Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á


-----------*******-----------

HỌC PHẦN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ


NGHĨA MÁC – LÊNIN 1

HỌ VÀ TÊN : HUỲNH THỊ CÚC

LỚP : EL17A2

KHOA : NGOẠI NGỮ

CVHT : Th.s NGUYỄN KHOA TUẤN

Đề Tài : Thực tiễn là gì? Vai trò thực tiễn đối với nhận thức?
Ý nghĩa phương pháp luận trong rèn luyện và học tập của sinh viên hiện nay

Đà Nẵng, năm 2021


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1


PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................2
I. TÌM HIỂU VỀ KHÁI NIỆM VỀ THỨC TIỄN VÀ NHẬN THỨC................2
1. Phạm trù của thực tiễn .............................................................................2
a. Thực tiễn là gì? .........................................................................................2
b. Các hình thức cơ bản của thực tiễn: .......................................................3
2. Khái niệm về nhận thức và cấp độ nhận thức.........................................3
a. Quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức..........................................3
b. Cấp độ của quá trình nhận thức ..............................................................4
Nhận thức kinh nghiêm và nhận thức lý luận ....................................4
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học...............................6
II. VAI TRÒ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC ...........................................7
1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của
nhận thức...........................................................................................................8
2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. .......................................................9
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY ..............................................................................10
1. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực
tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn ...............................11
2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải
phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể ...........................................................12
3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều ..................................12
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................16

0
LỜI MỞ ĐẦU

Trong quá trình tồn tại, con người không được thế giới đáp ứng thỏa mãn,
nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của mình, và chính
trong quá trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình,
phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong
phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu nhiệm vụ
và phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hỏi phải
có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời
phát triển của các ngành khoa học.

Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát
triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản thân lý luận,
khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu
vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích
của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực
tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần
chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực
tiễn, cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát triển nói chung.

1
PHẦN NỘI DUNG

I. Tìm hiểu về khái niệm về thức tiễn và nhận thức


1. Phạm trù của thực tiễn
a. Thực tiễn là gì?

Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết
học Mác- Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Trong lịch sử
triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về
phạm trù này. Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động
tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật
chất, là hoạt động lịch sử xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù
đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt
động con buôn, để tiện, bẩn thỉu. Nó không có vai trò gì đối với nhận thức của con
người.

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Khác với các hoạt động khác, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất
định làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng
và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và
không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy, hoạt
động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và có
tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.

2
b. Các hình thức cơ bản của thực tiễn:

Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú.
Trong có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị -
xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực
tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác
động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy
trì sự tồn tại và phát triển của mình. Ví dụ: Thu hoạch vải thiều, trồng rau, gặt lúa...

Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ
chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển. Ví dụ: Ủng hộ đồng bào vùng lũ lụt, Tham gia hoạt
động trồng cây xanh, Tham gia hoạt động tình nguyện giúp đỡ người nghèo…

Thực nghiêm khoa học lả một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác đinh
những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này
có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại.

2. Khái niệm về nhận thức và cấp độ nhận thức


a. Quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri

3
thức về thế giới khách quan. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức.
Quan điểm này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau đây:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của
con người.

Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách
quan; coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con
người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là
không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.

Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng. tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết,
từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện sâu sắc, toàn diện hơn,..

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sỡ chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

b. Cấp độ của quá trình nhận thức

Có nhiều các tiếp cận để tìm hiểu về các cấp độ của quá trình nhận thức. Nếu
căn cứ trên mức độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức, có thể chia
nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nếu căn cứ trên tính
chất tự phát hay tự giác của quá trình nhận thức, có thể chia nhận thức thành nhận
thức thông thường và nhận thức khoa học….

❖ Nhận thức kinh nghiêm và nhận thức lý luận

Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp
các sự vật hiện tượng trong tự nhiên xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học Kết

4
quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai
loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri
thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự quan sát trực
tiếp hàng ngày về cuộc sống và lao động sản xuất. Còn tri thức kinh nghiệm khoa
học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí nghiệm khoa học. Hai loại tri
thức này có quan hệ chặt chẽ với nha, xâm nhập vào nhau để tạo nên tính phong
phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.

Nhận thức lý luận ( gọi tắt là lý luận ) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng
và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật , hiện tượng. Nhận thức lý luận
có chức năng gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức
kinh nghiệm. Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung
phan ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức
lý luận - kết quả của nhận thức lý luận - thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác
hơn và có hệ thống hơn.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức
kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận
những tư liệu phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn, tạo
thành cơ sở hiện thực đề kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết,
khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ
chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát
và thí nghiệm trực tiếp. Do đó, nó chỉ dem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ,
bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức kinh nghiệm‘‘tự nó không

5
bao giờ có thế chứng minh được đầy đủ tính tất yếu’’1. Ngược lại, mặc dù được
hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình
thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó,
lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những
tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con người, thông qua đó
mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành
cái khái quát, có tính phổ biến. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Có kinh
nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ"2. Ngược lại
nếu tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức lý luận, hạ thấp kinh nghiệm, không quan
tâm đến nhận thức kinh nghiệm sẽ dẫn đến căn bệnh giáo điều.

❖ Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học

Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện
tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau
của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú,
nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó có
vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgic là các khái niệm,
các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng,
khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng

1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr 718.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.5, tr. 234.
6
một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường
và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong
nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động
thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau
về chất của quá trình nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Trong mối
quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất
liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm
mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ
dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và
tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận
thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng
đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó
lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông
thường, làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học
cho quá trình con người nhận thức thế giới.

II. Vai trò thực tiễn đối với nhận thức

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: Thực
tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức
và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

7
1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của
nhận thức.

– Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:

Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận.
Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay
hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ
thực tiễn.

Sở dĩ như vậy bởi con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý
luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế
giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.

Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới
phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức
chúng

Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến
hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh
bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây
dựng thành các khoa học, lý luận.

– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:

Nói thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề, khía
cạnh, lĩnh vực gì chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà
không phục vụ thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.

8
Do đó, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa
học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn

– Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:

Nói như vậy có nghĩa là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều nhất, nhanh
chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.

Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng
biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ
đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của
thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.

Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận
thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm,
khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa
học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.

2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.

Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó
còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là
thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực
tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận
thức. C.Mác đã viết: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một
vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý".

Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai
trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận
9
thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh
vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn,
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức"3.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác
tổng kểt thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với
hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại,nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi
vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống
nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn
và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác
định tính chân lý của nó thì chỉ là lý luận suông. Ngược lại, thực tiễn mà không có
lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù
quáng.

III. Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện của Sinh viên
hiện nay

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn hay vai trò của thực tiễn
trong nhận thức có ý nghĩa phương pháp luận to lớn, đặc biệt là trong học tập và
rèn luyện của sinh viên hiện nay.

3
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 167
10
1. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của
thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn

Thực tiễn là cái được phản ánh, nhận thức là cái phản ánh. Để hiểu được
thực tiễn dưới dạng hình tượng lôgic nhất thiết phải hình thành lý luận. Bản thân
thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Quá trình đó diễn ra có lúc
tuân theo quy luật, có lúc không, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận
thức phải bám sát quá trình đó. Bám sát thực tiễn không chỉ đơn giản phản ánh phù
hợp thực tiễn đương đại mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc
những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở cho quá trình
hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó không phản ánh đúng nhu cầu của thực tiễn,
không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn, lý luận đó cũng sẽ bị bác bỏ.

Chính vì thế, trong học tập cũng như rèn luyện của Sinh viên hiện nay, cần
phải biết bám sát thực tiễn, phản ánh đúng yêu cầu thực tiễn để khái quát những
kinh nghiệm của thực tiễn, lấy đó làm cơ sơ hình thành lý luận. Là sinh viên cần
phải năng động, sáng tạo, biết vận dụng những kinh nghiệm có trước làm tiền đề
cho quá trình học tập, rèn luyện của mình. Đó là tri thức trực tiếp góp phần tích
cực vào sự phát triển của mỗi sinh viên sau này, lý luận phải khái quát được kinh
nghiệm của loài người thì mới có tính khoa học và sẽ đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn. Một sinh viên nếu chỉ có lý luận suông trên lý thuyết sách vở mà đem áp
dụng vào thực tế đời sống thì sẽ vấp phải những sai lầm do không phù hợp với sự
phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của xã hội. “Học đi đôi với hành”, nhất
thiết phải lấy thực tiễn làm kinh nghiệm hình thành lý luận.

11
2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận
phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể

Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn là mục
đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử
luôn được lý luận khái quát. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật
mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.

Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng
tạo các tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của quá trình
học tập và rèn luyện của sinh viên nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Thành
tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của quá trình
nghiên cứu học tập của sinh viên. Không có một quốc gia nào đứng ngoài sự tác
động đó. Khoa học và công nghệ là sự kế thừa và tích hợp thành tựu của quá khứ
và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu mang tính nhân
loại. Con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia
chậm phát triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng các thành tựu của khoa học và công
nghệ để phát triển đất nước. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu
cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta phải nhanh chóng tiếp
cận và ứng dụng một cách có hiệu quả các thành tựu của khoa học và công nghệ
thế giới. Đó cũng là mục tiêu của tầng lớp tri thức trẻ như sinh viên hiện nay, cần
phải cố gắng hết mình để tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học kĩ
thuật của thế giới vào công cuộc hiện đại hóa đất nước.

3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều

Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bệnh kinh nghiệm là sự

12
tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng một cách máy
móc vào hiện tạo khi điều kiện đã thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức
kinh nghiệm thông thường. Tri thức kinh nghiệm thông thường là trình độ thấp của
tri thức. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn với những yếu tố và điều kiện đơn
giản, hạn chế. Tri thức kinh nghiệm thông thường góp phần tạo nen những thành
công không nhỏ, cả kinh tế, cả chính trị - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế truyền
thống. Những thành công đó đã củng cố giá trị của các kinh nghiệm. Trong điều
kiện có một số lĩnh vực biến đổi chậm chạp, việc tiếp tục vận dụng những kinh
nghiệm cũ vào hiện tại vẫn tạo nên những thành công đã tự phát hình thành bệnh
kinh nghiệm.

Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ rất
thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống – nền kinh tế chỉ dựa vào
kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức dân gian. Điều
đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của người Việt Nam cũng
như sinh viên Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó
là một trong những nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng
tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỉ lại, dựa dẫm là một trong những nguyên
nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa – tuyệt đối hóa kinh nghiệm của thế hệ
trước, của cấp trên. Kinh nghiệm là rất quý, nó đã góp phần thành công trong điều
kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối
hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện hoàn cảnh thay đổi. Vì vậy,
chúng ta cần phải khắc phục bệnh kinh nghiệm.

13
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối
hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận
một cách máy móc, không tính toán đến điều kiện lịch sử - cụ thể mỗi nơi, mỗi lúc.
Biểu hiện của bệnh giáo điều là ở bệnh “tầm chương trích cú”, dừng lại những lý
luận đã có, bỏ qua sự vận động, phát triển, biến đổi của thực tiễn cũng như bản
thân lý luận, coi chân lý đã được hình thành là bất di bất dịch; không hiểu tính cụ
thể, tính tương đối, tính tuyệt đối của chân lý. Đó cũng chính là căn bệnh mà sinh
viên thường hay mắc phải. Người mắc bệnh giáo điều chỉ căn cứ vào “câu, chữ”
mà chưa hiểu được bản chất đích thực của chúng, coi chúng như “chiếc bùa hộ
mệnh” để bảo vệ sự hiểu biết trống rỗng của mình.

Bệnh giáo điều có căn nguyên sâu xa của nó. Trước hết là do hiểu lý luận
còn nông cạn, chưa nắm chắc thực chất lý luận, lý luận chưa được vận dụng, kiểm
nghiệm và khái quát từ thực tiễn, cho nên lý luận xa rời thự tiễn, là lý luận “suông”
và rơi vào giáo điều. Thứ nữa, do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn. Vận dụng lý
luận vào hoạt động thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là vận dụng cái chung vào cái riêng
một cách linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết chỉ biết trích dẫn, thậm chí chỉ vận
dụng lý luận nhưng không quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý
luận.

Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận phải luôn luôn gắn liền với thực tiễn,
phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực
tiễn và không ngừng phát triển sáng tạo cùng với thực tiễn. Nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin nói riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận
14
mà còn là lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa
học, tri thức lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện thực khách
quan vì mục đích tiến bộ xã hội.

PHẦN KẾT LUẬN

Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình thành lý
luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn từ nhu cầu
của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận động và biến đổi, nhưng để
hình thành lý luận, trước hết, lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con người nhận thức
hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người quan tâm. Năng lực
của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động
phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực
khách quan, con người không hề choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận
thức theo định hướng mục đích. Thông qua tính mục đích đó mà lý luận được hình
thành. Loài người có khả năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận
của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn, con người tích
lũy lý luận, mà trước hết là những lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn
của con người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo
hoạt động khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả cao.
Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ giữa người với người, giữa
người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về chúng. Con người
hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt động trong đó có hoạt
động sáng tạo tri thức; phát minh, sáng chế những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt
nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người, do đó, hệ thống lý luận nào góp

15
phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người thì được con người
quan tâm khái quát. Vì lẽ đó, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin ( Dùng cho các
trường đại học, cao đẳng), (Tái bản lần thứ 3 có sửa chửa, bổ sung). Đồng chủ
biên: GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui.

2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 167

3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr
718.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.5, tr. 234.

5. Tài liệu phần Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện của sinh
viên hiện nay.

16

You might also like