Professional Documents
Culture Documents
Xemtailieu Case 21
Xemtailieu Case 21
Vào tháng 6/1991, Ấn Độ xảy ra một cuộc khủng hoảng về kinh tế từ việc tăng giá
dầu nhập khẩu do chiến tranh vùng vịnh lần đầu tiên. Ngoại hối giảm sút do những người
Ấn Độ ở nước ngoài ít gửi tiền về quê nhà nhằm tăng tiết kiệm cho gia đình. Nhập khẩu
bị thắt chặt ở tất cả các mặt hàng. Sản xuất công nghiệp giảm trong khi lạm phát tăng cao.
Chính phủ mới đã bắt đầu phiên làm việc đầu tiên vào 6/1991 dưới sự dẫn dắt của thủ
tướng Narasimha Rao. Từ ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính ông Manmohan Singh,
chính phủ đã giới thiệu một số phương pháp nhằm ổn định nền kinh tế trong một thời
gian ngắn, đồng thời công bố một chương trình tái cấu trúc tạm thời với mục đích tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn. Kết quả đạt được thật ấn tượng. Trước năm 1994, lạm phát
đã giảm một nửa, ngoại hối và xuất khẩu tăng trưởng trở lại, những nhà đầu tư nước
ngoài bắt đầu chú ý nhiều hơn và có cái nhìn khác về Ấn Độ - một thị trường mới nổi có
quy mô lớn.
Sự khôi phục có thể đã được nói quá, một người đã nói rằng “ kinh tế Ấn Độ sẽ tiếp
tục trì trệ cho đến khi tất cả mọi thứ của đất này đều bị thế giới quên lãng trừ hình ảnh
của những người biểu diễn rắn, những con bò và đền Tamahal.” Trong nhiều năm, thế
giới nhìn thấy một thái độ không tích cực đối với những nhà đầu tư nước ngoài của chính
phủ Ấn Độ. Những sự đầu tư từ bên ngoài chỉ được cho phép ở một số lĩnh vực như công
nghệ cao và hầu như đều bị cấm ở nhóm hàng tiêu dùng. “Nguyên tắc nguồn gốc bản địa”
đã chỉ ra rằng nhập khẩu 1 sản phẩm được sử dụng phổ biến ở Ấn Độ sẽ bị cấm. Kết quả
của chính sách này là Ấn Độ trở thành nước tự chủ trong công nghiệp quốc phòng, phát
triển cả về hạt nhân và các chương trình khám phá không gian vũ trụ. Tuy nhiên, người
dân Ấn Độ lại có ít sự lựa chọn hơn đối với các thương hiệu sản phẩm và không có được
sự đảm bảo về chất lượng hay độ tin cậy.
Tiếp theo sự mở cửa của nền kinh tế Ấn Độ vào năm 1991 và sự xuất hiện của
chính sách công nghiệp mới đã phá bỏ những quy tắc thương mại phức tạp, đầu tư nước
ngoài tăng nhanh một cách đáng kể. Những ngành công nghiệp như thực phẩm, phần
mềm, nhựa, dụng cụ điện, công nghiệp điện & khí đốt mang về nhiều lợi nhuận. Có ý
kiến cho rằng những năm 1970 -1980, chính phủ Ấn Độ còn hạn chế việc đầu tư nước
ngoài nhưng bây giờ họ lại tìm mọi cách để thu hút đầu tư.
Những doanh nghiệp nước ngoài đã thành công tại thị trường Ấn Độ từ những thập
kỉ trước - trong giai đoạn chính sách hà khắc, thì bây giờ lại càng phát triển nhanh chóng
hơn nữa với sự tăng trưởng cổ phiếu từ 40-51% trong đó có những doanh nghiệp đã thành
lập lâu năm bao gồm những công ty có quy mô toàn cầu như Unilever, P&G, Pfizer,
Hoechst, BAT và Philips.
Vào tháng 5/ 1990, quyết định tái thâm nhập thị trường Ấn Độ bằng việc đề nghị
liên doanh với một công ty địa phương sản xuất và kinh doanh chai, lọ thuộc sở hữu của
khối liên kết thương mại Ấn Độ - Godreg. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ đã bác bỏ yêu
cầu của Coca-cola trong khi lại chấp nhận Pepsico. Không từ bỏ, Coca-cola đã chọn một
phương án thâm nhập khác đó là liên doanh với Britannia Industries India Ltd, một công
ty kinh doanh bánh phồng tôm. Công ty liên doanh mới có tên là Britco Foods. Vào năm
1993 Coca-cola đã nộp đơn xin thành lập công ty nước giải khát 100% vốn có tên Coca-
cola India.
Sự xuất hiện của Coca-cola tại thị trường nước giải khát buộc các nhà sản xuất quy
mô nhỏ tại địa phương phải cân nhắc tìm ra phương pháp kinh doanh thích hợp để có thể
tồn tại trong thị trường. Pure Drinks đã cố gắng cải tiến hệ thống đóng chai so với Coca-
cola từ nhiều năm trước, kể cả đề nghị rút khỏi vị trí dẫn đầu của nhãn hiệu sản phẩm
Campa Cola nhằm thuyết phục Coca-cola. Thị phần của Campa Cola lúc bấy giờ là 10%.
Tuy nhiên, Coca-cola đã lựa chọn một người đồng minh khác đó là Parle.
Với những nhà sản xuất nội địa, họ biết rằng Coca-cola không bao giờ có thể trả lại
thị phần cho họ bởi vì bản thân thị trường nước giải khát đã phát triển theo chiều hướng
cố định trong nhiều năm. Tuy nhiên, điều đó không làm cho các nhà sản xuất nội địa từ
bỏ việc muốn liên kết với công ty dẫn đầu thị trường (Coca-cola). Vào 7/1993, Parle đề
nghị bán nhãn hiệu tốt nhất của họ bao gồm Thums Up, Limca, Citra, Gold Spot and
Mazaa. Họ chọn duy trì quyền kinh doanh sản phẩm Frooti và Bisleri.
Kết quả từ lời đề nghị của Parle, 2 địa điểm mới đã được xây dựng để đóng chai và
đưa sản phẩm của cả 2 công ty ra thị trường. Nhóm chuyên về marketing sẽ đảm nhiệm
việc quảng cáo, truyền thông, PR và hỗ trợ bán hàng. Parle nhận được 49% từ việc hợp
tác marketing nhưng nhận được 50% từ việc hợp tác đóng chai sản phẩm.
5. Tiến bước nhanh chóng đến một thời đại hoàng kim
Chiến lược chiêu thị theo mùa – chiến dịch “Kỳ lân biển”
Ở Ấn Độ, thời gian mà người dân Ấn Độ sử dụng nhiều nước giải khát nhất là 70-
75 ngày từ giữa tháng 4 đến tháng 6. Trong suốt thời gian đó, hơn 50% lượng nước ngọt
trung bình hàng năm được tiêu thụ. Mùa cao điểm thứ hai rơi vào 20-25 ngày cuối cùng
của lễ hội “ Kỳ lân biển”. Đây là lễ hội truyền thống ở Gujarati, kéo dài chín đêm ở trung
tâm Gujarat, phía Tây Ấn Độ. Mumbai cũng có một số người tổ chức lễ hội này, đây
cũng là nhóm khách hàng mục tiêu mà chiến dịch hướng đến.
Theo Sunil Kapoor, giám đốc Marketing của Coca-cola tại Ấn Độ: “ với phương
châm suy nghĩ địa phương – hành động địa phương”, kế hoạch kinh doanh đã được tiến
hành, chúng tôi đã và đang cố gắng thu hút một lượng lớn người dân tham gia lễ hội tại
Gujarat với hơn 20.000 tạp chí miễn phí kèm theo mỗi chai Thums Up được bán ra.
Về phần mình, Pesico cũng tham gia vào lễ hội “ Kỳ lân biển” hàng năm thông qua
việc trở thành nhà tài trợ cuộc thi “ Gaba” – một cuộc thi nhảy trong lễ hội. Năm 2000,
Deepak Jolly, phó chủ tịch hội đồng quản trị của Pepsico tại Ấn Độ nói rằng: “ đây là lần
đầu tiên Pepsi thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với kênh truyền hình Gujarati, Zee Alpha,
để phát sóng trực tiếp lễ hội Navrartri 2000 ở Mumbai trong 9 đêm.
Tiếp theo đó là một ưu đãi cực lớn cho người dân ở Ahmedabad, Baroda, Surat, and
Rajkot – 4 tỉnh của Gujarati. Với mỗi lon Pesi 300ml sẽ nhận được 1 kg gạo thơm
Basmati. Trong suốt lễ hội, cả 2 công ty đều chi rất mạnh tay cho chiến dịch chiêu thị sản
phẩm của mình. Ví dụ, năm 2000, Pepsi Foods đã tặng 1 gói socola Kit-kat với mỗi chai
1.5l và 1 túi kẹo cứng Polos với mỗi chai Pepsi và Mirinda 500ml.
Sau chiến thắng của đội tuyển Ấn Độ tại giải India - England NatWest cricket vào
năm 2002, Pepsico đã tung ra một chiến dịch quảng cáo trong đó có sự xuất hiện của
Mohammad Kaif – tuyển thủ mang về chiến thắng vẻ vang cho Ấn Độ. Mặc dù đã kí hợp
đồng quảng cáo cho Pesi vào năm trước nhưng Kaif vẫn chưa trở thành gương mặt đại
diện cho hãng này. Trước Kaif, 2 ngôi sao khác cũng được Pepsi mời quảng bá sản phẩm
là Sachin Tendulkar và Amitabh Bachchan. Đây cũng là 2 tuyển thủ sáng giá của môn
Cricket, đồng thời là diễn viên nổi tiếng. Những chiến dịch quảng cáo khác của Pepsi
cũng có sự tham gia của các thành viên đội tuyển Cricket Ấn Độ. Bởi vì đây là môn thể
thao được yêu thích ở đất nước này.
Ngoài ra, Pepsi còn mời các cầu thủ trong đội tuyển bóng đá tham gia quảng cáo,
tận dụng từ cơn sốt bóng đá của World Cup, Pepsi đã thu về một con số lợi nhuận khổng
lồ từ những chiến dịch quảng cáo này.
Năm 2003, một chiến dịch tương tự cũng được diễn ra xung quanh hoạt động tài trợ
cho giải World Cup cricket. Trong suốt 2 tháng diễn ra, một sản phẩm mới – Pepsi Blue
đã được biết đến trên khắp cả nước. Nó được biết đến như là một phiên bản giới hạn, icy-
blue cola được bán ở dạng chai thủy tinh 300ml và chai nhựa 500ml với giá bán là 8 và
15 rupees. Bên cạnh đó, chai thủy tinh 250ml có giá 12 rupees cũng được tung ra thị
trường.
Để tăng cường mức độ hiệu quả của chiến dịch quảng cáo, Pepsi thực hiện một MV
quảng cáo trong đó có sự xuất hiện của các cầu thủ nổi tiếng trong đội Cricket của Ấn
Độ. Đoạn quảng cáo này được phát trên kênh SET Max – kênh phổ biến với giới trẻ từ
15-25 tuổi, tập trung ở khu vực phía Bắc và Tây Ấn Độ.
Vào năm 2002 và 2003, Coca-cola thực hiện chiến dịch quảng cáo “dựa trên việc sử
dụng thuật ngữ địa phương”. Lấy ý tưởng từ chữ “gaana” có nghĩa là hát. Coca-cola đã
thực hiện chiến dịch quảng cáo liên quan đến âm nhạc và vũ điệu. Chiến dịch quảng cáo
đầu tiên với tên gọi “ Bombay Dreams” với sự xuất hiện của giám đốc sản xuất âm nhạc
nổi tiếng A.R.Rahman đã vô cùng thành công với nhóm khách hàng mục tiêu là những
người trẻ, doanh số bán tăng 50%. Ý tưởng quảng cáo này cũng giành được giải thưởng
Effi do Mumbai Advertising Club tổ chức.
Năm 2003, chiến dịch thứ 2 được thực hiện với tên gọi “ Chennai Dreams”. Quảng
cáo lần này, Coca mời người mẫu quảng cáo là một diễn viên trẻ tài năng và nổi tiếng ở
phía nam Ấn Độ - Vijay. Chiến dịch lần này hướng đến nhóm khách hàng mục tiêu ở
Tamil Nadu thuộc phía nam Ấn Độ. Sự thành công của chiến dịch lần này nhờ vào sự
thấu hiểu nhu cầu của thị trường mục tiêu.
Năm 2002, Coca-cola gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng hình ảnh cho
nhãn hiệu sản phẩm chính Coke đối với nhóm khách hàng mục tiêu là thanh niên ở những
vùng nông thôn – India B. Slogan của chiến dịch quảng cáo lần này là ‘thanda matlab
Coca-Cola’. Mục tiêu của chiến dịch này là làm tăng trưởng nhóm hàng nước ngọt đặc
biệt là Coke. Chiến dịch này thành công và đã mang về vị trí thứ ba cho Coke trên thị
trường nông thôn tại Ấn Độ.
Nhóm khách hàng mục tiêu thứ 2 mà Coca-cola hướng tới là thanh niên tại thành
phố - India A với tuổi từ 18-24 ở những thành phố lớn. Vào năm 2003, chiến dịch hướng
đến nhóm khách hàng này được thực hiện với thông điệp khuyến khích sự lạc quan và tự
tin ở những người trẻ tuổi, được thể hiện bởi người mẫu đại diện là 1 nam diễn viên và 1
hoa hậu thế giới 1994 đến từ Ấn Độ. Ngoài ra, Coca-cola còn kết hợp nhiều hình thức
quảng cáo khác như tờ rơi, truyền thông và những sự kiện tại địa phương. Mục tiêu chính
mà Coca-cola hướng đến là tăng mức tiêu thụ sản phẩm bình quân đầu người tại khu vực
nông thôn và mở rộng thị phần ở khu vực thành thị. Đồng thời, trong lúc này họ tung ra
một sản phẩm mới “affordability plank” đó là chai 5ruppee với hi vọng sẽ đạt được mục
tiêu đề ra.
Vào năm 2003, Coca-cola đã giảm giá bán từ 15% đến 25% trên toàn Ấn Độ nhằm
khuyến khích tiêu dùng. Đây là chiến dịch giảm giá tiếp theo chiến dịch được thực hiện ở
phía Bắc Ấn Độ đối với các sản phẩm Coke, Thums Up, Limca, Sprite và Fanta. Ở
Rajasthan, phía đông và tây Uttar Pradesh và Tamil Nadu giá chai 200ml là 5 rúp và chai
300ml là 8 rúp.
Mức tiêu thụ sản phẩm bình quân đầu người của người dân Ấn Độ rất tháp nên
Coca-cola hi vọng với chiến dịch giảm giá này sẽ làm cho mức tiêu thụ tăng lên đáng kể.
Đồng thời, Coca-cola cho ra đời sản phẩm lon mini với hi vọng mức bán lẻ sẽ tăng.
CÂU HỎI:
1. Môi trường chính trị tại Ấn Độ đã gây bất lợi cho cả Coca-cola và Pepsi. Những
khía cạnh cụ thể nào của môi trường chính trị đóng vai trò quan trọng? Liệu
những khía cạnh đó có cản trở việc thâm nhập thị trường hay không? Nếu không
thì những công ty phải thích nghi như thế nào đối với những chính sách chính trị
bất lợi?
2. Thời gian bước vào thị trường Ấn Độ của Coca-cola và Pepsi là khác nhau và
cũng mang lại những kết quả khác nhau cho mỗi công ty tại thị trường Ấn Độ.
Những thuận lợi và bất lợi nào từ việc gia nhập thị trường sớm và muộn?
3. Thị trường Ấn Độ rộng lớn về dân số và địa lý. Làm thế nào 2 công ty này có
thể đáp ứng những điều kiện về hàng hóa, hoạt động chiêu thị, chính sách giá
cũng như sự sắp xếp tổ chức đối với yêu cầu của 1 nước đông dân như Ấn Độ.
4. Địa phương hóa là một chính sách mà cả 2 công ty đều thực hiện thành công.
Hãy nêu ví dụ cho điều đó đối với từng công ty.
5. Một số nhà phân tích nhận định rằng Coca-cola tại Ấn Độ đã mắc những sai lầm
trong việc lên kế hoạch và quản lý trong lần trở lại Ấn Độ năm 1993. Bạn có
đồng ý hay không? Điều gì và ai chịu trách nhiệm cho lỗi lầm đó?
6. Bạn nghĩ trong 2 công ty thì công ty nào có tầm nhìn rộng hơn cũng như thành
công lâu dài hơn trên thị trường Ấn Độ?
7. Những bài học nào mà từng công ty tự rút ra từ kinh nghiệm tại thị trường Ấn
Độ khi muốn thâm nhập vào một thị trường mới nổi lớn khác tương tự như Ấn
Độ?