Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 49

Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.

Lê Văn Thiện

Mục lục

Lời Mở Đầu
I. Tổng quan về biochar (than sinh học)………………………………………3
I.1. Biochar là gì?.................................................................................................3
I.1.1. Khái niệm……………………………………………………………..…..3
I.1.2. Lịch sử biochar………………………………………………………..…..4
I.2. Nguyên liệu sản xuất biochar…………………………………………….…4
I.3. Sản xuất biochar…………………………………………………………….7
I.4. Tính chất hóa-lý của biochar…………………………………………........12
I.4.1. Thành phần cấu tạo………………………………………………….…....12
I.4.2. Thành phần hóa học và bề mặt hóa học……………………………….….13
I.4.3. Sự phân bố kích thước lỗ…………………………………………………15
I.4.4. CEC và pH……………………………………………………………...…16
II. Ứng dụng của biochar……………………………………………..…………17
II.1. Đôi với nông nghiệp và quàn lý chất thải…………………………….…….17
II.2. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu……………………………………………….....19
II.3. Giải pháp cho trái đất từ biochar……………………………………..……20
II.4. Giới hạn của giải pháp biochar…………………………………………….21
III. Sử dụng biochar trong cải tạo đất…………………………………………..22
III.1. Ảnh hưởng đến tính chất vật lý đất………………………………………….22
III.1.1. Dung trọng………………………………………………………………....23
III.1.2. Chế độ nước và khả năng duy trì chất dinh dưỡng…………………….….24
III.1.3. CEC và pH……………………………………………………………..…..26
III.2. Ảnh hưởng của biochar tới các quá trình trong đất………………………...27
III.2.1. Sự hấp thu các hợp chất hữu cơ kỵ nước………………………………….27
III.2.2. Sự giữ lại/tính hiệu lực/sựu rửa trôi chất dịn dưỡng……………………..30
III.2.3. Sự ô nhiễm…………………………………………………………………31
III.2.4. Động lực học chất hữu cơ trong đất……………………………………….34
III.2.4.1. Tính ngoan cố của biochar trong đất…………………………..……34
III.2.4.2. Tương tác hữu cơ khoáng…………………………………………...35
III.2.4.3. Khả năng tiếp cận……………………………………………………35
III.2.4.4. Hiệu ứng mồi………………………………………………………..36
III.2.4.5. Loại bỏ dư lượng…………………………………………………….36
III.2.5. Sinh học đất………………………………………………………………...37
III.3. Mô hình thực nghiệm………………………………………………….…….39
IV. Kết luận………………………………………………………………………...41
V. Tài liệu tham khảo………………………………………………………....…..42

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 1 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 2 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Lời Mở Đầu

Đất đai canh tác đang ngày một xấu đi và bị thu hẹp lại khi tỷ lệ gia tăng dân số trên
thế giới ngày một lớn, vì vậy nhu cầu cải tạo đất vừa cấp bách vừa đòi hỏi phải đạt đến
độ bền vững. Đất có khả năng lưu giữ C thông qua quá trình thực vật sử dụng khí CO2
để quang hợp và ảnh hưởng tới nồng độ của khí CO2 trong khí quyển. Biochar có thể
được sử dụng để làm tăng khả năng cô lập C của đất và đồng thời cải thiện “sức khỏe”
đất.
Khoảng 25% diện tích đất trên toàn cầu bị suy thoái bởi các hoạt động của con người.
Hiện loại biochar (than sinh học) làm từ dư lượng thực vật, phế phẩm sản xuất ghỗ,
giấy, phân gia cầm,… có thể giúp nông nghiệp phát triển bền vững hơn và biến các
cánh đồng thành hầm “nhốt” CO2. Biochar thu hút các vi sinh vật, giúp cây trồng hấp
thu các chất dinh dưỡng trong đất, cho phép đất giữ nước nhiều hơn. Phương pháp tiên
tiến sản xuất biochar từ dư lượng thực vật, phế phẩm sản xuất ghỗ, giấy, phân gia cầm,
… bằng cách nung nóng ở nhiệt độ tươn đối cao trong điều kiện thiếu ôxy. Một số
công ty đang xây dựng thiết bị sản xuất biochar ở nhiều quy mô khác nhau. Một trong
những công ty đầu tiên giới thiệu sản phẩm là Biochar Engineering ở Colorado.

Mục đích của bài tiểu luận này là để giới thiệu các khái niệm, nguồn gốc biochar,
thảo luận về quá trình sản xuất, tiềm năng sử dụng, và những lợi ích của biochar với
các vai trò quan trọng của nó trong nông nghiệp và với môi trường.

I. Tổng quan về Biochar (than sinh học)


Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 3 Nhóm 3
Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

I.1. Biochar là gì?


I.1.1. Khái niệm

Biochar là sản phẩm tạo bởi sự nhiệt phân của nguyên liệu sinh học trong điệu kiện
nồng độ khí O2 thấp hoặc hoàn toàn không có. Thông thường quá trình nhiệt phân sinh
khối cho ra 20% biochar, 20% khí tổng hợp dùng làm nhiên liệu, và 60% dầu sinh học
thay thế dầu mỏ trong sản xuất các vật dụng như đồ nhựa. Nhưng khi cần khối lượng
lớn để cải tạo đất, người ta thay đổi cách đốt chậm hơn để có tỷ lệ biochar lên trên
50%. Điều khác biệt giữa biochar với than củi là mục đích chính sử dụng của nó, nó
được sản xuất như một chất phụ gia cho đất, chủ yếu để cải thiện lưu giữ chất dinh
dưỡng và lưu trữ carbon. Biochar là chất ổn định vững chắc và giàu cacbon, do đó, có
thể được sử dụng để khóa carbon trong đất. Sự quan tâm về biochar ngày càng tăng vì
những lo ngại về biến đổi khí hậu gây ra bởi lượng khí thải carbon dioxide (CO 2) và
các khí nhà kính khác (GHG). Mặc dù lịch sử của biochar đã kéo dài hàng ngàn năm
song khoa học vẫn còn tương đối chưa được thấu đáo về biochar.
Biochar là một phương pháp để carbon được rút ra từ khí quyển và là một giải pháp để
giảm thiểu tác động toàn cầu của nông nghiệp (và trong việc giảm ảnh hưởng từ tất cả
các chất thải nông nghiệp). Từ biochar có thể cô lập carbon trong đất cho hàng trăm
đến hàng ngàn năm, nó đã nhận được sự quan tâm đáng kể như một công cụ tiềm năng
để làm chậm sự nóng lên toàn cầu. Sự phân hủy tự nhiên và đốt cháy của sinh khối và
các vấn đề nông nghiệp đóng góp một lượng lớn khí CO 2 thải vào khí quyển. Biochar
có thể lưu trữ carbon trong lòng đất, có khả năng làm giảm đáng kể lượng khí nhà kính
trong khí quyển, đồng thời sự hiện diện của nó trong lòng đất có thể cải thiện chất
lượng nước, tăng độ phì đất, nâng cao năng suất nông nghiệp.
Hiện tại các dự án về biochar chỉ trên quy mô nhỏ và không tác động đáng kể vào àm
lượng cácbon tổng thể toàn cầu. Tháng năm, 2009, Quỹ biochar ( the Biochar Fund)
nhận được tài trợ từ Quỹ rừng tại các lưu vực sông Congo (the Congo Basin Forest
Fund) để thực hiện ý tưởng của mình ở Trung Phi. Trong dự án này, biochar là một
công cụ được sử dụng để đồng thời làm chậm nạn phá rừng, tăng cường an ninh lương
thực của các cộng đồng nông thôn, cung cấp năng lượng tái tạo cho họ và carbon cô
lập.

I.1.2. Lịch sử Biochar

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 4 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Người bản xứ Amazon được cho là đã sử dụng biochar để nâng cao chất lượng đất
và sản xuất nó bằng cách đốt cháy âm ỉ chất thải nông nghiệp. Người Châu Âu gọi đất
đó là đất đen (có màu ngạ quỷ). Trong toàn bộ lưu vực Amazon chiều sâu đất đen có
vùng lên đến 2m, đây là loại đất màu mỡ rất tốt canh tác nông nghiệp cho người dân
vùng Amazon.

H.1. trái- đất đỏ nhiệt đới (oxisols) nghèo dinh dưỡng,


phải-đất đã qua cải tạo bởi biochar

Phân tích đất đen cho thấy nồng độ cao của các biochar và vật chất hữu cơ, chẳng hạn
như thực vật và động vật vẫn còn (phân hữu cơ, xương và cá). Chất lượng của đất đen
là do lưu giữ chất dinh dưỡng tốt và độ pH trung tính.Và một điều thú vị là đất đen chỉ
tồn tại trong khu vực có người ở, điều đó cho thấy rằng con người có tác động đến đất
thông qua việc đưa biochar vào đất và tạo ra loại đất đặc biệt đó.

I.2. Nguyên liệu sản xuất biochar


Sản xuất biochar được mô hình hóa sau khi tìm hiểu các quá trình bắt đầu từ hàng
nghìn năm trước ở lưu vực sông Amazon. Người ta cho rằng lửa từ việc nấu ăn và
đống rác bếp cùng với việc cố ý đặt than vào đất dẫn đến các loại đất có độ màu mỡ và
hàm lượng cacbon cao. Các loại đất này tiếp tục “giữ” lại cacbon và vẫn còn rất giàu
dinh dưỡng, thậm chí còn được đào lên và bán dưới hình thức các chậu đất tại thị
trường Brazil.
Do lợi ích mà biochar mang lại mà từ đó đến nay các nhà khoa học đã không ngừng
nghiên cứu và tìm ra rất nhiều các nguồn nguyên liệu để sử dụng trong sản xuất
biochar.
Ngày nay, người ta thể sử dụng bất kỳ vật liệu sinh khối thực vật, đem đi nhiệt phân
trong điều kiện thiếu hoặc không có oxi để tạo ra biochar, sinh khối đó có thể là dư
lượng cây trồng, gỗ và chất thải gỗ, hoặc các vật liệu hữu cơ khác nhau. Tuy nhiên,

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 5 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

một số vật liệu có nguồn cung cấp rất phong phú cũng như giá thành rẻ đã được đề
xuất làm nguyên liệu sinh khối cho biochar, bao gồm vỏ trấu, vỏ hạt, dư lượng phân
bón và dư lượng cây trồng, những nguyên liệu này được sử dụng rộng rãi hơn . Cũng
có nhiều nguyên liệu khác có tiềm năng sẵn có để sản xuất biochar, trong đó có
biowaste (ví dụ như bùn thải, rác thải đô thị, phân gia cầm) và phân compost. Tuy
nhiên, sử dụng những loại nguyên liệu này có sự nguy hiểm do có sự tồn tại các thành
phần nguy hại (ví dụ như các chất hữu cơ ô nhiễm, kim loại nặng,…).
Về nguyên tắc, bất kỳ vật chất hữu cơ nào cũng có thể nhiệt phân, tuy nhiên mỗi loại
nguyên liệu khác nhau thì cho tỷ lệ sản phẩm chất rắn (than) và sản phẩm chất lỏng,
chất khí cùng với đặc tính lý hóa của biochar là khác nhau. Do thành phần hóa học cấu
tạo nên sinh khối vật chất hữu cơ là thành tố quan trong trong sản xuất biochar. Dưới
đây là một số thành phần chính trong những nguyên liệu chính thường dùng để sản
xuất biochar.

Tro Lignin Cellulose


Rơm lúa mì 11.2 14 38
Dư lượng ngô 2.8-6.8 15 39
Cỏ 6 18 32
Gỗ (cây dương, liễu, sồi) 0.27 - 1 26 - 30 38 - 45

Bảng.1.Một số thành phần chính trong các loại nguyên liệu

Cellulose và lignin qua bị nhiệt phân ở các nhiệt độ khác nhau, tương ứng từ 240-
350°C đến 280-500°C, tỷ lệ tương đối của mỗi thành phần sẽ xác định cấu trúc sinh
khối được giữ lại sau thời gian nhiệt phân, ở nhiệt độ nhất định và trong một thời gian
nhiệt phân nhất định. Nguyên liệu có hàm lượng lignin cao, thường cho sản lượng
biochar cao hơn.
Mặt khác, lignocellulosic là nguyên liệu hữu cơ phong phú nhất trên trái đất chiếm
50% tổng số sinh khối thực vật và giới thiệu sản xuất ước tính hàng năm là 50×10 9 tấn
(Rajarathnam and Bano, 1989). Phần lớn các chất thải lignocellulose trước đây thường
chỉ được xử lý bằng cách đốt sinh khối, điều này gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm
môi trường bởi lượng khí phát thải ra.

Vật liệu chứa lignocellulosic Phế liệu Sử dụng

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 6 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

-Thu hoạch ngũ cốc


+ Lúa mì, gạo, yến mạch, lúa + Rơm, bắp, thân cây, vỏ, + Thức ăn chăn nuôi, đốt
mạch và bắp nhiên liệu, phân bón, vùi
vào đất
-Chế biến các loại ngũ cốc
+ Ngô, lúa mì, gạo, đậu tương + Xử lý nước, cám + Thức ăn chăn nuôi

+ Thu hoạch trái cây và rau + Hạt, vỏ, vỏ, đá, toàn bộ trái + Thức ăn cho động vật
cây và nước trái cây bị loại và cá, một số hạt để khai
chiết rút dầu

+ Chế biến rau quả + Hạt, vỏ, nước thải, vỏ trấu, + Thức ăn cho động vật
vỏ sò, đá, bác bỏ toàn bộ trái và cá, một số hạt chiết rút
cây và nước trái cây dầu

+ Mía đường và sản phẩm + Xác mía + Nhiên liệu đốt cháy
đường khác

+ Dầu và các cây hạt có dầu. + Vỏ sò, vỏ, xơ vải, sợi, bùn, + Thức ăn gia súc, phân
Các loại hạt, hạt bông, ô liu, nước thải,… bón, nhiên liệu đốt cháy
đậu tương,…
+ Chất thải động vật + Phân bón, chất thải khác + Bón vào đất

- Lâm nghiệp giấy và bột giấy


+ Thu hoạch gỗ + Gỗ dư, vỏ cây, lá,… +Đốt, làm ghỗ ép,…

+ Chất thải cưa và gỗ dán + Dăm gỗ, dăm gỗ, bụi cưa,… + Các ngành công nghiệp
giấy và bột giấy, …

+ Nhà máy bột giấy và giấy + Sợi thải, … + Tái sử dụng trong
ngành công nghiệp bột
giấy và làm nhiên liệu

+ Chất thải lignocellulose từ + Báo cũ, giấy, bìa, ván cũ, đồ + Tỷ lệ tái chế nhỏ, làm
các cộng đồng nội thất không sử dụng,… chất đốt cháy khác

+ Cỏ + Chưa sử dụng cỏ + Đốt cháy

Bảng.2.Các loại vật liệu chứa lignocellulosic và sử dụng hiện tại

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 7 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Hiện nay, người ta chú ý tới việc sử dụng vỏ trấu làm nguyên liệu sản xuất biochar.
Cùng với sản lương thóc gạo ngày càng tăng thì lượng trấu thải ra cũng ngày càng cao,
nhất là ở những vựa lúa lớn như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc hay như ĐBSCL và
ĐBSH ở nước ta. Ngay chỉ ở huyện Cờ Đỏ, trực thuộc thành phố Cần Thơ, lượng trấu
thải ra hàng năm lên đến 500.000 tấn. Lượng trấu này nhiều khi không được sử dụng
mà được xử lý bằng hai phương pháp là đốt trực tiếp, hoặc đổ thẳng ra sông. Việc này
có thể gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Trong khi đó, sử dụng vỏ trấu nhiệt phân
thành biochar đem lại nguồn lợi lớn. Biochar sản xuất từ vỏ trấu có hàm lượng khoáng
cao, đặc biệt là silic. Lượng tro trong biochar có thể lên đến 24% hoặc thậm chí 41%
theo khối lượng.

I.3. Sản xuất biochar


Quy trình cổ-Biochar được tạo ra trong tự nhiên từ kết quả của các vụ cháy thảm thực
vật và việc cố ý đốt của con người trong những hầm lò có cấu trúc đơn giản được làm
thủ công. Khi than được tạo ra với mục đích thêm nó vào đất như là một chất “sửa
đổi”, thì nó được gọi là biochar (biochar). Mặc dù những mặt lợi mà biochar có thể
mang lại cho đất theo các phương pháp truyền thống không cáo và nó không phải là
một cách thân thiện với môi trường.
Bằng chứng đầu tiên của việc con người sử dụng than như một chất “sửa đổi” đất, đã
được tìm thấy ở trong lưu vực sông Amazon của Nam Mỹ hơn 2.500 năm trước. Các
bằng chứng khảo cổ cho thấy người cổ đại đã chất gỗ thành đống trong hầm lò làm
bằng đất nung, sau đó đốt cháy nó từ từ với không khí hạn chế. Phương pháp này ngày
nay vẫn còn được sử dụng ở các nước kém phát triển, nó tạo ra lượng khói đáng kể và
phát thải khoảng một nửa lượng C ( ở dạng khí carbon dioxide CO 2 )có trong sinh khối
ban đầu cùng với các khí nhà kính khác vào môi trường. Điều đó, gây hại cho sức
khỏe con người, gây ô nhiễm môi trường, nghiêm trọng hơn nó còn làm hiện tượng
gia tăng khí nhà kính thêm trầm trọng.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 8 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

H.2.Cấu trúc lò làm thủ công và sản phẩm của nó

Công nghệ lò nung sản xuất biochar đã không có tiến bộ đáng kể nào trong nhiều thế
kỷ liên tiếp ngoại trừ việc sử dụng vật liệu mới làm lò thay vì gò đất. Lò nung để sản
xuất biochar ngoài được xây dựng trong đất, còn có thể sử dụng gạch, thép,… Nhưng
những lò đó vẫn phát ra rất nhiều bụi và khói bao gồm các khí nhà kính nguy hiểm.

H.3.Lò thủ công bằng thép và lò làm bằng gạch

Ngày nay, biochar được sản xuất bằng kỹ thuật nhiệt phân, nghĩa là sinh khối được đốt
khi có ít hoặc không có ôxy ở nhiệt độ cao (350-700°C) trong lò có thiết kế đặc biệt.
Các “biến” chính trong quá trình nhiệt phân là : nguyên liệu đầu vào, nhiệt độ và thời
gian nhiệt phân.
Về nguyên tắc, bất kỳ nguyên liệu hữu cơ nào cũng có thể sử dụng cho nhiệt phân sản
xuất biochar, tuy nhiên mỗi loại nguyên liệu khác nhau sẽ cho một tỉ lệ sản phẩm và

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 9 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

chất lượng sản phẩm khác nhau. Điều này liên quan đến thành phần cấu tạo của vật
liệu, khả năng tiêu hao và biến đổi của nguyên liệu trong quá trình nhiệt phân. Để quá
trình nhiệt phân diễn ra nhanh chóng thì nguyên liệu yêu cầu phải được sấy/hong khô
đến hàm lượng ẩm dưới 10%. Điều này được thực hiện để dầu không bị ô nhiễm nước
sau quá trình nhiệt phân. Mặt khác nguyên liệu đầu vào cũng cần nghiền nhỏ tới kích
thước khoảng 2mm (kích thước thích hợp của vỏ trấu) để quá trình nhiệt phân nhanh
và hoàn toàn hơn, cộng với quá trình giảm độ ẩm nhằm tiết kiệm nhiên liệu và giảm
chi phí.
Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ giữa các thành phần trong sản phẩm, nhìn chung
nhiệt độ thích thích hợp, mang lại hiệu xuất cao nhất cho quá trình nhiệt phân sản xuất
biochar nằm trong khoảng 400-600°C .

H.4. Sự phụ thuộc của tỉ lệ sản thành phần


sản phẩm và nhiệt độ nhiệt phân

Thời gian nhiệt phân là yếu tố quan trọng thứ ba quyết định chất lượng sản phẩm của
quá trình nhiệt phân. Hiện tại có ba hệ thống nhiệt phân với thời gian nhiệt phân khác
nhau được áp dụng và kết quả của từng loại được thể hiện trong bảng sau:

Loại Điều kiện Dầu Biochar Khí tổng hợp


Moderate
temperature,
Fast
~500°C, short hot 75% 12% 13%
pyrolysis
vapour residence
time of ~ 1 s
Intermedia Moderate 50% 20% 30%
te Pyrolysis temperature
~500°C, moderate
hot vapour
residence time of

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 10 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

10 – 20 s
Slow Low temperature
Pyrolysis ~400°C,
30% 35% 35%
(Carbonisa very long solids
tion) residence time

Bảng.3. Thành phần sản phẩm thu được của các hệ thống nhiệt phân

H.5. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ thành phần trong sản phẩm sau nhiệt phân
của hệ thống nhiệt phân chậm (trên) và hệ thống nghiệt phân nhanh (dưới).

Bảng trên cho thấy điều kiện nhiệt phân khác nhau dẫn đến tỷ lệ thành phần trong sản
phẩm cuối cùng (chất lỏng, biochar hoặc khí tổng hợp) là khác nhau. Điều này có
nghĩa rằng các điều kiện nhiệt phân cụ thể có thể được thiết kế riêng cho mỗi kết quả
mong muốn. Hệ thống hiệt phân nhanh có xu hướng sản xuất dầu nhiều hơn, trong hệ
thống nhiệt phân chậm khi sản xuất khí tổng hợp nhiều hơn. Tuy nhiên, đối với việc sử
dụng biochar như là một chất cải tạo đất và giảm nhẹ biến đổi khí hậu thì rõ ràng là
nhiệt phân chậm sẽ thích hợp hơn, vì phương pháp này tối đa hóa hiệu xuất của quá
trình sản xuất biochar, và mang lại sản phẩm nhiệt phân cuối cùng ổn định nhất.
Có thể phát triển hệ thống nhiệt phân sản xuất biochar theo dạng di động hoặc tĩnh.
Quy mô nhỏ của hệ thống có thể được sử dụng trong các trang trại hoặc các cơ sở sản
xuất nhỏ với đầu vào sinh khối 50 kg/giờ đến 1.000 kg/giờ. Tại các địa phương hoặc
khu vực đơn vị diện tích lớn, các khu công nghiệp lớn có thể phát triển hệ thống với
quy mô sử lý lớn lên đến 8.000 kg sinh khối/giờ.
Các lò nhiệt phân sản xuất bochar có thể dùng trong nhiều điều kiện, từ bếp trại cho
các đơn vị quy mô công nghiệp để tạo ra điện và sưởi ấm các tòa nhà lớn. Bếp lò nhỏ

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 11 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

đang được sử dụng ở các nước thế giới thứ ba để đun nấu, sưởi ấm và giảm khói trong
nhà khi sử dụng nửa trong sinh hoạt và đồng thời tạo ra sản phẩm giúp cải tạo đất.

H.6. Máy sản xuất biochar loại nhỏ (30kg/h) và nhà máy sản xuất biochar

Nguyên liệu thường được sử dụng cho quá trình sản xuất này rất đa dạng và phong
phú, có thể là từ phế phụ phẩm nông-lâm nghiệp như vỏ trấu, ghỗ tạp,… hay từ các
ngành công nghiệp nhẹ như sản xuất giấy, đồ ghỗ, … và từ ngay cả các chất thải sinh
hoạt, chất thải công sở hay khu sản xuất, chế xuất đã qua phân loại. Điều này rất có ý
nghĩa với môi trường vì làm giảm một lượng đáng kể các sản phẩm thải gây hại thải
vào môi trường, đặc biệt là từ nông nghiệp ngành mà hầu hết những các chất này sẽ
được để phân hủy tự nhiên, được đốt hoặc chôn vùi vào đất.
Trong phương pháp hiện đại, quá trình nhiệt phân biến đổi chất hữu cơ thành ba thành
phần khác nhau là khí, dầu và biochar theo tỷ lệ khác nhau tùy thuộc vào nguyên liệu
và điều kiện nhiệt phân được sử dụng, do đó thường có ba sản phẩm chính ra khỏi lò.
Ngoài sản phẩm là biochar thường chiếm khoảng 50% của hàm lượng của sinh khối,
có sản phẩm khác là nhiên liệu sinh học. Nhiên liệu sinh học này là khí tổng hợp, đó
một hỗn hợp gồm hydro và carbon monoxide là chủ yếu, với một lượng rất ít khí
carbon dioxide. Tỷ lệ của ba loại khí khác nhau tùy theo các quy trình được sử dụng
để tạo ra khí tổng hợp. Tuy nhiên, điểm quan trọng là khí tổng hợp là dễ cháy và do đó
có thể được sử dụng như một nguồn nhiên liệu. Tùy thuộc vào quá trình này, các nhiên
liệu sinh học từ lò cũng có thể là dầu sinh học, có thể được sử dụng như thay thế cho
dầu diesel trong một số động cơ. Hỗn hợp các nhiên liệu này ngoài việc sử dụng cho
các mục đích thương mại hay sinh hoạt, còn có thể sử dụng ngay trong hệ thống thông
qua việc chạy máy phát điện hay đốt và tạo nhiệt trực tiếp cho quá trình nhiệt phân
biochar, vì vậy hệ thống nhiệt phân sản xuất biochar tiên tiến hiện nay có khả năng tự
duy trì hoạt động mà không cần cung cấp năng lượng, ngoài trừ “năng lượng mồi” lúc
bắt đầu hoạt động.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 12 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

H.7. Sơ đồ minh họa quá trình nhiệt phân sản xuất Biochar

I.4. Tính chất hóa-lí của Biochar


I.4.1. Thành phần cấu tạo

Cellulose bị nhiệt phân ở nhiệt độ từ 250-350ºC, khi bị nhiệt phân các tiểu cấu chúc
cấu thành cellulose sẽ bị phân cắt và tách ra, hầu hết chúng là những phân tử hữu cơ
phân tử thấp nên dễ bay hơi, hay bị phân hủy thành CO 2, dẫn đến làm giảm khối lượng
đáng kể của sinh khối dưới dạng các chất dễ bay hơi, để lại đằng sau một ma trận C vô
định hình cứng chắc. Khi làm tăng nhiệt độ nhiệt phân, tỷ lệ cacbon thơm trong
biochar bắt đầu thay đổi theo hướng tăng lên, do việc mất các chất dễ bay hơi (ban đầu
là nước, tiếp theo là các hydrocacbon, hơi hắc ín, H 2, CO và CO2) và việc chuyển hóa
của nhóm ankyl và O-ankyl. Ở khoảng 330 º C, tấm graphene polyaromatic bắt đầu
phát triển theo chiều ngang và cuối cùng kết lại. Chính điều này đã làm cho biochar có
cấu chúc lớp, độ xốp và diện tích bề mặt lớn mà biochar có được lcungx là do quá trìh
này. Ở nhiệt độ trên 600 º C, cacbon hóa sẽ trở thành quá trình chiếm ưu thế. Cacbon
hóa đánh dấu sự loại bỏ các nguyên tử không chứa C còn lại và kết quả là tăng hàm
lượng C (có thể lên đến 90% theo khối lượng của biochar được sản xuất từ gỗ) (Antal
và Gronli, 2003; Demirbas, 2004).

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 13 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

H.8. Mô hình của một cấu trúc graphitic microcristalline được hiển thị trên bên trái và hình ảnh biochar
trên kính hiển vi điện tư quét, cấu trúc một vòng thơm chứa oxy và các gốc C tự do
Mỗi hạt biochar bao gồm 2 phần kết cấu chính: các tấm graphene kết tinh xếp chồng lên nhau và các cấu
trúc thơm vô định hình theo một trật tự ngẫu nhiên. Hyđrô, O, N, P và S được tìm chủ yếu kết hợp trong
các vòng thơm như các nguyên tử khác (Bourke và nnk, 2007). Sự có mặt của các nguyên tử khác là một
đóng góp lớn, đặc trưng cho hóa học bề mặt rất không đồng nhất và hoạt tính của biochar.

I.4.2. Thành phần hóa học và bề mặt hóa học

Thành phần biochar rất không đồng nhất, nó chứa cả thành phần bền và không bền
(Sohi et al, 2009.). Carbon, vật chất dễ bay hơi, khoáng chất (tro) và độ ẩm thường
được coi như là thành phần chính của nó (Antal và Gronli, 2003). Bảng 5 tóm tắt
phạm vi tỷ lệ tương đối của các thành phần trong biochar được sản xuất từ rất nhiều
nguồn vật liệu và các điều kiện nhiệt phân (Antal và Gronli, 2003 - Brown, 2009).
Thành phần Tỷ lệ
Cacbon bền 50-90
Vật chất dễ bay hơi 0-40
Độ ẩm 1-15
Tro (khoáng chất) 0,5-0
Bảng.5. tỷ lệ tương đối 4 thành phần chính của biochar
(phần trăm tỷ lệ trọng lượng)

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 14 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Tỷ lệ tương đối của các thành phần trong biochar xác định tính chất hóa học, vật lý và
chức năng của biochar nói chung (Brown, 2009). Ví dụ, biochar được tạo ra tạo ra
bằng cách nhiệt phân nguyên liệu gỗ (Winsley, 2007) thì vững chắc. Ngược lại,
biochar sản xuất từ phế phẩm nông nghiệp (như lúa mạch đen, ngô ) phân súc vật và
rong biển nói chung là tốt hơn nhưng ít bền vững (sức bền cơ học thấp ) do đó chúng
giàu dinh dưỡng và dễ dàng hơn cho khu hệ vi sinh vật phân hủy trong môi trường
(Sohi và nnk, 2009). Hàm lượng tro của biochar phụ thuộc vào hàm lượng tro của các
nguyên liệu đầu vào. Cỏ, vỏ hạt, bã rơm rạ và phân thường sản xuất biochar có hàm
lượng tro cao trái ngược so với nguyên liệu gỗ (Demirbas, 2004). Ví dụ, các biochar
được sản xuất từ phân gà có thể chứa 45% tro (theo trọng lượng) (Amonette và
Joseph, 2009). Độ ẩm là một thành phần quan trọng khác của biochar (Antal và
Gronli, 2003), độ ẩm cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất và vận chuyển biochar đối với
các đơn vị sản xuất biochar. Giữ thành phần độ ẩm khoảng 10% (theo khối lượng) là
điều mong muốn. Để có thể đạt được điều này, cần làm khô nguyên liệu sinh khối
trước khi nhiệt phân (đây có thể là một thách thức khi sản xuất biochar).
Mặc dù, tính khả thi của biochar là được sản xuất ở một phạm vi rộng các nguyên liệu
dưới các điều kiện nhiệt phân khác nhau, hàm lượng cacbon cao và cấu trúc thơm bền
vững là các đặc điểm bất biến (Sohi và nnk, 2009). Theo Sohi và nnk. (2009), các đặc
điểm này chủ yếu giải thích cho sự ổn định hóa học của nó. Tương tự như vậy, pH chỉ
ra ít có sự biến đổi giữa các biochar, và thường >7.
pH C N N P Pa K
(g/kg) (g/kg) (NO-3, (g/kg) (g/kg) (g/kg)
NH4+)
(mg/kg)
Range From 6.2 172 1.7 0.0 0.2 0.015 1.0
To 9.6 905 78.2 2.0 73.0 11.6 58.0
Mean 8.1 543 22.3 - 23.7 - 24.3
Source: Verheijen (2009)
Bảng trên tóm tắt thành phần nguyên tố tổng số (C, N, C:N, P, K, Pa) và phạm vi pH
của các biochar được sản xuất từ rẩt nhiều nguyên liệu (gỗ, chất thải xanh, phế phẩm
nông nghiệp, bùn thải, rác, vỏ quả hạch) và các điều kiện nhiệt phân (350 - 500 0C)
được dùng trong nhiều nghiên cứu khác nhau.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 15 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Hàm lượng Cacbon tổng trong biochar được tìm thấy trong phạm vi từ 172 đến 905 g
kg-1,mặc dù OC thường <500 g.kg-1. Nito tổng số giữa khoảng 1.8 và 56.4 g kg -1 và
phụ thuộc vào nguyên liệu (Chan và Xu, 2009). Mặc dù hàm lượng N tổng số trong
biochar cao nhưng có thể không hiệu quả đối với cây trồng, vì N chủ yếu có mặt trong
các dạng khoáng không dễ tiêu ( hàm lượng khoáng N < 2 mg k -1, Chan và Xu
2009).Tỷ lệ C:N trong biochar tìm thấy rất khác nhau 7-500 (Chan và Xu 2009) nó có
ý nghĩa đối với sự lưu giữ chất dinh dưỡng trong đất, tỷ lệ C:N thường được sử dụng
như là một chỉ số đặc trưng cho khả năng của các chất hữu cơ để giải phóng N vô cơ
khi đưa vào đất.
Tổng P và K trong biochar được tìm thấy với hàm lượng dao động rất lớn tùy thuộc
vào nguyên liệu với giá trị tương ứng từ 2,7-480 và 1,0-58,0 g kg -1 (Chan và Xu,
2009). Thật thú vị, phạm vi tổng số N, P và K trong biochar là rộng hơn phạm vi N, P,
K đã được báo cáo trong các tài liệu của các phân bón hữu cơ điển hình. Hầu hết các
khoáng chất trong phần tro của biochar được xem là xuất hiện riêng rẽ, độc lập với ma
trận cacbon, ngoại trừ K và Ca (Amonette and Joseph, 2009). Điển hình, mỗi khoáng
lại bao gồm các liên kết với hơn một loại khoáng. Joseph và nnk. (2009) nhấn mạnh
rằng sự hiểu biết hiện tại của chúng ta về vai trò của các biochar có tro khoáng cao vẫn
còn hạn chế, như chúng ta phải đối mặt với sự thiếu dữ liệu sẵn có về ảnh hưởng lâu
dài của chúng trên các tính chất đất.

Khoảng Trung
dao động bình
6.2 -9.6
pH 8.1
C
172-905 43
(g kg-1)
N
1.7-78.2 22.3
(g kg-1)
N (NO3-+
NH4+) 0.0-2.0 -
(mg kg-1)
C:N 7-500 61
P
0.2-73.0 23.7
(g kg-1)
Pa
0.015-11.6 -
(g kg-1)
K
1.0-58 24.3
(g kg-1)

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 16 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Bảng.6. Tóm tắt tổng số nguyên tố (C, N, C: N, P, K,..) và khoảng pH dao động của biochars từ nhiều nguyên liệu
(gỗ, chất thải màu xanh lá cây, dư lượng cây trồng, bùn thải, rác xả, vỏ hạt) và các điều kiện nhiệt phân (350-500°C)
được sử dụng trong các nghiên cứu khác nhau.

Thành phần hóa học phức tạp và không đồng nhất của biochars được mở rộng tới cả
hóa học bề mặt của nó, giải thích cách biochar tương tác với một phạm vi rộng các
hợp chất hữu cơ và vô cơ trong môi trường. Sự bẻ gãy và sắp xếp lại các nhóm chức
hóa học trong biochar trong suốt quá trình nhiệt phân hình thành nhiều loại nhóm chức
(ví dụ hydroxyl-OH, amino-NH2, xeton -OR, ester - (C=O)OR, nitro -NO2, aldehyde -
(C=O)H, carboxyl -(C= O) OH) xảy ra chủ yếu trên bề mặt ngoài của tấm graphene
(Harris, 1997; Harris và Tsang, 1997) và bề mặt của các lỗ rỗng. Một số nhóm chức
này hoạt động như các chất cho điện tử, trong khi một số khác là chất nhận điện tử, kết
quả trên cùng một bề mặt có thể biểu hiện tính axit hoặc tính bazơ, tính ưa nước đến kị
nước. Một số nhóm chức cũng có chứa các nguyên tố khác, chẳng hạn như N và S, đặc
biệt là ở biochars từ phân súc vật, bùn thải.
Có bằng chứng thực nghiệm chứng tỏ rằng thành phần, sự phân bố, tỷ lệ tương đối và
hoạt tính của các nhóm chức năng trong biochar phụ thuộc vào một số yếu tố khác
nhau, bao gồm nguồn nguyên liệu và phương pháp nhiệt phân được sử dụng (Antal và
Gronli, 2003). Các điều kiện nhiệt phân khác nhau ( nhiệt độ 700 0C hoặc 4500C) giải
thích sự khác nhau về hàm lượng N trong 3 mẫu biochar sản xuất từ phân gà (Lima và
Marshall, 2005; Chan và nnk, 2007). Khi tăng nhiệt độ nhiệt phân, thì tăng tỷ lệ
cacbon thơm trong biochar, trong khi hàm lượng N cao nhất ở khoảng 300 0C (Baldock
và Smernick, 2002). Ngược lại, các nhiệt độ nhiệt phân thấp (<500 0C) lại có sự tích
lũy tương đối một lượng lớn K, Cl (Yu và nnk, 2005), Si, Mg, P và S (Bourke và nnk,
2007; Schnitzer và nnk, 2007) dễ tiêu. Do đó, các nhiệt độ nhiệt phân <500 0C sẽ cho
sự cầm giữ dinh dưỡng trong biochar (Chan và Xu, 2009), trong khi đó thu được sự
thuận lợi tương tự đối với năng suất (Gaskin và nnk, 2008). Tuy nhiên, điều quan
trọng cần nhấn mạnh rằng sự hoán vị các điều kiện nhiệt phân, bao gồm nhiệt độ, có
thể có ảnh hưởng khác nhau với mỗi nguồn vật liệu.
Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải đánh giá từng trường hợp cụ thể các tính chất
vật lý và hóa học của biochar trước khi ứng dụng nó vào trong đất.

I.4.3. Sự phân bố kích thước lỗ.


Ban đầu sự phân bố kích thước lỗ trong biochar chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi bản chất
của nguyên liệu sinh khối và các điều kiện nhiệt phân (Cetin và nnk., 2004). Độ co và
sự tiêu hao của vật liệu hữu cơ xảy ra trong suốt quá trình nhiệt phân, từ đó tạo ra một

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 17 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

loạt các kích cỡ lỗ của sản phẩm cuối cùng, cường độ của quá trình đó phụ thuộc vào
công nghệ nhiệt phân (Cetin và nnk, 2004).
Sự phân bổ kích thước lỗ trong biochar cũng có ý nghĩa đối với việc xác định sự phù
hợp của mỗi biochar cho một ứng dụng cụ thể (Downie và nnk, 2009), cũng như cho
sự lựa chọn phương pháp ứng dụng phù hợp nhất. Ngoài ra, các vấn đề sức khỏe và an
toàn liên quan đến xử lý, lưu trữ và vận chuyển biochar cũng ảnh hưởng lớn tới sự
phân bổ kích thước hạt của nó.Downie và nnk. (2009) cung cấp nhiều bằng chứng về
ảnh hưởng của nguyên liệu và các điều kiện nhiệt phân tới sự phân bổ kích cỡ hạt của
biochar. Mùn cưa và dăm gỗ dưới các phương pháp tiền xử lý khác nhau, được nhiệt
phân sử dụng quá trình nhiệt phân chậm liên tục (tốc độ lên nhiệt 5 - 10 0C/phút), sau
đó sự phân bố kích cỡ hạt trong sản phẩm biochar được đánh giá thông qua việc sàng
khô. Nhìn chung, kích cỡ hạt là giảm khi tăng nhiệt độ nhiệt phân (từ 450 0C đến
7000C) đối với tất cả các nguyên liệu.
Các điều kiện hoạt động trong quá trình nhiệt phân (ví dụ như tốc độ lên nhiệt, nhiệt
độ xử lý cao, thời gian lưu, áp suất, tốc độ dòng của khí trơ, kiểu và dạng thiết bị phản
ứng), xử lý trước (ví dụ sấy, hoạt hóa) và sau (ví dụ như rây, hoạt tính) có thể ảnh
hưởng rất lớn đến cấu trúc vật lí của biochar (Gonzalez et al., 1997; Antal and Grønli,
2003; Cetin et al., 2004; Lua et al., 2004; Zhang et al., 2004; Brown et al., 2006). Các
nhận xét này bắt nguồn chủ yếu từ các nghiên cứu liên quan đến than hoạt tính được
sản xuất từ nhiều nguyên liệu, bao gồm thân cây ngô, vỏ hạt (Lua et al, 2004.;
Gonzalez và cộng sự, 2009), hạt ô liu (Gonzaléz và cộng sự, 2009). Tương tự như vậy,
tốc độ lên nhiệt, thời gian lưu và áp suất trong suốt quá trình nhiệt phân được chứng
minh là yếu tố quyết định sự tạo ra các hạt biochar tốt hơn, độc lập với nguyên liệu
ban đầu (Cetin và nnk, 2004.). Ví dụ, với tốc độ lên nhiệt cao hơn (ví dụ lên đến 105-
500ºC trên giây) và thời gian lưu ngắn hơn, nguyên liệu mịn hơn (50-2000 μm) là điều
cần thiết để các phản ứng truyền nhiệt và chuyển khối diễn ra thuận lợi, kết quả sẽ tạo
ra loại biochar tốt hơn (Cetin và nnk, 2004). Ngược lại, nhiệt phân chậm (tốc độ lên
nhiệt 5-30ºC trên phút) có thể sử dụng các hạt nguyên liệu lớn hơn, do đó sản xuất ra
các biochar thô (Downie và nnk, 2009). Tăng tỉ lệ các hạt biochar lớn hơn cũng có thể
thu được bằng việc tăng áp suất (từ áp suất không khí tới 5, 10 và 20 bar) trong quá
trình nhiệt phân (Cetin và nnk, 2004).
Phần bụi của biochar bao gồm các hợp chất vô cơ và hữu cơ khác nhau với các kích cỡ
hạt riêng biệt trong phạm vi từ nano mét tới micro mét (Harris và Tsang, 1997;
Cornelissen và nnk, 2005). Harris và Tsang. (1997) nghiên cứu các phần có kích cỡ
nano và micro mét của các than củi, mặc dù cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được
hiểu rõ. Sinh khối ban đầu (nguyên liệu) và các điều kiện nhiệt phân (Donaldson và

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 18 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

nnk, 2005; Hays và van der Wal, 2007) như là các yếu tố chính ảnh hưởng đến các
tính chất của bụi biochar (Downie và nnk, 2009.), bao gồm các loại và kích cỡ của các
hạt biochar, cũng như tỷ lệ các hạt nano và micro.
Harris và Tsang (1997) sử dụng kính hiển vi điện tử độ phân giải cao (HREM) để
nghiên cứu những phần nhỏ hơn của than củi thu được từ quá trình nhiệt phân (700 0C)
của đường mía và kết luận rằng bụi than củi bao gồm dạng viên tròn cấp độ nano như
fulơren (Harris và Tsang, 1997). Brodowski và nnk (2005) chứng thực sự tìm ra các hạt
có dạng hình cầu xốp (với cấu trúc bề mặt từ nhẵn tới xù xì) trong đó phần nhỏ hơn 2 μm
của than củi trên lớp đất mặt thí nghiệm (0-10cm), nhưng vẫn chưa có sự đề cập đến
“fulơren” được chỉ ra ở đây. Điều quan trọng là xem xét về kích thước nhỏ của các cấp
hạt và khả năng phản ứng của chúng, thành phần bụi có trong biochar có liên quan thực
tế, cũng như sự ảnh hưởng tới sức khỏe và độ an toàn.
Thành phần bụi trong biochar cũng là một yếu tố quan trọng trong xác định sự phù hợp
của chiến lược ứng dụng đã đề ra (Blackwell và nnk, 2009). Ví dụ, Holownicki (2000) đã
đề xuất rằng phần bụi mịn này có thể được sử dụng thành công trong hoạt động nông
nghiệp hợp lý cho sự chuẩn bị phun thuốc trừ sâu trong các vườn cây ăn quả và vườn nho.
Khi sự phun này phù hợp, Blackwell và nnk (2009) chỉ ra rằng sự áp dụng bụi biochar
trên thực có thể được ưa chuộng hơn khi được sử dụng kết hợp với chất thải gia súc dạng
lỏng.
Mặt khác, bụi biochar được đề cập trong các tài liệu được xem như một loại chất hấp
thụ tốt hơn cho một phạm vi rộng các chất ô nhiễm dạng vết kỵ nước (như PAHs, PCBs,
thuốc trừ sâu, polychlorinated dibenzeno-p-dioxins and –furan - PCDD/PCDFs ) khi so
sánh với các hạt biochar lớn hơn hoặc với vật chất hữu cơ dạng hạt (Hiller và nnk, 2007;
Bucheli và Gustafsson, 2001, 2003). Như vậy, việc bổ sung bụi biochar vào đất có thể
tăng ái lực hấp phụ của đất với các chất gây ô nhiễm môi trường phổ biến.
2.3 Sự phân bố kích cỡ lỗ rỗng và khả năng liên kết
Sinh khối đầu vào và điều kiện sản xuất là các yếu tố chính quyết định đến sự phân bố
kích cỡ lỗ trong biochar, và theo sau đó là tổng diện tích bề mặt (Dowine và nnk, 2009).
Trong suốt quá trình phân hủy nhiệt của sinh khối, sự mất đi khối lượng diễn ra hầu hết ở
dạng vật chất hữu cơ dễ bay hơi, để lại những khoảng trống sau đó và tạo thành một mạng
lưới lỗ rỗng lớn.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 19 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Các lỗ rỗng trong biochar được phân thành 3 loại (Downie và nnk, 2009), theo đường
kính bên trong của chúng (ID): các lỗ macro (ID >50 nm), các lỗ meso (2 nm< ID <50
nm) và các lỗ micro (ID <2 nm). Sự phân loại này được sắp xếp với các độ lớn khác nhau
so với cách phân loại chuẩn cho kích thước lỗ rỗng trong khoa học đất. Độ rỗng cơ sở và
cấu trúc của sinh khối đầu vào được giữ lại trong sản phẩm biochar tạo thành (Downie và
nnk, 2009). Cấu trúc mao dẫn của vật liệu thực vật ban đầu có xu hướng đóng góp cho sự
tạo thành lỗ hổng kích thước macro trong biochar, như đã chứng minh ở than hoạt tính từ
than và các gỗ ban đầu (Wildman và Derbyshire, 1991). Ngược lại, các lỗ có kích thước
micro được hình thành chủ yếu trong suốt quá trình nhiệt phân vật liệu đầu vào. Trong
khi, các lỗ có kích thước macro được xác định như một “nguồn cung cấp nguyên liệu”
cho các lỗ rỗng nhỏ hơn (Martinez và nnk, 2006), các lỗ rỗng micro thực sự giải thích
cho tính chất diện tích bề mặt lớn trong than củi (Brown, 2009).
Trong số các thông số hoạt động , HTT được cho là yếu tố quan trọng nhất dẫn tới sự
phân bổ lỗ rỗng trong than củi (Lua và nnk, 2004), như những thay đổi vật lý trong suốt
quá trình nhiệt phân sinh khối đầu vào thường phụ thuộc vào nhiệt độ (Antal và Gronli,
2003).
Sự phát triển của độ xốp micro trong biochar liên quan tới sự tăng cường trật tự trong
cấu trúc và tổ chức, được chỉ ra rất rõ bởi thời gian lưu và HTT cao hơn, được chứng
minh trước đó đối với than hoạt tính (Lua và nnk, 2004). Ví dụ, sự tăng nhiệt độ nhiệt
phân từ 250 tới 5000C đã làm tăng sự phát triển của các lỗ rỗng micro trong các than có
nguồn gốc từ vỏ quả hồ trăn, dẫn tới tăng sự phóng thích các chất bay hơi. Tiếp theo sự
tăng về nhiệt độ (>8000C), sự giảm về diện tích bề mặt tổng thể của than được quan sát và
được cho là do tan chảy một phần của cấu trúc than (Lua và nnk, 2004). Tương tự như
vậy, tốc độ lên nhiệt và áp suất trong suốt quá trình nhiệt phân cũng ảnh hưởng tới sự
chuyển khối của sản phẩm bay hơi tại bất kỳ khoảng nhiệt độ nào được thiết đặt và do đó
được coi như các thông số góp phần quan trọng ảnh hưởng tới sự phân bổ kích thước lỗ
rỗng (Antal và Gronli, 2003). Ví dụ, Lua và nnk. (2004) quan sát thấy một điểm cực đại
trong diện tích bề mặt của than sản xuất từ vỏ quả hồ trăn ở tốc độ lên nhiệt thấp (10 0C),
ngược lại tốc độ lên nhiệt cao hơn dẫn tới giảm diện tích bề mặt.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng các ảnh hưởng tương đối của mỗi thông số nhiệt phân
tới độ xốp micro cuối cùng trong biochar được xác định bởi loại vật liệu đầu vào, được
ghi nhận từ các nghiên cứu trên (như Cetin và nnk, 2004; Lua và nnk, 2004; Pastor-
Villegas và nnk, 2006; Gonzaléz và nnk, 2009). Đặc biệt, thành phần Lignocellulose của
Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 20 Nhóm 3
Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

vật liệu đầu vào xác định độ lớn mức độ phân hủy nhiệt của chúng và sự phát triển về độ
xốp (Gonzaléz và nnk, 2009). Trong trường hợp than củi sản xuất từ những phần thu được
từ cắt tỉa cây hạnh nhân, một số lượng lớn hơn các lỗ rỗng macro và micro được tạo thành
bởi tốc độ phân hủy chậm như trong suốt giai đoạn ban đầu của sự nhiệt phân (Gonzaléz
và nnk, 2009). Điều ngược lại được tìm thấy đối với vỏ quả hạnh nhân, điều này có thể do
tốc độ phân hủy nhiệt ban đầu vốn đã cao của nó (Gonzaléz và nnk, 2009).
2.4 Sự ổn định nhiệt động học
Qúa trình cân bằng nhiệt động lực học liên quan đến tàn dư bị carbon hóa, như
biochar, chủ yếu sản sinh ra CO2.

Entanpi tiêu chuẩn được biểu thị như ΔHof và ký hiệu độ biểu thị các điều kiện tiêu chuẩn
(P = 1 bar và T = 250C).
Phương trình 1 chỉ ra sự oxi hóa của graphite, carbon hầu hết ở trạng thái bền nhiệt động
lực học, sẽ diễn ra tự nhiên và được chỉ ra bởi giá trị năng lượng âm (nghĩa là 395,51kJ
năng lượng được phát ra với mỗi mol của CO2 tạo thành). Khi quá trình oxi hóa graphite
thành CO2 xảy ra , mặc dù rất chậm dưới các điều kiện thường (Shneour, 1966), tất cả
các dạng khác của carbon là kém ổn định nhiệt động học hơn graphite, cũng sẽ trải qua sự
oxi hóa thành CO2 khi có mặt oxy. Tốc độ của sự oxi hóa diễn ra phụ thuộc vào một số
yếu tố, chẳng hạn thành phần hóa học chính xác, cũng như nhiệt độ và chế độ độ ẩm mà
hợp chất được tiếp xúc. Hơn nữa, thời gian tồn lưu của biochar trong đất cũng sẽ bị ảnh
hưởng bởi các quá trình sinh học.

I.4.4. CEC và PH

CEC trong biochar biến động không đáng kể khoảng 40 cmolc g-1 và được nhận định
rằng sẽ thay đổi khi đưa nó vào đất (Lehmann, 2007). Điều này có thể xảy ra bởi quá
trình khử các thành phần kị nước trong biochar (Briggs và nnk, 2005) hoặc tăng sự
cacboxyl hóa C thông qua oxy hóa phi sinh vật (Chang và nnk, 2006; Liang và nnk,
2006).

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 21 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

H.9. …….
Xem xét các tính chất rất không đồng nhất, giá trị pH biochar tương đối ổn định, nghĩa
là chủ yếu từ trung tính tới kiềm. Chan và Xu ( 2009 ) xem xét giá trị pH của biochar
từ rất nhiều nguyên liệu và thấy giá trị trung bình của pH là 8.1 trong phạm vi pH 6.2 -
9.6. Đầu phía dưới của phạm vi này dường như từ chất thải xanh và nguyên liệu vỏ
cây, với sự kết thúc giá trị cao hơn từ nguyên liệu rác thải gia cầm.

 Tóm lại
Biochar bao gồm các hợp chất cácbon ổn định sinh khối được tạo ra khi đun nóng
đến nhiệt độ từ 300-1000°C với nồng độ oxy thấp (tốt nhất là không). Các thành phần
cấu trúc và hóa học của biochar là rất không đồng nhất, ngoại trừ với pH.
Thành phần hóa học và cấu trúc hóa học phụ thuộc vào loại nguyên liệu cấp cho máy
và điều kiện nhiệt phân ( chủ yếu là nhiệt độ ). Những thông số này cũng là chìa khóa
trong việc xác định kích thước hạt và kích thước lỗ rỗng (macro, meso và micropore)
phân bố trong biochar. Các đặc tính của biochar có thể thay đổi đáng kể tính chất vật lí
và các quá trình trong đất và quan trọng là cần xem xét kĩ khi đưa nó vào đất. Hơn
nữa, điều này sẽ xác định sự phù hợp của biochar cho từng ứng dụng nhất định của nó.
Các đặc tính biochar khác nhau nhấn mạnh nhu cầu của nó theo từng trường hợp cụ
thể, mỗi sản phẩm biochar trước khi đưa vào trong đất ở một địa điểm nghiên cứu cụ
thể, nhằm đánh giá đầy đủ và sâu hơn tác động của biochar.

II. Ứng dụng của Biochar

Biochar đã trở nên phổ biến nhờ vai trò và tiềm năng của nó trong cải tạo đất, môi
trường và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Biochar rất giàu carbon và phụ thuộc vào mục

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 22 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

đích sử dụng, biochar có khả năng cố định carbon, do đó nó cản trở hoặc ngăn chặn
hoàn toàn sự phát tán của carbon trở lại bầu khí quyển dưới dạng khí CO 2. Những lợi
ích mà biochar mang lại còn nhiều hơn những gì đã nêu ở trên, tuy nhiên, phạm vi của
nó chủ yếu phục vụ cho các khu vực nông nghiệp và các ngành quản lý chất thải. Hơn
nữa, như đã trình bày ở trên, quá trình sản xuất đó còn tạo ra hai loại năng lượng từ
một nguồn, đó là một nguồn năng lượng tái tạo bền vững.

Biochar có thể được sử dụng như một sự bổ sung thêm vào đất để tăng sản lượng cây
trồng, cải thiện chất lượng nước, duy trì độ ẩm cho đất, giảm lượng phát thải khí nhà
kính, làm giảm sự rửa trôi các chất dinh dưỡng, làm giảm độ chua cho đất, cải thiện
tính chất vật lý của đất, giảm sự tưới tiêu và các nhu cầu về phân bón. Các tính chất đó
phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính của biochar và có thể phụ thuộc vào cả điều kiện
của khu vực đó nữa ( đất cằn cỗi hay đất tốt ), nhiệt độ , độ ẩm. Bổ sung vừa phải
biochar cho đất có thể làm giảm 50- 80% lượng phát thải khí N 2O và hoàn toàn ngăn
chặn sự phát thải khí metal ( CH4 ). Bảo toàn năng lượng có thể đạt được thông qua
việc tránh phát sinh năng lượng trong sản xuất phân bón dư thừa. Biochar có thể được
sử dụng trong việc cải tạo các vùng đất bị thoái hóa và mất khả năng canh tác ( có tính
acid và tính kiềm ).

II.1. Đối với nông nghiệp và quản lý chất thải

Ngành nông nghiệp có thể thu được lợi ích từ biochar theo 2 cách: cải tạo đất và xử
lý chất thải của động vật và cây trồng . Cải tạo đất sẽ làm cho năng suất cây trồng
tăng lên, từ đó làm nâng cao chất lượng nông phẩm. Từ những năm 1980, các thử
nghiệm nghiên cứu về vấn đề này đã diễn ra trên khắp thế giới - đó là việc ứng dụng
của các loại biochar trên các loại đất cụ thể.
Các loại biochar khác với các loại nhiên liệu sinh học, mặc dù nguyên liệu để sản
xuất chúng có thể là giống nhau, trong nhiều trường hợp : gạo, gỗ hoặc vỏ cây đã
được sử dụng, và các thông số sản xuất như tốc độ nhiệt phân , kích thước lò. Trong
hầu hết các nghiên cứu, đất chua đã trở thành đối tượng chủ yếu của nghiên cứu và
các loại đất này thường tập chung ở các vùng nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới , các thí
nghiệm cũng đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.
Kết quả của thử nghiệm cũng đã thu được nhiều kết quả khả quan như từ không tăng
năng suất ( trường hợp của các đồn điền chuối ở Brazil ) đến tăng nhiều tới 151% giá
trị về năng suất đậu tương trong một dự án.Trong nhiều trường hợp đã làm giảm tính
acid và tăng sự hấp thu của các nguyên tố khoáng, và khả năng này đôi khi còn kéo
dài cho tới vụ sau hoặc năm sau. Nghiên cứu trên còn ứng dụng cho việc sử dụng
Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 23 Nhóm 3
Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

biochar cho đồng cỏ hoặc rừng trồng cây, và đối với khu vực đất khô hoặc khu vực
ôn đới.
Gần đây thuật ngữ biochar ngày càng trở nên phổ biến hơn trong ngành nông nghiệp,
để chỉ loại than của các thứ cây cỏ hay rác thải được đốt tồn tính, nghĩa là đốt cho
thành thứ than đen chứ không thành tro để bón cho đồng ruộng. Biochar tồn tại nhiều
năm trong đất, nhờ đó cải thiện độ tơi xốp của đất, giữ được nhiều nước cho đất ẩm
hơn, tạo môi trường cho sự phát triển của các tập đoàn sinh vật hoạt động ngang tầm
bộ rễ và từ đó tạo ra chất dinh dưỡng tự nhiên cho các cây trồng. Mục đích cuối cùng
là cải tạo đất nền bạc màu, gia tăng sản lượng và giảm bớt chi phí cũng như sự lệ
thuộc vào phân bón hóa học cũng như thuốc trừ sâu .
Kết quả đo đạc mới nhất được tờ TreeHugger tường thuật hôm 13/5 cho thấy sản
lượng cây trồng ở các vùng đất bón biochar ở Canada tăng từ 6 đến 17% so với đối
chứng tại chỗ, thân cây cứng hơn và bộ rễ phát triển nhiều hơn đến 68%. Hao hụt
dưỡng chất phân bón do bị rửa trôi giảm đi rõ rệt , trong đó hiện tượng mất lân giảm
đi tới 44%. Trên thực tế, lợi ích của việc bón biochar đã được quan trắc kiểm nghiệm
nhiều nơi ở Úc, Philippines, Congo… và nhiều nước đã có chế độ khuyến khích hay
tặng thưởng cho các nông gia.

Người ta chú ý đến việc sản xuất biochar từ vỏ trấu vì phế phẩm này luôn sẵn nơi xứ
lúa gạo. Kỹ thuật đốt than tồn tính không khó, trong khi hạt than rất mịn nhưng có thể
tích lỗ hổng rất lớn. Mặt khác bụi than tương đối nặng do giàu silic nhờ đó có thể rải
vãi bằng tay hay bằng cơ giới. Nước ta đã có thói quen lấy tro lò đốt đem ra bón
ruộng, nhưng tỉ lệ biochar trong đó thường thấp lẫn với tro đen. Trong loại tro xám
này có đến trên dưới 40% tro trắng vốn có hoạt tính rất mạnh và thường có hại hơn là
làm lợi cho cây, cho đất.

Một lợi ích thứ hai của việc sản xuất biochar cho ngành nông nghiệp ( và một số
ngành công nghiệp, như ngành công nghiệp giấy ) đó là việc nó có thể tái chế chất thải
hữu cơ. Các nguồn chất thải của động vật và cây trồng thải ra còn tích lại có thể làm ô
nhiễm đất và lớp nước bề mặt. Ngành quản lý chất thải có nhiệm vụ là phải ngăn ngừa
ô nhiễm, nhưng để giải quyết vấn đề này là rất tốn kém. Biochar hiện tại sẽ trở thành
một sự thay thế hấp dẫn nếu chi phí kinh tế dành cho nó ít hơn quản lý chất thải. Bằng
cách cho vật liệu hữu cơ là đầu vào của quá trình này, quá trình sản xuất biochar có
thể biến chất thải thành tài nguyên. Quá trình nhiệt phân với mục đích làm giảm trọng
lượng và khối lượng của nguyên liệu đầu vào, và do hoạt động ở nhiệt độ trên 350ºC ,
nó cũng loại bỏ những tác nhân gây bệnh tiềm ẩn mà có thể sẽ trở thành vấn đề lớn

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 24 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

nếu trực tiếp áp dụng cho các loại đất. Các chất thải xanh từ đô thị và chất thải từ một
số quy trình công nghệ, ví dụ như xay xát giấy cũng có thể được sử dụng.

Biochar còn làm giảm độ chua của đất, do đó làm giảm lượng vôi cần bón cho đất
nhưng không thực sự thêm chất dinh dưỡng cho đất. Biochar là một loại phân bón
đặc biệt, nó có thể giữ lại một lượng đáng kể các chất dinh dưỡng, bởi vì biochar hút
thu và giữ các chất dinh từ dưỡng đất, nó làm giảm các nhu cầu về phân bón - một
cái gì đó phổ biến mà chất hữu cơ không thể làm. Kết quả là chi phí về phân bón
được giảm thiểu và phân bón được giữ lại trong đất thời gian lâu hơn. Phân hóa học
thường dựa trên nguyên liệu là nhiên liệu hóa thạch, do đó biochar còn cung cấp
thêm lợi ích gián tiếp là giảm biến đổi khí hậu bằng cách giảm nhu cầu phân bón.

II.2. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu


Biochar gần đây đã nhận được nhiều sự chú ý bởi đó là một phương tiện giải quyết
vấn đề biến đổi khí hậu. Sở dĩ nó có khả năng như vậy, bởi nó có khả năng: Lưu trữ
carbon trong thời gian dài, làm giảm các khí nhà kính như khí metal và lượng khí
carbon dioxide ( CO2) có thể được tạo ra từ xử lý chất thải, xử lý tái chế chất thải và
sản xuất năng lượng tái tạo .
Thông qua quá trình sản xuất, khoảng 50% thành phần carbon của nguyên liệu đầu vào
được giữ lại trong biochar này. Điều này nhiều hơn so với 10-20% những gì còn xót
lại trong sinh khối sau 5 đến 10 năm phân rã tự nhiên, và ít hơn 3% những gì còn xót
lại trong tro sau khi đốt hoàn toàn.
Biochar cải thiện cấu trúc đất, hơn nữa còn giúp giảm 50- 80% lượng khí thải nito
oxide, nito oxide phát thải ra từ phân bón là khí nhà kính có tác động tới môi trường
nhiều hơn 310 lần khí CO2.
Từ năm 2000, lượng carbon dioxide ( CO 2 ) phát thải ra môi trường đã tăng hơn 3 %
mỗi năm, điều này đã đặt hệ sinh thái của Trái Đất trên quỹ đạo đầy nguy hiểm và
không thể tránh khỏi ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Để thay đổi quỹ đạo
này, đã có nhiều nghiên cứu về các biện pháp nhằm giảm thiểu lượng CO 2 phát thải ra
môi trường. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để ổn định nhiệt độ bề mặt toàn cầu,
không còn cách nào hơn là trong tương lai con người cần phải giảm sự phát thải lượng
CO2 ra môi trường.
Sản xuất biochar, kết hợp với việc lưu trữ nó trong đất, đã được đề xuất như là một
phương pháp có thể làm giảm nồng độ CO 2 trong khí quyển. Đồng thời nó cũng có
tiềm năng để giảm lượng khí phát thải từ các hoạt động khác, những hoạt động đó bao
gồm quá trình xử lý chất thải ở trên và quá trình tái chế. Cả hai quá trình này đều có
Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 25 Nhóm 3
Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

thể là nguồn phát thải khí nhà kính chẳng hạn như khí CO 2 từ quá trình vận chuyển,
chế biến .
Cuối cùng, quá trình nhiệt phân của việc sản xuất biochar nói trên cũng tạo ra các sản
phẩm là các nguồn năng lượng tái tạo. Các khí tổng hợp và các loại dầu sinh học là kết
quả của quá trình sản xuất biochar và nhiệt được tạo ra trong quá trình này có thể sử
dụng để sản xuất điện hoặc làm nhiên liệu. Điều này không chỉ đại diện cho một giải
pháp thay thế năng lượng tái tạo , đồng thời nó còn cải thiện hiệu quả năng lượng của
quá trình nhiệt phân.

II.3. Giải pháp cho Trái đất từ biochar


Đại học Georgia của Mỹ hiện có một cỗ máy độc đáo có khả năng giải quyết những
vấn đề lớn của môi trường hiện nay như: năng lượng, sản xuất lương thực và thậm chí
cả vấn đề biến đổi khí hậu. Chiếc máy này có khả năng sản xuất biochar – một loại
than mà ngoài khả năng giữ độ màu mỡ cho đất trong nhiều năm còn có rất nhiều
những ứng dụng khác .
Kỹ sư Brian Bibens- một nhà nghiên cứu phương thức tái chế carbon đồng thời là tác
giả của cỗ máy này. Biochar có độ xốp cao được tạo nên từ chất thải hữu cơ. Vật liệu
thô để sản xuất biochar có thể là các loại chất thải từ sản xuất nông lâm nghiệp hoặc
chất thải động vật như các mảnh vụn gỗ, các loại vỏ ngũ cốc, vỏ hạt đậu thậm chí là cả
phân gà. Bibens đưa những chất thải được gọi là “sinh khối” này vào trong một thùng
kim loại bát giác, tại đó sinh khối bị nấu chảy dưới nhiệt độ cao, đôi khi lên đến hơn
1000ºF. Vật chất hữu cơ sẽ bị nấu chảy bởi một quá trình nhiệt phân. Chỉ trong vài
giờ, bã hữu cơ bị biến thành các viên giống như than củi, từ đó người nông dân có thể
sử dụng như phân bón. Khí thoát ra trong suốt quá trình nhiệt phân có thể được sử
dụng làm nhiên liệu.
Các nhà khoa học đã ví biochar là “vàng đen” của ngành nông nghiệp. Hàm lượng
cácbon cao cùng với độ xốp tự nhiên của biochar giúp đất giữ được nước và các chất
dinh dưỡng, đồng thời bảo vệ các loại vi khuẩn sống trong đất. Kết quả là sản lượng
mùa màng tăng lên. Hơn nữa, biochar còn đóng vai trò là nơi chứa đựng cácbon tự
nhiên có khả năng lưu trữ CO2 trong đất.
Christoph Steiner, một trong những nhà khoa học hàng đầu nghiên cứu về biochar bày
tỏ kỳ vọng rằng việc sản xuất biochar còn mang lại cho chúng ta cơ hội sản xuất năng
lượng cácbon âm. Còn theo James Hansen, nhà khoa học thuộc Cơ quan Hàng không
và Vũ trụ Mỹ (NASA) thì việc sử dụng biochar trên toàn thế giới có thể giúp giảm
lượng CO2 xuống khoảng 8 phần triệu trong vòng 50 năm tới.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 26 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Quá trình sản xuất biochar cũng có thể tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị khác. Một số
khí thoát ra trong quá trình sản xuất biochar có thể được sử dụng để sản xuất điện
năng, số khác lại có thể dùng để sản xuất dầu hoả hay dược phẩm. Mặc dù các nghiên
cứu biochar là nhằm mục đích cải thiện tương lai nhưng nguồn gốc xuất hiện của nó
lại nằm trong quá khứ. Khoảng nhiều thế kỷ trước, những người bản địa Nam Mỹ sinh
sống ở lưu vực sông Amazon đã sử dụng một hỗn hợp than từ các chất thải động vật
và gỗ để tạo nên “Terra Preta”, theo tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là đất đen.
Theo các chuyên gia, hàng nghìn năm sau đó, đất đai được bón terra preta luôn giữ độ
phì nhiêu mà không cần phải bón thêm bất kỳ loại phân nào khác. Đất có chứa terra
preta đã được chứng minh rằng có thể giữ độ màu mỡ trong hàng nghìn năm, ngăn
ngừa nạn phá rừng lấy đất trồng trọt. Theo ông Danny Day, chủ tịch hội đồng quản trị
của Eprida, một doanh nghiệp tư nhân ở Athens, Georgia hiện đang khai thác các ứng
dụng công nghiệp cho việc phát triển biochar, thì trái đất hiện đang có 3 tỷ người sống
lang thang và có nguy cơ bị đe doạ trực tiếp từ sự biến đổi khí hậu. Họ có thể kiếm
tiền và việc làm bằng cách thu gom các chất thải hữu cơ, góp phần giải quyết vần đề
toàn cầu. Đồng thời, với việc này người nông dân cũng có thể trở thành những người
giàu có.

Tuy nhiên trước khi đưa công nghệ biochar sử dụng trên phạm vi toàn cầu, chúng ta
vẫn cần những kiểm nghiệm ở qui mô rộng hơn.

II.4. Giới hạn của giải pháp biochar


Mặc dù biochar có rất nhiều những lợi ích tiềm năng như đã trình bày ở trên, nhưng
việc sản xuất và sử dụng nó cũng có nhiều hạn chế. Một hạn chế lớn nhất cho việc sản
xuất biochar là các sinh khối được sử dụng không thể được rút ra chỉ từ chất thải nông
nghiệp ( hoặc chất thải đô thị hay công nghiệp ). Một số nghiên cứu đã ước tính rằng
không quá 3 % của năng lượng sinh khối có sẵn phù hợp cho sản xuất biochar. Trên
quy mô toàn cầu, bằng cách sử dụng tất cả các sinh khối trên mặt đất sẽ chỉ có 0,56
GT (gigatonnes) carbon cô lập /năm.
Nếu cây được trồng đặc biệt cho việc sản xuất biochar ( thay vì việc sử dụng chất thải)
, sau đó cây trồng phải có tốc độ tăng trưởng phù hợp với tỉ lệ sản xuất biochar theo kế
hoạch. Các cây trồng tăng trưởng nhanh mang lại năng suất tốt nhất, nhưng cũng
trưởng thành sớm hơn và bắt đầu bị phân hủy sớm hơn. Cách hiệu quả nhất để cố giữ
carbon là sử dụng bởi cây trồng trong quang hợp sẽ được thu hoạch trước khi tốc độ
tăng trưởng bắt giảm dần.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 27 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Ngoài ra,việc sản xuất biochar theo cách này sẽ thay đổi những lợi ích tiềm năng vốn
có của nó, vì vậy nó phải được rõ ràng từ đầu cho dù mục đích là để cải thiện lưu giữ
chất dinh dưỡng đất, cô lập carbon hoặc quản lý chất thải. Dù mục tiêu là gì, thì quá
trình này sẽ được tối ưu hóa cho mục đích đó để tối đa hóa vấn đề về tài chính . Điều
này thường gây hại các lợi ích khác. Với mục tiêu cải tạo đất, các biochar có thể
không sản xuất bất kỳ năng lượng tái tạo có thể sử dụng, hoặc nếu sản xuất năng lượng
sinh học là mục tiêu chính, biochar kết quả có thể quá không ổn định để lưu trữ bất kỳ
cacbon lâu dài . Đánh đổi như vậy không được bỏ qua là lợi nhuận cuối cùng của quá
trình này sẽ xác định lợi ích tiềm năng thực của nó. Thật không may, lợi nhuận của
biochar là một lĩnh vực mà ít nghiên cứu đã được thực hiện. Trong khi nhiều dự án
nghiên cứu và nghiên cứu thí điểm đã xem xét có thể tăng năng suất nông nghiệp từ
loại khác nhau của biochar, có vẻ như là những phân tích phí tổn-lợi ích cần thiết để
xác định điểm mấu chốt cuối cùng là không đầy đủ. Lợi nhuận tăng từ năng suất được
cải thiện có thể hoàn toàn bù đắp bởi các chi phí phát sinh thông qua quá trình sản xuất
biochar, điều này cũng có thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ giá cuối cùng về carbon. Nói
chung, cần nghiên cứu thêm trong lĩnh vực này.
Có vẻ là hạn chế lớn nhất đối với việc triển khai chủ yếu trước mắt của biochar là sự
cần thiết phải nghiên cứu thêm. CSIRO đã xác định ít nhất tám khoảng trống nghiên
cứu, bao gồm kiến thức biochar tiên đoán, biochar tương tác ở cấp độ vi sinh vật, khả
năng giữ nước, và đánh giá tiềm năng than đất. Nó có thể là 3-5 năm trước khi biochar
có thể được nghiêm túc xem xét carbon lưu trữ trên bất kỳ quy mô lớn.

III. Sử dụng biochar trong cải tạo đất

III.1. ảnh hưởng đến tính chất vật lý đất


Việc đưa biochar vào đất có thể thay đổi thuộc tính vật lý đất như kết cấu, cấu trúc,
phân bố, dung trọng và kích thước mao quản có ý nghĩa đối với chế độ không khí đất,
khả năng giữ nước, tăng trưởng thực vật và khả năng làm đất.

III.1.1. Dung trọng

Biochar có dung trọng thấp hơn nhiều so với đất và có cấu trúc khá xốp, do đó, ứng
dụng biohchar có thể làm giảm đáng kể dung trọng của đất của đất. Nếu 100t/ha
biochar với dung trọng 0,4 g/cm 3 được áp dụng cho 20cm trên cùng của đất có dung
trọng là 1,3g/cm3, và các hạt biochar không lấp đầy các khoảng hổng trong đất, sau
một thời gian các tầng đất mặt dày 20cm đó sẽ được dày thêm 2,5cm và có dung trọng
giảm (giả sử trộn đồng nhất) là 0,1 g/cm 3 xuống còn 1,2 g/cm3. Tuy nhiên, nếu biochar

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 28 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

được áp dụng có một độ bền cơ học thấp và tương đối nhanh chóng tan rã thành các
hạt nhỏ lấp đầy không gian các khoảng hổng trong đất, thì dung trọng của đất sẽ tăng
lên.
Trong nông học, sự chênh lệch nhỏ dung trọng đất có thể mang đến những thay đổi
tương đối quan trọng trong đất. Thông thường, khi bổ sung biochar, dung trọng giảm
kết hợp với lượng chất hữu cơ trong đất giúp đẩy nhanh quá trình giải phóng chất dinh
dưỡng và duy trì chúng khỏi bị biến đổi hóa-lý-sinh (tiết kiệm phân bón), ngoài ra còn
giúp giảm bớt độ nén hay làm tăng độ xốp của đất (dẫn đến cải tiến khả năng nảy mầm
hạt giống và tiết kiệm chi phí cho làm đất và chăm sóc).
Độ chặt của đất liên quan chặt chẽ với độ lớn dung trọng đất. Soane (1990) đã xem xét
tác động của chất hữu cơ trong đất mà không bao gồm biochar, về độ chặt của đất và
đề xuất một số cơ chế mà chất hữu cơ trong đất có thể ảnh hưởng khả năng chống lại
các tác động gây tăng độ chặt của đất, từ nhứng cơ chế đó chứng minh khả năng tăng
cường cấu chúc đất của biochar khi được bón vào đất. Ông có nêu ra một số cơ chế
chính:
- Tăng cường lực liên kết giữa hạt nhỏ (vô cơ, khoáng) và tập đoàn đất. Nhiều chuỗi
phân tử hữu cơ dài có mặt trong chất và biochar có hiệu quả cao trong liên kết các
hạt khoáng chất, tạo ra một ma trận liên kết phức tạp và bền vững giữa các axit
mùn, biochar và vật chất vô cơ trong đất.
- Hiệu quả của hệ rễ thực vật, hệ sợi nấm và các sợi sinh học khác: Như đã biết rễ,
nấm sợi và sợi sinh học khác có khả năng liên kết các hạt đất lại với nhau bằng
cách lực kéo vật lý và các liên kết sinh học (cầu nối sinh học). Biochar có khả năng
tăng cường sự phát triển của hệ rễ thực vật, sợi nấm (sẽ tìm hiểu chi tiết tại phần
sau) qua đó tác động gián tiếp đến cấu trúc đất theo hướng có lợi cho canh tác.
- Ảnh hưởng về điện tích của các vật chất vô cơ trong đất: Các hợp chất hữu cơ có
thể làm tăng độ dẫn thủy lực của khoáng sét bằng cách thay đổi điện tích về các hạt
đất sét làm cho chúng di chuyển gần nhau hơn, chuyển chúng về trạng thái gell và
co lại, kết quả là các vết nứt và tăng trung- vĩ mô- độ xốp. Phần tro của biochar có
thể gây ra hiệu ứng tương tự.
- Ảnh hưởng về ma sát: Một lớp phủ hữu cơ trên các hạt và vật liệu hữu cơ giữa các
hạt có khả năng tăng ma sát giữa các hạt tạo điều kiện thuận lợi cho chế độ nước,
không khí đất.
Mặt khác, mạng lưới mao quản và các khoảng hổng của đất có thể bị ảnh hưởng bởi
độ xốp vốn có của biochar cũng như các đặc tính khác của nó mang lại cho đất trong
quá trình tác động bằng nhiều cơ chế khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã cho ra các bằng
chứng khẳng định việc ứng dụng biochar vào đất có thể làm tăng tổng diện tích bề mặt

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 29 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

mạng lưới mao quản và diện tích khoảng hổng trong đất và do đó có thể cải thiện khả
năng giữ nước của đất và tăng cường sự lưu thông giữa không khí đất với môi trường
ngoài (Downie et al, 2009). Điều này cũng làm khu hệ sinh vật đất thêm phát triển.

III.1.2. Chế độ nước và khả năng duy trì các chất dinh dưỡng
Lợi ích nông học của biochar thường được quy cho cải thiện chế độ nước và lưu giữ
chất dinh dưỡng. Các cơ chế của khả năng này của biochar là khá đơn giản. Thêm
biochar cho đất có thể có tác động trực tiếp và gián tiếp về khả năng giữ nước của đất,
quyết định thời gian tồn tại của nước có thể ngắn hoặc dài. Khả năng giữ nước của đất
được quyết định bởi sự phân bố và kết nối các lỗ mao quản trong môi trường đất, chủ
yếu là quy định của kích thước hạt đất (kết cấu), kết hợp với các đặc tính cấu trúc (kết
hợp) và thành phần chất hữu cơ trong đất.
Các ảnh hưởng trực tiếp của ứng dụng biochar có liên quan đến diện tích bề mặt rất
lớn, (tính cả bề mặt bên trong của biochar). Tseng (2006) phát hiện ra rằng biochar có
trên 95% là micropores với đường kính <2 nm. Biochars chứa trong cấu trúc một loạt
các lỗ hổng sẽ làm tăng khả năng giữ nước mao quản và nước trọng lực trong quá trình
nước di chuyển. Kishimoto và Sugiura (1985) ước tính diện tích bề mặt bên trong của
than được hình thành trong điều kiện nhiệt phân từ 400 - 1000°C khoảng 200-400
m2.g-1. Van Zwieten và cộng sự (2009) đo diện tích bề mặt của biochar có nguồn gốc
từ chất thải nhà máy sản xuất giấy với sản xuất trong điều kiện nhiệt phân chậm là 115
m2.g-1.
Về những ảnh hưởng gián tiếp của ứng dụng biochar có giả thuyết đưa ra là biochar
tăng khả năng giữ nước của đất liên quan đến sự kết hợp cải thiện hoặc cấu trúc.
Biochar có thể ảnh hưởng đến cấu trúc do tương tác với chất hữu cơ trong đất, khoáng
chất và vi sinh vật như đã trình bầy phần trên. Các đặc điểm của lớp điện tích bề mặt,
và sự phát triển của nó theo thời gian, sẽ xác định các ảnh hưởng lâu dài tới kết cấu
đất. Biochar nói chung có CEC cao đóng vai trò một tác nhân liên kết của chất hữu cơ
và những khoáng chất.
Sự ổn định cơ học và tính trơ của biochar một khi được kết hợp trong đất sẽ quyết định
tác động lâu dài đến khả năng giữ nước và cơ cấu đất. Điều này bị chi phối bởi loại
nguyên liệu cho quá trình sản xuất biochar và quá trình hoạt động vật lý-hóa học phổ
biến xác định bởi điều kiện thời tiết qua thời gian.
Glaser và cộng sự (2002) cho biết đất Anthrosols (đất được hình thành hoặc biến đổi
sâu sắc qua thời gian dài bởi hoạt động của con người chẳng hạn như bổ sung chất hữu
cơn, canh tác, trồng trọt, …) với một lớp đất bề mặt giàu than hơn ba lần so với các
loại đất xung quanh đã tăng khả năng tích ẩm lên 18%. Tryon (1948) đã nghiên cứu

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 30 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

tác dụng của biochar trên đất của các kết cấu khác nhau và có tỷ lệ phần trăm độ ẩm
khác nhau. Trong đất cát sau khi thêm 45% khối lượng biochar thì độ ẩm tăng là 18%,
trong khi không quan sát thấy thay đổi trong đất sét, và trong đất sét độ ẩm đất giảm
cùng với việc bổ sung than ngày càng tăng. Do đó, cải thiện khả năng giữ nước của đất
bằng cách bổ sung biochar được khuyến cáo trong đất thô, kết cấu rời, bở hoặc đất với
số lượng lớn lỗ phi mao quản, chứ không được khuyến cáo sử dụng cho đất có hàm
lượng sét cao trong việc tăng khả năng giữ nước.
Một mặt lợi khác mà biochar mang lại qua khả năng nâng cao khả năng tích ẩm của
đất chính là việc hạn chế chi phí cho thủy lợi và tưới tiêu, tiết kiệm tiền cho nông hộ.

H.10. Đường cong thể hiện tiềm năng tích trữ ẩm của đất
theo tiêu chuẩn của van Genuchten (1980) và khi đất được bổ sung Biochar

Một mặt lợi khác mà biochar khi bón vào đất tác động đến chế độ nước là ảnh hưởng
của nó tới tính thấm của đất. Trong thực tế, phân bón, làm đất đất và sử dụng các
HCBVTV (thuốc trừ sâu thuốc diệt cỏ,) chúng sẽ thẩm thấu qua phẫu diện đất vào
nước ngầm tốn kém cho nông hộ và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Biochar khi
được đưa vào đất, sẽ tăng cường khả năng giữ nước của đất qua đó làm giảm tốc độ
thẩm thấu ngầm, mặt khác, trong quá trình cơ giới hóa bằng máy móc, các đại phân tử
biochar bị vỡ vụn thành những vi phần tử, chúng sẽ di chuyển xuống lớp dưới (tấng
tích tụ hoặc đế cày) và bịt lại những vi mao quản ở đó cản trở quá trình thẩm thấu
trọng lực của nước và làm giảm tính thấm của đất.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 31 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

III.1.3. CEC và pH

Khả năng trao đổi cation (CEC) của đất được hiểu nôm na là khả năng đất “giữ” chất
dinh dưỡng bên mình như các cation, anion và thậm chí cả những phân tử hữu cơ và
các vật chất lơ lửng khác, nó là khả năng hấp thụ và "ngăn chặn" sự thẩm thấu vào
nước ngầm và nước mặt của những chất đó. Đó là tại các địa điểm tích điện trên bề
mặt của biochar (và đất sét và các chất hữu cơ), nơi các cation có liên kết tĩnh điện và
trao đổi. CEC của biochar liên quan tới nhiệt độ của quá trình nhiệt phân và hình thức
nhiệt phân. Như đã nói phần trên CEC của biochar tăng tỉ lệ thuận với nhiệt độ nung,
tăng nhiệt độ nhiệt phân từ 380-800°C thì CEC tăng trong khoảng 80-250 (mmol c kg-1),
nhiệt độ tối thích tổng hòa cho các thông số khác là khoảng 500°C ở nhiệt độ này CEC
của biochar khoảng 170-180 (mmol c kg-1), đó là một giá trị CEC rất cao. Khi bổ sung
biochar vào đất, với CEC cao biochar sẽ làm tăng tương đối giá trị CEC của đất lên và
qua đó cải thiện khả năng duy trì và bảo vệ lượng cation, tránh việc chúng đị rửa trôi
đặc biệt là các cation kim loại kiềm và kiềm thổ,…
Anion bị hập phụ rất kém của đất trung tính hoặc đất có pH kiềm, đó là một trong
những lý do tại sao canh tác nông nghiệp chúng ta lại phải thường xuyên bón phân bổ
sung các chất dinh dưỡng đặc biệt là dưới dạng anion (HPO 42-,H2PO4-, NO3-, SO42-…).
Chúng rất dễ bị rửa trôi vào môi trường nước ngầm hoặc nước mặt gây hiện tượng phú
dưỡng. Cheng và cộng sự (2007) đã tìm thấy bằng chứng về khả năng trao đổi anion
của biochar (ở pH 3,5) tại đất canh tác có tuổi canh tác cao (trên 70 năm) nơi mà khả
năng này giảm xuống rất thấp (có khu vực đã không còn khả năng hấp phụ trao đổi
anion). Tuy nhiên cơ chế của quá trình này ra sao thì vẫn chưa có câu trả lời thỏa
đáng. Một giả thiết là lượng phytolit (Si vô định hình - tiền vật liệu điều chế zeonit)
được làm giàu trong quá trình nhiệt phân tạo biochar đã hấp phụ các anion, điều này
đã được nhiều nhà khoa học trên thế giời tìm hiểu, và đã chứng minh được khả năng
hấp phụ chất hữu cơ của phytonit với các ion âm trong đó có các ion hữa cơ như
humic, oxalat,… mặc dù bản than phytonit mang điện âm.

Giá trị pH của biochar thường ổn định trong khoảng pH trung tính và hơi kiềm nên
rất tốt khi sử dụng để đưa vào đất chua. Một thử nghiệm đã được tiến hành trên đất
trung bình, có pH=5.3; sau khi bổ sung thêm biochar thì giá trị pH của đất được tăng
lên tới pH=6.3. Một thực nghiệm khác, biochar sản xuất từ phân gia cầm khi bổ sung
vào đât chua nhẹ có pH=4.8, sau một thời gian cải tạo pH đã tăng lên 6.8. Các nhà
khoa học cũng đồng ý rằng thay vì bón vôi để cải tạo độ chua ta nên sử dụng biochar
vì những lợi ích bền vững của nó, mặt khác chi phí để chi cho sử dụng biochar là thấp
hơn so với chi phí khi sử dụng vôi điều này rất có lợi về kinh tế cho các hộ gia đình.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 32 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

III.2. Ảnh hưởng của biochar tới các quá trình trong đất

III.2.1. Sự hấp phụ các hợp chất hữu cơ kị nước


Sự tích lũy các hợp chất hữu cơ kị nước (ví dụ như PAHs là các hydrocacbon thơm
đa vòng, polychlorinated biphenyl- PCBs là các hợp chất hữu cơ có từ 1 đến 10
nguyên tử Cl được gắn vào vòng biphenyl, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ) trong đất và
trầm tích, thường được mô tả dựa trên sự tồn tại đồng thời 2 quá trình: sự hấp thụ
(absorption) vào vật chất hữu cơ tự nhiên (vô định hình) (NOM) và hấp phụ
(adsorption) trên vật liệu than (Cornelissen et al, 2005; Koelmans et al, 2006). Tương
quan so sánh với sự hấp thụ vào các vật chất hữu cơ tự nhiên, thì than (bao gồm cả
muội than) thường có khả năng hút thu bề mặt cao hơn 10-1000 lần (Chiou và Kile,
năm 1998; Bucheli và Gustafsson, 2000, 2003). Người ta ước tính rằng carbon đen
(BC) có thể chứa tới 80-90% tổng số hợp chất hữu cơ kị nước trong đất và trầm tích
(Cornelissen et al., 2005), và có khả năng hấp phụ nhiều loại hợp chất hóa học khác
nhau.
Một trong những ứng dụng của biochars, là dự kiến sẽ nâng cao tổng khả năng hút thu
của đất, và từ đó có thể cố định, hay cản trở di chuyển của các chất gây ô nhiễm trong
đất (có thể đã có sẵn hoặc sẽ được thêm vào đất), làm giảm độc tính của chúng. Một số
nghiên cứu đã cho thấy biochar sản xuất từ dư lượng cây trồng (lúa mì và lúa nước) có
thể giúp tăng cường khả năng hấp thụ của đất sét trộn bùn với diurin (thuốc diệt cỏ
C9H10Cl2N2O) (Yang và Sheng, 2003), các anion khác (Hiller et al, 2007) và cation
(Sheng et al., 2005). Tuy nhiên, trong khi tính khả thi để giảm tính linh động của các
chất gây ô nhiễm trong đất có thể có lợi (xem Phần 4.3), nó cũng có thể dẫn đến sự
tích lũy, với khả năng gây hại lên hệ động - thực vật địa phương nếu tại một số điểm
các hợp chất đã được hấp thụ trở thành các hợp chất có sẵn cho sinh vật. Cần phải có
bằng chứng thực nghiệm để xác minh điều này.
Mặc dù vậy vẫn còn ít kiến thức về các cơ chế kiểm soát sự hấp phụ của biochars
trong đất và trầm tích, nhiều nhà khoa học cho rằng nó là thuyết cơ giới khác nhau từ
mô hình sự hấp phụ của các hợp chất hữu cơ tự nhiên, đồng thời cũng là một quá trình
không thuận nghịch. Trong khi sự hấp phụ tới bề mặt các hợp chất hữu cơ tự nhiên ít
hoặc thậm chí là không có sự phụ thuộc vào nồng độ, nhưng sự hấp phụ tới biochars
có sự phụ thuộc mạnh mẽ, với sự giảm ái lực khi tăng nồng độ chất tan (theo
Cornellissen và cộng sự, 2006; Wang và cộng sự, 2006).
Những nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng hấp phụ tới bề mặt biochar chủ yếu
chịu ảnh hưởng của các đặc tính cấu trúc và hóa học của các chất gây ô nhiễm (như

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 33 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

trọng lượng phân tử, mặt phẳng, tính kị nước) (theo Cornelissen et al, 2004, 2005;.
Zhu và Pignatello, năm 2005; Zhu et al. , 2005; Wang và cộng sự, 2006), cũng như
phân bố, kích thước khoảng hổng, diện tích bề mặt và chức năng của than (ví dụ như
Wang và cộng sự, 2006;.. Chen et al, 2007). Ví dụ, khả năng hấp phụ hợp chất tri-và
tetra-benzenes (như trinitrotoluene, trichlorobenzene và tetramethilbenzene) của
biochar sản xuất từ gỗ phong ở 400 oC bị giới hạn về không gian, phát hiện khi so sánh
kích thước nhỏ hơn của benzene và toluene (Zhu và Pignatello, 2005). Trong hầu hết
các lớp hợp chất hữu cơ thông thường, biochars đã cho thấy sự hấp phụ PAHs đặc biệt
mạnh mẽ, với sự giải hấp phụ là “rất chậm” (hằng số tốc độ đối với “giải hấp” trong
nước của 10-7-10-1 /h, và thậm chí thấp hơn trong trầm tích) (Jonker et al., 2005). Điều
này có thể được lý giải là do các mặt phẳng của phân tử PAHs, cho phép tiếp cận
không hạn chế vào các khoảng hổng nhỏ (Bucheli và Gustafsson, năm 2003;. Van
Noort et al, 2004), và liên kết π-π mạnh giữa bề mặt biochars và phân tử vòng thơm
( ví dụ như Sander và Pignatello, 2005).
Mặc dù phần lớn bằng chứng hiện có thể hiện trên những đặc tính của các hợp chất
hữu cơ kị nước gây ảnh hưởng tới khả năng hấp phụ của biochars, nhưng những đóng
góp của các đặc tính của than cho quá trình này ít được đánh giá. Nó thường được
chấp nhận là cơ chế dẫn đến sự gia tăng diện tích bề mặt và/hoặc tính kị nước của
than, phản ánh trong mối quan hệ tăng khả năng hấp phụ bề mặt đối với những chất
gây ô nhiễm, như đã chứng minh cho các hình thức khác của BC (Jonker và
Koelmans, năm 2002; Noort et al , 2004; Tsui và Roy, 2008). Sự ảnh hưởng của nhiệt
độ nhiệt phân chủ yếu trong phạm vi 340-400 oC (Jame et al, 2005; Zhu et al, 2004;
Tsui và Roy, 2008) và các loại nguyên liệu (Pastor-Villegas et al., 2006) lên một hiện
tượng ở những than gỗ khác nhau gần đây dã được một số tác giả đánh giá. Thật thú
vị, sự hút thấm bề mặt lên những than nhiệt độ cao xuất hiện chỉ bởi riêng sự hấp thụ
bề mặt, trong khi đó ở than nhiệt độ thấp bắt nguồn từ cả hai sự hấp phụ và hấp thụ (ở
quy mô nhỏ hơn) chất hữu cơ còn sót lại (Chun et al., 2004).
Sau khi phát tán trong môi trường, các tính chất hấp phụ của biochar ban đầu có thể bị
ảnh hưởng bởi “sự ngưng kết(aging)” do các yếu tố môi trường, chẳng hạn như các
chất cùng tồn tại. Sự hiện diện các hợp chất hữu cơ có độ kị nước hoặc/và có kích
thước phân tử lớn hơn cho thấy sự giảm khả năng hấp phụ những chất có khối lượng
phân tử thấp hơn của biochar ( ví dụ Sander và Pignatello, 2005; Wang và cộng sự,
2006). Một số ion kim loại (ví dụ như Cu 2+, Ag+) có nồng độ xác định trong môi trường
(50 mg/L) có thể thay đổi đáng kể bề mặt hóa học và/hoặc cấu trúc mạng lưới lỗ hổng
của than (Chen và cộng sự, 2007).

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 34 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Có lẽ một cơ chế quan trọng hơn cần được xem xét, là ảnh hưởng của sự phân rã các
hợp chất hữu cơ tự nhiên, bao gồm humic, fulvic (Pignatello và cộng sjw, 2006) và
phân hủy lipid (Salloum và cộng sự, 2002), lên tính chất lý hóa, khả năng hấp phụ và
sức chứa của biochars (Kwon và Pignatello, 2005). Bằng chứng tương tự đã được tìm
thấy ở than hoạt tính từ lâu. “Sự ngưng kết aging” của than từ gỗ Thích (400 oC) trong
đất than bùn Amherst (18,9%OC) đã chứng minh rằng các hợp chất hữu cơ tự nhiên
làm giảm ái lực của than với benzene, và nhiều bằng chứng khác. Tương tự, quan sát
trong khoảng thời gian hơn 100 năm qua cho thấy đã được báo cáo cho pyrene
(C16H10) trong đất rừng làm giàu với than củi (Hockaday, 2006). Trong cả hai trường
hợp, các nhà khoa học giải thích cơ chế là do các hợp chất hữu cơ tự nhiên làm tắc
nghẽn các lỗ hổng, do năng lực cạnh tranh của các hợp chất hữu cơ tự nhiên và đổi
chỗ các hợp chất hữu cơ từ điểm hấp phụ.
Thông thường, các loại đất bị ô nhiễm có chứa hỗn hợp các dung môi hữu cơ, các
hydrocacbon mạch vòng, kim loại nặng và thuốc trừ sâu, thêm vào các chất khoáng tự
nhiên và chất hữu cơ (Chen et al, 2007.). Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về sự hấp
thu của chất hữu cơ với các vật liệu than dựa vào các thí nghiệm đơn chất tan, trong
khi chúng tồn tại trong tự nhiên dưới dạng những hỗn hợp (Sander và Pignatello,
2006). Cạnh tranh hấp thu có thể là một môi trường có quá trình tăng cường đáng kể
tính di động cũng như tiềm năng thẩm thấu của các hợp chất hữu cơ kị nước trong đất
giàu biochars.
Hầu hết các bằng chứng về sự tăng khả năng hấp thu các hợp chất hữu cơ kị nước bởi
biochar được thêm vào đất là gián tiếp và nỗ lực trước đây để đánh giá trực tiếp thì
đánh giá nó quá cao (Cornelissen và Gustafsson, 2004). Tuy nhiên, tiềm năng của việc
cải tạo bằng biochar để nâng cao năng lực hấp thu của đất, và do đó giảm bớt độc tính
và vận chuyển chất gây ô nhiễm môi trường xuất hiện trong đất và trầm tích không thể
phủ nhận. Người ta có thể cho rằng nâng cao năng lực hấp thu của đất có thể dẫn đến
tích tụ các chất ô nhiễm hữu cơ có khả năng gây nguy hiểm với sức khỏe và hậu quả
xấu tới môi trường. Ở giai đoạn này, rất ít thông tin về các tác động ngắn hạn và dài
hạn, phân phối và khả năng sử dụng sinh học của các chất ô nhiễm như trong đất giàu
biochar.

III.2.2. Sự giữ lại/tính hiệu lực/sự rửa trôi chất dinh dưỡng
Giảm sự rửa trôi chất dinh dưỡng từ nông nghiệp là một mục tiêu phù hợp với chỉ thị
khung về nước (WFD). WFD cần xúc tiến một cách tiếp cận quản lý tổng hợp để cải
thiện chất lượng nước tới các cơ quan quản lý nước châu Âu. Sử dụng các loại phân

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 35 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

bón đã làm tăng nồng độ nitrat và phốt phát trong các vùng nước mặt và nước ngầm ở
Châu Âu. Mục tiêu chất lượng nước cụ thể đã được thiết lập bởi các chỉ thị khung về
nước đối với nitrat, là chất rất dễ bị rửa trôi (Nghị viện Châu Âu và Hội đồng Liên
minh châu Âu, 2000). Cải tiến thực tế quản lý nông nghiệp đang được khuyến khích
bởi “Chính sách nông nghiệp chung” (Common Agricultural Policy).
Dẫn chứng từ một số phòng thí nghiệm và nghiên cứu thực địa cho thấy rằng các ứng
dụng của biochar có thể dẫn đến giảm rửa trôi chất dinh dưỡng (đặc biệt tập trung vào
nghiên cứu các nitrat) và vận chuyển các chất gây ô nhiễm dưới vùng rễ. Một số cơ
chế, góp phần giảm rửa trôi chất dinh dưỡng có liên quan đến tăng cường hiệu quả sử
dụng chất dinh dưỡng vì tăng hàm lượng nước và duy trì chất dinh dưỡng (thời gian cư
trú trong vùng rễ) và tính dễ tiêu, liên quan đến việc tăng bề mặt phản ứng nội bộ của
hệ đất-biochar, giảm thoát nước dưới vùng rễ có liên quan đến tăng sử dụng nước của
thực vật (tăng bề mặt bay hơi), và tăng sử dụng dinh dưỡng, thông qua nâng cao sinh
trưởng cây trồng. Thời gian duy trì cao hơn cũng cho phép một sự phân hủy các chất
hữu cơ tốt hơn và thúc đẩy sự phân hủy hóa chất nông nghiệp. Tuy nhiên, cơ chế,
chẳng hạn như vận chuyển dung dịch keo của các chất ô nhiễm bởi các hạt biochar,
hoặc gây ra dòng chảy ưu tiên (preferential flow induced) bởi các ứng dụng của
biochar, và sự ổn định dài hạn của biochar trong đất, là những yếu tố tiềm năng để
tăng sự rửa trôi của các chất dinh dưỡng và / hoặc các chất gây ô nhiễm.
Độ lớn và tính năng động của kết quả từ ứng dụng biochar là thời gian, không gian và
quy trình cụ thể. Vô số các tương tác trong đất-thực vật- khí quyển, và phạm vi ảnh
hưởng của các nguyên liệu tiềm năng cụ thể của biochar trên những tương tác này, làm
cho nó vốn đã khó khăn để đưa ra đặc tính chung của "biochar". Nó cũng phải được
giữ trong quan hệ với các yếu tố khác, chẳng hạn như lượng mưa và phương thức quản
lý nông nghiệp, sẽ được xác định rõ hơn việc mất chất dinh dưỡng từ các vùng rễ.
Tính di động của nước thấm ngoài vùng rễ phụ thuộc vào khả năng xâm nhập, lực dẫn
thủy và giữ nước của vùng rễ, lượng thoát hơi của cây trồng cũng phụ thuộc vào mật
độ và khả năng của mạng rễ để lấy nước, và các điều kiện khí tượng phổ biến khác.
Những yếu tố này chủ yếu phụ thuộc vào tỷ lệ và các kết nối giữa các khoảng hổng
nhỏ, vừa và lớn. Phân chia các nguồn nước ngầm, dòng chảy bề mặt và sự bốc thoát
hơi nước bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong khả năng giữ nước của đất. Trong
những trường hợp mà ứng dụng biochar để cải thiện lưu giữ (nước có sẵn trong thực
vật) và tăng thực vật thoát hơi (Lehmann et al., 2003), sự hút nước dưới vùng rễ có thể
bị giảm, dẫn đến việc lưu giữ các chất dinh dưỡng di động dễ bị rửa trôi như nitrat,
hoặc cation ở pH thấp.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 36 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Biochar trực tiếp góp phần hấp phụ chất dinh dưỡng thông qua chất mang hoặc tương
tác cộng hóa trị trên một diện tích bề mặt cao. Major et al. (2002) cho thấy biochar
phải được sản xuất ở nhiệt độ trên 500 ° C hoặc được kích hoạt để đạt được kết quả là
tăng diện tích bề mặt của biochar và do đó tăng khả năng hấp phụ trực tiếp các chất
dinh dưỡng. Glaser et al. (2002) kết luận rằng "than củi có thể góp phần làm tăng
lượng ion của đất và giảm rửa trôi của “OM bị phân giải” và các chất dinh dưỡng hữu
cơ” khi họ tìm thấy chất dinh dưỡng được giữ lại cao hơn và chất dinh dưỡng dễ tiêu
sau khi bổ sung than cho đất nhiệt đới. Một cơ chế có thể góp phần duy trì tăng N
trong đất đã được cải tạo với biochar là sự kích thích của vi sinh vật cố định N và tăng
nitrat tái chế do có hàm lượng cao cacbon dễ tiêu (xem Phần 3.2.3). N cố định sinh
học bởi cây bộ đậu thông thường tăng cùng với việc bổ sung biochar 50 g/ kg đất
(Rondon et al, 2007.), mặc dù đất hấp thu N giảm 50%, trong khi tỷ lệ C: N tăng với
một yếu tố. Lehmann et al. (2003) báo cáo về các thí nghiệm thẩm kế chỉ ra rằng tỷ lệ
hấp thu và rửa trôi cho tất cả các chất dinh dưỡng tăng khi áp dụng than củi trong đất.
Tuy nhiên họ cũng chỉ ra rằng không thể hoàn toàn chứng minh rõ ràng than củi có vai
trò trong việc này hay không, trong những thí nghiệm này khả năng thấm nước không
giảm. Do đó, chất dinh dưỡng phải được giữ lại trên các phức hấp phụ tĩnh điện được
tạo ra bởi than này.

III.2.3. Sự ô nhiễm
Khi sự quan tâm rộng rãi tới các ứng dụng của biochar trong đất tiếp tục tăng thì mối
quan tâm về khả năng ô nhiễm đất do một số thành phần của chúng cũng tăng theo.
Đảm bảo khi sử dụng biochar để cải tạo đất không có trường hợp rủi ro, như gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của đất và khu hệ sinh vật cũng như tác động xấu tới
môi trường và kinh tế xã hội (Collison và cộng sự, 2009). Chất gây ô nhiễm như muối
khoáng thường tồn tại trong một số biochars và có thể gây hại cho hoạt động của đất
hơn là ảnh hưởng tới sức khỏe của con người và động vật.
Sự xuất hiện của các hợp chất có khả năng gây ô nhiễm đất trầm trọng và gây ảnh
hưởng tới sức khỏe của sinh vật (như kim loại nặng, các hidrocacbon thơm đa vòng và
dioxin) trong biochar có thể là do nguyên liệu bị ô nhiễm hoặc từ điều kiện nhiệt phân.
Ví dụ, nhiệt phân chậm ở nhiệt độ <500 oC tạo điều kiện cho sự tích tụ các nguyên tố vi
lượng (như lưu huỳnh) có sẵn trong biochar (Hosain và cộng sự, 2007). Tuy nhiên,
kim loại nặng, các PÁH và các chất có tỉnh khử và kháng sinh khác (như
formaldehydes, creosols, xylenols, acroleyn) có thể cũng được tích tụ trong các điều
kiện nhiệt phân như vậy.
Chất thải hữu cơ (ví dụ như chất rắn sinh học, bùn thải, chất thải từ xưởng thuộc da)
thường chứa hàm lượng cao các kim loại nhẹ và nặng, mà lượng kim loại này sẽ còn
Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 37 Nhóm 3
Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

lại trong sản phẩm biochar cuối cùng. Bridle và Prichard (2004) chỉ ra rằng tồn tại một
nồng độ cao của Cu, Zn, Cr và Ni trong biochar được sản xuất từ bùn thải. Muralidhar
(1982) từ lâu đã nhận thấy rằng Cr, chiếm tới 2% (tổng trọng lượng khô) của chất thải
thuộc da, cũng được tìm thấy trong biochar sản xuất từ vật liệu này. Mặt khác, nồng độ
tương đối thấp của Al, Cr, Ni và Mo được phát hiện trong biochars sản xuất từ rác thải
gia cầm, vỏ lạc và gỗ thông vỏ bào nhiệt phân ở 400-500 oC, và biochar từ rác thải gia
cầm thường chứa lượng kim loại nhiều nhất (Gaskin và cộng sự, 2008). Ngược lại, Zn,
Cu, Al và Fe trong biochar sản xuất từ rác gia cầm thấp hơn so với biochars gỗ thông
vỏ bào và vỏ lạc, mô hình có vẻ ngược với những gì qyan sát thấy trong các vật liệu
nguyên liệu. Mặc dù, có thể xem nhiệt phân như là phương tiện để giảm lượng kim
loại hiệu lực trong một số nguyên liệu (như rác gia cầm), và được khuyến khích sử
dụng sản phầm đã qua nhiệt phân (biochar) để giảm thiểu một số vấn đề liên quan đến
ô nhiễm môi trường đất.
Nồng độ kim loại trong nguyên liệu sinh khối thường được dùng để xác định tỷ lệ an
toàn ứng dụng của biochars. Sơ bộ dữ liệu cho thấy, ở mức áp dụng như hiện nay,
biochar có ít nguy cơ ảnh hưởng xấu tới môi trường do kim loại bên trong nó. Trong
thực tế, các tác nhân gây ô nhiễm như Zn, Hg, As, Pb và Ni, có khả năng trở thành
nguy cơ gây ô nhiễm khi sử dụng một lượng lớn biochar (>250t/ha) (theo McHenry,
2009). Đồng thời nhiều nghiên cứu cũng được đặt ra cho tác động khác nhau của
biochar tới các loại đất khác nhau.
Hơn nữa, trong quá trình nhiệt phân các vật liệu hữu cơ ở nhiệt độ <700 oC, có thể phát
sinh những PAHs nặng và ngưng tụ lại, có thể gây ung thư và gây đột biến cao
(Ledesma và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, có ít bằng chứng cho thấy PAHs cũng có thể
hình thành trong phạm vi nhiệt độ nhiệt phân (350-600 ° C), mặc dù có thể xuất hiện
những chất mang độc tính thấp và ảnh hưởng tới môi trường (Garcia-Perez, 2008).
Pakdel và Roy (1991) chứng minh được rằng nguyên liệu sinh khối và điều kiện nhiệt
phân là các yếu tố xác định số lượng và thành phần PAHs sinh ra, và do đó, cần phải
đánh giá nguồn nguyên liệu cũng như xác định cơ chế, điều kiện nhiệt phân cụ thể để
có thể quản lý các thành phần này trong sản phẩm biochar cuối cùng.
Rất ít dữ liệu có sẵn về sự xuất hiện của các PAHs trong các sản phẩm nhiệt phân, so
sánh với từ quá trình đốt cháy hoặc thiêu. Dư lượng cây đậu hà làn và than củi từ gỗ
bạch đàn được nhiệt phân tại 450 oC trong 1 giờ, cho nồng độ PAHs thấp (<0.2 μg/g),
mặc dù mức độ của chúng trong rơm (0.12 μg/g) đã cao hơn so với từ nhiều nguyên
vật liệu khác (0.07 μg/g) (Fernandes và cộng sự, 2003). Tương tự như vậy, Brown và
cộng sự (2006) phát hiện ra rằng nồng độ PAHs ở một số than được nhiệt phân tại
nhiệt độ >500oC, dao động từ 3-16 μg/g (phụ thuộc vào nhiệt độ xử lý), so với 28 μg/g

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 38 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

trong than từ những đám cháy rừng thông. Ngược lại, Jones (2008) nghiên cứu 12 mẫu
biochar từ nhiều nguồn sinh khối và công nghệ sản xuất, phát hiện ra rằng mức độ
PAHs trong biochar thường bằng, thậm chí thấp hơn so với đất tại một số đất đô thị và
đô thị nông thôn. Phát hiện này là bằng chứng cho các nghiên cứu trước đây, trong đó
sự tập trung PAHs tại các lớp đất mặt được tìm thấy tăng theo thứ tự từ đất canh tác <
đấtđồng cỏ < đất rừng < đất đô thị. Ví dụ, ở đất canh tác, sự tập trung của naphtalen,
fluorine, chất hóa học chiết rút từ than đá, phenanthrene và pyrene đã lên đến 0.02;
0.05; 0.067; 0.134 μg/g (tương ứng). Ở đất đô thị, mức độ của các hợp chất tương tự
(tương ứng) đã lên tới 0.269; 0.55; 2.809; 1.40; 11.90 μg/g.
Dioxin và furan là hợp chất thơm clo phẳng, được chủ yếu được hình thành ở nhiệt độ
trên 1000°C (Garcia-Perez, 2008). Mặc dù dữ liệu có xác nhận sự hiện diện của chúng
trong các sản phẩm từ phản ứng đốt cháy, như thiêu đốt của bãi rác và chất thải rắn đô
thị (như trích dẫn của Garcia-Perez, 2008), nhưng không có báo cáo đã tìm thấy chúng
trong biochar có nguồn gốc từ nguyên liệu sinh khối truyền thống. Hiện nay chưa có
nhiều bằng chứng thực nghiệm về mức độ dioxin trong các sản phẩm nhiệt phân (đặc
biệt là biochar) trong khoảng nhiệt độ từ 350-600 oC, như vậy rất hạn chế đối với kiến
thức của chúng ta về ô nhiễm dioxin gây ra do biochar. Nhiều nghiên cứu về vấn đề
này là rất cấp thiết. Có khả năng nhiệt phân nguyên liệu oxy hóa mạnh ở nhiệt độ thâp
(400 và 600oC) không phải là điều kiện thuận lợi để sinh ra dioxin và các hợp chất liên
quan đến dioxin.
Khi sử dụng biochar để cải tạo đất, có một ngoại suy liên kết giữa sự hiện diện của
chất gây ô nhiễm trong biochar và những ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe con người và
động vật, đặc biệt là về sự tích lũy sinh học và sự phát tán sinh học trong chuỗi thức
ăn, nhưng đó chỉ là giả thiết. Trong những điểm cần chú ý là bổ sung biochar vào đất
là đây là một quá trình không thể đảo ngược. Blackwell và cộng sự (2009) nhấn mạnh
sự cần thiết phải mô tả đặc điểm của từng trường hợp cụ thể một cách đầy đủ, đánh giá
rủi ro của từng sản phẩm biochar trước khi ứng dụng vào đất, không chỉ cho tính
không đồng nhất giữa các biochars, mà còn cho các loại đất và điều kiện môi trường
khác nhau. Hiện nay chưa có tiểu chuẩn hiện hành đối với biochar hoặc các điều kiện
sản xuất mà có thể cung cấp những quy định chất lượng cơ sở cho biochar, để đảm bảo
không gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra còn thiếu hệ thống quy định, giấy phép để
xác định các điều kiện mà biochar và vật liệu liên quan có thể được sử dụng cho đất.

III.2.4. Động lực học chất hữu cơ trong đất ( Soil Organic Matter - SOM)

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 39 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Cơ chế ổn định chất hữu cơ trong đất ôn đới đã được nghiên cứu một cách toàn diện
và xem xét lại gần đây (Von Lützow et al, 2006; 2008 2008; Kögel-Knabner et al.,
2008; Marschner et al., 2008).
Đầu tiên, tính ngoan cố được quy định là tính ngoan cố của các hợp chất hữu cơ thực
vật, trong khi ngày nay tính ngoan cố được dùng cho các sản phẩm cháy của chúng,
tức là nhiệt phân cacbon đen (BC). Đối với biochar từ nguyên liệu đã được chọn lọc,
tức là bất kỳ quá trình dẫn đến sự tích tụ tương đối các phân tử ngoan cố, có thể thích
hợp để xem xét tính ngoan cố. Tính ổn định của SOM là kết quả của tính ngoan cố,
tương tác hữu cơ-khoáng, và khả năng tiếp cận. Bởi vì biochar là organic matter,
nhưng cũng có nhiều đặc tính, chức năng tương tự như chất khoáng, cần thiết phải
xem xét sự ổn định của biochar trong đất cũng như sự ổn định về nguồn gốc SOM,
hoặc OM được bổ sung, hoặc sau đó là biochar.

III.2.4.1. Tính ngoan cố của biochar trong đất


Các nghiên cứu về biochar sinh ra do cháy rừng đã cho thấy rằng quá trình vô sinh
thường có tác động nhiều hơn tới sự phân hủy của than củi hơn những quá trình sinh
học, trong điều kiện ngắn hạn (Cheng và cộng sự, 2006; Bruun and Luxhøi. 2008).
Tuy nhiên, quá trình oxy hóa vô sinh chỉ có thể xảy ra trên bề mặt, và do đó, quá trình
oxi hóa sinh học trở nên quan trọng hơn. Thực tế là các vi sinh vật đất có khả năng
oxy hóa cacbon graphit, đó là nhiệt động ổn định và tính ngoan cố của carbon, lần đầu
được chứng minh bởi Shneour (1996). Tác giả thấy rằng có một tỷ lệ oxi hóa cao hơn
đáng kể, ít nhất là tăng gấp 3 lần, ở đất không tiệt trùng so với đất tiệt trùng.
Nhiều công việc liên quan đến tính ngoan cố đã được tiến hành trên BC, cụ thể BC
hỏa thành thay vì biochar. Tuy nhiên, do thành phần của nó tương đối giống BC nên
tính chất hóa, lý gần như tương tự, và tính ngoan cố của biochars cũng có cơ chế
tương tự.
Như graphit được oxi hóa bởi hoạt động của vi sinh vật, mặc dù rất chậm (Shneour
1966), có thể dự kiến được mức độ phân hủy của biochar. Kết quả thực nghiệm về sự
phân hủy sinh học BC cũng tồn tại mâu thuẫn, có cả tốc độ phân hủy nhanh theo Bird
năm 1999, và chậm theo Shindo 1991. Sự khác biệt này có thể là do những khu hệ vi
sinh vật khác nhau mà BC đã tiếp xúc. Mặc dù chi tiết chính xác về sự thay đổi BC
trong đất vẫn còn chưa được biết, và do sự phức tạp của tương tác của nó với khu hệ
sinh vật đất trong đất vẫn chưa thể tường tận. Nhưng BC là thành phần cổ nhất chứa C
trong đất. Điều này cho thấy, thậm chí không cần biết các chi tiết về sự phân hủy BC
trong đất, ít nhất cũng có thể khẳng định nó có thành phần rất ổn định, mà sự phân hủy

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 40 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

chỉ là rất ít, dẫn đến những thay đổi trong các hình thức sinh-hóa học của vật liệu chứ
không phải là mất đi khối lượng đáng kể.
BC hình thành do đốt cháy sinh khối là một hợp nhất của các hợp chất không đồng
nhất, các thành phần khác nhau của nó sẽ bị phân hủy ở những mực độ khác nhau theo
các điều kiện khác nhau. Theo Preston và Schmidt (2006) các hợp chất ngoan cố hơn
trong BC hỏa thành, được tạo ra do cháy rừng của một nguyên liệu gỗ, có thể được dự
kiến tồn tại đến hàng ngàn năm (có thể từ 5 đến 7 ngàn năm) trong môi trường lạnh và
ẩm ướt. Tuy nhiên, một số các phần của BC hỏa thành có thể đã trải qua sự thay đổi
nhiệt nhỏ (tương tự như biochar mà trải qua sự thau đổi nhiệt nhỏ do nhiệt phân chậm,
có thể tồn tại đến hàng trăm năm).
Ngoài ra, cơ chế ổn định tính chất lý, hóa, một yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng tới
thời gian cư trú của biochar trong đất là hiện tượng hợp tác trao đổi chất. Phân hủy
biochar được tăng lên do sự trao đổi chất của vi sinh vật với các chất nền khác, mà
thường là tăng khi SOM được giải phóng từ cấu trúc đất do nhiễu loạn (ví dụ như
biochar kết hợp vào đất thông qua làm đất).

III.2.4.2. Tương tác với hữu cơ khoáng


Tương tác giữa SOM và khoáng đất được nhiều nhà khoa học chú ý trong các tài
liệu. Von Lutzow và cộng sự (2006) kết luận rằng bằng chứng về sự tồn tại tương tác
giữa khoáng đất và biochar, dẫn đến tích tụ trong đất, nhưng các cơ chế tác động vẫn
còn chưa rõ. Một cơ chế tiềm năng là các quá trình oxy hóa của các nhóm chức tại bề
mặt của than, trong đó ưu tiên tương tác với các phân đoạn của chất hữu cơ đất và
khoáng sản.
III.2.4.3. Khả năng tiếp cận
Biochar có thể tăng hoặc giảm khả năng tiếp cận của SOM tới vi sinh vật và enzyme.
Hiện nay, mới chỉ có thể suy đoán về vai trò này của biochar trong đất. Quan trọng
nhất, tương tác hữu cơ-khoáng có thể liên quan tới việc xác định tác động của môi
trường và số phận của biochar, có thể góp phần bảo vệ khỏi suy thoái, trong khi thúc
đẩy thời gian cứ trú lâu dài của nó trong đất.

III.2.4.4. Hiệu ứng mồi (Priming effect)


Hiệu ứng mồi đã được định nghĩa là “sự gia tăng phân hủy C đất do đầu và cung cấp C
mới cho đất”. Và thường được coi là thay đổi ngắn hạn trong phân hủy SOM. Hiệu
ứng mồi được cho là một chức năng của những thay đổi trong khu hệ vi sinh vật khi có
đầu vào vào C “tươi” (ví dụ nhe cenllulose). Điều này có nghĩa là thêm một nguồn C
mới vào hệ thống đất có khả năng tạo ra hiệu ứng bơm, theo đó SOC là giảm. Một số
quá trình được đưa ra như cơ chế cho sự thay đổi này: Thay đổi độ pH, thay đổi điều
Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 41 Nhóm 3
Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

kiện oxi hóa khi ngập nước, thay đổi trong cấu trúc của môi trường sống hoặc thay đổi
tính chất dinh dưỡng.
Sau khi thêm cellulose, Fontaine và cộng sự thấy rằng tỷ lệ phân hủy mùn trong đất
thảo nguyên tăng 55%. Kuzyakov và cộng sự (2009) đã chứng minh rằng tỷ lệ phân
hủy BC trong đất tăng lên khi thêm đường vào đất. Họ kết luận rằng trong khi các vi
sinh vật đất không phụ thuộc BC như một nguồn năng lượng, các enzyme ngoại bào
được sản xuất để phân hủy glucose cũng sẽ phân hủy BC hỏa thành. Ước tính thời
gian phân hủy trung bình của cabon đen là trong khoảng o,5%/năm và kết luận rằng
thời gian cứ trú trung bình của cacbon trong đất có thể trong khoảng 2000 năm. Điều
này đặt ra vấn đề là liệu việc bổ sung biochar cho đất có thể dẫn đến một hiệu ứng mồi
làm khoáng hóa nhanh hơn các SOM?
Kuzyakov và cộng sự (2000) nói rằng các cơ chế quan trọng nhất liên quán đến hiệu
ứng mồi là do hoạt động hoặc số lượng của hệ vi sinh vật tăng lên. Biochar có thể làm
tăng cả hai yếu tố, và như vậy, có khả năng tạo ra một hiệu ứng mồi cho SOM.
Steinbeiss (2009) thấy rằng việc bổ sung các biochars đồng nhất, được làm từ đường
và men để sản xuất biochar không chứa N- và biochar với hàm lượng N ~ 5%, tương
ứng. Khi các biochars được trộn với đất canh tác và đất rừng trong các thí nghiệm mô
hình thu nhỏ thì một hiệu ứng mồi rõ ràng có thể được quan sát với khoảng 8% và
12% cacbon từ các SOC bị mất trong 4 tháng sau khi bổ sung biochar. Việc bổ sung
nitơ có chứa biochar cho đất rừng đã tác động lớn nhất (13% mất) với biochar bổ sung
của nitơ tự do cho đất canh tác có hiệu ứng nhỏ nhất (8%).

III.2.4.5. Loại bỏ dư lượng


Một trong những phương pháp thường được sử dụng để lấy sinh khối làm nguyên
liệu sản xuất biochar là việc loại bỏ các dư lượng cây trồng để cung cấp cho nhiệt
phân. Loại bỏ dư lượng cây trồng được kết hợp với tăng nguy cơ mất đất do xói mòn
do nước và gió, suy giảm chất hữu cơ, suy thoái chất lượng đất dẫn đến giảm năng
suất nông học và giảm năng suất cây trồng, từ đó ảnh hưởng đến tính bền vững của
nông nghiệp.
Loại bỏ dư lượng cây trồng để sản xuất biochar, do đó có thể gây ra nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đối với đất. Trong khi đó sự bổ sung biochar vào hệ thống đất có thể giúp
giảm khí CO2 phát thải ra khí quyển.

III.2.5. Sinh học đất

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 42 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Quần thể sinh vật đất có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của đất và cung cấp
cho hệ sinh thái nhiều yếu tố thiết yếu. Tìm hiểu về sự tương tác giữa biochar, khi nó
được sử dụng như là một yếu tố để thay đổi đất và hệ sinh vật đất là rất quan trọng.
Phần lớn thông qua tương tác với hệ sinh vật đất, như thúc đẩy nấm arbuscular
mycchorizal (AMF) cũng như ảnh hưởng trên khả năng giữ nước, dẫn đến những tác
động ảnh hưởng của biochar vào sản lượng.
Đất là một môi trường sống rất phức tạp và năng động cho các sinh vật, mức độ không
đồng nhất rất cao ở mọi quy mô. Trên microscale, đất thường môi trường thủy sinh khi
micropores trong đất có đầy đủ nước, ngoại trừ nạn hạn hán rất khắc nghiệt do sự đòi
hỏi nước rất cao mà tồn tại. Điều này là rất quan trọng cho sự sống còn của nhiều loài
vi sinh vật cần sự hiện diện của nước cho di động cũng như các hoạt động. Thật vậy,
nhiều sinh vật đất, cụ thể tuyến trùng và vi sinh vật như động vật nguyên sinh có thể
xâm nhập vào một dạng u nang bảo vệ và chuyển hóa tất cả các điểm dừng trong
trường hợp không có nước. Khi sử dụng biochar sẽ làm tăng khả năng giữ nước của
đất, điều này sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với hoạt động sinh vật đất, mà cũng có thể
dẫn đến gia tăng đồng thời trong hoạt động đất và hệ sinh thái mà nó cung cấp.
Cộng đồng sinh vật sống trong đất có mạng lưới thức ăn rất phức tạp và tham gia vào
nhiều kĩ thuật khác nhau cho sự sống còn và để không trở thành con mồi từ nơi trú ẩn
an toàn để thực hiện thong qua các hình thức hoạt động hóa học “chiến tranh”.
Biochar do tính chất rất xốp của nó, được ứng dụng để cung cấp một khu vực nơi sinh
vật nhỏ có thể sống trong không gian đó mà các sinh vật lớn không thể vào để tìm
kiếm con mồi của nó.Vi sinh vật sống trong các micro mao quản sẽ làm tăng tốc độ
tăng trưởng của nấm nhờ dựa vào sự khuếch tán các chất dinh dưỡng và các loại khí
cần thiết, điều này chứng minh rằng các vi sinh vật sử dụng các nấm gần như không
phụ thuộc vào nguồn năng lượng phân hủy của biochar. Đây có thể là một trong những
cơ chế làm tăng sinh khối của vi sinh vật (Steiner et al, 2008;. Kolb et al, 2009.) và kết
hợp với tiềm năng gia tăng nước của đất là một cơ chế hoạt động của vi sinh vật.
(Steiner et al, 2008;. Kolb et al, 2009.).
Tuy nhiên do sự phức tạp của hệ thống vi sinh vật đất, vi sinh vật có khả năng thực
nhiều cơ chế khác nhau để làm việc. Ví dụ et al Kolb. (2009) đã chứng minh rằng
trong khi bổ sung than, chúng bị ảnh hưởng bởi sinh khối và các hoạt động của vi sinh
vật, cũng như chất dinh dưỡng, mức độ phản ứng khác nhau của các vi sinh vật, sự
khác biệt về dinh dưỡng cơ bản sẵn có trong đất nghiên cứu.Tuy nhiên, họ cũng lưu ý
rằng ảnh hưởng của biochar đối với vi sinh vật đất cung tương tự đối với đất, mặc dù ở
các cấp độ khác nhau về cường độ.Vì thế có thể dự đoán đàng kể phản ứng của quần
thế sinh vật đất để ứng dụng biochar.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 43 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Cũng như đối với tất cả các tương tác giữa sinh vật đất với biochar, các tài liệu liên
quan đến sự tương tác của biochar với nấm cũng rất ít. Tuy nhiên xét về sự đa dạng
của nấm hoại sinh thì có khả năng tương tác giữa nấm và biochar rất có thể ảnh hưởng
đến sự ổn định và tuổi thọ của biochar trong đất. Trong khi các bằng chứng về thời
gian cư trú lâu dài của biochar trong đất màu ngạ quỷ, biochar từ các nguồn khác nhau
và tiếp xúc với cộng đồng nấm có mức độ cư trú khác nhau. Đây là một khu vực rất
phù hợp dành cho việc nghiên cứu thêm.
Có một số bằng chứng cho thấy tác động tích cực của biochar vào sản xuất cây trồng
có thể làm gia tăng đoàn thể mycorrhizal (Nisho và Okano, 1991). Phần lớn các
nghiên cứu về tác dụng biochar trên mycorrhiza cho thấy có một tác động tích cực
mạnh mẽ giữa mycorrhiza và biochar trong đất (Harvey và cộng sự, 1976;. Ishii và
Kadoya năm 1994; Vaario et al, 1999.). Các cơ chế có thể được giả thiết bởi Warnock
et al. (2007), bao gồm ( theo thứ tự giảm dần của bằng chứng thực nghiệm có sẵn :
- Thay đổi tính chất lý-hóa học cảu đất
- Gián tiếp tác động trên mycorrhizae thông qua tác động trên vi sinh vật đất
- Sự can thiệp của nấm và sự khử độc của allelochemicals trên biochar
- Cung cấp nấm từ loài ăn thực vật nấm
Biochar, ngay sau khi nhiệt phân, có thể có một loạt các hợp chất trên bề mặt. Đó có
thể bao gồm những hợp chất có thể chuyển hóa dễ dàng bởi vi khuẩn, nhưng cũng có
thể bao gồm những hợp chất có tính các diệt khuẩn và diệt nấm như formaldehyde và
Cresol (Họa sĩ, 2001). Tuy nhiên, thời gian cư trú của những chất này chỉ được thể
hiện trong khoảng 1-2 mùa và không có khả năng ảnh hưởng lâu dài đến các sinh vật
đất. ( Zackrisson et al., 1996)
Cấu trúc của biochar cung cấp một nơi ẩn náu cho các sinh vật đất nhỏ có lợi, chẳng
hạn như nấm cộng sinh mycorrhyzal có thể xâm nhập sâu vào bên trong lỗ chân lông
không gian của biochar và sợi nấm nấm extraradical ( sợi nấm nấm mà được tìm thấy
bên ngoài rễ ) mà được hình thành bào tử trong các micro mao quản của biochar nơi
có cuộc đua tranh giữa các loài sinh vật hoại sinh ( saito và marumoto, 2002 ). Nishio (
1996 ) đã viết là " ý tưởng ứng dụng than kích thích nấm mycorrhiza arbuscular bản
địa trong đất và do đó thúc đẩy tăng trưởng thực vật tương đối nổi tiếng ở Nhật Bản,
mặc dù các ứng dụng thực tế của than được hạn chế do chi phí cao của nó".
Mối quan hệ giữa nấm mycorrhizal và biochar có thể là quan trọng trong việc thực
hiện tiềm năng của than để cải thiện khả năng sinh sản.

III.3. Mô hình thực nghiệm

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 44 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Một nghiên cứu gần đây nhất của tổ chức biochar quốc tế tại Terigal, Australia từ
ngày 29/2/2007 khi nghiên cứu ảnh hưởng của biochar đến năng suất cây trồn g trong
các loại đất khác nhau.
Các lô thử nghiệm tiến hành trong 10 tuần ở các loại đất khác nhau, cụ thể :
- Đất đồng bằng ( lô 1)
- Đất + NPK (lô 2)
- Đất + biochar (lô 3)
- Đất + NPK + Biochar (lô 4)
Tỷ lệ ứng dụng biochar vào hai lô 3 và 4 là 50 tấn/ha

Biochar kết hợp với phân bón NPK so với đất đồng bằng

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 45 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Biochar kết hợp với phân bón NPK so với đất chỉ có NPK

Biochar không cần bón phân so với đất đồng bằng

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 46 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

Biochar so với phân bón NPK

Qua các thử nghiệm trên ta có thể dễ dàng nhận biết sự khác biệt giữa việc sử dụng
biochar so với việc không sử dụng chúng .

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 47 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

IV. Lời kết


Biochar đã có lịch sử sử dụng trên 2000 năm. Nó được tìm thấy trong các loại đất
trên toàn thế giới, là kết quả của những vụ cháy thảm thực vật.
Biochar là công cụ quan trọng để góp phần cải tạo đất, bảo vệ anh ninh lương thực
và đa dạng vùng đất trồng trọt ở những vùng hoang mạc, có nguồn tài nguyên hữu
cơ khan hiếm, không đầy đủ nước và cung cấp vật tư phân bón hóa học.
Biochar cùng giúp cải thiện chất lượng và số lượng nước bằng cách tăng khả năng
giữ lại trong đất chất dinh dưỡng và hóa chất nông nghiệp cho thực vật và cây trồng
sử dụng, nhiều chất dinh dưỡng hơn được giữ lại trong đất thay vì thấm qua đất,
vào nước ngầm và gây ra ô nhiễm.Nó cũng là công cụ rất mạnh mẽ nhưng lại đơn
giản để chống lại biến đổi khí hậu, bằng việc cô lập cacbon trong đất từ hàng trăm
đến hàng nghìn năm. Nó cũng có thể làm giảm lượng khí thải NO x. Sử dụng phế
phụ phẩm, chất thải để sản xuất biochar có thể ngăn chặn khả năng gây ô nhiễm
môi trường của những vật liệu này.
Từ những ứng dụng của mình, biochar là một sản phẩm xứng đáng được toàn thế
giới quan tâm, nghiên cứu. Hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với việc sử
dụng biochar, như xây dựng hệ thống quy định, tiêu chuẩn về quá trình sản xuất,
nguồn nguyên liệu cũng như chất lượng của sản phẩm biochar cuối cùng. Cần có
những thực nghiệm để đánh giá những tác dụng tiêu cực của từng loại biochar
trong từng loại đất cụ thể.

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 48 Nhóm 3


Ứng dụng Biochar trong cải tạo đất GVHD: PGS.Lê Văn Thiện

V. Tài liệu tham khảo


 Sách :
- “Biochar potential for soil improvement & soil fertility” - Wendy C. Quayle
- “Mycorrhizal responses to biochar in soil – concepts and mechanisms” - Daniel
D. Warnock & Johannes Lehmann & Thomas W. Kuyper & Matthias C. Rillig
- “Biochar Effects on Soil Nutrient Transformations” - Tom H.DeLuca,M.Derek
MacKenzie and Michael J.Gundale.
- “Biochar Application to Soils”- F. Verheijen, S. Jeffery, A.C. Bastos, M. van
der Velde, I. Diafas.
- …
 Trang web:
- http://www.biochar-international.org/biochar
- http://biochar.pbworks.com/w/page/9748043/FrontPage
- http://www.biochar.info/
- http://en.wikipedia.org/wiki/Biochar
- …

Tiểu luận môn: Hóa Học Nông Nghiệp 49 Nhóm 3

You might also like