Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

MÔN CNXHKH

1. Phân tích tính khoa học của quan điểm: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân”?
Việt Nam là một trong những quốc gia có những hình thức tổ chức nhà nước (kiểu
nhà nước) sớm trên thế giới, nhưng biểu hiện rõ chức năng và được sử liệu ghi chép khá
đầy đủ là các nhà nước phong kiến từ sau khi Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân ta đánh tan
quân Nam Hán năm 938. Trải qua những thăng trầm lịch sử, các triều đại phong kiến đã
để lại nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp, đặc trưng bản sắc dân tộc, nhưng do vận động,
phát triển không hợp quy luật, nên cũng đã lạc hậu và kết thúc sứ mệnh của mình. Từ sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước được xây dựng
theo hướng: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam”, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng ngày càng
hoàn thiện; Nhân dân phát huy “quyền bính” của mình, cùng Nhà nước vượt qua khó
khăn, thách thức, giành được nhiều thành tựu to lớn trong các cuộc kháng chiến, cũng
như cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được
nâng lên, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định:
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Vậy
mà, các thế lực thù địch, phần tử phản động lại xuyên tạc rằng: xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân là lặp lại lý luận “xưa cũ” về nhà nước siêu giai cấp, phi giai cấp, nhà
nước toàn dân,... của các học giả tư sản từ thế kỷ XIX. Số khác thì lý sự: theo chủ nghĩa
Mác – Lênin, nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị, không có nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Phần đông ra sức cổ súy xây dựng nhà nước tam quyền phân lập theo kiểu
dân chủ tư sản, v.v. Thực chất, đây là những quan điểm lạc hậu, không phù hợp với tiến
bộ xã hội, cần được nhận diện và đấu tranh bác bỏ.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân
vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí Minh
nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà
nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện,
nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa
hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là
các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính
nhân dân lậpqua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành
lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính
đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân. Tính khoa học
của quan điểm: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân” được thể hiện như sau:
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân là kết quả vận động hợp quy luật của xã hội. Từ
vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu lịch sử, C. Mác xem xã hội là một bộ
phận của tự nhiên và đã tìm ra quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất; quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giai cấp và
đấu tranh giai cấp; nhà nước và cách mạng xã hội, Ông khẳng định: “Tôi coi sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử, tự nhiên”. Theo đó, khi mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đạt đến đỉnh điểm sẽ diễn ra cách
mạng xã hội mở đường cho lực lượng sản xuất thoát khỏi “xiềng xích” của quan hệ sản
xuất đã lạc hậu, đưa đến sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội với đại diện là một giai cấp
mới, thiết lập nhà nước và chế độ xã hội trên cơ sở kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn; cứ
như vậy làm cho xã hội luôn vận động, phát triển từ thấp đến cao. Đến nay, nhân loại đã
và đang trải qua các kiểu nhà nước tương ứng với các giai cấp đại diện là: chiếm hữu nô
lệ do giai cấp chủ nô đại diện; phong kiến với đại diện là giai cấp phong kiến, địa chủ; tư
bản - đại diện là giai cấp tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp vô sản, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản làm đại diện. Theo lý luận, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước của giai cấp công nhân – giai cấp có sứ mệnh: xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa văn minh, “Thực hiện sự nghiệp
giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”. Để hoàn
thành sứ mệnh đó, giai cấp công nhân phải thông qua đội tiền phong của mình là Đảng
Cộng sản để lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô sản thủ tiêu giai cấp tư sản, thiết
lập chuyên chính vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đến giai đoạn mà lao
động trở thành nhu cầu cống hiến cao nhất, mọi cá nhân đều bình đẳng, được phát triển
toàn diện “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nhà nước hết vai trò, sẽ tự tiêu vong.
Như vậy, mục tiêu và lợi ích căn bản của giai cấp công nhân phù hợp với nguyện vọng,
lợi ích của nhân dân lao động. Vì thế, ở giai đoạn xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là phù hợp với quy
luật và lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn cho thấy, sau Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917, Liên xô và một loạt các nước (bao gồm Việt Nam) đã thiết lập nhà nước
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đã trở
thành hệ thống lớn mạnh, đe dọa sự diệt vong chế độ tư bản trên toàn thế giới. Đáng tiếc
là, những năm cuối thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mô hình xã hội chủ
nghĩa ở Liên xô và các nước Đông Âu “chệch hướng” dẫn đến sụp đổ. Cùng thời điểm
đó, Việt Nam và một số nước đã vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp
thực tiễn, tiến hành đổi mới toàn diện đất nước và đã thu được nhiều thành tựu to lớn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) ghi rõ: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có
những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội”
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự lựa chọn lịch sử Việt Nam. Sau tiếng súng
xâm lược (năm 1858), thực dân Pháp biến nước ta thành thuộc địa của chúng, nhân dân ta
bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn, cuộc sống lầm than, cơ cực; thậm chí, người dân không được
quyết định những những vấn đề tối thiểu thuộc về bản thân mình. Tình cảnh đó đã thôi
thúc phong trào đấu tranh kháng Pháp nổ ra ở khắp nơi, điển hình như: Trương Định tổ
chức nghĩa quân ở Gò Công, Tân An (1859 - 1864); Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa
quân đốt cháy tàu Hy Vọng (Espérance) của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông, rồi lập căn cứ
khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc (1861 - 1868); Tống Duy Tân cùng Cao
Điền dựng cờ khởi nghĩa ở Hùng Lĩnh, Thanh Hóa (1886 - 1892); Phan Đình Phùng với
“Chiếu Cần Vương” chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở vùng núi thuộc hai huyện Hương
Sơn, Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh (1885 - 1896); Hoàng Hoa Thám thành lập nghĩa quân ở
Yên Thế, đánh Pháp suốt 25 năm (1887 - 1913), v.v. Mỗi phong trào diễn ra ở những nơi
với thời điểm và người đứng đầu khác nhau,... nhưng đều nhằm đánh đuổi giặc Pháp;
song, do đường lối, phương pháp, mục tiêu không phù hợp nên đều bị đàn áp đẫm máu.
Trước đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp và lãnh
đạo nhân dân làm lên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra Nhà nước công -
nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đó đến nay, các tầng lớp nhân dân ta luôn tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, đoàn kết, thống nhất, tạo ra
sức mạnh tổng hợp, lập lên những kỳ tích mang tầm thời đại, mở ra kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam từng bước sánh vai với các cường quốc năm
châu.
- Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là nguyện vọng của nhân dân, phù hợp
thực tiễn nước ta. Có thể nói, nguyện vọng lớn nhất của mỗi người dân Việt Nam trước
năm 1945 là: đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Đáp ứng ước nguyện đó, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời; ngày 06/01/1946, mỗi người dân Việt Nam từ đủ
18 tuổi trở lên được tự tay cầm lá phiếu bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của
Nhà nước kiểu mới và bước vào cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nhưng mấy chục
năm sau đó, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã thay nhau xâm lược nước ta (1946 - 1975),
với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”, Đảng, Nhà nước đã tập hợp, lãnh đạo Nhân dân ta đoàn kết
“vừa kháng chiến vừa kiến quốc” và đã làm lên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
(07/5/1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, Đại thắng Mùa Xuân (30/4/1975)
thống nhất đất nước. Bước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả
nước, nhất là từ khi đổi mới đến nay, vai trò, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ngày
càng sáng tỏ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân... tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”.
1. Ở những nước có nền kinh tế lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa, muốn quá
độ lên chủ nghĩa xã hội cần có những điều kiện gì? Những điều kiện này có thay đổi
cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hoá ngày nay
không? Vì sao?
 Ở những nước có nền kinh tế lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa, muốn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội cần có những điều kiện sau:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật
và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội.
Hai là, xác định rõ thực chất, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Khi luận giải về qui luật phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người trải qua
các hình thái kinh tế - xã hội, Marx dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa và xác định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, thực
chất là "thời kỳ quá độ chính trị", nhà nước là nhà nước chuyên chính vô sản.
Ba là, không ngừng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với việc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên nền tảng là liên minh công - nông và các
tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
gắn với hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô
sản là liên minh công – nông. Mặt khác từ thực tiễn, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
Nga, Lenin còn đề cao vai trò của tầng lớp trí thức, mở rộng liên minh công – nông thành
liên minh công – nông với các tầng lớp lao động khác, nhất là với trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Bốn là, đi lên chủ nghĩa xã hội cần kế thừa những giá trị quý báu trong thời kỳ tư
bản chủ nghĩa và của nhân loại. Lenin khẳng định: “phải tiếp thu toàn bộ khoa học, kỹ
thuật, tất cả những kiến thức, tất cả nghệ thuật” và kế thừa “mọi thành tựu của khoa học
kỹ thuật của loài người”, coi đó là những “viên gạch”, những “vật liệu” quí báu mà
những người cộng sản phải biết sử dụng nó vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vừa có tính phổ biến vừa mang nét đặc
thù, các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn giống nhau mà mang theo đặc
điểm của mình. Mặc dù khẳng định tính phổ biến trong tiến trình phát triển chung của xã
hội loài người và tính thống nhất trong mục tiêu chung là chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ
nghĩa Marx - Lenin cũng khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là rất đa dạng và
mang tính đặc thù của mỗi nước. Không nhận thức rõ vấn đề này thì việc rập khuôn máy
móc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước là khó tránh khỏi.
Sáu là, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định thành công của con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Marx và
Engels đã chỉ rõ vai trò lãnh đạo của những người cộng sản đối với cuộc cách mạng công
nhân - cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lenin khẳng định Đảng cộng sản là nhân tố
quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là đội tiên phong của giai
cấp cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm
tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi
luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn liền với toàn bộ
cuộc sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn với tất cả quần chúng bị bóc
lột, và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình - chỉ có một
đảng như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản, trong cuộc đấu tranh cuối cùng,
kiên quyết nhất, thẳng tay chống lại tất cả mọi thế lực của chủ nghĩa tư bản.
 Những điều kiện này có thay đổi cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa
học công nghệ và toàn cầu hoá ngày nay không? Vì sao?
Những điều kiện này sẽ không thay đổi cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa
học công nghệ và toàn cầu hoá. Cách mạng công nghiệp được hiểu là sự thay đổi cơ bản
về công nghệ công nghiệp trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi toàn cảnh bức tranh xã hội
theo hướng phát triển tích cực. Nếu chỉ tính từ khi phát minh ra động cơ hơi nước cho
đến nay thì nhân loại đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp và đang bước vào Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. M ục tiêu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là làm cho dân giàu, nước mạnh vấn đề là nhận thức sâu sắc và triển khai hiệu quả trên
thực tế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế. Khoa học công
nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công
bằng trong từng bước phát triển. Công nghệ hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và
bảo vệ môi trường. Thực hiện thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng chuyển sang
chiều sâu, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất đi liền với việc tạo môi trường rộng mở để người lao động tâm huyết, sáng tạo,
phát huy hết tiềm năng thế mạnh thông qua các chính sách đột phá về phát hiện, bồi
dưỡng, tuyển chọn, đào tạo, bố trí và đãi ngộ về lợi ích vật chất và tinh thần cho giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.Khoa học - công nghệ thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, trong các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thì khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng, luôn làm thay đổi
cơ cấu sản xuất, phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn và phân chia thành các ngành
nhỏ. Làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, nhiều lĩnh vực mới. Cơ cấu trong nội bộ
ngành cũng thay đổi. Khi thay đổi sản xuất theo hướng tăng năng suất và hiệu quả sẽ tạo
ra khả năng thay đổi cơ cấu tiêu dùng do thu nhập tăng. Tỷ trọng và vị trí GDP của công
nghiệp và dịch vụ tăng dần, nông nghiệp giảm dần. Khoa học - công nghệ góp phần tăng
năng suất các nhân tố tổng hợp, nhờ tác động của các yếu tố như đổi mới công nghệ, hợp
lý hóa quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ cải tiến phương pháp quản lý, nâng cao trình
độ, kỹ năng làm việc của người lao động, tăng năng suất các nhân tố tổng hợp làm cải
thiện và nâng cao chất lượng tăng trưởng, từ đó góp phần chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu. Tại các nước phát triển, tỷ trọng đóng góp của TFP vào
tăng trưởng GDP thường rất cao, trên 50%; với các nước đang phát triển khoảng 20-30%.

Sự thay đổi cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu
hoá đòi hỏi các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có sự thay đổi về về chiến lược để
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội theo đúng hướng, điều kiện đặt ra. Đổi mới và
tǎng cường sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định làm cho khoa học và công nghệ
trở thành nền tảng và động lực mạnh mẽ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.Để các định hướng chiến lược khoa học và công nghệ được thực hiện có hiệu quả,
các cấp uỷ đảng từ trung ương đến cơ sở phải tổ chức cho đảng viên và quần chúng quán
triệt nghị quyết này, đặc biệt là quan tâm sử dụng khoa học và công nghệ, tạo động lực,
nguồn lực và môi trường thuận lợi nhất cho khoa học và công nghệ phát triển. Chúng ta
có đường lối, chính sách, chủ trương xây dựng phù hợp với sự phát triển trong thời kì
phát triển mới. Đó cũng là mục tiêu chung

You might also like