Tổ 3 - LS23ĐồngNai - KTTX2 - 02.10.2021

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

HỌC VIỆN TƯ PHÁP CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BỘ MÔN ĐÀO TẠO NGHỀ LUẬT SƯ, THẨM PHÁN, KIỂM


SÁT VIÊN

BÀI KIỂM TRA


Lớp luật sư 23 Đồng Nai (T7,CN)
Ngày kiểm tra: 02.10.2021
TỔ 3:
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT HỌ VÀ TÊN SBD Công sức đóng góp
1 Nguyễn Thị Hoài Châu 02 5
2 Trần Văn Châu 03 5
3 Vòng Lỷ Cú 04 5
4 Lê Chí Hải Đăng 07 3
5 Đă ̣ng Thị Thu Hiền 13 5
6 Nguyễn Chí Long 22 5
7 Lưu Thị Kim Oanh 30 5
8 Kiều Gia Thịnh Phú 31 5
9 Lê Thị Kim Phượng 34 5
10 Phùng Thị Kim Quyên 36 5
11 Nguyễn Mai Thương 48 5
12 Đỗ Bá Tôn 54 5
13 Phan Thị Thu Trinh 55 5
14 Đỗ Ngọc Tuyên 57 5
15 Nguyễn Quang Vinh 62 5
16 Nguyễn Thị Yến 64 5

1
Học phần: Kỹ năng cơ bản của Luật sư tham gia giải quyết vụ án hành chính
Điểm Giáo viên chấm bài Nhận xét của giáo viên
Ký tên

Đề bài: Theo tình huống HC09. Soạn thảo luận cứ bảo vệ cho Người bị
kiện.

BÀI LÀM

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------------

Đồng Nai, ngày tháng năm 2017

BẢN LUẬN CỨ
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chi cục trưởng Chi
cục Thuế thành phố B trong vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính” do bà Lê
Thúy Hiền khởi kiện

Kính thưa:
- Hội đồng xét xử;
- Vị đại diện Viện kiểm sát;
- Và các Luật sư đồng nghiệp!

Tôi là Nguyễn Thị A cùng các Luật sư thuộc Công ty luật B, Đoàn luật sư
tỉnh Đồng Nai. Chúng tôi là là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
Người bị kiện - Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố B trong phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính “ khiếu kiện quyết định xử phạt và truy thu thuế” ngày

2
hôm nay. Sau đây tôi xin đưa ra các quan điểm pháp lý để bảo vệ yêu cầu của
thân chủ tôi như sau:
Trước hết chúng tôi xin khẳng định, Phó Cục trưởng Chi cục Thuế TP. B
ban hành Quyết định số 2304/QĐ-XPHC ngày 13/01/2017 xử phạt vi phạm
pháp luật về thuế đối với DNTN XD&TM Thúy Hiền là hoàn toàn đúng quy
định pháp luật. Do đó, Chúng tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện yêu cầu tòa án hủy Quyết định số 2304/QĐ-XPHC ngày 13/01/2017
xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với DNTN XD&TM Thúy Hiền, bởi lẽ:
Thứ nhất: DNTN XD&TM Thúy Hiền đã có hành vi vi phạm pháp luật
về thuế
Tại kết luận điều tra số 03/C46 ngày 10/6/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều
tra Bộ Công an đã xác định rõ: Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2007- tháng
5/2012 ông Trần Văn Thảo đã thành lập 02 Công ty là Công ty TNHH Thuận
Phát và Công ty TNHH Tân Thiên với ngành nghề đăng ký kinh doanh là xây
dựng dân dụng và công nghiệp, san lấp mặt bằng, mua bán vật liệu xây dựng, thi
công trang trí nội thất, moi giới bất động sản, kinh doanh nhà, dịch vụ nhà đất…
nhưng đã không hoạt động đăng ký kinh doanh theo như giấy phép đã đăng ký
mà chỉ mua bán hóa đơn GTGT để thu lợi bất chính bằng hình thức lập “khống”
các bảng kê hàng hóa mua vào. Trong đó có bán cho DNTN XD&TM Thúy
Hiền 20 hóa đơn GTGT từ năm 2012-2013 và DNTN XD&TM Thúy Hiền đã sử
dụng 20 hóa đơn này làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và làm
giảm số thuế GTGT phải nộp trong năm 2012-2013 và hạch toán vào chi phí
SXKD năm 2012-2013. (bút lục 36-54)
Điều này cũng đã được Thúy Hiền thừa nhận tại Biên bản làm việc ngày
06/01/2017 (bút lục 27-20), biên bản ghi lời khai (bút lục 59) và bà Lương Thị
Thanh Huyền đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thúy Hiền thừa nhận tại bản
giải trình ngày 11/2/2017 (bút lục 22-23). Theo đó, bà Hiền xác định DNTN
XD&TM Thúy Hiền thực hiện việc mua bán hàng hóa với Công ty TNHH Tân
Thiên thông qua điện thoại, các bên không trực tiếp giao dịch nhận hàng hay nói
cách khác giữa các bên không có quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa.
Như vậy, việc DNTN XD&TM Thúy Hiền không thực tế mua hàng với
Công ty TNHH Tân Thiên nhưng lại sử dụng 20 hóa đơn GTGT do Công ty
TNHH Tân Thiên phát hành để hạch toán vào chi phí SXKD của Công ty, làm
tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và làm giảm số thuế GTGT phải nộp
là hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp.

3
Thứ hai: Quy trình ban hành Quyết định số 2304/QĐ-XPHC ngày
13/01/2017 xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với DNTN XD&TM Thúy
Hiền là đúng quy định của pháp luật. Cụ thể:
1. Về mặt thẩm quyền:
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 109 Luật quản lý thuế 2006 về thẩm quyền xử phạt
vi phạm pháp luật về thuế của thì Chi cục trưởng chi Cục thuế có quyền xử
phạt vi phạm đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền phải nộp hoặc tăng
số tiền thuế được hoàn.
“Điều 109 về Thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế
2. Đối với hành vi quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật này
thì thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu,
Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan có thẩm
quyền ra quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế.”
“Điều 103. Hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế
1. Vi phạm các thủ tục thuế.
2. Chậm nộp tiền thuế.
3. Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được
hoàn.
4. Trốn thuế, gian lận thuế.”
Tại điểm c khoản 3 Điều 14 Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi
hành quyết định về thuế quy định:
“3. Chi cục trưởng Chi cục Thuế trong phạm vi địa bàn quản lý của mình,
có quyền:
… c) Phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định tại các Điều 10, 11 và
Điều 12 Nghị định này.”
Điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của
Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về Thuế và cưỡng chế thi hành
quyết định về thuế quy định:
“Điều 11. Xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế

4
Người nộp thuế có hành vi trốn thuế, gian lận thuế quy định tại Điều 108
của Luật quản lý thuế thì bị xử phạt theo số lần tính trên số tiền thuế trốn, số
tiền thuế gian lận, như sau:
b) Sử dụng hóa đơn, chứng từ bất hợp pháp; sử dụng bất hợp pháp hoá
đơn, chứng từ; hóa đơn không có giá trị sử dụng để kê khai thuế làm giảm số
thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm.”
Như đã phân tích ở trên, DNTN XD&TM Thúy Hiền đã sử dụng 20 hóa
đơn khống của Công ty TNHH Tân Thiên làm tăng số thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ và làm giảm số thuế GTGT phải nộp trong năm 2012-2013 và hạch
toán vào chi phí SXKD năm 2012-2013. Đây là hành vi sử dụng hóa đơn,
chứng từ bất hợp pháp. Căn cứ vào các quy định nêu trên, Chi cục trưởng Chi
cục Thuế thành phố B là người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt
trong trường hợp này.
Đồng thời, tại khoản 1 Điều 54 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012
quy định:
“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều
38; các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 39; các khoản 2, 3 và 4 Điều 40; các khoản
3, 4, 5, 6 và 7 Điều 41; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 42; các khoản 2, 3, 4 và 5
Điều 43; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 44; các khoản 2, 3 và 4 Điều 45; các
khoản 2, 3 và 4 Điều 46; Điều 47; khoản 3 và khoản 4 Điều 48; các khoản 2, 4
và 5 Điều 49; Điều 50 và Điều 51 của Luật này có thể giao cho cấp phó thực
hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.”
- Ngoài ra Căn cứ khoản 1 Điều 18 Thông tư 166/2013/TT-BTC về Giao quyền
xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính về thuế quy định tại Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 16 Thông tư này có thể
giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về
thuế.
Do đó, việc Cục trưởng Chi cục Thuế TP. B đã giao quyền xử phạt vi phạm
hành chính cho Phó Cục trưởng Chi cục Thuế TP. B thực hiện là đúng quy định.
2. Về trình tự, thủ tục thực hiện:
Ngày 24/6/2016, Chi cục Thuế thành phố B nhận được Công văn 978/CT-
HCQT.TVAC ngày 24/612016 của Cục Thuế tỉnh A kèm theo Công văn số
228/C46 ngày 10/6/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Bộ Công an thông
báo kết quả điều tra đã xác định ông Trần Văn Thảo, Giám đốc Công ty TNHH

5
Thuận Phát và Công ty TNHH Tân Thiên không hoạt động đăng ký kinh doanh
theo như giấy phép đã đăng ký mà chỉ mua bán hóa đơn GTGT để thu lợi bất
chính. Ngày 06/01/2017, Đội kiểm tra Thuế số 1 Chi cục Thuế TP. B đã tiến
hành kiểm tra, làm việc với bà Lê Thúy Hiền và ghi nhận DNTN XD&TM Thúy
Hiền đã sử dụng 20 hóa đơn khống làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu
trừ và làm giảm số thuế GTGT phải nộp trong năm 2012-2013 và hạch toán vào
chi phí SXKD năm 2012-2013.
Tại khoản 4 Điều 108 Luật Quản lý thuế số 8/2006/QH II ngày 29/11/2006
quy định:
“Điều 108. Xử lý kết quả kiểm tra thuế, thanh tra thuế
1. Căn cứ vào kết quả kiểm tra thuế, thanh tra thuế, thủ trưởng cơ quan
quản lý thuế ra quyết định xử lý về thuế, thu hồi số tiền thuế đã hoàn không
đúng quy định của pháp luật về thuế, xử phạt vi phạm hành chính về quản lý
thuế theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính về quản lý thuế. Trường hợp xác định rõ hành vi vi phạm
hành chính tại biên bản thanh tra thuế, kiểm tra thuế thì biên bản thanh tra
thuế, kiểm tra thuế được xác định là biên bản vi phạm hành chính.
2. Trường hợp kiểm tra thuế, thanh tra thuế mà phát hiện hành vi trốn thuế
có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan quản lý thuế chuyển hồ sơ cho cơ quan điều
tra có thẩm quyền để điều tra theo quy định của pháp luật; cơ quan quản lý thuế
có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy
tố, xét xử theo quy định của pháp luật.”
Tại khoản 2 Điều 21 Thông tư 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 quy
định:
“2. Trường hợp, người nộp thuế có hành vi vi phạm hành chính về thuế đã
được cơ quan thuế kiểm tra, thanh tra phát hiện, ghi nhận vào biên bản kiểm
tra, thanh tra, kết luận thanh tra thì không phải lập biên bản trước khi ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử phạt căn cứ
biên bản thanh tra, kiểm tra, kết luận thanh tra thuế để ra quyết định xử phạt.”
Sau khi được công văn của Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Bộ Công an,
Chi cục Thuế thành phố B đã tiến hành làm việc với bà Lê Thúy Hiền. Tại biên
bản làm việc ngày 06/01/2017 đã xác định rõ hành vi vi phạm của DNTN
XD&TM Thúy Hiền. Mặc dù tên biên bản không ghi rõ là biên bản thanh tra,
kiểm tra, kết luận thanh tra thuế nhưng về mặt nội dung đã thể hiện đầy đủ các
thông tin như một biên bản thanh tra, kiểm tra, kết luận thanh tra thuế, trong đó
6
nêu đầy đủ hành vi vi phạm, xác định vi phạm, kết luận của cơ quan thuế, kiến
nghị xử lý của cơ quan thuế, được quy định tại điểm g, khoản 4, Điều 66 Thông
tư 156/2013/TT-BTC về lập biên bản thanh tra Thuế. Cụ thể như sau:
- Về căn cứ để lập biên bản:
Căn cứ theo công văn số 228/C46 của Cơ quan CSĐT – Bộ Công
an đề nghị Kiểm tra và xử lý việc sử dụng háo đơn giá trị gia tăng của
DNTN TM&DV Thuý Hiền.
- Về kết luận:
Phần kết luận nội dung tiến hành thanh tra: căn cứ vào kết quả điều
tra và qua làm việc với bà Lê Thuý Hiền, đại diện chi cục thuế đã kết
luận - xác định đơn vị có hành vi vi phạm sử dụng hoá đơn khống nhằm
làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc miễn,
giảm, hành vi trên đã vi phạm vào khoản 4, Điều 108 Luật quản lý Thuế
số 78/2006/QH 11 ngày 29/11/2006.
Về xử lý vi phạm theo thẩm quyền: kết luận áp dụng quy định tại
điểm c khoản 1,Điều 11 nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của
Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế.
- Về kiến nghị:
Đại diện cơ quan thuế đã đưa ra kiến nghị - áp dụng căn cứ tại khoản
3, Điều 54 nghị đinh số 129/2013 /NĐ_CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ
quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính thuế
- Cuối biên bản, đại diện của đơn vị là bà Lê Thuý Hiền đã được xem
toàn bộ nội dung biên bản, đưa ra ý kiến và ký xác nhận ở cuối biên
bản.
Như vậy, biên bản làm việc ngày 06/01/2017 về mặt bản chất là biên bản
thanh tra, kiểm tra, kết luận thanh tra thuế.
Trên cơ sở biên bản thanh tra, kiểm tra, kết luận thanh tra thuế 06/01/2017,
Cục trưởng Chi cục Thuế TP. B đã giao quyền cho Phó Chi cục trưởng ban hành
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2304/QĐ-XPHC ngày 13/01/2017.
3. Thời hiệu xử phạt:
Điểm a khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định
đối với các vi phạm hành chính liên quan đến thuế như sau thì thời hiệu xử phạt
sẽ căn cứ theo pháp luật về thuế:
“Điều 6. Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính
7
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
… Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền
thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật về thuế;”.
Khoản 2 Điều 110 Luật Quản lý thuế số 8/2006/QH II ngày 29/11/2006
quy định:
“Điều 110. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế
2. Đối với hành vi vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự, hành vi chậm nộp tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế, thời hiệu
xử phạt là năm năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.”
Điều 2 Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy
định về xử lý vi phạm pháp luật về Thuế và cưỡng chế thi hành quyết định về
thuế quy định:
“2. Đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự, hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số
tiền thuế được hoàn thì thời hiệu xử phạt là 05 năm, kể từ ngày thực hiện hành
vi vi phạm đến ngày ra quyết định xử phạt.
Thời điểm xác định hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp
hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; hành vi trốn thuế, gian lận thuế là ngày tiếp
theo ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế mà người
nộp thuế thực hiện khai thiếu thuế, hành vi trốn thuế, gian lận thuế hoặc ngày
tiếp theo ngày cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm
thuế.”
Điểm b khoản 1 Điều 4 Thông tư 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của
Bộ Tài chính quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế quy định:
“Điều 4. Thời hiệu xử phạt, thời hạn truy thu thuế và thời hạn được coi là
chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế
b) Đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng
số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm; hành vi trốn thuế, gian lận
thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì thời hiệu xử phạt là 05
năm, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm đến ngày ra quyết định xử phạt.
Ngày thực hiện hành vi vi phạm là ngày tiếp theo ngày cuối cùng của thời hạn

8
nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế mà người nộp thuế thực hiện hành vi vi
phạm.”
Hóa đơn GTGT cuối cùng là ngày 05/12/2012 vậy thời điểm bắt đầu tính
thời hiệu cuối cùng là 31/01/2013, cộng với 5 năm thì thời hiệu xử phạt vi phạm
cho đến hết ngày 31/01/2018.
Do đó, trong năm 2017 Chi cục Thuế TP. B tiến hành xử phạt hành vi vi
phạm của DNTN XD&TM Thúy Hiền vẫn đang trong thời hiệu quy định.
4. Thời hạn ra quyết định xử phạt:
Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:
“Điều 66. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc
trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử
phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.”
Ngày 06/01/2017, Đội kiểm tra Thuế số 1 Chi cục Thuế TP. B đã tiến hành
lập biên bản thanh tra, kiểm tra, kết luận thanh tra thuế (được coi là biên bản vi
phạm hành chính) với bà Lê Thúy Hiền, chủ DNTN XD&TM Thúy Hiền đến
ngày ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 14/01/2017 là đang
trong thời hạn quy định. Bởi lẽ đây là vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp liên
quan đến nhiều tổ chức, cá nhân do đó thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là
30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Từ các căn cứ nêu trên, việc Phó Cục trưởng Chi cục Thuế TP. B ban
hành Quyết định số 2304/QĐ-XPHC ngày 13/01/2017 xử phạt vi phạm pháp
luật về thuế đối với DNTN XD&TM Thúy Hiền là hoàn toàn đúng trình tự, thủ
tục, thời hạn, thời hiệu, thẩm quyền theo quy định pháp luật. Nội dung bà Thuý
Hiền yêu cầu hủy Quyết định số 2304/QĐ-XPHC ngày 13/01/2017 là không có
cơ sở.
Trên đây là quan điểm của chúng tôi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị kiện, kính đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết đúng quy định pháp
luật./.

You might also like