhện). Máu tụ DMC thường do
rách các tĩnh mạch bắt cầu (bridging veins) đi từ vỏ não, qua khoang dưới nhện và
13
xuyên qua màng cứng một đoạn khá dài trước khi đổ vào xoang tĩnh mạch. Một số
nguyên nhân ít gặp là tổn thương các động mạch vỏ não, các mạch máu màng mềm
hoặc các hạt màng nhện.
đậm độ với mô não và 50% sẽ giảm đậm độ so với mô não. Sau 3 tuần 10% đồng đậm
độ và 90% sẽ giảm đậm độ. Máu tụ DMC được chia ra 3 giai đoạn theo thời gian: cấp
tính trong vòng 72 giờ sau chấn thương, đậm độ cao so với mô não, tuy nhiên khoảng
10% trường hợp có đồng đậm độ với mô não, có thể do rối loạn về yếu tố đông máu
hay nồng độ hemoglobin thấp, máu tụ DMC bán cấp từ 3 ngày - 3 tuần và mạn tính
kéo dài trên 3 tuần. Máu tụ DMC gây tổn thương não bằng cách làm tăng áp lực nội sọ
(ICP) và đẩy lệch cấu trúc não, giảm lưu lượng máu não và sau đó là nhồi máu não và
giảm oxy não.
Hình 3.7. Máu tụ dưới màng cứng mạn tính bên phải
Bảng phân loại máu tụ dưới màng cứng theo thời gian nhằm đánh giá tiên lượng
của bệnh nhân. Đối với máu tụ dưới màng cứng bán cấp và mạn tính có tỉ lệ sống cao
và tiên lượng tốt hơn; Còn máu tụ dưới màng cứng cấp tính tỉ lệ tử vong từ 30% đến
90%, do máu tụ dưới màng cứng thường kèm theo giập và phù não có ảnh hưởng
nhiều đến thân não và thường dễ gây tụt não.
3.1.4. Máu tụ trong não
Máu tụ trong não đôi khi có kèm theo máu tụ dưới màng cứng và tổn thương giập
nát thùy não. Khu vực bị tổn thương thường gặp nhất là thùy trán và thùy thái dương
có liên quan đến chảy máu vào trong nhu mô não. Thùy não giập nát là một thuật ngữ
mô tả máu tụ trong não phối hợp với mô não hoại tử rồi vỡ vào khoang dưới màng
cứng để tạo thành một lớp máu tụ dưới màng cứng.
Tụ máu trong não đôi khi được sử dụng để thay thế cho giập não, tuy nhiên chỉ
được xem xét trong một số trường hợp. Thuật ngữ này ngược lại được định nghĩa là sự
15
tích tụ của máu với đậm độ đồng nhất trong nhu mô não có kích cỡ trên 5 mm. Ngược
lại những tổn thương gồm hỗn hợp giữa máu tụ và mô não giập thì gọi là giập não.
Trong CTSN, tụ máu trong não do xuất huyết trong nhu nhu mô não do xé rách hoặc
vỡ những mạch máu trong não. Không giống não giập, máu tụ trong não có đậm độ
cao đồng nhất và ít phù hơn. Tụ máu trong não thường nằm sâu hơn và thường ở trán
thái dương, đôi khi xuất hiện ở cả hạch nền.
Các triệu chứng lâm sàng tùy thuộc vào khối máu tụ trong thủy não, nói chung
máu tụ trong não phần lớn không có khoảng tỉnh và thường mê ngay sau chấn thương.
CT Scan não phải được thực hiện ngay khi nhập viện để tầm soát tất cả những thương
tổn bên trong hộp sọ. Đa số các trường hợp máu tụ trong não xảy ra ngay sau chấn
thương đầu, đôi khi cũng có thể hình thành khối máu tụ chậm từ vài giờ đến 3 tuần sau
chấn thương. CT scan thấy hình ảnh khối tăng đậm độ trong nhu mô não thường ở
thùy trán và thái dương ngay sau chấn thương, một số trường hợp có thể xác hiện
muộn trong thời gian 24-48 giờ sau chấn thương. Máu tụ trong não thường gặp ở tổn
thương nguyên phát trong 10% CTSN nặng. Một số trường hợp khó phân biệt với máu
tụ trong não tự phát. Nếu tình trạng tri giác không cải thiện, CT Scan đầu phải được
khuyến cáo chụp lại để tầm soát những thương tổn khác hoặc thương tổn cũ đã phát
triển thêm hoặc chỉ có phù não lan rộng. Nói chung, phẫu thuật giải ép thường được
khuyến cáo trong loại thương tổn này.
16
Hình 3.8. Máu tụ trong não vùng thái dương - đỉnh bên trái
3.1.5. Giập não
Giập não chiếm khoảng 3% CTSN nặng. Giập não là tổn thương não do lực tác
động trực tiếp lên nhu mô não bởi mặt trong của hộp sọ. Giập não có thể xuất hiện ở
ngay vị trí của lực tác động hoặc đối bên lực tác động. Giống tổn thương giập nát ở
các mô khác, giập não thường là hỗn hợp gồm mô não giập và xuất huyết, hoại tử và
phù. Hình ảnh trên CT scan là khối đậm độ hỗn hợp. Trên cả CT scan và MRI, giập
não biểu hiện với những chấm xuất huyết và phù khu trú ở bề mặt của vỏ não nằm sát
xương sọ. Giập não có thể nhỏ và chỉ giới hạn ở vỏ não gọi là giập vỏ não, đôi khi
chúng có thể lan rộng xuống chất trắng dưới vỏ. Các ổ giập não có hình ảnh không
đồng nhất dạng “muối tiêu” – đó là những chỗ tăng – giảm đậm độ trên CT scan. Theo
thời gian, các ổ giập não cấp và bán cấp có một viền giảm đậm độ xung quanh từ vài
mm đến vài cm do các sản phẩm thoái hóa của máu và phù vận mạch. Mức độ phù não
do vận mạch phụ thuộc vào thời gian và kích cỡ của ổ não giập.
Giập não có khuynh hướng xuất hiện ở những vị trí gần bề mặt gồ ghề trong hộp
sọ. Vị trí thương gặp nhất là phần trước thùy thái dương (50%) dọc theo cánh lớn
xương bướm; sau đó là thùy trán (30%) đặc biệt là phần não trán – ổ mắt phía trên
mảnh sàng và trần hốc mắt. Hồi thái dương ngay trên xương đá cũng hay gặp. Những
17
vị trí ít gặp như: chẩm và đỉnh (13%); tiểu não (10%). Giập não cũng thường thấy ở
bên dưới chỗ lún sọ.
- Độ 3: Lú lẫn và mất trí nhớ xuất hiện cùng lúc dù bệnh nhân vẫn tỉnh táo. Dù
mất trí nhớ sau chấn thương nhưng cũng không nhớ lại sự việc xảy ra trước chấn
thương. Có lẽ do cơ chế lực tăng tốc và giảm tốc đột ngột làm tổn thương bán cầu đại
não hơn là thân não.
- Độ 4: Trường hợp này mất trí giác sau chấn thương kèm theo một vài mức độ
mất trí nhớ trước và sau chấn thương. Mất trí nhớ sau chấn thương có thể ngắn hay dài
tùy theo mức độ nặng hay nhẹ của tổn thương. Vì chấn động não có thể ảnh hưởng lên
toàn cơ thể như nhịp tim chậm, tăng huyết áp, ngưng thở, dãn đồng tử hoặc nhão cơ do
thay đổi tri giác.
Đối với bệnh nhân bị chấn động não ít có liên quan đến bệnh học thần kinh. Di
chứng sau chấn động não thường có những triệu chứng chủ quan như tinh thần không
tập trung, mệt mỏi, tăng thính lực, chóng mặt và thường cá tính thay đổi một cách tế
nhị sau chấn thương đầu nhẹ. Những biểu hiện trên CT Scan và MRI não ít xảy ra đối
với chấn động não và đa số là bình thường. Trong trường hợp độ 4, đôi khi có thể tìm
thấy một vài chấm xuất huyết nhỏ trên CT Scan hoặc MRI não qua những lát cắt
mỏng.
3.2. Tổn thương thứ phát
Là biến chứng của các loại tổn thương nguyên phát khác nhau, bao gồm thiếu
máu não, thiếu oxy, xuất huyết lan rộng, phù não và tăng áp lực nội sọ. Tổn thương
não thứ phát bắt đầu bằng những thay đổi về mạch máu và có thể gây thêm tổn thương
nếu lưu lượng máu não không đủ. Quá trình tế bào diễn ra dẫn đến phù và chết tế bào,
cuối cùng quá trình viêm gây ra những tổn thương muộn trên mạch máu và tế bào.
Những quá trình này biểu hiện lâm sàng băng tăng áp lực nội sọ và thiếu máu não.
3.2.1. Phù não
Trong tình trạng bình thường, các mao quản ở não trái ngược với sự thay đổi xảy
ra trong phù vận mạch và phù nhiễm độc. Dưới tình trạng bình thường, chỗ nối trong
tế bào luôn đóng kín. Trong phù vận mạch, chỗ nối bên trong tế bào bị phá vỡ tạo điều
kiện cho huyết tương thoát ra khoang mô kẻ. Đối với phù nhiễm độc, cơ chế hoặt động
bơm ATP-Ca+ bị phá vỡ, tạo ra sự tích tụ Na và nước bên trong tế bào.
23
Phù não chấn thương: phù não có thể do rối loạn hàng rào máu não hay do tế bào.
Thông thường phù não do vận mạch xảy ra sau chấn thương làm tăng nước trong não
đột ngột và nhanh trong khi phù do tế bào lại xảy ra từ từ trong vài ngày đầu tiên. Lâm
sàng biểu hiện bằng hội chứng tăng áp lực nội sọ.
3.2.2. Thiếu máu não cục bộ
Thiếu máu não cục bộ: là lưu lượng máu não không đáp ứng đủ nhu cầu chuyển
hóa của não, có thể do giảm áp lực tưới máu não < 50mmHg, hay lưu lượng máu não
tại chỗ <18ml/100g não/phút kèm theo giảm oxy máu. Trong khi não chỉ chiếm 2-3%
trọng lượng toàn cơ thể nhưng nó cần đến 25% nhu cầu oxy và khoảng 20% lưu lượng
tim. Gần 95% các chuyển hóa ở não cần oxy và glucose. Hai yếu tố quan trọng gây
thiếu máu não cục bộ là tụt huyết áp và thiếu oxy máu. Tụt huyết áp được định nghĩa
là khi huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg. Bị một lần tụt huyết áp sẽ làm tăng nguy cơ tử
vong 150% trong CTSN nặng. Thiếu oxy máu cũng góp phần làm nặng thêm và kết
quả điều trị CTSN xấu hơn. Stochetti và cộng sự ghi nhận trong số các bệnh nhân
CTSN có thiếu oxy máu (độ bão hòa oxy trong máu dưới 60%) có 50% trường hợp tử
vong. Số lần và thời gian thiếu oxy kéo dài cũng là một yếu tố nặng.
3.2.3. Tăng áp lực nội sọ
Tăng áp lực nội sọ: Do tăng thể tích của một trong 3 ngăn như máu tụ, phù não,
sung huyết não. TALNS > 20mmHg thường gặp trên 72% các bệnh nhân CTSN nặng.
TALNS sẽ gây chèn ép, thoát vị não và gây thiếu máu cục bộ.
4. KHÁM LÂM SÀNG
Vấn đề quan trọng của khám bệnh nhân bị chấn thương sọ não là phải khám theo
một trình tự để tránh không bỏ sót triệu chứng. Làm sao trả lời được câu hỏi: bệnh
nhân có bị chấn thương sọ não hay không? Nặng hay nhẹ? Phải cho bệnh nhân nhập
viện hay không? nếu theo dõi thì theo dõi những triệu chứng nào? Khi nào phải can
thiệp ngoại khoa? Chúng ta nên tuân theo trình tự sau :
4.1. Khám tổng trạng
Các dấu hiệu sinh tồn: Tình trạng hô hấp và tuần hoàn cần được kiểm tra đầu tiên
vì liên quan đến tính mạng, nếu không được điều chỉnh ngay sẽ làm nặng thêm các
24
thương tổn khác. Ưu tiên khám đường hô hấp trên, cách thở, tuần hoàn và cột sống cổ
trước khi khám thần kinh
4.2. Khám thần kinh
Hỏi bệnh sử: Nếu bệnh nhân còn tỉnh, hỏi trực tiếp bệnh nhân. Khi bệnh nhân
hôn mê hoặc lú lẫn, hỏi người nhà, người đưa bệnh nhân tới viện, người chứng kiến tai
nạn hay người khám đầu tiên. Một số trường hợp bệnh nhân đã khám tại tuyến trước,
tri giác đã mô tả trong giấy chuyển viện rất quan trọng để so sánh sự tiến triển của tri
giác.
Nguyên nhân chấn thương:
- Đầu cố định: bị đánh, gạch rơi: thương tổn tại chỗ
- Đầu di động: tai nạn giao thông, ngã cao: thương tổn tại chỗ, thương tổn bên
đối diện, thương tổn lan toả.
Tiền sử bệnh khác: động kinh, co giật, nghiện rượu, tiêm chích ma tuý, HIV-
AIDS, tiền sử bệnh nội khoa khác,...
Khám tri giác: đánh giá theo thang điểm hôn mê Glasgow. Điểm tri giác tối đa
là 15 và mê sâu là 3. Chấn thương sọ não nhẹ (GCS=14 - 15), vừa (GCS = 9 - 13) và
nặng (GCS < 8). Thang điểm Glasgow không áp dụng: người say rượu, tâm thần, dùng
thuốc an thần, trẻ em dưới 5 tuổi. Điểm GCS giảm 2 điểm trở lên thì gọi là tri giác xấu
đi.
Đồng tử: kích thước và phản xạ ánh sáng của đồng tử hai bên, nếu đồng tử dân
và mất PXAS một bên cho biết có liệt dây III cùng bên với khối máu tụ trong sọ.
Vận động: đánh giá sức cơ, trương lực, cử động, dáng đi. Khám và so sánh hai
bên. nếu bệnh nhân mê kích thích đau ở bờ trên hốc mắt hoặc ấn trên xương ức để tìm
yếu liên Khối máu tụ/giập não ép não giữa vào lều tiểu não gây tổn thương đường vận
động vỏ não tủy sống cùng bên làm cho bệnh nhân có biểu hiện liệt nửa người đối bên.
Đôi khi dấu hiệu này sai trong trường hợp hiện tượng Kernohan notch (liệt nửa người
cùng bên tổn thương).
Khám các cử động bất thường của mắt: phản xạ búp bê, cử động xoay mắt -
đầu về một hướng,...
25
Khám các phản xạ thân não: phản xạ trán – mắt, phản xạ giác mạc, phản xạ
xoay mắt – xoay đầu ngang, phản xạ xoay mắt – xoay đầu dọc, phản xạ mắt tim.
Thần kinh sọ: các đối dây thần kinh I, II, II, VI, VII, VIII; các tổn thương dây
thần kinh sọ thường gặp trong vỡ nền sọ.
Dấu màng não: cổ cứng, dấu Kernig do xuất huyết màng nhện.
Dấu hiệu vỡ nền sọ:
- Tụ máu mắt hai bên(dấu hiệu đeo kính râm) hay một bên, là dấu hiệu vỡ tầng
trước nền sọ.
- Chảy máu mũi, tai, miệng, dấu hiệu vỡ tầng trước hay giữa.
- Chảy dịch qua mũi, miệng, tai(vỡ tầng trước hay tầng giữa)
- Dấu hiệu Battle: tụ máu vùng xương chũm(vỡ tầng giữa)
Khám da đầu
- Vết thương da đầu, mô tả di vật tại vết thương: tóc, bùn đất, dị vật, tổ chức não
(trắng, nhão như bã đậu)
-Vết thương do hoả khí: lỗ vào nhỏ, lỗ ra rộng. Đôi khi khó khám lỗ vào, lỗ ra
như vết thương do bom bi. Có trường hợp là vết thương chột.
Dấu hiệu thần kinh thực vật:
- Huyết áp thường tăng khi có tăng áp lực nội sọ.
- Mạch giảm dần khi có chèn ép nội sọ.
- Thở nhanh, không đều, chậm
- Dấu hiệu sinh tồn: Lấy mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ. Cushing đã nhận
thấy khi áp lực nội sọ tăng cấp trong CTSN thì có tam chứng: mạch chậm dần, huyết
áp tăng và rối loạn nhịp thở.
4.3. Khám các thương tổn phối hợp
- Khám cột sống, đặc biệt cột sống cổ hay bị bỏ sót.
- Khám ngực, bụng, tứ chi.
- Khám các cơ quan khác: cần khám hệ thống từ đầu đến chân để tránh bỏ sót.
26
Hình 5.13. Một số tư thế chụp X quang trong chấn thương đầu – mặt
(A) – sọ thẳng; (B) – sọ nghiêng; (C) – Blondeau (Water); (D) – dưới hàm; (E) –
Schuller; (F) – mũi nghiêng.
Mặc dù vậy, nếu có chụp X quang sọ, chúng ta có thể chụp 2 tư thế thẳng và
nghiêng chuẩn để đánh giá hộp sọ, tìm đường nứt sọ, lõm sọ. Ngoài ra còn một số tư
thế đặc biệt khác để đánh xương sọ mặt như: X quang mũi nghiêng để đánh giá xương
chính mũi; tư thế Blondeau để đánh giá xương hàm trên và xương gò má; tư thế
27
Schuller đánh giá lồi cầu xương hàm dưới. Đường nứt sọ trên phim X quang làm tăng
nguy cơ máu tụ trong sọ lên 400 lần. Chụp X quang cột sống cổ, ngực nếu bệnh nhân
bị CTSN nặng. Trong trường hợp chỉ định chụp CT Scan đầu ngay khi vào viện thì
không cần thiết phải chụp X-quang sọ vì khi chụp CT Scan đầu thường có mở cửa sổ
xương để khảo sát đầy đủ tổn thương xương sọ.
5.2. Chụp CT Scan (Computed Tomography)
Phương tiện chẩn đoán hình ảnh hiện đại có giá trị nhất hiện nay để chẩn đoán
CTSN cấp, cho thấy hình ảnh tổn thương trực tiếp của xương sọ và mô não.
CT scan đầu không cản quang đóng vai trò sống còn cho những quyết định tức
khắc, ví dụ như: quyết định cho bệnh nhân nhâp viện hay theo dõi tại nhà; phải nằm ở
khoa hồi sức; xác định loại máu tụ và có cần thiết phải phẫu thuật khẩn cấp hay không;
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật không và mổ như thế nào (lấy máu tụ, mở sọ giải áp,
đặt EVD hay chỉ đặt catheter theo dõi ALNS). CT scan còn là phương tiện chẩn đoán
hình ảnh đầu tay cho những trường hợp CTSN cấp vì những lý do:
1. Có độ nhạy cao với các loại máu tụ cấp – đặc biệt là những trường hợp có khối
máu tụ lớn cần phải phẫu thuật khẩn cấp.
2. Cho hình ảnh một cách chi tiết các tổn thương ở hộp sọ, xương mặt, cột sống
cổ với độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
3. Hình ảnh thu được chỉ trong thời gian cực ngắn, chỉ khoảng 1 giây đối với các
máy CT scan đa dãy đầu dò hiện đại – đây là một ưu thế cực lớn cho những bệnh nhân
kích thích, không hợp tác, trẻ em hoặc đa chấn thương.
4. Ở hầu hết các trung tâm thì CT scan có thể thực hiện được bất cứ thời điểm
nào trong ngày và bất cứ ngày nào trong tuần (đây là điều mà MRI không thể thực
hiện được)
5. CT scan đầu không cản quang hầu như không có chống chỉ định tuyệt đối,
ngược lại MRI thì có (như: bệnh nhân mang máy tạo nhịp, có dị vật bằng kim loại
trong lúc chấn thương hoặc tiền sử đã có), chính điều này mà trước khi chụp MRI phải
tầm soát cẩn thận. Ở trẻ em, chúng ta đều biết rằng có nguy cơ cao xuất hiện các bệnh
lý ác tính khi tiếp xúc với tia xạ nhưng theo Hiệp Hội Hàn Lâm Nhi Khoa Mỹ vẫn
28
khuyến cáo sử dụng CT scan đầu thay cho MRI cho những trường hợp CTSN ngay cả
CTSN nhẹ.
Tiêu chuẩn chỉ định chụp CT Scan đầu trong chấn thương sọ não:
- GCS < 13 điểm.
- Dấu thần kinh như yếu, liệt 1/2 người, lác mắt.
- Chóng mặt, lú lẫn (GCS 13-14 kéo dài >2 giờ).
- Đau đầu kéo dài và ói.
- Động kinh.
- Vỡ xương sọ: đã rõ hoặc nghi ngờ.
- Vết thương có trào mô não ra ngoài hộp sọ.
- Có tổn thương bất cứ dây sọ.
- Vỡ sàn sọ: chảy dịch não tủy ra mũi và tai.
- Đánh giá sau mỗ.
5.3. Cộng hưởng từ - MRI (Magnetic Resonance Imaging)
MRI có độ nhay cao hơn CT scan trong những hầu hết có tổn thương thực thể
cấp tính ở não, bao gồm: tổn thương sợi trục lan tỏa; giập não nhỏ; các máu tụ nhỏ
ngoài trục. Trong CTSN, vỡ xương sọ – xương mặt, các dị vật phần mềm ngoài sọ là
những tổn thương mà CT scan nhạy hơn so với MRI. Mặc dù MRI có độ nhạy hơn CT
scan nhưng MRI não lại không được khuyến cáo sử dụng thường quy cho những bệnh
nhân CTSN vì một số lý do: (1) đắc tiền; thời gian chụp lâu hơn, (2) cần phải tầm soát
các chống chỉ định chụp MRI nên không phù hợp với những bệnh nhân nặng hoặc
không ổn định; đặc biệt là những bệnh nhân cần có những thiết bị/dụng cụ hồi sức kèm
theo.
Tuy MRI hạn chế trong giai đoạn cấp vì bệnh nhân mang các dụng cụ hồi sức có
ảnh hưởng từ tính, tuy nhiên trong giai đoạn bán cấp hay mạn tính thì lại có giá trị cao
hơn CT Scan vì có thể khảo sát trong không gian 3 chiều nhất là để đánh giá tổn
thương chất trắng.
29
được chỉ định. X quang sọ đơn thuần không được khuyến cáo vì 99,6% hình ảnh X
quang sọ trong nhóm này là bình thường. Gãy xương sọ không di lệch ở nhóm này
không cần điều trị, mặc dù có thể xem xét việc theo dõi tại bệnh viện (ít nhất là qua
đêm). Những bệnh nhân trong nhóm này có thể theo dõi tại nhà nếu đáp ứng các tiêu
chí sau:
1. Chụp CT Scan đầu không được chỉ định hoặc kết quả CT Scan bình thường
nếu được chỉ định
2. GCS ban đầu ≥14
3. Không có tiêu chí nguy cơ ICI cao
4. Không có tiêu chí nguy cơ ICI trung bình ngoại trừ mất ý thức
5. Bệnh nhân hiện không bị thay đổi về mặt thần kinh (chứng hay quên vì sự kiện
này có thể chấp nhận được)
6. Có một người đủ trách nhiệm, tỉnh táo có thể quan sát bệnh nhân
7. Bệnh nhân có thể dễ dàng để quay lại bệnh viện cấp cứu nếu cần
8. Không liên quan tình huống "phức tạp" (ví dụ: không nghi ngờ bạo lực gia
đình, tranh chấp, thưa kiện)
Khi theo dõi tại nhà, không dùng thuốc an thần hoặc thuốc giảm đau mạnh hơn
paracetamol trong 48 giờ. Không dùng aspirin hoặc các thuốc giảm đau do can thiệp
vào chức năng tiểu cầu và tăng nguy cơ chảy máu. Bệnh nhân cần quay trở lại bệnh
viện hoặc liên hệ cấp cứu khi:
1. Thay đổi mức độ ý thức (bao gồm cả khó thức tỉnh)
2. Hành vi bất thường
3. Đau đầu tăng dần
4. Nói lắp
5. Yếu hoặc mất cảm giác ở tay hoặc chân
6. Nôn mửa kéo dài
7. Sự dãn của một hoặc cả hai đồng tử
8. Triệu chứng động kinh (co giật hoặc ngất)
9. Sự gia tăng sưng nề đáng kể tại vị trí chấn thương
31
tự như chụp CT thường quy sớm nhưng chi phí thấp hơn so với việc thường quy chụp
CT thường quy sớm. Cho xuất viện những bệnh nhân chụp CT Scan kiểm tra bình
thường và không có chỉ định nhập viện nào khác.
7.1.3. Nguy cơ tổn thương nội sọ cao
Các tiêu chí đánh giá:
1. Sự suy giảm tri giác không rõ ràng do rượu, thuốc, bất thường chuyển hóa,
bệnh nền sẵn có,…
2. Có dấu hiệu thần kinh khu trú
3. Sự suy giảm tri giác
4. Vết thương sọ não hoặc vỡ lún sọ
Hướng xử trí:
- Nhập viện.
- Chỉ định chụp CT Scan đầu (không cản quang) cấp cứu.
- Nếu có các phát hiện qua trọng trong lúc khám thần kinh:
+ Thông báo cho phòng mổ ở chế độ chờ
+ Nếu không có sẵn CT Scan hoặc MRI, xem xét khả năng chuyển viện cấp
cứu.
- Xác định xem có chỉ định theo dõi áp lực nội sọ không.
- Chụp X quang sọ thường không được khuyến cáo, vì gãy xương hiếm khi
không có và X quang sọ không đủ để đánh giá tổn thương nội sọ. X quang sọ chỉ hữu
ích cho các trường hợp xác định vật thể xuyên trong sọ như dao, đạn,... ở phòng mổ.
Khi tuyến cơ sở không có khả năng chụp CT Scan hoặc MRI sọ não, cần đánh
giá đúng chuyển bệnh nhân đến tuyến có khả năng chụp. Trường hợp tuyến cơ sở có
khả năng chụp CT Scan và xác định tổn thương có chỉ định, cần chuyển về tuyến có
khả năng phẫu thuật. Lưu ý trông qua trình vận chuyển bệnh, cần đảm bảo:
- Cố định tốt cột sống cổ và cố định tốt bệnh nhân trên đường chuyển đi để tránh
làm nặng nề thêm các tổn thương.
- Nên đặt nội khí quản để đảm bảo thông khí.
- Đảm bảo các chức năng hô hấp, tuần hoàn: SpO2 > 90%, PaO2 >60%, HA >
90mmHg,...
33
2. Có biểu hiện của khối choán chỗ (dấu hiệu thần kinh khu trú, chẳng hạn như
liệt nửa người).
3. Suy giảm thần kinh đột ngột trước khi chụp CT (bao gồm cả dãn đồng tử)
4. Sau khi chụp CT, nếu tổn thương đi kèm với tăng áp lực nội sọ đã được xác
định
5. Sau CT, nếu đi vào phòng mổ
6. Đánh giá khả năng “có thể cứu được” (“salvageability”): ở những bệnh nhân
không có biểu hiện của chức năng thân não, sử dụng mannitol để đánh giá phản xạ của
thân não còn hay mất.
Chống chỉ định:
1. Điều trị dự phòng không được khuyến cáo do tác dụng mất dịch. Chỉ sử dụng
khi có các chỉ định phù hợp (xem phần trên).
2. Tụt huyết áp hoặc tụt bão hoà oxy máu: tụt huyết áp có thể dẫn đến kết quả sau
điều trị rất xấu. Vì vậy, khi có tăng áp lực nội sọ, việc đầu tiên là phải tiến hành sử
dụng an thần và/hoặc dãn cơ, sau đó đến dẫn lưu dịch não tuỷ. Nếu cần phải tiến hành
thêm các thủ thuật khác, cần phải bù dịch trước khi sử dụng mannitol. Sử dụng tăng
thông khí trong bệnh nhân giảm thể tích tuần hoàn cho đến khi mannitol có thể sử
dụng được.
3. Các chống chỉ định khác: mannitol có thể làm cản trở nhẹ quá trình đông máu
tự nhiên.
4. CHF (suy tim sung huyết): trước khi gây ra tác dụng lợi tiểu, mannitol làm
tăng tạm thời thể tích cơ tim. Sử dụng với cảnh báo CHF, có thể phải sử dụng trước đó
lợi tiểu furosemide.
Cách dùng:
Liều bolus với 0,25-1mg/kg trong thời gian dưới 20 phút (đối với người lớn trung
bình: khoảng 350ml dung dịch 20%). Tác dụng xuất hiện cao nhất sau khoảng 20 phút
(xem trang 660 để biết liều duy trì)
7.2.2.2. Sử dụng thuốc an thần
Thuốc an thần có thể được sử dụng để hạn chế sự kích động, hoạt động cơ bắp
quá mức (ví dụ như do mê sảng), và giúp giảm nhẹ đáp ứng đau và do đó giúp ngăn
35
ngừa tình trạng tăng ALNS. Để an thần, propofol thường được sử dụng ở người lớn
(chống chỉ định ở trẻ em) vì thuốc khởi phát tác dụng nhanh và thời gian tác dụng rất
ngắn; liều 0,3 mg/kg/h truyền tĩnh mạch liên tục, tăng dần khi cần thiết (lên đến 3
mg/kg/h). Không dùng liều bolus ban đầu. Tác dụng phụ thường gặp nhất là hạ huyết
áp. Sử dụng thuốc liều cao kéo dài có thể gây viêm tụy. Các thuốc nhóm
benzodiazepine (ví dụ midazolam, lorazepam) cũng có thể được sử dụng để an thần,
nhưng chúng không có tác dụng nhanh như propofol và khó xác định được đáp ứng
liều của từng người. Thuốc chống rối loạn tâm thần có thể làm chậm quá trình phục
hồi và tránh sử dụng nếu có thể.
7.2.2.3. Một số biện pháp khác như: nằm đầu cao, tăng thông khí (hyperventilation),
biện pháp hạ thân nhiệt (hypothermia), dùng Steroids
7.3. Tại tuyến chuyên khoa ngoại thần kinh
Ổn định hô hấp, tuần hoàn, cột sống cổ.
Chụp CT scan đầu càng sớm càng tốt để chẩn đoán và xử trí các tổn thương, nếu
bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thì chuyển qua phòng mổ, nếu không chuyển bệnh
nhân đến khoa hồi sức ngoại thần kinh (bệnh nặng hôn mê) hay khoa ngoại thần kinh.
Bảng 7.5. Chỉ định phẫu thuật (Mức chứng cứ độ III)
Máu tụ ngoài Máu tụ dưới màng cứng Giập não/Máu tụ
màng cứng trong não
>30ml hoặc bề Dày ≥ 10mm hoặc đường giữa lệch > 5mm bất Gây dấu hiệu thần
dày ≥ 1,5cm kể GCS kinh tiến triển
Dày < 10mm, lệch < 5mm có GCS < 9 hoặc TALNS kháng
hoặc đường
giảm GCS trên 2 điểm có dãn đồng tử và/hoặc thuốc, gây hiệu
giữa lệch >
ICP ≥ 20 mmHg, GCS 6-8 điểm, khối tổn thương ứng choáng chỗ
5mm
thùy trán hay thái dương thể tích ≥ 20ml đẩy lệch trên CT hay thể
đường giữa ≥ 5mm và/hoặc ép bể dịch não tủy tích ≥ 50 ml
Tiếng Anh
9. Andrzej Zyluk (2015), “Indications for CT scanning in minor head injuries: a
review”, Neurologia i Neurochirurgia Polska, 49 (1), pp 52 – 57.
10. Esther L. Yuh (2017), “Structural imaging of traumatic brain injury”, Youmans
and Winn neurological surgery, 7th edition, Elservier Saunders, pp 2819 – 2842.
11. Johan Undén (2013), “Scandinavian guidelines for initial management of
minimal, mild and moderate head injuries in adults: an evidence and consensus-
based update”, BioMed Central, pp 11 – 50.
12. Mark S. Greeberg (2020), “Head Trauma – General Information, Granding,
Initial Management”, Handbook of neurosurgery, 9th edition, Thieme, pp 858 –
875.
13. Mark S. Greeberg (2016), “General information, grading, initial management”,
Handbook of neurosurgery, 8th edition, Thieme, pp 824 – 840.
14. National Institute for Health and Care Excellence (NICE) Guidance (2014),
“Head injury: assessment and early management”.
15. Raj Kamal and AK Mahapatra (2015), “Imaging of head injury”, Textbook of
traumatic brain injury, 1st edtion, Jaypee Brothers Medical Publishers, New
Delhi, India, pp 56 – 63.
16. Yoshimi Anzai, Kathleen R. Fink (2015), Imaging of traumatic brain injury,
Thieme, New York, USA.