Professional Documents
Culture Documents
Tim Hieu Chung Cac Loai Vat Lieu Lam Bao Bi Thuc Pham Cong Nghe Bao Bi Va Dong Goi Thuc Pham 9206
Tim Hieu Chung Cac Loai Vat Lieu Lam Bao Bi Thuc Pham Cong Nghe Bao Bi Va Dong Goi Thuc Pham 9206
TIỂU LUẬN
Ngày 25/05/2012
Bao bì kim loại – Nhóm 9
ĐẶT VẤN ĐỀ
MỤC LỤC
Bề mặt sáng, bóng, đẹp, có thể tráng lớp vecni để bảo vệ lớp in
không bị trầy xước
Nhược điểm:
Dễ bị oxy hóa nếu không tráng lớp vecni
Không thấy sản phẩm bên trong
Giá thành sản xuất và đóng gói bao bì khá cao
III. PHÂN LOẠI
3.1. Phân loại theo vật liệu bao bì:
- Bao bì thép tráng thiếc (sắt tây): Có thành phần chính là sắt, và các phi
kim, kim loại khác như carbon hàm lượng ≤ 2,14%, Mn ≤ 0,8%, Si ≤ 0,4%, P
≤ 0,05%, S ≤ 0,05%. Hàm lượng carbon chỉ nên ở mức 0,15 – 0,5% vì nếu
hàm lượng carbon lớn thép không đạt được tính mềm dẻo mà có tính dòn
(điển hình như gang). Để có thể làm bao bì kim loại, yêu cầu hàm lượng
carbon ở khoảng 0,2%.
- Bao bì kim loại Al: Al làm bao bì có độ tinh khiết đến 99%, và những
thành phần kim loại khác co lẫn trong Al như Si, Fe, Cu, Mn, Mg, Zn, Ti.
3.2. Phân loại theo công nghệ chế tạo lon:
3.2.1. Lon hai mãnh:
- Lon hai mãnh gồm thân dính liền với đáy, nắp rời được ghép mí với
thân (giống ghép mí nắp lon ba mãnh). Vật liệu chế tạo lon hai mãnh phải
có tính mềm dẻo cao, đó chính là nhôm (Al). Hộp, lon hai mãnh được chế
tạo theo công nghệ kéo vuốt tạo nên thân rất mỏng so với bề dày đáy, nên
dễ bị đâm thủng, móp, biến dạng khi va chạm cơ học. Lon hai mãnh là loại
thích hợp chứa các thức uống có gas (khí CO 2)vì tạo áp suất đối kháng bên
trong.
- Chế tạo lon Al có thể đạt được chiều cao đến 110mm, nếu chế tạo
bằng vật liệu thép thì không thể theo công nghệ kéo vuốt với chiều cao
như lon nhôm vì thép rất cứng, vững.
Quặng sắt
Thép lỏng
Gia nhiệt
- Thép trong chế tạo bao bì thực phẩm cần phải có độ tinh sạch cao, đạt
được độ dẻo dai (C ≤ 0,2 %).
- Độ dày thép để chế tạo bao bì thực phẩm là 0,15 – 0,5 mm, tùy theo
đặc tính thực phẩm.
4.2. Tiêu chuẩn tráng thiếc:
• Thiếc sử dụng phải đạt độ tinh khiết 99,75%
• Thiếc có thể tráng bằng phương pháp nhúng (14-15kg/tấn thép) hoặc
mạ điện (4-5kg/tấn thép)
• Tấm thép sau khi mạ thiếc được phủ lớp dầu bôi trơn DOS (dioetyl
sebacate) từ 2-5mg/m 2
• Lon chứa đựng thực phẩm có độ tráng thiếc từ 5,6 - 11,2g/m 2
• Lớp thiếc phủ bề mặt thép tạo vẽ mỹ quan cho sản phẩm: bên ngoài và
bên trong hộp đều có màu sáng bạc.
4.3. Lớp Vec-ni bảo vệ:
Phủ bên trong cũng như bên ngoài của lon 3 mảnh và 2 mảnh, phủ ở
các mối hàn và ghép mí.
Là loại nhựa nhiệt rắn. Sau khi được đun nóng chảy để phun phủ lên bề
mặt lon thì vecni được sấy khô trở nên cứng, rắn chắc.
Nhằm bảo vệ lon không bị ăn mòn bởi môi trường thực phẩm.
Vec-ni tráng ngoài lon giúp lớp sơn bên ngoài không bị trầy xước.
Lớp vec-ni phải đảm bảo:
• Không gây mùi lạ cho thực phẩm, không gây biến màu thực phẩm được
chứa đựng
• Không bong tróc khi va chạm cơ học
• Không bị phá hủy bởi các quá trình đun nóng, thanh trùng
• Có độ dẻo cao để trải đều khắp bề mặt được phủ. Liều lượng được
tráng lên thép tấm: 3-9g/m2, độ dày 4-12 . Sau khi tạo hình thì lon
được tráng bổ sung để khắc phục những chỗ trầy sước biến dạng ở mối
ghép thân, đáy.
GVHD: Đỗ Vĩnh Long Trang 8
Bao bì kim loại – Nhóm 9
• Độ dày lớp vecni phải đồng đều nhau, không để lộ thiếc qua những lỗ,
những vết, sẽ gây ăn mòn thiếc và lớp thép một cách dễ dàng.
4.4. Cấu tạo lon 3 mãnh:
Cấu tạo của một thép tấm tráng thiếc (4) nhƣ sau:
4.5. Quy trình công nghệ chế tạo lon ba mãnh (loại nắp thƣờng không
gắn khóa đòn bẩy):
4.5.1. Tổng quan về quy trình:
Tách lon
Loe miệng
Tạo gân
Phủ vecni
Sấy
Thép tấm được rửa dầu, sấy, in nhãn hiệu, tráng vecni
Tách lon
Loe miệng
Tạo gân
Thân lon
Thuyết minh:
In nhãn hiệu và tráng vecni: Một bề mặt của thép tấm được in nhãn hiệu,
sau đó có thể được phủ vecni bảo vệ cả hai bề mặt hoặc chỉ phủ bề mặt
không in là bề mặt trong đựng thực phẩm hoặc không phủ vecni cả hai mặt,
tùy theo yêu cầu sản phẩm việc in được thực hiện hàng loạt nhằm tạo nhãn
hiệu cung cấp thông tin cho từng loại sản phẩm, đồng thời lớp vecni chống
oxy hóa từ bên ngoài, tạo nét cho bao bì.
Cắt sắt tạo hình thân lon:
Giai đoạn 1: Cắt tấm sắt nguyên liệu thành nhiều tấm nhỏ có chiều rộng là
chiều cao lon để tạo thân lon.
Giai đoạn 2: Tiếp tục cắt những tấm sắt lần ở giai đoạn 1 thành những
miếng nhỏ có chiều dài bằng chu vi đáy lon.
Giai đoạn 3: Sau khi đã cắt ở giai đoạn 2, những tấm sắt nhỏ tiếp tục được
cắt góc và gấp mép để tạo mí thân.
Cuộn và hàn mí thân: Được hàn ghép mí theo chiều cao lon, mối hàn phải
đảm bảo độ kín và càng mịn càng tốt vì ngoài việc tạo mối hàn phẳng đẹp
còn tạo cho mối hàn thân lon được chặt khít không có khe hở. Có hai
phương pháp hàn mí phổ biến là phương pháp cơ học và phương pháp hàn
điện.
a) Mặt cắt ngang mối ghép b) Mặt cắt ngang mối ghép
theo phương pháp cơ học theo phương pháp hàn điện
Sau khi hàn, có thể phủ vecni trong và ngoài mối hàn để tránh bị ăn mòn.
Tách lon: Giai đoạn này chỉ tiến hành khi sản xuất loại lon có chiều cao nhỏ
hơn 9cm, vì ở máy hàn chỉ hàn được những lon có chiều cao lớn hơn. Do
vậy đối với lon có kích thước nhỏ hơn 9cm thì thực hiện hàn 2 hoặc nhiều
lon một lần sau đó tách lon.
Loe miệng: Là giai đoạn viền miệng thân lon tạo gờ để chuẩn bị quá trình
ghép mí.
Tạo gân: Nhằm tạo độ vững chắc cho bao bì sản phẩm, có thể giảm giá
thành sản phẩm do dùng thép mỏng. Nếu không tạo gân tăng cứng thì thép
tấm nguyên liệu cần có độ dày ≥ 0,25mm nhưng nếu có tạo gân thì nguyên
liệu có thể có độ dày thấp hơn, tùy theo trọng lượng thực phẩm đóng hộp,
thể tích hộp mà dùng nguyên liệu thép tấm có độ dày thích hợp.
Viền
Cao su dạng
Phun keo đệm kín past
Thuyết minh:
Sấy khô đến 210oC: Thép tấm nguyên liệu sau khi tráng vecni được sấy
khô để làm bốc hơi hoàn toàn dung môi tạo nên lớp nhựa rắn chắc trong
suốt bám dính vào bề mặt thiếc.
Cắt sắt, định hình nắp hoặc đáy: Tại đây tấm sắt nguyên liệu được cắt
thành những miếng hình tròn có kích thước được thiết kế sao cho phù hợp
với phần thân lon.
Dập để tạo gân: Nhằm tạo tính giãn nở của nắp hoặc đáy theo sự giãn nở
khí trong hộp khi thanh trùng, tiệt trùng sản phẩm. Dập để tạo gân và móc
nắp hoặc đáy.
Phun keo đệm kín: Nhằm đảm bảo độ kín hoàn toàn của lon thành phẩm
sau khi đã ghép mí đáy cũng như nắp vào thân lon (giai đoạn ghép mí sẽ
được tìm hiểu ở phần sau). Một lớp cao su đàn hồi được phun vào viền nắp
để tạo vòng đệm cho đáy hoặc nắp, sau khi ghép mí đáy và nắp trở nên chặt
khít vào thân lon.
4.5.4. Ghép mí thân, nắp, đáy: dựa vào quy trình tổng quan, sau khi đã chế
tạo phần nắp, đáy và thân lon riêng biệt, ta tiến hành ghép mí chúng để tạo
sản phẩm lon, hộp ba mảnh hoàn chỉnh.
Ghép mí:
- Là giai đoạn quan trọng trong quá trình sản xuất đồ hộp.
- Là nguyên nhân tạo ra phế phẩm đồ hộp nếu:
+ Mối ghép thân bị lệch (sai lệch cho phép 2%)
+ Trầy xước lớp vecni khi cuốn và ghép mí thân. Do đó phải phủ lại
lớp vecni khi hoàn thành xong phần cuốn và ghép mí thân.
c) Vị trí nắp hoặc đáy chuẩn d) Thân với nắp hoặc đáy đã
bị ghép mí với thân được ghép mí hoàn chỉnh
Hình 10. Mối ghép mí giữa thân hoặc đáy với nắp
c) Ép chặt mí ghép
Hình 11. Quá trình tạo mối ghép giữa thân và đáy hoặc nắp
Khuyết tật của mối ghép mí thân với nắp hoặc đáy:
- Mối ghép có thể bị hư hỏng sai lệch do các nguyên nhân: thân, nắp, đáy
được cắt với kích thước không chính xác, thiếu hoặc thừa tạo nên móc nắp
hoặc móc thân sai lệch quá ngắn hoặc quá dài.
- Máy ghép hoạt động không tốt, không đạt yêu cầu sẽ gây hư hỏng sản
phẩm hàng loạt. Móc thân và móc nắp hoặc đáy không móc chặt vào nhau
hoặc bị lệch tạo bao bì không kín, tạo điều kiện nước xâm nhập trong quá
trình thanh trùng và cả sự xâm nhập của không khí, vi sinh vật – chúng phát
triển sinh khối gây hư hỏng thực phẩm. Sự hư hỏng này của bao bì và thực
phẩm có thể được phát hiện do sự rò rỉ nước thực phẩm ra khỏi bao bì khi có
sự đảo lắc lon, hộp hoặc trong thời gian bảo quản, sản phẩm bị lên men thối
hay lên men tạo CO2 và ethanol.
- Để kiểm tra độ kín của lon sau khi ghép mí, lon được cho vào buồng
khí nén của máy đo chuyên dụng rồi bơm khí nén vào với áp suất thích hợp
và duy trì áp suất, nếu áp suất giảm nghĩa là lon này bị hở phải loại bỏ.
Ngâm lon vào bể chứa nước nóng 90 đến 100oC, nếu thấy bọt khí thoát ra
thì lon này bị hở mối ghép, cần tìm nguyên nhân gây hư mối ghép từ máy
ghép hay từ kích thước các bộ phận thân, đáy, nắp.
Hoàn thành lon ba mãnh: Sau khi hoàn thành phần ghép mí, lon được phủ
vecni và sấy. Tiếp đến được chuyển đến nhà máy sản xuất thực phẩm để
chiết rót thực phẩm và đóng nắp để hoàn thành sản phẩm.
Oxyt nhôm
Điện phân
Quy tr nh H -Heroult
- Công nghệ Hall - Héroult là quá trình tách nhôm theo phương pháp
điện phân nóng chảy có sử dụng cryolit (sodium aluminum fluoride,
Na3AlF6) là chất xúc tác để giảm độ nóng chảy của tinh quặng alumina.
Hỗn hợp dung dịch cryolit với tinh quăng alumina đã bị hòa tan được
điện phân khiến nhôm ở thể lỏng chuyển dịch về phía cathode và tích tụ
ở trên dương cực này trong khi đó cực âm anode bằng C bị oxi hóa thành
carbon đioxit. Nguồn điện được sử dụng bởi rất nhiều lò luyện nhôm như
trên thường có điện thế rất thấp (thường 3-5 V), nhưng đòi hỏi dòng phải
lớn – trong mỗi một buồng điện phân cường độ dòng có thể từ 220kA lên
đến 340kA.. Các buồng tự tăng nhiệt độ do chính dòng điện chạy qua để
lên tới nhiệt độ điện phân, và hệ thống điều biến anode thay đổi dòng
điện chạy qua bằng cách nâng lên hay hạ xuống thanh anode và do đó
thay đổi trở kháng của buồng điện phân. Khi cần, một thanh nối được
cho tiếp xúc để hình thành nên mạch rẽ. Nhôm lỏng được tách ra nhờ
một xi phông và một máy hút. Nhôm lỏng được chuyển vào các thùng
chứa hay được đưa ngay qua các đường ống dẫn liên tục và chịu nhiệt
sang các cơ sở mạ.
Hình 15. Các bước tạo hình thân lon hai mãnh
Thuyết minh hình ảnh
Hình 1: Từ cuộn lá nhôm vừa sản xuất được cắt thành từng tấm có kích
thước phù hợp sau đó được duỗi trải thẳng, bôi trơn và cắt thành hình tròn.
Hình 2: Mảnh nhôm hình tròn vừa cắt được dập tạo hình than sơ bộ. Tuy
nhiên, lúc này cả than và đáy lon có bề dày mảnh nhôm như nhau.
Hình 3, 4, 5, 6: Lúc này từ công đoạn tạo hình sơ bộ mảnh nhôm tiếp tục
được nông vuốt tạo thân trụ có chiều cao theo yêu cầu và khi đó đáy lon có
bề dày không đổi so với ban đầu còn thân lon từ từ được vuốt mỏng hơn
ban đầu.
Hình 7: Cắt phần thừa ở viền miệng lon để chuẩn bị cho các công đoạn
tiếp theo chẳng hạn như loe miệng và ghép nắp.
Chế tạo nắp lon:
- Nhôm tấm phủ vec-ni bôi trơn cắt hình tròn dập tạo hình nắp, móc
nắp gắn khóa nắp phun lớp cao su đệm lên móc nắp để tạo độ chặt và kín.
Phun cao su
đệm kín
In mặt ngoài, loe
mép
Thân lon
thành phẩm
Phủ vecni bảo Sấy khô
vệ lon, nắp vecni
Nắp thành
phầm
Hình 17. Sản phẩm cà phê chứa trong lon kim loại
Để giữ được hương vị đặc trưng này và làm thỏa mãn nhu cầu của người
sử dụng, cafe bắt buộc phải được đóng gói, vận chuyển và phân phối trong
những bao bì kín. Hộp kim loại và bao gói bằng giấy nhôm là những vật liệu
có thể dùng để bao gói được. Tuy nhiên, bao gói bằng giấy nhôm phải được
hút chân không để tránh bao gói bị rách vỡ. Quá trình này làm ảnh hưởng tới
hương vị của cafe.
Hộp kim loại chứng tỏ là sự lựa chọn tối ưu cho bao bì cafe. Cafe sau khi
xay, được đưa vào những silo kín và đóng gói vào những hộp kim loại. Các
hộp này sau đó được hút chân không và ghép mí. Bốn tám tiếng sau, áp suất
trong hộp trở lại bình thường. Phương pháp này giúp cho cafe giữ nguyên
được hương vị của nó tới tận tay người tiêu dùng.
Bao bì kim loại còn có những lợi thế đáng kể khác như khả tạo hình dáng,
các đường hằn đặc trưng và chất lượng in ấn tuyệt hảo. Kim loại với đặc tính
bền vững sẵn còn giúp cho các hộp chứa có thể xếp chồng lên nhau và được
hàn kín.
6.2. Trà khô
Trà xanh là đồ uống không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn thể hiện một nét
văn hóa truyền thống. Tùy từng vùng mà hương vị trà khác nhau. Bên cạnh
đó, các yếu tố như: ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ và ôxy cũng ảnh hưởng lớn
đến chất lượng của trà.
Cũng như cafe, hộp kim loại thể hiện tính ưu việt hơn hẳn các loại bao bì
khác trong việc giữ nguyên hương vị trà. Đựng trà trong những hộp kín, để
ở nơi thoáng mát, khô ráo và tối sẽ giúp bảo quản trà ngon tới 3 năm.
Hình 18. Trà khô được chứa trong lon kim loại
Hình 19. Nước quả được chứa trong lon kim loại
Trong quá trình chế biến, khi rót hộp, nước đường cần có nhiệt độ 80-
850C. Hộp rót nước đường xong, đem ghép nắp ngay trên máy ghép với
độ chân không 300-350 mmHg, nếu để chậm sản phẩm bị biến màu và
dễ nhiễm trùng. Sau đó đem thanh trùng ngay, không nên để lâu quá 30
phút, để tránh hiện tượng lên men trước khi thanh trùng và giảm nhiệt độ
ban đầu của đồ hộp. Tuỳ theo chủng loại sản phẩm và số hiệu hộp, chế
độ thanh trùng khác nhau. Nhiệt độ thanh trùng thường ở 1000C, trong
thời gian dài tùy từng đặc tính của sản phẩm. Chính vì làm việc trong
nhiệt độ cao kéo dài như vậy mà bao bì kim loại là phương án được lựa
chọn.
Bao bì đồ hộp thường làm bằng sắt, dễ bị oxy hoá khi đựng thực
phẩm, nhất là loại có chứa nước như trái cây. Phủ thêm lớp thiếc hoặc
vecni để chống gỉ sét, sẽ kéo dài thời gian bảo quản. Tráng vecni có lợi
điểm là không nghe mùi và vỏ hộp sử dụng vecni không bị màu tự nhiên
của trái cây nhuộm cho nên thành bao bì bên trong không bao giờ xuất
hiện những vết loang lổ màu xám đen khi để lâu, nhưng giá thành cao.
Cho nên, thông thường với những loại trái cây màu nhẹ như dứa, chôm
chôm, vải…dùng vỏ hộp tráng thiếc; trái cây màu mạnh như chuối,
xoài…thì dùng vỏ tráng vecni.
Mỗi sản phẩm chỉ phù hợp với một loại hộp có vật liệu, dung tích,
kích cỡ nhất định.
Lớp vecni phải đủ bền để dưới tác dụng nhiệt độ của nước, dầu trong
quá trình chế biến.
6.4. Sản phẩm đồ uống có gas
Yêu cầu đặc biệt của loại đồ uống này là bao bì phải chịu được lực ép
của khí gas.
Trước đây, các lọai đồ uống có gas được đựng trong các hộp thép rất
nặng, có thiết diện gần như là hình chữ nhật. Những cái lon này được cấu
tạo gồm 3 phần, tức là phần nắp và đáy được gắn vào 1 đọan ống hình trụ ở
giữa nhờ máy ép.
Hình 21. Nước uống có gas được chứa trong lon nhôm
Khi các hãng sản xuất vỏ hộp buộc phải quan tâm nhiều hơn đến việc
giảm giá thành và bảo vệ môi trường, họ chuyển sang sản xuất những hộp
mỏng bằng nhôm. Nhôm mỏng thì có độ bền kém hơn thép. Yêu cầu đặt ra
là những chiếc lon được cán thật mỏng mà vẫn đảm bảo chứa được lượng
chất lỏng bên trong.
Điều này được đáp ứng nhờ cấu tạo của lon. Phần mỏng nhất và vững
nhất của lon là phần nắp và được gắn hơi thụt xuống. Nắp phải đủ bền vững
để chịu được lực tác động khi mở lon. Kim loại ở phần này mỏng do đó
đường kính của cái nắp nên nhỏ đến mức có thể, thường nhỏ hơn 1 chút so
với phần thân. Để nối chúng lại với nhau thì lon phải thắt vào ở phía trên
(không thể làm nhỏ đường kính của toàn bộ lon, vì như vậy sẽ chứa được ít
bia hơn). Khi đó, đáy lon cũng phải thắt lại để chúng có thể xếp chồng lên
nhau.
Kim loại ở phần đáy rất mỏng, nếu làm phẳng, chúng rất dễ bị biến dạng.
Vì vậy, đáy phải làm cong để vừa chắc hơn vừa dễ xếp chồng lên nhau, tiện
cho việc vận chuyển.