Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

Phần I.

Đọc hiểu
Câu 1. Đoạn trích trên viết theo thể thơ năm chữ.
Câu 2. Tác giả cho rằng: Cuộc đời là phép thử vì:
- Cuộc sống này có vô vàn khó khăn thử thách ta cần phải đương đầu với chúng, để làm được
như vậy chúng ta cần phải có những giải pháp của riêng mình.
- Những giải pháp ấy có thể đưa chúng ta đến thành công hoặc thất bại, đó chính là “phép thử”.
Nhưng suy cho cùng, dù kết quả có ra sao thì chúng ta đều rút được bài học kinh nghiệm cũng
như phát triển được bản thân thông qua những trải nghiệm đó.
Câu 3. - Biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ thứ nhất là điệp ngữ “Hãy”.
- Tác dụng:
+ Về nghệ thuật: tạo nhịp điệu, ấn tượng, sự gợi hình gợi cảm cho khổ thơ.
+ Về nội dung: nhấn mạnh ý nghĩa khuyên nhủ mọi người có một cách sống đúng đắn, tích cực:
tha thứ cho những lỗi lầm của người khác, quên đi những nỗi đau khổ để có thể sống một cách
thoải mái và ý nghĩa nhất.
Câu 4. Tôi đồng tình với ý kiến của tác giả, vì:
+ Quá khứ là những gì mà ta đã trải qua và không thể quay lại được nữa.
+ Cứ chấp niệm về quá khứ chúng ta sẽ quên đi thực tại, từ đó đánh mất những điều quý giá
xung quanh, ta lại phải hối tiếc và rơi vào “vòng xoáy quá khứ”
+ Muốn sống một cách thảnh thơi và thanh thản, ta cần trân quý những gì ta đang có ở hiện tại,
đồng thời hướng về tương lai, hướng về một chân trời tươi sáng đầy hạnh phúc.
+ Tuy nhiên, hãy nhìn lại quá khứ một lần duy nhất nếu chúng cho ta một bài học kinh nghiệm,
sau đó cho vào quên lãng và tập trung vào hiện tại cũng như tương lai phía trước.
Phần II. Làm văn
Câu 1.
Xã hội ngày càng tiến bộ, nhưng con người ta dường như có xu hướng đánh mất đi những
bản chất đẹp đẽ vốn có. Và, vị tha là một lối sống cao thượng và thật sự quan trọng mà con
người ngày nay cần trang bị để góp phần xây dựng xã hội phát triển văn minh. Sống vị tha nghĩa
là vì người khác. Suy rộng ra, đó là lối sống bao dung, độ lượng, không suy xét lỗi lầm của mọi
người. Chính vì thế, cách sống này mang đến cho chúng ta vô vàn ý nghĩa. Thứ nhất, sống vị tha
là một liều thuốc giúp chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản. Thử tưởng tượng, nếu ta cứ mải
gặm nhấm sai lầm của người khác, dần dần nó sẽ trở thành nỗi đau, rồi sinh ra trong ta thù hận.
Một hậu quả đầy tiêu cực sẽ kéo đến từ đó. Thứ hai, tha thứ cho lỗi lầm của người khác là một
cách để hàn gắn mối quan hệ. Những mối quan hệ thân thiết bấy lâu bỗng chốc rạn nứt vì những
sai lầm, và lối sống vị tha là sợi dây liên kết lại mối quan hệ đó. Thứ ba, lối sống vị tha giúp
chúng ta nâng cao giá trị bản thân, tạo nên mội cuộc sống ý nghĩa, một xã hội tốt đẹp. Ai cũng có
lối sống vị tha thì xã hội sẽ không còn mâu thuẫn, xung đột. Ta sẽ sống trong một thế giới tràn
ngập tiếng cười và hạnh phúc. Trong cuộc sống, có vô vàn những tấm gương mang lối sống vị
tha mà tiêu biểu là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta. Bác sẵn sàng tha thứ cho những
người lầm đường lạc lối, dùng lòng vị tha cảm hóa họ. Từ đó tạo nên một tập thể đại đoàn kết,
một lực lượng vững mạnh bảo vệ tổ quốc non sông, mang lại hòa bình ấm no cho nhân dân ta.
Có thể thấy, không phải tiền bạc hay danh tiếng, lối sống vị tha, cái tình người mới là món quà
quý giá nhất mà cuộc sống đem lại.Tuy nhiên, có không ít những cá nhân hiện nay có lối sống
ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân và hờn giận vì những sai lầm của người
khác. Đó là lối sống đáng phê bình, lên án. Tóm lại, vị tha là một đức tính, một lối sống quý giá
mang lại đầy ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Nhà văn Voltare từng viết “Chúng ta đầy khiếm
khuyết và sai lầm, hãy để chúng ta cùng tha thứ cho sự nực cười của nhau – đó là luật đầu tiên
của tự nhiên”. Thế nên, hạnh phúc sẽ được lớn dần trong thế giới lung linh ánh sáng của lòng vị
tha nhân ái. Nhận thức được điều đó, mỗi chúng ta hãy học cách lắng nghe, chia sẻ và tha thứ
cho người khác cũng như cho chính bản thân mình. Từ đó, lòng vị tha được lan tỏa mạnh mẽ và
cuộc đời sẽ đẹp đẽ và hạnh phúc.

Câu 2.
Tây Bắc – một vùng đất hồn thiêng, một miền đất hứa sản sinh ra những nguồn cảm
hứng bất tận để những nhà văn, nhà thơ tạo ra các tác phẩm đầy ấn tượng và độc đáo.
“Người mẹ của hồn thơ” ấy đã thổi hồn vào vần thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, đã tạo nên
“chất vàng mười” trong những dòng tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Và
hơn thế nữa, Tây Bắc đã phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của
nhân dân lao động miền núi qua “Vợ chồng A Phủ”. Nét độc đáo của tác phẩm chính là vẻ
đẹp của nhân vật Mị, đặc biệt qua diễn biến tâm trạng của cô. Qua nhân vật Mị trong đoạn trích
trên, ta thấy được một giá trị hiện thực đầy ý nghĩa mà Tô Hoài đem lại.
Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam, chuyên viết về phong tục tập
quán, là cây đại thụ của lớp tác giả cuối cùng dòng văn xuôi cách mạng. Ông luôn đề cao sự thật
vì với ông: “Văn chương là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm
thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Đọc những tác phẩm của
Tô Hoài, ta thấy được một lối trần thuật hóm hỉnh qua vốnsống, vốn ngôn ngữ, sự sáng tạo
không ngừng nghỉ và biệt tài phân tích diễn biến tâm lí nhân vật vô cùng độc đáo.Tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc”, viết về số phận và cuộc sốngcủa người dân vùng
Tây Bắc, sáng tác sau chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội giải phóngTây Bắc, giai đoạn kháng
chiến chống Pháp 1952. Có thể thấy, nhân vật Mị, qua diễn biến tâm lí được Tô Hoài miêu tả
tinh tế đã phản ánh giá trị hiện thực khốc liệt của giai đoạn kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là
sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi.

Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền
kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh
xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác và tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến
cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ
không thể trả được món nợ cho nhà Thống Lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại nhà Thống Lí để
làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh.

Đoạn trích trên đã tập trung khắc họa nỗi thống khổ đọa đầy về thể xác lẫn tinh thần của
Mị ở nhà thống lí. Trước hết là những đọa đầy về tinh thần. Những đau khổ đã bao mòn tâm hồn
của Mị, cô trở thành người đàn bà nhẫn nhục, chịu đựng, buông xuôi, bỏ mặc cuộc đời “Lần
lần…tự tử nữa”. Mị không còn khả năng đấu tranh nữa, với Mị, cuộc sống chỉ còn là sự tồn tại.
Mị định sống cuộc sống như vậy cho đến chết. Mới đầu, làm dâu nhà thống lí, Mị không khuất
phục, Mị cũng đã từng nuôi ý định tự vẫn. Còn giờ đây, Mị không buồn nghĩ đến cái chết nữa.
Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của tác giả. Bởi vì khi con người nghĩ
về cái chết, tức là họ còn tha thiết được sống, được tận hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng khi
không còn buồn nghĩ đến nó nữa thì đây là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý
niệm về sự tồn tại của mình. Hơn thế nữa, Mị còn tưởng mình là con trâu con ngựa. Hai từ “trâu
ngựa” không phải chỉ là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi
vào việc cả đêm lẫn ngày. Như một linh hồn chết, “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Dần dần,
Mị sống như thế cũng thành quen với cái khổ, cái nhục, thích nghi với đời sống nô lệ. Mị sống
như cái máy, như một thực thể không ý thức về mình. Với cô, cuộc sống không còn ý nghĩa nữa,
tất cả chỉ còn là màn sương mờ đục. Cụm từ chỉ thời gian “lần lần”, “mấy năm qua”, “mấy năm
sau” đã nhấn mạnh trình tự luân hồi của thời gian chậm rãi, đều đặn. Lý giải cho thái độ này của
cô là “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chữ “quen” mang đến cho người đọc biết bao
chua xót, đắng cay, thương cảm. Thậm chí, Mị chỉ nhớ đi nhớ lại, làm đi làm lại những việc nối
tiếp nhau. Nói là Mị nhớ nhưng không phải là những rung cảm, cảm xúc bình thường ở một con
người bình thường. Mị chỉ nhớ một cách máy móc những gì diễn ra theo một thói quen với sự
lặp lại quẩn quanh. Mị nhớ một cách vô hồn vô cảm tựa như một vòng tròn tù túng không lối
thoát. Nơi ở của Mị cũng là một thứ “kìm hãm tâm hồn con người”. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp
như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết
ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết
tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín
bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra
cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức về cuộc sống của Mị
dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều
này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường
như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.

Hơn thế nữa, Mị còn bị đày đọa về thể xác. Cô phải làm việc quần quật từ sáng đến tối,
quanh năm suốt tháng, không một ngày nghỉ ngơi “Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm
thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp...”. Mị làm việc quần quật suốt ngày suốt tháng suốt năm
suốt đời như thế. Dù làm dâu nhà giàu nhưng đó chỉ là danh nghĩa chứ thực chất Mị là một nô lệ,
lao động khổ sai. Mị như bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn: con ngựa con trâu có lúc,
đêm đến nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào
làm việc. Cuộc sống của Mị giờ đây chỉ “mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng đi làm đi làm lại” cực
khổ và vất vả, thậm chí còn chẳng bằng con trâu con ngựa. Con trâu con ngựa còn được nghỉ
ngơi, đằng này đàn bà con gái phải làm việc cả đêm lẫn ngày. Việc so sánh con người với con
vật của tác giả đã thể hiện sự tủi cực cùng nỗi đau của một kiếp người.

Với ngòi bút hiện thực, lối kể chuyện nhẹ nhàng mà tinh tế, hấp dẫn, Tô Hoài đã khắc
họa nổi bật bi kịch đau khổ, bất hạnh của Mị. Đây cũng là số phận tiêu biểu cho những người
phụ nữ, những người lao động trên miền núi Tây Bắc. Tô Hoài đã vén màn bí ẩn để giúp cho bạn
đọc miền xuôi vừa am hiểu, vừa thêm gần gũi, gắn bó với cuộc sống, con người Tây Bắc. Ta
nhận ra số phận, cuộc đời của Mị rất gần gũi, quen thuộc như biết bao những số phận cảnh đời
trên văn đàn miền xuôi. Qua số phận đau khổ, bất hạnh của Mị, Tô Hoài đã khẳng định sự đồng
cảm, quan tâm sâu sắc đến số phận đau thương của những người lao động vùng cao Tây Bắc.
Đồng thời, tác giả cũng tố cáo, lên án đanh thép tội ác dã man của chế độ phong kiến miền núi
Tây Bắc. Chúng đã chà đạp, áp bức bóc lột những người phụ nữ, những người lao động vùng
cao. Phản ánh về hiện thực này, Tô Hoài còn muốn kêu gọi phong trào du kích, phong trào cách
mạng cần mau chóng giải phóng cho những con người lao động vùng cao Tây Bắc. Đây là thiên
chức cao cả, sứ mệnh cao đẹp trong sáng tác của Tô Hoài.

Với ngôn ngữ lựa chọn 1 cách tinh tế, nghệ thuật trần thuật, đặc biệt là thể hiện sâu sắc
diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả làm cho người đọc cũng phải thổn thức, xót xa cho số phận Mị.
Qua đó, tác phẩm tố cáo tội ác của thực dân phong kiến đã áp bức bóc lột con người Tây Bắc.
Áng văn của Tô Hoài qua đoạn trích trên thuộc tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã chứng minh
được quan điểm luôn đề cao sự thật của ông: “Văn chương là một quá trình đấu tranh để nói ra
sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng
người đọc”.

You might also like