ĐẤT NƯỚC

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

ĐẤT NƯỚC

I. Mở bài:

“Có mối tình nào hơn

Tổ quốc”

(Tình sông núi – Trần Mai Ninh)

Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước đã
bắt nhịp trái tim của không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng
và niềm tin sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ
Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, … tiếp nối bền vững qua mỗi thời kì. Đến giai đoạn cuộc
kháng chiến chống Mĩ, ta bắt gặp ở đề tài ấy một trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm với giọng thơ trữ tình chính luận đặc sắc, giàu chất suy tư về đất
nước và con người Việt Nam qua lăng kính trữ tình chính luận rất riêng của ông. Trong
đó, … (giới thiệu luận đề).

II. Giới thiệu chung:

“Mặt đường khát vọng” là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm
hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971 – thời điểm khi cuộc kháng chiến nói
chung và phong trào đấu tranh ở đô thị nói riêng đang vào hồi cao trào với những
phong trào “hát cho dân tôi nghe”, những lời hiệu triệu “dậy mà đi”. Bản trường ca
khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Nhận
rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, về đất nước, ý thức được sứ
mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến
đấu của toàn dân tộc. Bài “Đất Nước” trích phần đầu chương V của bản trường ca
“Mặt đường khát vọng”. Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình –
chính luận, Đất Nước quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở
cũng như những trải nghiệm cá nhân của người thi sĩ để làm nên một tuyên ngôn về
tư tưởng, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.

III. Một cái gì đó ko biết nữa =)))

Trong Mặt đường khát vọng, không chỉ đại đa số độc giả mà chính tác giả cũng
tâm đắc nhất với chương Đất nước. Với lối viết rất riêng, không đao to búa lớn, và
không bắt đầu từ những anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo... tác giả thủ thỉ kể về về những con người rất bình dị nhưng đều có
những cống hiến cho đất nước với thái độ vô cùng yêu thương, trân trọng những con
người “làm nên đất nước muôn đời”.
// Bàn về tư tưởng đất nước là của nhân dân: Thật ra, tư tưởng “Đất Nước là của
Nhân dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan niệm dân vi bản, khi Nguyễn
Trãi khẳng định làm lật thuyền mới rõ sức dân như nước; khi Nguyễn Đình Chiểu ca
ngợi những người nông dân nghĩa sĩ toan lo nghèo khó mà vẫn cao cả anh hùng,… Tư
tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời đánh Mĩ khi được soi
chiếu bằng quan điểm mác – xít về nhân dân vè thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân
Dân.

Có thể nói, hình tượng nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện
theo hướng tập hợp, khái quát hóa, cũng là một cách để khẳng định vững chắc
những nét riêng chỉ có ở con người Việt. Vốn sống gián tiếp được tái tạo từ kiến thức
sách vở, văn học dân gian rất phong phú chính là cơ sở khiến nhà thơ có cách nhìn
như vậy. Ông sử dụng biến hóa kiến thức với pha trộn cảm xúc suy nghĩ chân thành,
cho nên câu thơ giống như lời tâm tình. Tư thế của nhân vật trữ tình giống như đang
triết luận, tâm sự, tâm tình với người yêu thật thân mật, khi lại nghiêm trang nói về
đất nước. Cách xưng hô cũng thế : “Mai này con ta”, “Em ơi em” là lời nhắn nhủ trữ
tình đằm thắm. Nhiều câu thơ như văn xuôi, câu viết dưới dạng định nghĩa, đó là
những suy tư mang màu sắc triết lí, thể hiện nhân thức đúng đắn của tác giả.

// Bàn về chất liệu văn học văn hóa dân gian:

Thành công của Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước, một phần là ở việc
tạo ra một không khí, một giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng đưa người
đọc vào thế giới gần gũi, mỹ lệ của thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao,
của phong tục tập quán nhưng lại mới mẻ qua cáchcảm nhận, tư duy hiện đại với
hình thức câu thơ tự do, lời thơ như lời văn xuôi, lời kể chuyện cổ tích. Đó chính là nét
đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca
dao thần thoại" của đoạn trích. Trong đó chất liệu văn hoá, văn học dân gian được
sử dụng rất đa dạng và đầy sáng tạo: Có thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao,
dân ca, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc như
miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã,giần, sàng, hòn than,
con cúi...Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câuca
dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích.

Chất liệu VHVHDG gắn với ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ:

Khi nhà thơ triết lý về cội nguồn sinh ra đất nước cũng là cội nguồn của mỗi
giađình nên Đất Nước không chỉ tạo bỡi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình
thành, tạo bỡi từtình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ qua câu thơ :

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn


Thì đây là ý thơ cho ta thấy tác giả gợi tả từ cái gốc của chất liệu dân gian, đó là
từ trong câu ngạnngữ dân gian “Gừng cay muối mặn”, chỉ những cay đắng gian nan
đã gắn bó tình nghĩa vợ chồng. Vàthói quen tâm lí, tình cảm này cũng làm cho ta gợi
nhớ đến câu ca dao hết sức trìu mến:

Tay bưng chén muối đãi gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Hay:

Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa

Và khi nói về tình yêu đôi lứa, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng hết sức mượt
mà, đất nước gắn bó với con người trọn đời: từ thuở ấu thơ đến lúc thưởng thành và
biết yêu thương, hẹn hò, nhớ nhunglại gắn với hình ảnh Đất Nước:

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Khi xúc cảm nên dòng thơ này, nhà thơ như nhằm muốn tâm sự, trong tình yêu
đôi lứa, trong nỗi nhớ nhung da diết của em đã hiện hữu tình Đất Nước. Và đó là nỗi
nhớ không định hình được mà câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên rất gần gũi và
hết đỗi đời thường:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Và khi Nguyễn Khoa Điềm nhằm giải bày Đất Nước trải ra theo chiều dài, chiều
rộng của khônggian nhưng không gian ấy thật gần gũi, là nơi con chim bay về, nơi
con cá móng nước:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thì đó là một ý thơ có thể nhận thấy, nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò
Bình – Trị - Thiên quen thuộc, bởi vì nhà thơ được sinh ra và trưởng thành trên vùng
đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm
nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi khái quát về Đất Nước,
Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dân của quêhương, xứ sở
mình:

Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc

Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi

Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời

Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh

Tự hào về một đất nước có bề dày lịch sử bốn nghìn năm, nên nhà thơ đã hướng
về một yếu tốmang tính tâm linh nhưng hết sức truyền thống của người Việt. Bỡi
chính nhân dân là những người đãlàm nên cái hồn văn hoá và đạo lí truyền thống
cao cả cho đất nước, nên nhà thơ tâm sự:

Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong mỗi chúng ta đều biết cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở
mọi người Việt rằng: bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp
phần làm nên truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Vì thế, bái vọng tổ tiên là
điều không thể thiếu, thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng liêng của người sống đối với
người đã khuất. Đây cũng là ý thơ mà trong ca dao đã từng nhắc nhở:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba

Có thể nói trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa
dạng màu sắc của dân tộc, và nhà thơ đã chọn lọc từ những câu ca dao tiêu biểu
nhất để nói về các phương diện truyền thống khác nhau của nhân dân. Trong đó câu
thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã nhằm diễn tả sự say đắm trongtình yêu nhân văn,
nhân bản và cao đẹp nhất:

Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi


Là ý tứ từ câu ca dao đầy ngọt ngào, trìu mến, bình dị và hết sức thân quen, nó
thường trực hằngngày mà trong những đôi nam nữ, trai gái yêu nhau không khó để
nhận ra:

Yêu em từ thuở trong nôi

Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

Có lúc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhằm nói đến sự quý trọng trong lối
sống tình nghĩa, biếtnâng niu, trân trọng những gì có được từ khó nhọc, gian nan:

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Thì đâu đó phản phất trong ca dao cũng đã đúc kết và nhắc nhở mọi người rằng:

Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

Ngoài ra, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng nói đến một phẩm chất nữa của
nhân dân Việt Namlà bền bỉ kiên cường trong chiến đấu dựng và giữ nước, vì đất
nước là của nhân dân, do nhân dân làmnên, nên đất nước mãi mãi trường tồn, bất
diệt:

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Điều này cũng có nghĩa là trong ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã luyến
láy, cảm hứng xuấtphát từ cái gốc của câu ca dao đầy hùng hồn và đanh thép:

Thù này ắt hẳn còn lâu

Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què

Có thể thấy ở tất cả những dòng thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận
dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ đằm thắm, trữ
tình, thiết tha của mình, không ngoài mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc
văn hoá của người Việt Nam.

Chất liệu VHVHDG gắn với thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích:

Đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước là sự cảm nhận về đất
nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Vừa theo mạch cảm
xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ cả một “kho tri thức” phong phú mang tính
tổng thể các loại văn học dân gian, đã làm nền tảng vữngchắc để làm nổi bật tư
tưởng của đoạn trích. Trong lời mở đầu đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềmcó
dòng thơ:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu thường thấy trong các truyện cổ dân
gian, nó mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa
xưa, vậy mà trong thế giới ấy, Đất Nước của chúng ta đã hiện hữu. Đất nước như đã
có tự thuở hồng hoang trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ, từ sử thi
Đẻ Đất Đẻ Nước, Sự tích Sự kì diệu của đất nước trong chống giặc ngoại xâm cũng
được nhà thơ gợi lên từ tinh thần nhổ tre đánh giặc Ân thuở nào của Thánh Gióng mà
truyền thuyết đã kể lại. Và những hình tượng quen thuộctrong thần thoại, truyền
thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng…” cùng hội tụ trong
trường liên tưởng của nhà thơ đã làm nổi bật ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta
là “con rồng cháu tiên”, cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha
là Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Vì vậy để gợi nhớ truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên,
Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng ngay rằng:

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Nếu trong mỗi chúng ta, ai đó một khi chưa hiểu hết về đất nước với những khái
niệm trừu tượng như lãnh thổ, chủ quyền, thì chúng ta sẽ cảm nhận được đất nước là
một cái gì đó rất gần gũi, quen thuộcqua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích mẹ thường kể từ thuở còn nằm trong nôi

Chất liệu VHVHDG gắn với phong tục tập quán:

Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống
yêu nước, anhhùng, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa với phong
tục ngàn đời của cha ông ta đúc kết lại. Vì thế, khi Nguyễn Khoa Điềm tâm sự:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đó là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng
nước. Hay gợi nhớ câu chuyện “Trầu cau” đầy nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền
thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường cũng là gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt.Hay
khi nhà thơ miêu tả cái dáng dấp thấp thoáng của người mẹ hiện lên trong vẻ đẹp
đầynữ tính của người phụ nữ Việt Nam, nhà thơ đã viết:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Tục búi tóc thành cuộn sau gáy của người dân Việt, đó là tập quán thể hiện quan
niệm “cáirăng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ xưa mà đã một thời tô
điểm vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ Việt Nam.Nhà thơ đã đưa đến cho người
đọc quan niệm hình thành đất nước, đất nước chúng ta được hìnhthành từ trong
cộng đồng của những người có chung kiểu ngôn ngữ nôm na dễ hiểu như thói quen
đặttên con bằng tên các đồ vật cho dễ nuôi của người dân lao động nước ta:

Cái kèo, cái cột thành tên

Với miếng trầu dung dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái
tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Tất cả những điều
tưởng chừng như bình thường ấy đã trởthành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp,
thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc mang tính văn hoá Việt Nam.Có thể nói từ
những hệ thống như trên, chúng ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn
hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo. Không trích dẫn nguyên văn câu ca dao,
tục ngữ, dân ca, khôngkể dài dòng các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục
tập quán, mà nhà thơ chỉ bắt lấy rất tinh tế cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên
tưởng, gợi suy ngẫm cho người đọc. Cho nên khi tiếp xúc tạo cho người đọc cảm
giác vừa quen vừa lạ. Cảm giác “quen” vì từ thuở ấu thơ mỗi người trong chúng ta, ai
cũng đã sống trong không khí văn hoá dân gian, cho nên trong mỗi người Việt Nam
hết sức nhạy cảm với ca dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập
quán…Chỉ cần một lay động nhỏ, là tâm hồn người Việt Nam đã rung lên bao hồi ức.
Còn cảm giác “lạ” là khi đọc những dòng thơ này là do từ những chất liệu văn hoá,
văn học dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng rất thơ, rất
êm dịu và cũng rất bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho đoạn thơ. Đến đây ta có thể
nhận ra rằng: vẻ đẹp của chất liệu văn hoá dân gian là vô cùng quan trọng đối với
văn học viết nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Và cũng chính những chất
liệu văn hóa ấy khi được cảm nhận sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào thơ sẽ tạo nên
những khoảng âm vang rất lớn để thơ ca trường tồn và song hành cùng thời gian,
chính chiều sâu của những chất liệu văn hóa dân gian đã tạo nên nét độc đáo riêng
của đoạn trích Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

IV. Kết bài:


Qua những cảm nhận hết sức bình dị nhưng vô cùng mới mẻ bằng việc sử dụng
thành công, kết hợp nhuần nhuyễn các chất liệu văn học, văn hóa dân gian truyền
thống, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một quan điểm sâu sắc, mới mẻ về
chủ đề Đất Nước - chủ đề bao trùm xuyên suốt tiến trình văn học Việt Nam. Quan
niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mang dấu ấn riêng biệt của sự trải nghiệm,
chiêm nghiệm, triết lí, suy tư, từ đó đem đến cảm nhận, cách khám phá quê hương
đất nước trong cái nhìn toàn vẹn, nổi bật là tư tưởng cốt lõi về nhân dân: “Đất Nước
của nhân dân” và nhân dân chính là người kiến tạo, tạo dựng, đi qua những giao lao
và làm nên chiến công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đọc Đất nước
của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh
thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

You might also like