1.6.1 Đối tượng định tuyến rõ ràng (ERO) ERO là danh sách địa chỉ lớp 3 trong một vùng mạng MPLS. Giống như một danh sách chuyển tiếp thiết kế (DTL) trong ATM. Nó mô tả một danh sách các node MPLS mà một đường hầm đi qua. Mục đích của ERO là cho phép người sử dụng định rõ tuyến mà một đường hầm đưa ra. Theo nghĩa khác, nó cho phép người sử dụng cưỡng bức một tuyến. ERO có thể rõ ràng hoặc không rõ ràng hoặc chính xác. Đối tượng định tuyến rõ ràng định rõ tất cả các hop trên đường. Một ERO lưu trữ trong một bảng MIB trên node khởi đầu, và có thể được sử dụng bởi nhiều hơn một đường hầm khởi đầu trên node MPLS đó. Các ERO không sử dụng trong phương pháp cấu hình bằng công nhân của các LSP. Các ERO sẽ được sử dụng bởi các giao thức định tuyến (giống như RSVP-TE) để tạo ra các đường hầm. Đường định rõ trong ERO có thể thực hiện được (ví dụ các liên kết phải tồn tại giữa các node thiết kế) và bất kì sự phụ thuộc nào như các tài nguyên băng tần. 1.6.2 Đối tượng tài nguyên MPLS cho phép sự dành trước tài nguyên trong mạng. Điều này cung cấp phương tiện cho nhà vận hành mạng. Các khối tài nguyên cung cấp một phương tiện cho bản tin về sự thiết lập băng tần, và sau đó chúng có thể thiết ké các LSP đặc trưng. Các thành phần của khối tài nguyên bao gồm: Băng tần thu lớn nhất Kích cỡ bó lưu lượng lớn nhất Độ dài gói tin Một LSP có thể có một sự kết hợp đầu cuối – đầu cuối băng tần. LSP được thiết kế để mang luồng lưu lượng dọc theo các tuyến đặc trưng. 1.6.3 Đường hầm và đường chuyển mạch nhãn Các đường hầm MPLS mô tả một kiểu xác định cho các tuyến xuyên qua mạng bởi các node với cấu hình giao diện vào (in – segment), chuyển mạch (cross – connect) và giao diện ra (out – segment). Gói tin MPLS đi vào đường hầm, đi từ bên này sang bên kia một đường thích hợp và có 3 đặc điểm quan trọng đưa ra: Chuyển tiếp dựa trên cơ sở tra cứu nhãn MPLS Cách đối xử tài nguyên ổn định, dựa trên phía thu đó tại thời gian của sự tạo kết nối Các đường đưa ra bởi lưu lượng là miễn cưỡng bởi đường chọn trong sự thuận lợi bởi người sử dụng Các đường hầm mà LSP cung cấp cách tìm cho lưu lượng với địa chỉ IP đích đặc trưng. Các giao thức định tuyến gửi các gói trên các đường hầm đặc trưng và LSP theo thứu tự tìm được địa chỉ IP thích hợp. In – segment và out – segment (giao diện vào, ra) In – segment trên một node MPLS miêu tả một điểm vào lưu lượng. Out – segment trên một node MPLS miêu tả một điểm ra cho lưu lượng. Hai điểm segment có sự phối hợp hợp lý sử dụng một cross – connect. Cross – connect (kết nối chéo) Cross – connect là đối tượng kết hợp segment vào và ra với nhau. Node MPLS sử dụng thiết lập cross – connect để quyết định các chuyển mạnh giữa các segment. Bảng cross – connect hỗ trợ các kiểu kết nối dưới đây: Điểm – điểm Điểm – đa điểm Đa điểm – điểm MPLS hợp thành các giao thức định tuyến IP như OSPF, IS – IS, BGP. Điều này thực hiện bởi các giao thức này đã được sử dụng và cung cấp quá nhiều năm. Hợp nhất chúng sang các chuẩn MPLS cải tiến các cơ hội triển khai MPLS.Kỹ thuật lưu lượng mở rộng sự them vào các giao thức định tuyến nghĩa là chúng có thể thông báo, phân phối tiêu đề định tuyến và tài nguyên. Đây là sự quyết định cho thiết bị và sự tạo ra định tuyến miễn cưỡng LSP. 1.6.4 Các giao thức báo hiệu Việc tạo ra LSP và đường hầm có thể đạt được hoặc bằng điều khiển công nhân (tương tự ATMPVC) hoặc thông qua báo hiệu. Các kết nối abos hiệu có tài nguyên được thu, các nhãn, phân phối, và các đường được chọn bởi các giao thức định tuyến như RSVP – TE hoặc LDP. MPLS có 2 giao thức truyền tín hiệu chính: Nhãn giao thức phân phối (LDP) Giao thức dự trữ tài nguyên (RSVP) 1.6.4.1 Nhãn giao thức phân phối (LDP) LDP là một giao thức báo hiệu khá đơn giản, hoạt động giống hư một trong các IGP (PSPF, IS – IS). LDP chạy trên đầu trang của một cấu hình IGP, nghĩa là bạn phải nhận OSPF và IS – IS chạy trước tiên. Hơn nữa, bạn phải cấu hình LDP trên chính xác các giao diện IGP của bạn. Sau khi bạn cấu hình cả IGP và LDP trên cùng một giao diện,. LDP sẽ bắt đầu truyền và nhận các thông điệp LDP trên giao diện đó. LDP bắt đầu bằng cách gửi thông điệp khám phá LDP tới tất cả các giao diện được bật bằng LDP. Khi một route lân cận nhận được thông báo khám phá, nó sẽ thiết lập một phiên TCP với route nguồn. Khi phiên LDP được thiết lập, các bộ định tuyến duy trì bổ xung nhiều trong cùng một cách mà các route OSPF duy trì bổ xung. Khi cấu trúc liê n kết thay đổi, những thay đổi này tạo ra các thứ LDP cho phép LDP thiết lập các đường dẫn mới. LDP tuyệt vời ở chỗ nó đơn giản và chỉ hoạt động. Tuy nhiên, vì tính đơn giản của nó, nó thiếu một số tính năng kỹ thuật giao thông mạnh mẽ hơn mà RSVP tự hào. Vì tính năng này, ứng dụng chính cho LSP – tín hiệu LSPs là hỗ trợ VPN lớp 3 1.6.4.2 Giao thức dự trữ tài nguyên (RSVP) RSVP phức tạp hơn một chút so với LDP và cung cấp tính năng kỹ thuật giao thông không có sẵn với các LSP báo hiệu LDP RSVP hoạt động bằng cách thiết lập các đường dẫn đơn hướng giữa các bộ định tuyến LSP ingress và một route nguồn. Trong cấu hình, bạn xác định yêu cầu về băng thông cho một LSP. Sauk hi bạn cấu hình các đường dẫn và kích hoạt RSVP, route nội bộ sẽ gửi thông điệp đường dẫn đến bộ định tuyến nguồn. Thông điệp đường dẫn chứa thông tin cấu hình về các tài nguyên cần thiết cho LSP được thiết lập. Khi route nhận được thông điệp đường dẫn, nó sẽ gửi một thông báo đặt chỗ trở lại route vào. Thông báo đặt lại chỗ này được truyền từ route tới route dọc theo cùng một đường dẫn theo bản tin truyền dẫn ban đầu. Khi bộ định tuyến nhận được thông báo đặt chỗ này, một đường dẫn RSVP được thiết lập đáp ứng các yêu cầu bắt buộc. Tất cả các LSR dọc theo đường dẫn nhận được cùng một đường dẫn và thông báo đặt chỗ chưa yêu cầu đặt phòng băng thông. Nếu họ có băng thông sẵn có (nếu không có RSVP LSP ưu tiên cao hơn nào đã bảo lưu băng thông), chúng được abo gồm trong LSP. Nếu route không có băng thông sẵn có, nó sẽ tạo ra thông báo đặt chỗ riêng của nó, và một tuyến đường mới không bao gồm bộ định tuyến vi phạm được tìm thấy. Nếu không có tuyến đường nào được tìm thấy, LSP sẽ không được thiết lập. LSP đã thiết lập vẫn hoạt động miễn là phiên RSVP vẫn hoạt động. RSVP duy trì hoạt động thông qua việc tiếp tục truyền và trả lời các đường dẫn RSVP và các thông báo đặt chỗ. Nếu tin nhắn dừng hoạt động trong ba phút, phiên RSVP sẽ kết thúc, và LSP bị mất.