Chuong 3 NLTHBH

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 40

Nguyên lý thực hành bảo hiểm

CHƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM VÀ


3 HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

3.1. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

Luật pháp đóng vai trò quan trọng trong ngành bảo hiểm toàn cầu. Tầm quan trọng của nó được
thể hiện qua những điểm sau:

- Các hợp đồng bảo hiểm là các hợp đồng pháp lý và những tranh chấp liên quan đến việc đòi
bồi thường được xử lý và do tòa án đưa ra phán quyết.

- Các công ty bảo hiểm được quản lý ở hầu hết các quốc gia và phải tuân thủ các yêu cầu của
luật pháp.

Vì các lý do trên, những người hoạt động trong ngành bảo hiểm phải có hiểu biết tốt về cách
vận hành của các hệ thống luật pháp bảo hiểm cũng như hợp đồng bảo hiểm.

3.1.1. Các hệ thống pháp luật

Luật có thể được định nghĩa như sau:

“Luật là một hệ thống các quy tắc, được phát triển qua một thời gian dài để điều chỉnh quan hệ
giữa con người với con người nhằm tổ chức các hoạt động cộng đồng và duy trì sự phát triển lành
mạnh của xã hội”.

Hệ thống các quy tắc này được phát triển theo hai hệ thống chính:

Hệ thống luật chính thống

Luật chính thống là hệ thống luật vận hành ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các
nước Châu Á, Châu Âu, Nhật Bản và Châu Mỹ La tinh và một số thuộc địa cũ của các cường quốc
Châu Âu. Hệ thống luật này dựa trên nền tảng của hệ thống luật pháp La mã. Luật chính thống vận
hành dưới một tập hợp các quy tắc thành văn được các tòa án áp dụng và đưa ra giải thích. Các
tranh chấp được giải quyết bằng việc tham khảo các đạo luật, bộ luật, nghị định liên quan. Tuy
nhiên, có một số lượng rất ít các quốc gia mà ở đó luật chính thống vận hành không cần đến các bộ
luật hoàn chỉnh như bán đảo Scandinavy hay Nam Phi.

Quan tòa của tòa án luật chính thống sẽ bị giới hạn bởi những điều khoản của luật. Khi đưa
ra một quyết định, quan tòa sẽ trích dẫn điều khoản liên quan từ Luật hoặc từ một Nghị định có thể
áp dụng được và phán quyết sẽ dựa trên cơ sở điều khoản ấy. Nhờ những điều khoản này, tùy từng
49
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
trường hợp quan tòa sẽ đưa ra những phán quyết thích hợp. Quan tòa sẽ không chịu ảnh hưởng bởi
những quyết định của các quan tòa khác trong những trường hợp tương tự.

Hệ thống thông luật (Luật tập quán)

Hệ thống luật này được những người Anglo-Saxon phát triển. Từ thời xa xưa, trước khi luật
thành văn ra đời, xã hội trải qua một thời kỳ dài phát triển các quy tắc cơ bản làm cơ sở của trật tự
xã hội. Đó là luật được xây dựng dựa trên tập quán. Thông luật hay Luật tập quán tiếp tục được các
tòa án áp dụng, thậm chí sau khi luật thành văn ra đời và phát triển. Dưới hệ thống thông luật, các
vụ khiếu kiện đầu tiên chính là nguồn gốc sơ khai của luật.

Hệ thống thông luật được áp dụng ở Anh, Australia, New Zealand, Mỹ, Canada và một số
thuộc địa của Anh.

3.1.2. Luật được tạo ra như thế nào?

Hệ thống luật chính thống

Dưới hệ thống này, các luật thành văn chỉ do cơ quan lập pháp tạo ra. Tòa án không xem vai
trò của mình là người biên dịch các quy định của cơ quan lập pháp mà là người thi hành hoặc áp
dụng luật. Vì vậy, sẽ là không hợp lý nếu đưa ra câu hỏi về việc sử dụng các phán quyết trước đó.
Mỗi vụ việc được quyết định dựa trên căn cứ của bản thân nó và được định đoạt chỉ bằng việc tham
khảo các điều lệ của luật, các nghị định, các đạo luật.

Trái lại, hệ thống thông luật lại phức tạp hơn nhiều.

Hệ thống thông luật

Luật được tạo ra dưới hệ thống thông luật theo hai hình thức: Thông luật (còn được biết đến
với tên Luật căn cứ theo quyết định của thẩm phán) và luật thành văn (luật do cơ quan lập pháp ban
hành).

Như vậy, có thể thấy rằng dưới một hệ thống thông luật, cơ quan lập pháp đôi khi vẫn thông
qua luật giống như hệ thống luật dân sự. Các luật do Chính phủ ban hành thường lấn sang luật tập
quán hay thông luật nhưng được các tòa án diễn giải rất tỉ mỉ.

Án lệ

Trong hệ thống thông luật, các điều luật được tạo ra theo hình thức thứ nhất, đó chính là án
lệ. Án lệ được tạo ra trong quá trình quan tòa xét xử các vụ tranh chấp hoặc tố tụng tại tòa án. Quan
tòa sau đó sẽ chọn lựa và vận dụng luật được phát triển bởi các trường hợp trước đó.

Học thuyết về tiền lệ


50
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Một đặc trưng quan trọng của hệ thống thông luật là học thuyết về tiền lệ. Trong học thuyết
này, các quan tòa sau có thể sử dụng quyết định của các tòa án trước như là cơ sở để đưa ra quyết
định trong các vụ việc hiện tại.

Học thuyết về tiền lệ có hiệu lực trong phạm vi hệ thống tổ chức phân cấp của tòa án. Điều
này có nghĩa là các quyết định của các tòa án cấp cao hơn ràng buộc các tòa án cấp thấp hơn khi họ
xem xét các sự kiện, các trường hợp, pháp chế tương tự… Vì vậy, chỉ có tòa án cấp cao hơn, tòa án
đặt ra tiền lệ đầu tiên mới có quyền bãi bỏ một tiền lệ.

Học thuyết tiền lệ được phát triển từ một luận cứ cơ bản dựa trên sự công bằng và bình
đẳng: Nếu Ông XYZ bị xét xử theo một cách nào đó hôm qua bởi một quan tòa thì ngày hôm nay
Bà ABC bắt buộc phải bị xét xử theo cách tương tự trong một trường hợp tương tự. Học thuyết
cũng là một thành phần không thể thiếu trong hệ thống luật pháp.

Luật thành văn

Cách thứ hai mà luật được tạo ra trong hệ thống thông luật là luật thành văn. Chúng được cơ
quan lập pháp hoặc các tổ chức chính phủ khác (như chính quyền địa phương hoặc các tổ chức có
thẩm quyền) ban hành. Luật pháp được tạo bởi cơ quan lập pháp thường được gọi là luật thành văn.

Mối quan hệ giữa luật thành văn và án lệ

Các luật thành văn và pháp chế thừa nhận sự tồn tại của án lệ và trong nhiều trường hợp
chúng còn bao hàm các nguyên tắc của án lệ. Ví dụ “Nguyên tắc trung thực tuyệt đối” là một
nguyên tắc của thông luật từ nhiều thế kỷ trước đây nhưng nó cũng là nguyên tắc được thừa nhận
trong Luật của Chính phủ.

Khi luật thành văn và án lệ xung đột (đó là khi chúng không thống nhất trong một điểm nào
đó) thì luật thành văn sẽ chiếm ưu thế. Ở phạm vi rộng hơn, khi luật của chính quyền trung ương
mẫu thuẫn với các Nghị định của chính quyền địa phương, các tổ chức thì luật của cấp cao hơn sẽ
chiếm ưu thế.

So sánh luật chính thống và thông luật

Một số nhà kinh tế học đưa ra học thuyết rằng: Các quốc gia vận hành dưới các hệ thống
luật chính thống thường là các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa và coi trọng sự ổn định xã hội.
Ngược lại, các quốc gia vận hành dưới hệ thống thông luật thường coi trọng các quyền cá nhân.

Bảng sau sẽ giúp ta so sánh giữa hệ thống luật chính thống và hệ thống thông luật.

Bảng 3.1. So sánh luật chính thống và thông luật

51
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Hệ thống Luật chính thống Hệ thống Thông luật
Pháp chế là nguồn gốc căn bản của luật, và các Các quyết định pháp lý trước đây là nguồn gốc
tòa án đưa ra phán quyết dựa trên các bộ luật, đạo căn bản của luật, với các luật thành văn được
luật và nghị định. áp dụng khá tỉ mỉ.
Luật chính thống được phát triển dựa trên các bộ Thông luật được phát triển bởi các tục lệ, trước
luật thành văn của La Mã cổ đại. khi có bất kỳ luật thành văn nào ra đời
Các quan tòa được xem như người phát ngôn của Các quan tòa diễn giải những gì nghị viện
luật pháp chứ không phải là người diễn giải luật. muốn nói khi nghị viện thông qua luật. Nếu
Thông thường, họ sẽ không quyết định việc quốc luật thành văn không rõ ràng hoặc có nhiều
hội có ý gì khi thông qua một luật. nghĩa thì thường là án lệ hay sự diễn giải của
các quan tòa sẽ chiếm ưu thế.
Được phát triển ở lục địa Châu Âu và lan rộng ra Được phát triển bởi những người Anglo-Saxon
những khu vực chịu ảnh hưởng hoặc chịu chi phối và lan rộng ra các vùng thuộc địa Anh.
của các quốc gia Châu Âu.
Áp dụng cho 60% quyền lực thực thi pháp lý trên Áp dụng cho 40% quyền lực thực thi pháp lý
thế giới. trên thế giới.

Bài đọc thêm: Luật về gây thiệt hại

Trách nhiệm pháp lý

Việc hiểu được các loại trách nhiệm pháp lý có thể có trong hành vi gây thiệt hại do sơ suất
rất quan trọng. Các trách nhiệm pháp lý đó gồm:

- Trách nhiệm pháp lý của người chủ nhà - Nghĩa là trách nhiệm về mặt pháp luật của người
chủ nhà đối với những người vào thăm bên trong ngôi nhà một cách hợp pháp hoặc không hợp pháp
và bị thương trong khi có mặt tại ngôi nhà.

- Trách nhiệm đương nhiên - Trách nhiệm đương nhiên là trách nhiệm pháp lý mà không cần
phải chứng minh là lỗi hay sự sơ suất.

- Trách nhiệm chịu thay - Nghĩa là một người phải chịu trách nhiệm cho lỗi của người khác
gây ra, trên cơ sở các ràng buộc về mặt luật pháp giữa họ. Có 3 tình huống nảy sinh trách nhiệm
chịu thay:

52
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
+ Người lao động và người sử dụng lao động – tuy nhiên người sử dụng lao động sẽ chỉ
chịu trách nhiệm với các sai phạm (hoặc không làm tròn trách nhiệm) của những người
lao động trong thời gian làm việc.

+ Người chủ và đại lý.

+ Các đối tác.

Bài tập tình huống - Công ty CII

Công ty CII đã thiết kế và xây dựng đường ngầm tránh tàu điện. Sáu tháng sau khi đường
ngầm được hoàn thành, Ông Thành đang đi bộ băng qua đường ngầm, anh dùng cây gậy bóng chày
trên tay đập vào tường thì một miếng bê tông đã bị long ra và rơi từ trên mái xuống trúng đầu ông
ta. Ông bị thương rất nghiêm trọng và được đưa vào bệnh viện. Ông nằm viện trong 3 tuần và bình
phục. Hãy xem xét những cơ sở của yêu cầu bồi thường đối với hành vi gây thiệt hại do sơ suất và
phân tích liệu rằng bên bị thiệt hại có thể đưa ra yêu cầu đòi bồi thường đối với hành vi bất cẩn
trong trường hợp này hay không. Hãy đưa ra các lý lẽ bảo vệ cho quan điểm của bạn

Gây phiền toái

Gây phiền toái là một hành vi gây thiệt hại đối với trách nhiệm pháp lý phát sinh từ việc sử
dụng bất động sản. Gây phiền toái có thể được định nghĩa như một sự can thiệp vô lý và mạnh mẽ
đối với việc sử dụng hoặc thuê tài sản của một người nào đó. Gây phiền toái có tính chất cá nhân
hoặc cộng đồng. Gây phiền toái cộng đồng có ảnh hưởng tới cộng đồng nói chung và là một tội
hình sự. Gây phiền toái cá nhân là một hành vi gây thiệt hại dân sự.

Để chứng minh một hành gây vi phiền toái, phía bên Nguyên đơn không cần phải chứng
minh rằng hành vi của bị đơn là do bất cẩn mà chỉ cần chứng minh rằng có một sự can thiệp vô lý
và nghiêm trọng đối với việc sử dụng và hưởng quyền từ đất đai của nguyên đơn.

Vấn đề liệu rằng gây phiền toái được áp dụng phụ thuộc vào thực tế của từng trường hợp cụ thể hay
không, cần xem xét các yếu tố sau:

- Đặc điểm tự nhiên của khu vực mà trong đó gây phiền toái đã viện dẫn xảy ra;

- Các đặc tính, thời lượng và thời gian xảy ra;

- Tác động của việc gây phiền toái;

Dưới đây là các ví dụ về một số tình huống có thực, được cho là đã gây ra gây phiền toái, xét trong
hoàn cảnh của từng vụ việc cụ thể:

- Tiếng ồn phát ra từ tòa nhà ngay bên cạnh;


53
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
- Thiệt hại đối với tòa nhà do hậu quả của sự sụt lún sau khi tháo dỡ khung giá đỡ của công
trình;

- Sự ô nhiễm nguồn nước tự nhiên gây ra thiệt hại cho người có chủ quyền về lợi ích mà nguồn
nước đó mang lại;

- Bụi và các chất thải từ tài sản của người này ảnh hưởng đến tài sản liền kề của người khác;

Khi xử các vụ án về việc gây phiền toái, tòa án cố gắng hướng tới một sự cân bằng giữa quyền lợi
của các bên với việc sử dụng tài sản đất đai của họ. Để đạt tới sự cân bằng này, Tòa án xem xét đến
sự hợp lý và các lợi ích xã hội chứ không xem xét hành vi của bên bị đơn.

Tội danh lăng mạ người khác

“Tội danh lăng mạ người khác” là một tội danh được pháp luật điều chỉnh nhằm bảo vệ uy tín,
danh tiếng và địa vị của một người trong xã hội. Ở hầu hết các nước, tội danh “Lăng mạ người
khác” đều được quy định trong Bộ luật.

Tội “Lăng mạ người khác” được định nghĩa là hành động công bố thông tin sai lệch và xúc
phạm về ai đó mà chưa kiểm chứng thông tin đó, nhằm:

- Hạ thấp danh dự của người khác dưới con mắt của mọi người;

- Khiến người khác xa lánh hoặc tẩy chay người đó;

- Khiến nạn nhân phải chịu đựng sự căm ghét, nhạo báng hoặc khinh thường;

- Gây tổn hại đến đến cương vị công tác, sự nghiệp kinh doanh hay nghề nghiệp chuyên môn
của người đó.

Có hai kiểu tội danh lăng mạ người khác

- Thứ nhất là tội phỉ báng: Là kiểu lăng mạ người khác thông qua các hình thức cố định, lâu
dài, như dùng tranh ảnh, bài viết. Kiểu lăng mạ này bao gồm cả việc dùng truyền hình, các vở kịch
hoặc phim điện ảnh. Trong trường hợp này không cần phải chứng minh thiệt hại thực tế bởi vì chính
bản chất cố định lâu dài của hành động lăng mạ đó đã là thiệt hại.

- Thứ hai là vu khống: là hình thức lăng mạ thông qua các phương tiện nhất thời như lời nói.
Trong hầu hết các vụ vu khống, mất mát thực tế phải được chứng minh, trừ các vụ việc mà bên
nguyên đơn bị cho là:

+ Không có khả năng để thực hiện hoạt động kinh doanh, thương mại và nghề nghiệp;

+ Bị mắc bệnh nhiễm trùng hoặc dễ lây nhiễm

54
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
+ Đã từng phạm một tội nghiêm trọng.

Trong tất cả các hành vi lăng mạ nêu trên, bên nguyên đơn phải chứng minh được 3 yếu tố sau đây:

1. Lời tuyên bố là sự sỉ nhục, làm mất danh dự của họ

2. Có ám chỉ, có nhắc đến nguyên đơn (không cần thiết phải là nhắc đến tên cụ thể)

3. Hành động lăng mạ công khai, ví dụ: Hành động lăng mạ có người khác biết. Thiệt hại thực tế
cũng yêu cầu được chứng minh trong một vài hành vi vu khống.

Các biện pháp bồi thường thiệt hại do phạm tội “lăng mạ người khác”

Các phương án giải quyết đối với tội danh “lăng mạ người khác” bao gồm:

- Xin lỗi công khai

- Hứa không được tái phạm

- Phạt tiền

- Tất cả các biện pháp trên

Trách nhiệm của người được ủy thác

Một khái niệm có liên quan, nhưng lại khác biệt với khái niệm vượt quá giới hạn là trách nhiệm của
người được ủy thác. Người được ủy thác là người gánh vác trách nhiệm thực hiện hợp đồng giao kết
với sự tin tưởng và với lợi nhuận cao nhất của người ủy thác. Ví dụ, người môi giới bảo hiểm có thể
phải chịu trách nhiệm ủy thác cho khách hàng của họ.

Trách nhiệm ủy thác tồn tại trong trường hợp khách hàng tin tưởng và dựa trên sự tinh thông, sự
chuyên nghiệp của bên được ủy thác. Ví dụ:

- Hội đồng quản trị của một tập đoàn chịu trách nhiệm ủy thác đối với cả tập đoàn đó;

- Người được ủy thác chịu trách nhiệm ủy thác đối với người ủy thác, người hưởng lợi.

- Luật sư hoặc kế toán chịu trách nhiệm ủy thác đối với khách hàng của họ.

Trách nhiệm ủy thác được xác định dựa trên yếu tố liệu rằng hành động hay sự sao nhãng, chểnh
mảng của người được ủy thác có nằm trong phạm vi trách nhiệm ủy thác hay không ? Nghĩa là liệu
rằng trách nhiệm đó có mở rộng tới phạm vi ủy thác hay không ? Nếu trách nhiệm đó mở rộng tới
phạm vi ủy thác thì liệu rằng hành động đó có được thực hiện vì lợi ích của khách hàng hay không ?

Nếu hành động đó không được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của khách hàng thì nó đã cấu thành sự
vi phạm trách nhiệm ủy thác. Những ví dụ dưới đây sẽ chỉ ra sự vi phạm trách nhiệm ủy thác:

55
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
- Một luật sư – người hành động cho cả bên vay và bên cho vay trong quan hệ vay mượn biết
rằng người vay không thể trả được nợ nhưng không tiết lộ điều đó cho người cho vay biết.

- Một kế toán khuyên khách hàng đầu tư vào một công ty mà ở công ty đó người kế toán có một
lợi ích được giấu kín, không ai biết (điều này có thể không dẫn tới một sự mất mát nào cho khách
hàng nhưng người kế toán đó đã không hành động vì lợi ích tốt nhất của khách hàng).

- Một người môi giới bảo hiểm thu xếp bảo hiểm với một công ty bảo hiểm theo các điều khoản
mà anh ta biết rằng điều khoản đó không phù hợp với nhu cầu của khách hàng nhưng anh ta vẫn
thực hiện vì anh ta nhận được nhiều thù lao hơn từ công ty bảo hiểm đó.

Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ ủy thác thường tồn tại song song với trách nhiệm vi phạm do
sơ suất và vi phạm hợp đồng.

Tóm tại

Luật là một hệ thống các quy tắc, được phát triển qua một thời gian dài để điều chỉnh quan
hệ giữa con người với con người nhằm tổ chức các hoạt động cộng đồng và duy trì sự lành mạnh
của xã hội. Hệ thống các quy tắc thường được phát triển theo hai hướng:

- Hệ thống luật chính thống bao gồm các bộ luật và đạo luật dựa trên luật pháp La Mã;

- Các luật tập quán hoặc thông luật trong đó quyết định trước đây của Tòa án được sử dụng làm
tiền lệ.

Luật về cố tình gây thiệt hại là các vi phạm dân sự. Luật về cố tình gây thiệt hại rất quan
trọng đối với những người làm bảo hiểm, bởi vì nó có liên quan rất nhiều đến các loại hình bảo
hiểm trách nhiệm mà công ty bảo hiểm cung cấp cho khách hàng.

Các mảng chính của Luật về cố tình gây thiệt hại là:

- Gây thiệt hại do sơ suất: Đây là mảng chủ đạo và phổ biến nhất của Luật áp dụng cho hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm công cộng

- Gây phiền toái: Mảng này liên quan đến trách nhiệm pháp lý phát sinh trong quá trình sử dụng
tài sản

- Lăng mạ người khác: Mảng này quan tâm đến việc bảo vệ uy tín, danh tiếng và địa vị xã hội
của con người.

56
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm

3.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM

Nhiệm vụ của bảo hiểm là chia sẻ rủi ro hoặc nói theo cách khác là chia sẻ tổn thất. Những
rủi ro gây thiệt hại được chia sẻ từ người phải chịu rủi ro sang những người đã có sự chuẩn bị để
gánh vác rủi ro.

Nhiệm vụ của pháp luật là bảo đảm quá trình này được vận hành một cách công bằng giữa
các bên và phát huy các chức năng một cách có trách nhiệm trong xã hội.

Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm có trước, vì thế luật pháp luôn luôn ở trạng thái thường
xuyên điều chỉnh để bắt kịp với thực tế. Cũng chính vì vậy Luật Kinh doanh Bảo hiểm luôn phát
triển để giải quyết những mối quan hệ phát sinh trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm.

Để giúp chúng ta hiểu được Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã phát triển như thế nào, chúng ta
sẽ bắt đầu từ Lịch sử Bảo hiểm ở nước Anh, vì nó liên quan đến ba loại bảo hiểm chính.

3.2.1. Bảo hiểm hàng hải

Lịch sử bảo hiểm hàng hải, các tập tục và điều luật điều chỉnh nó cho đến nay vẫn được sử
dụng ở luật của tất cả các loại hình bảo hiểm, và Luật thương mại hàng hải chính là Luật thương
mại nói chung. Thậm chí trong một khoảng thời gian dài nhiều thế kỷ trước, bảo hiểm hàng hải đã
chiếm vị trí là hình thức bảo hiểm duy nhất tồn tại.

Có một thời, hoạt động bảo hiểm hàng hải được điều chỉnh bởi Luật tập quán thương mại
sau đó nó đã được thay thế sau khi các văn phòng công cộng được thiết lập để điều chỉnh những
hoạt động này. Những điều luật này được chuẩn hoá thành các bộ luật hoặc quy định được chính
quyền thành phố thông qua. Văn bản luật đầu tiên theo sổ sách ghi lại là ở thành phố Barcelona năm
1434. Người ta đã tìm được những bằng chứng của hiệp hội các nhà buôn thực hiện kinh doanh bảo
hiểm từ thế kỷ 15. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17 các công ty bảo hiểm đầu tiên đúng nghĩa của nó
mới được thành lập ở Italia và phát triển mạnh vào nửa cuối thế kỷ 18.

Có rất ít các vụ kiện về bảo hiểm hàng hải được tìm thấy trong các tài liệu pháp luật chính
thống trong hai thế kỷ tiếp theo. Dường như các tranh chấp được giải quyết bởi các trọng tài là các
nhà kinh doanh hơn là các tòa án. Vụ kiện đầu tiên nhất được báo cáo bởi Coke là vào năm 1589.
Năm 1601 một quy chế đã được thông qua vào năm thứ 43 của triều đại Elizabeth Đệ Nhất, cho
phép thành lập Tòa án về Bảo hiểm để xét xử các vụ tranh chấp về bảo hiểm hàng hải. Và vào thời
gian này Bộ luật về bảo hiểm hàng hải được thông qua.

57
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Tuy nhiên, Tòa án mới đã không thành thành công. Từ thời điểm thành lập cho đến năm
1720 - thời điểm tòa án đóng cửa, tòa án chỉ xử vẻn vẹn chưa đầy 60 vụ kiện. Ngược lại, với các
trung tâm thương mại ở Châu Âu, ở Anh không có một cơ quan nào đứng ra qui định nội dung của
hợp đồng hay quyền lợi của các bên. Trong khi đó các trung tâm ở Châu Âu vẫn tiếp tục thông qua
nhiều Đạo luật liên quan đến bảo hiểm hàng hải trong suốt các thế kỷ 15, 16 và 17. Đỉnh cao của
các đạo luật này là Pháp lệnh Hàng hải được vua Louis XIV thông qua ở Pháp vào năm 1681. Về
sau, phần lớn Pháp lệnh này được Napoleon kế thừa khi ông thông qua Luật thương mại vào năm
1807.

3.2.2. Bảo hiểm nhân thọ

Cho đến năm 1774 việc xem xét quyền lợi có thể được bảo hiểm vẫn chưa là một yêu cầu
pháp lý cho bất kỳ loại hình bảo hiểm nào. Vì vậy, việc thu xếp bảo hiểm nhân thọ cho các nhân vật
nổi tiếng đã trở thành phong trào phổ biến. Chẳng hạn, những người hầu trong những gia đình quý
tộc có thể nhận thấy tình trạng sức khoẻ không tốt của chủ của họ. Khi đó họ có thể mua một hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ, đánh cược rằng chủ của mình sẽ chết trong vòng một vài tháng tới. Thực
tế này phổ biến đến nỗi báo chí hàng ngày còn đăng tải thông tin về tỷ lệ phí bảo hiểm nếu mua bảo
hiểm nhân thọ cho những thành viên khác nhau trong giới quý tộc. Do đó, một vài người chơi trò cá
cược liều lĩnh sẽ rắp tâm tạo điều kiện cho cá cược của anh ta thắng.

Cuối cùng, để ngăn chặn hoạt động cá cược trong bảo hiểm, Chính phủ đã thông qua Đạo
Luật Kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ năm 1774. Đạo luật này thiết lập những nguyên tắc về Quyền
lợi có thể được bảo hiểm. Đạo Luật Kinh doanh Bảo hiểm hàng hải năm 1788 cũng được thông qua
để ngăn chặn những hành vi nhằm tránh các yêu cầu về Quyền lợi có thể được bảo hiểm.

3.2.3. Bảo hiểm hỏa hoạn

Loại hình bảo hiểm này được bắt đầu ở Anh vào khoảng năm 1670. Khoảng 100 năm sau
đó, vào năm 1774, chính phủ đã thông qua Đạo luật Phòng chống hỏa hoạn để ngăn chặn sự cố ý
gây nên hỏa hoạn.

Đạo luật này quy định rằng, bất kỳ cá nhân nào có lợi ích tài chính đối với tài sản được bảo
hiểm có quyền yêu cầu tiền bảo hiểm để khôi phục lại tài sản đã bị phá hủy vì hỏa hoạn. Đạo luật
này đã ngăn chặn hiệu quả những người lấy tiền bảo hiểm và biến mất, để lại đống đổ nát vô giá trị
cho người cho vay bằng thế chấp chẳng hạn.

58
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
3.2.4. Nguyên nhân của sự thay đổi

Trong phần trên chúng ta định nghĩa pháp luật là một hệ thống các quy tắc, được phát triển
qua một thời gian dài để điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người nhằm tổ chức các hoạt
động cộng đồng và duy trì sự lành mạnh của xã hội.

Một nghiên cứu rất ngắn trên đây về lịch sử bảo hiểm Anh ở cũng cho thấy rõ ràng rằng một
tập hợp các quy tắc bảo hiểm cụ thể cũng phải được phát triển qua một thời gian dài để:

 Điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người

 Bảo đảm sự lành mạnh của cộng đồng

Điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người

Chúng ta đã thấy rằng, bảo hiểm đã được triển khai từ rất lâu trước khi pháp luật ra đời để giúp
cho nó hoạt động hiệu quả. Từ thời cổ đại, nhiệm vụ của bảo hiểm là bảo vệ các thương gia tránh
khỏi hậu quả nghiêm trọng do những rủi ro kinh doanh của họ gây nên. Khi ý tưởng bảo hiểm tiếp
tục phát triển và lan sang tất cả các lĩnh vực của đời sống trên khắp thế giới, sẽ có những điều tất
yếu không lường trước được xảy ra. Tranh chấp nảy sinh từ những vấn đề như:

 Mục đích thực sự của các bên ký kết hợp đồng

 Ý nghĩa chính xác của các từ ngữ ghi trong hợp đồng bảo hiểm để diễn đạt mục đích của các
bên

 Những tập quán kinh doanh của các bên liên quan tới việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm

Chúng ta đã thấy rằng, vào thời điểm tòa án được thành lập ở Anh để giải quyết các tranh chấp
bảo hiểm, ngành kinh doanh bảo hiểm đã tồn tại từ rất lâu rồi. Vậy trước đó các tranh chấp này
được giải quyết thế nào ? "Tranh chấp, dường như, chỉ được giải quyết bởi các trọng tài là những
thương gia hơn là bằng tòa án.”

Sự tăng trưởng của bảo hiểm hàng hải, tầm quan trọng của sự bình ổn xã hội nói chung, và nền
kinh tế nói riêng, cuối cùng đã đến lúc cần phải có hệ thống hoá các quy tắc và/hoặc những tiền lệ
của tòa án.

Trường hợp nghiên cứu- Công ty bảo hiểm Blue và Green

A là CEO - Giám đốc điều hành của Công ty bảo hiểm ABC. Anh gặp B, CEO- Giám đốc điều
hành của công ty bảo hiểm XYZ, tại một buổi gặp mặt mang tính xã hội và họ đã có một cuộc trao
đổi ngắn ngủi với nhau.

59
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Sau đó, A tình cờ nghe được B có cuộc trò chuyện rất lâu với C đến từ công ty bảo hiểm DHG. Anh
ta nghe họ với nhau về tình hình ngày càng trở nên khó khăn khi kinh doanh bảo hiểm trong một
môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay và làm thế nào để tìm ra biện pháp tăng sự an toàn tài
chính dài hạn cho công ty.

A không nghĩ gì về cuộc đàm thoại này sau đó cho đến khi anh nhận thấy công ty bảo hiểm ZYZ và
DHG gần đây đã cùng nhau tăng cùng một mức giá và cả hai cũng cùng đưa ra các mức giảm giá
phí bảo hiểm như nhau.

Câu hỏi

Theo bạn cách cư xử của B và C trong trường hợp này có thể vi phạm những quy định Thương mại
hay không ?

Dưới đây là ba hoạt động kinh doanh khác mâu thuẫn với quy định đã được công nhận về bảo vệ
người tiêu dùng:

- Thỏa thuận độc quyền

- Những hành động quá đáng

- Hành động lừa dối, cố tình gây nhầm lẫn

Thỏa thuận độc quyền

Một hình thức phổ biến của độc quyền đó là các công ty tài chính ép buộc khách hàng mua bảo
hiểm của các công ty bảo hiểm con. Các công ty trong tập đoàn (doanh nghiệp Nhà nước) bắt buộc
phải mua bảo hiểm tại công ty bảo hiểm của tập đoàn. Có nhiều tình huống khác xảy ra tương tự.
Hành động này bị nghiêm cấm theo quy định của Luật kinh doanh Thương mại, trừ khi có sự cho
phép của cơ quan có thẩm quyền cụ thể.

Dưới đây là một số ví dụ về hiện tượng độc quyền (hay còn được gọi quyền lực thứ ba) của các
công ty bảo hiểm:

Tình huống (1)

MAS Insurance là một công ty bảo hiểm phi nhân thọ thuộc tập đoàn Shilton. MAS từ chối cung
cấp bảo hiểm ốm đau và tai nạn trừ khi khách hàng cũng đồng thời mua bảo hiểm nhân thọ của một
công ty khác trong tập đoàn - công ty bảo hiểm nhân thọ McLaren’s Life.

Tình huống (2)

60
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Ô tô của Mary gặp tai nạn, cô đến gặp công ty bảo hiểm của mình, công ty bảo hiểm CAR
Insurance, để yêu cầu bồi thường. Một nhân viên nói rằng cô phải đưa xe đến cửa hàng Star Auto để
sửa chữa thì công ty CAR Insurance mới trả tiền bồi thường cho cô

Chú ý: Trường hợp này sẽ không được coi là vi phạm nếu cửa hàng được công ty “khuyến nghị”
này có bảng chào giá dịch vụ rẻ nhất. Trong trường hợp đó, công ty CAR không thể từ chối việc trả
bồi thường nhưng nó có thể từ chối trả Mary số tiền lớn hơn giá dịch vụ của Star Auto.

Những hành động không chính đáng

Những hành động không chính đáng có nghĩa là việc khai thác, bóc lột bên yếu hơn trong quá trình
kinh doanh, chủ yếu áp dụng trong các tình huống giao tiếp trực tiếp với khách hàng. Hành động
không chính đáng bao gồm những thái độ cư xử vượt quá ranh giới những đối xử thương mại thông
thường. Các tình huống sau đây là một vụ kiện có thật, một công ty bảo hiểm bị cơ quan quản lý
ngành ASIC kiện ra tòa.

Tình huống – Các công ty Bảo hiểm Liên kết

Ủy ban Chứng khoán và Đầu tư Australia (ASIC) nhận được yêu cầu của Tòa án Liên Bang
Australia về việc điều tra một công ty Mỹ làm ăn tại Australia dưới hình thức Công ty Liên kết bảo
hiểm của Australia. Ngay sau khi nhận được yêu cầu, ASIC đã có cuộc kiểm tra các hợp đồng kinh
doanh và tiếp thị của công ty Liên kết Bảo hiểm ở một số cộng đồng thổ dân.

Tiếp theo hoạt động tòa án của ASIC là một cuộc điều tra những lý lẽ cáo buộc rằng các hợp
đồng bảo hiểm không phù hợp đã được bán cho người dân ở vùng cộng đồng thổ dân xa xôi trong
những tình huống được cho là không công bằng và có thể là trò lừa bịp. Điều tra của ASIC cho thấy
các đại lý của công ty Liên kết này đã bán hợp đồng bảo hiểm tai nạn và ốm đau cho người dân ở ít
nhất 18 cộng đồng thổ dân ở một số bang của Úc.

Bảo hiểm tai nạn bảo hiểm cho người mua bảo hiểm đối với các hình thức thương tật do tai
nạn đường hàng không, đường xe lửa một ray, xe bus, tàu hỏa, xe chở khách, xe tải, ô tô hoặc khi
đang di chuyển trên thang máy. Vì hầu hết cộng đồng thổ dân sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh
ASIC cho rằng rất ít người có cơ hội đi lại trên những phương tiện này. ASIC thu thập bằng chứng
chứng minh cho cáo buộc này và kết luận rằng khi bán hợp đồng bảo hiểm cho thổ dân, một số đại
lý bảo hiểm:

- Đã không giải thích một cách thấu đáo dịch vụ sẽ bảo hiểm cho người tiêu dùng

- Đã giới thiệu những lợi ích và sử dụng của bảo hiểm mà thực tế là không có

61
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
- Hoàn thành hợp đồng thay mặt một số khách hàng và họ không được thông báo

- Sử dụng những áp lực hoặc ảnh hưởng không công bằng để bán bảo hiểm và

- Hoàn thành hợp đồng bảo hiểm cho cá nhân dựa trên trình bày về bảo hiểm cho nhóm người
tiêu dùng

ASIC bày tỏ lo lắng rằng một số khách hàng không thể hoặc gặp khó khăn trong việc đọc và
hiểu hợp đồng bảo hiểm; và một số khách hàng không có nhu cầu mua bảo hiểm bởi vì họ đã có
nghĩa vụ phải đóng góp ở loại hình bảo hiểm khác, ví dụ như chương trình bảo hiểm cho người lao
động.

Những hành động lừa bịp dối trá

Những hành động lừa bịp hoặc dối trá bao gồm quảng bá sai sự thật về sản phẩm hoặc dịch
vụ, bỏ sót thông tin hoặc chỉ nói một phần sự thật. Nhân viên hoặc đại lý bảo hiểm không được làm
hay nói bất cứ điều gì có thể gây hiểu lầm cho khách hàng. Điều này vẫn có giá trị, ngay cả khi họ
không cố tình gây hiểu lầm - dẫn đến việc khách hàng khi đọc nó sẽ có những hành động sai.

Việc xác định một thông điệp có gây hiểu lầm hay không đó là: “một người có trình độ
trung bình trong xã hội” - vậy điều quan trọng các nhân viên và đại lý bảo hiểm phải đảm bảo sử
dụng ngôn ngữ đơn giản, không có kỹ thuật trong tất cả các giao tiếp nói và viết của mình với khách
hàng.

Công ty bảo hiểm có thể sẽ vi phạm “Qui tắc ứng xử chung” nếu không nói hoặc làm việc gì
khiến gây hiểu lầm - sự thật không đầy đủ và không công bố cũng là những hình thức vi phạm đến
quyền lợi của người tiêu dùng. Cũng cần phải nhớ rằng công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm đối
với bất kỳ thông điệp hoặc hành động sai hoặc hiểu nhầm nào của nhân viên hoặc đại lý của mình.

Vì thế, nhân viên và đại lý bảo hiểm cần phải tuân thủ các quy tắc sau:

Nên:

 Nói toàn bộ sự thật

 Chỉ giới thiệu những điều có thực cho hợp đồng

 Hãy lên tiếng nếu thấy rằng khách hàng có thể đang hiểu lầm

 Đảm bảo rằng từng phần nhỏ trong hợp đồng sẽ không là nỗi ngạc nhiên cho khách hàng

 Đảm bảo rằng ấn tượng của khách hàng nhìn chung phải thể hiện bản hợp đồng

62
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
 Chỉ đưa ra những đánh giá mà họ thực sự có tại thời điểm đó và chúng đều trong thẩm quyền
quyết định của họ

Không được:

 Nói hợp đồng này bảo hiểm những lợi ích mà nó không có

 Nêu những phát ngôn không đúng hoặc dễ gây hiểu lầm cho khách hàng về sự cần thiết của
bảo hiểm

 Làm bất cứ việc gì có khả năng gây nhầm lẫn cho khách hàng hoặc người được bảo hiểm về
những thông tin trong hợp đồng hoặc về tính hợp lý của bảo hiểm đối với họ

 Gây nhầm lẫn cho khách hàng hoặc người được bảo hiểm về quyền khiếu nại của họ

3.2.5. Toàn cầu hóa hệ thống pháp luật bảo hiểm

Khi thương mại phát triển và sự khác biệt mang tính đặc thù lịch sử về ranh giới quốc gia
đang mất dần đi, thì cũng là lúc chúng ta chứng kiến ngày càng có nhiều qui định chung cho việc
điều hành nhiều lĩnh vực khác nhau trong thương mại, trong đó có bảo hiểm.

Sự tăng trưởng của các công ty bảo hiểm toàn cầu và công ty tái bảo hiểm đã đặt ra nhiều
thách thức cho các nhà quản lý về bảo hiểm trên thế giới. Và ngày nay, chúng ta thấy ngày càng có
nhiều điểm tương đồng trong khung pháp lý cho thị trường bảo hiểm trên thế giới. Cũng không có
gì ngạc nhiên khi người ta tính đến các hoạt động của một Hiệp hội Quốc tế các Cơ quan Giám sát
Bảo hiểm.

Hiệp hội Quốc tế các Cơ quan Giám sát bảo hiểm (IAIS)

IAIS được thành lập năm 1994, là đại diện của các cơ quan quản lý và giám sát bảo hiểm
gồm 180 đơn vị pháp lý đến từ hơn 130 quốc gia, chiếm 97% lượng phí bảo hiểm của toàn thế giới.
Hiệp hội còn có hơn 100 quan sát viên. Mục tiêu của hội là:

 Hợp tác nhằm góp phần tăng cường sự giám sát ngành bảo hiểm trong phạm vi từng nước và
trên toàn cầu nhằm duy trì thị trường bảo hiểm hiệu quả, công bằng, an toàn và ổn định vì lợi ích
của và sự bảo vệ đối với người mua bảo hiểm.

 Thúc đẩy sự phát triển của một thị trường bảo hiểm được đánh giá cao

 Góp phần cho sự ổn định tài chính thế giới

63
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Toàn cầu hoá các thông lệ quản lý là một xu hướng đang lên, nhằm tạo ra ngày càng nhiều điểm
tương đồng trong các quy định quản lý và pháp lý về bảo hiểm giữa các thị trường bảo hiểm trên thế
giới.

3.3. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

3.3.1. Khái niệm

Có nhiều khái niệm khi phát biểu về hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, khi phát biểu về hợp đồng nói
chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng bao giờ cũng hàm ý về các thỏa thuận giữa các bên khi tham
gia trên hợp đồng về các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đối với nhau. Bao giờ cũng vậy, nghĩa
vụ của bên này là quyền lơi của bên kia. Một hàm ý nữa khi phát biểu về hợp đồng đó là thời điểm
phát sinh trách nhiệm cũng như quyền lợi của các bên đối với nhau.

Với ý nghĩa đó, các phát biểu về hợp đồng bảo hiểm có thể được ghi nhận như sau:

"Hợp đồng bảo hiểm là thỏa thuận của hai bên trong đó một bên (bên bảo hiểm) đồng ý nhận
một khoản tiền (phí bảo hiểm), và đổi lại sẽ bồi thường hoặc trả tiền cho một bên khác (bên được
bảo hiểm) về những tổn thất mà bên được bảo hiểm phải chịu nếu xảy ra những sự kiện đã được
quy định trước, dẫn tới thiệt hại, mất mát hay bị hư hỏng của đối tượng mà bên được bảo hiểm có
lợi ích”

3.3.2. Hiệu lực của hợp đồng

Năng lực pháp lý

Những bên giao kết hợp đồng phải có năng lực pháp lý để tham gia trong quan hệ hợp đồng.
Thuật ngữ “năng lực” có nghĩa là khi một người tham gia giao kết hợp đồng, người đó không chỉ có
quyền giao kết hợp đồng mà nếu người đó thực hiện quyền giao kết hợp đồng, luật pháp sẽ công
nhận người đó có khả năng giao kết hợp đồng đó.

Một hợp đồng có hiệu lực vẫn có thể bị hủy bỏ nếu một trong những bên giao kết hợp đồng
không có năng lực. Hai tình huống sau đây sẽ giải thích luận điểm này.

64
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Trẻ em vị thành niên

Theo luật của một số nước, những người dưới những độ tuổi nhất định thì không có năng lực giao
kết hợp đồng hoặc có năng lực giao kết hợp đồng hạn chế.

Thông thường, trẻ em vị thành niên có năng lực hạn chế hoặc không có năng lực giao kết hợp đồng
nhưng luật pháp có thể thiết lập những quyền giao kết hợp đồng đặc biệt đối với những loại hợp
đồng nhất định.

Những người thiểu năng trí tuệ

Tòa án thường không công nhận những hợp đồng được có bên tham gia là những người không có
khả năng hiểu nội dung hợp đồng, hoặc có một bên lợi dụng sự khiếm khuyết của người khác.

Một số người khuyết tật có thể không được quyền giao kết hợp đồng trừ khi họ được người giám
hộ, chính quyền, hoặc một số cơ quan nhà nước chấp thuận.

Sự đồng ý

Hợp đồng phải thể hiện một cách chân thực những ý định của các bên và không bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố như hiểu nhầm, cung cấp thông tin sai, sự cưỡng ép, hay ảnh hưởng không chính đáng.
Do vậy, một hợp đồng có vẻ hợp lệ sẽ không còn hợp lệ nữa nếu sự đồng ý giao kết hợp đồng được
dựa trên:

· Sự hiểu nhầm - nếu một người nào đó đồng ý ký kết hợp đồng vì cá nhân người đó hiểu nhầm về
những yêu cầu của bản hợp đồng

· Cung cấp thông tin sai - cũng giống như hiểu nhầm, tức là hợp đồng được giao kết trên cơ sở một
sự hiểu nhầm, nhưng trong trường hợp này, sự hiểu nhầm bị gây ra bởi phía bên kia. Việc cung cấp
thông tin sai có thể là cố tình gian lận hoặc vô tình cung cấp thông tin sai.

· Cưỡng ép đe dọa hành hung hoặc hành hung thân nhân gia đình của bên ký hợp đồng; đe dọa tới
tài sản hoặc hàng hóa; gây sức ép về kinh tế để hưởng lợi ngoài hợp đồng

· Chịu ảnh hưởng không chính đáng hoặc quá đáng - đó là những hành vi phi đạo đức hoặc không
công bằng. Trên thực tế, tòa án sẽ không công nhận những hợp đồng nếu nó được giao kết trong
tình trạng bị ảnh hưởng quá đáng, tức là trong đó, một bên có vị thế thương lượng cao hơn khi giao
kết hợp đồng với bên yếu thế.
65
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm

Tính hợp pháp của mục đích

Không được thi hành một số hợp đồng nếu trong đó có hành vi vi phạm pháp luật.

Hợp đồng cũng phải hợp pháp trong khi xây dựng hoặc trong khi thực hiện, nếu không, nó sẽ có thể
không được thi hành.

Xây dựng hợp đồng

Một hợp đồng cần phải hợp pháp trong khâu xây dựng. Để có được một hợp đồng bảo hiểm thì cần
những lời hứa mang tính tương hỗ; một bên hứa bồi thường và một bên hứa trả phí bảo hiểm để có
được sự bồi thường đó. Rất khó để có thể xác định những lời hứa này là không hợp pháp ở điểm
nào.

Tuy nhiên, một tình huống có thể xảy ra là khi một hợp đồng chịu sự điều chỉnh của luật pháp một
nước, nhưng được giao dịch tại, hoặc có liên quan tới một nước khác, mà ở đó việc trả phí bảo hiểm
đi ngược lại với quy định về tiền tệ của nước đó.

Một ví dụ khác về hợp đồng bảo hiểm vô hiệu lực trong khi hình thành đó là trường hợp những hợp
đồng tái bảo hiểm cố ý được giao kết chỉ với chủ định là che đậy kết quả hoạt động của một công ty
bảo hiểm trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc làm tăng biên độ khả năng thanh toán, trái với
quy định về nguyên tắc thận trọng tài chính.

Thực hiện

Hợp đồng phải hợp pháp trong quá trình thực hiện. Ví dụ, một hợp đồng bảo hiểm để trả tiền phạt,
những chi phí tố tụng và những tổn thất khác trong trường hợp người lái xe mất bằng lái, và lái xe
trong tình trạng say rượu. Hợp đồng này yêu cầu trả bồi thường trong những trường hợp chỉ phát
sinh khi có những hành vi vi phạm pháp luật có chủ định. Thông thường, một hợp đồng như vậy sẽ
không thể được giao kết.

Hãy trả lời những câu hỏi tự luận sau đây về 6 yếu tố cơ bản của một hợp đồng.

Câu hỏi tự luận

Những hợp đồng trong những tình huống sau đây có phải là những hợp đồng có hiệu lực không ?

66
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Tại sao ?

1. Một công ty bảo hiểm cung cấp dịch vụ bảo hiểm xe cơ giới. Trong 6 tháng đầu tiên của hợp
đồng, người được bảo hiểm yêu cầu bồi thường 6 lần với tổng trị giá 160 triệu đồng. Do phí bảo
hiểm công ty thu chỉ có 10 triệu đồng, nên công ty bảo hiểm thông báo cho người được bảo hiểm và
nói rằng do phí bảo hiểm (vật trao đổi) chưa đủ nên hợp đồng không có hiệu lực.

2. Ông Trần rất muốn mua một mảnh đất của ông Nguyên, nhưng ông Nguyên không muốn bán.
Cuối cùng, ông Trần cũng thuyết phục được ông Nguyên đồng ý bán đất bằng cách dọa rằng nếu
ông Nguyên không bán đất thì ông Trần sẽ công khai tiền sử phạm pháp của ông Charles.

3. Một nhân viên bán hàng thường xuyên phải đi lại, mua bảo hiểm để được bồi thường trong
trường hợp cô ta bị phạt vì tội lái xe quá tốc độ quy định khi đi giao hàng trong thành phố.

Các tình huống

Tình huống 1

Một ngôi nhà nhiều lần được sử dụng cho các hoạt động đánh bạc bất hợp pháp. Một cơn bão làm
tốc máy nhà. Trong trường hợp này người đóng bảo hiểm có được yêu cầu bồi thường theo hợp
đồng bảo hiểm nhà ở của anh ta không ? Tại sao không/tại sao có ?

Tình huống 2

Một người đóng bảo hiểm đã không khai báo với Hải quan và trả thuế cho một số đồ trang sức mà
cô đã mua ở nước ngoài. Sau đó, những đồ trang sức đó bị đánh cắp. Liệu cô ta có thể được yêu cầu
bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm trang sức của mình hay không ? Tại sao không/ tại sao có ?

Tình huống 3

Một lô hàng được mua bảo hiểm bị phát hiện là đã mua với tiền có được từ lô hàng bất hợp pháp
trước đó. Công ty bảo hiểm từ chối trách nhiệm của mình với lý do mục đích không hợp pháp. Như
vậy thì quyết định đó của công ty bảo hiểm có được tòa án bảo lưu hay không ? Tại sao có/ tại sao
không ?

3.3.3. Hợp đồng có thể hết hiệu lực, hợp đồng vô hiệu và hợp đồng không thể thi hành được

Chúng ta đã biết rằng cần 3 yếu tố bổ sung để một hợp đồng trở nên có hiệu lực, đó là:

67
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
· Năng lực pháp lý

· Sự đồng ý

· Tính hợp pháp của mục đích.

Thiếu một trong ba yếu tố này thì hợp đồng có thể trở thành:

· Hợp đồng có thể hết hiệu lực

· Hợp đồng vô hiệu

· Hợp đồng không thi hành được.

Hợp đồng có thể hết hiệu lực: Bên bị thiệt hại có quyền chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm hoặc
có thể tiếp tục hợp đồng.

Hợp đồng vô hiệu: Không có hiệu lực pháp lý giữa các bên, như trong trường hợp không tồn tại hợp
đồng giữa các bên.

Hợp đồng không thể thi hành được: Là hợp đồng có hiệu lực về mặt hình thức, nhưng không thể
thực hiện được hành động pháp lý gì theo loại hợp đồng này.

Trong trường hợp người mua bảo hiểm bị phát hiện là trình bày thông tin sai cho công ty bảo
hiểm, để yêu cầu được bảo hiểm thì khi đó yếu tố “đồng ý” sẽ được đưa ra xem xét. Thỏa thuận
giao kết hợp đồng của công ty bảo hiểm đã được dựa trên những thông tin không đúng. Do vậy,
công ty bảo hiểm là bên bị thiệt hại có quyền được lựa chọn làm cho hợp đồng bị vô hiệu hay
không. Hoặc công ty bảo hiểm có thể tiếp tục hợp đồng nếu bên đóng bảo hiểm đồng ý đóng thêm
phí bảo hiểm hoặc chấp nhận một điều kiện nào đó.

3.3.4. Ký kết hợp đồng bảo hiểm

Quá trình ký kết hợp đồng bảo hiểm chắc chắn là việc được tiến hành hàng ngày tại các
công ty bảo hiểm trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hành động tưởng như đơn giản này lại liên quan tới
trách nhiệm pháp lý của các bên, bao gồm:

· Công ty bảo hiểm

· Các công ty trung gian bảo hiểm

· Những người yêu cầu bảo hiểm


68
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm

Trách nhiệm của công ty bảo hiểm

Chúng ta sẽ xem xét những hậu quả và trách nhiệm cho công ty bảo hiểm trong quá trình
giao kết một hợp đồng bảo hiểm theo 2 mục lớn như sau:

· Trách nhiệm theo những Quy tắc bảo hiểm và những quy tắc ứng xử trong Bảo hiểm

· Những trách nhiệm pháp lý theo qui định Pháp luật.

Trách nhiệm theo những Quy tắc bảo hiểm và những quy tắc ứng xử trong Bảo hiểm

Ở nhiều nước, các công ty bảo hiểm đều có những hiệp hội đại diện cho mình đó là hiệp hội
Bảo hiểm. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng đã ban hành Bộ Quy tắc ứng xử giữa các Doanh
nghiệp bảo hiểm

Những Quy tắc ứng xử của ngành đặt ra những yêu cầu dưới hình thức những tiêu chuẩn
“thông lệ tốt nhất” mà các hội viên trong hiệp hội đều đồng ý, và được yêu cầu phải tuân thủ. Ví dụ,
những vấn đề sau đây được quy định trong các Quy tắc ứng xử của ngành bảo hiểm.

· Những câu từ phải đơn giản, dễ hiểu

· Những tài liệu quảng cảo hoặc tiếp thị phải rõ ràng, thẳng thắn và không lừa dối khách hàng

· Khách hàng phải được cung cấp hoặc được tiếp cận với những thông tin theo đó những quyết
định bồi thường hoặc thẩm định bảo hiểm được đưa ra

· Quy trình thu xếp bảo hiểm phải được tiến hành một cách công bằng, trung thực và minh bạch

· Những lý do từ chối bảo hiểm hoặc từ chối yêu cầu bồi thường phải được công bố

· Những quyết định của công ty bảo hiểm phải được đưa ra kịp thời theo những tiêu chuẩn đã được
xác lập của ngành,

· Những đại lý và nhân viên của công ty bảo hiểm phải được đào tạo đầy đủ để đủ năng lực thực
hiện công việc kinh doanh bảo hiểm

Việc không tuân thủ những yêu cầu của những Quy tắc này thường được tổ chức của ngành
phụ trách việc quản lý, giám sát bộ quy tắc đó giải quyết chứ không phải là tòa án.

Những trách nhiệm pháp lý

Không có sự tương đồng về trách nhiệm pháp lý của những công ty bảo hiểm ở những thị
trường khác nhau. Nhưng theo luật pháp của rất nhiều nước, các công ty bảo hiểm đều phải thực
hiện những trách nhiệm điển hình sau đây:
69
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
· Những trách nhiệm tiền hợp đồng

· Những trách nhiệm theo hợp đồng và trách nhiệm pháp lý khác

Những trách nhiệm tiền hợp đồng

Những trách nhiệm tiền hợp đồng là những trách nhiệm mà công ty bảo hiểm phải tuân thủ
trong quá trình trước khi tiến hành giao kết một hợp đồng bảo hiểm. Theo luật pháp, các công ty
bảo hiểm phải:

· Công bố một số thông tin nhất định

· Tránh những hành vi dối trá, lừa đảo

· Diễn đạt những văn bản bằng một ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu

· Đảm bảo những sản phẩm bảo hiểm bán ra phù hợp với hoàn cảnh của đối tượng được bảo hiểm.

Trách nhiệm theo hợp đồng và trách nhiệm pháp lý

Công ty bảo hiểm có một số trách nhiệm theo hợp đồng và trách nhiệm pháp lý, ví dụ như:

· Trách nhiệm diễn giải và áp dụng những điều khoản và điều kiện trong hợp đồng khi có yêu cầu
bồi thường với cam kết trung thực tuyệt đối. Tức là công ty bảo hiểm không thể dựa vào những
thuật ngữ kỹ thuật để tránh trách nhiệm của mình.

Trách nhiệm tuân thủ những điều khoản hợp đồng về những quyền được hủy bỏ hợp đồng. Luật
pháp cũng đặt ra những hạn chế về quyền được hủy bỏ hợp đồng của công ty bảo hiểm, nhưng ngay
cả khi luật pháp không quy định thì một hợp đồng cũng có thể bị hủy bỏ theo những điều khoản của
chính nó.

Những trách nhiệm của tổ chức trung gian

Phần lớn trong tổng số phí bảo hiểm trên thế giới được giao dịch thông qua những tổ chức
trung gian bảo hiểm. Theo luật, những tổ chức trung gian bảo hiểm được chia thành 2 loại chính:

1. Đại lý bảo hiểm làm việc cho những công ty bảo hiểm. Thông thường, những công ty bảo hiểm
chịu trách nhiệm về hoạt động của những đại lý của mình, ngay cả khi đại lý đó thực hiện những
hành vi vượt thẩm quyền của mình.

2. Môi giới bảo hiểm, thường làm việc cho khách hàng hoặc đại diện cho khách hàng. Do đó, người
môi giới bảo hiểm thường phải chịu trách nhiệm trước khách hàng khi có sơ suất gì đó.

Luật pháp ở những nước khác nhau có những quy định khác nhau để điều chỉnh hành vi của
những tổ chức trung gian bảo hiểm. Tuy nhiên, nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng:
70
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
· Những công ty bảo hiểm thường sẽ phải chịu trách nhiệm về những hành vi và lời nói hay
những việc và những lời hứa không được thực hiện của đại lý. Điều này cũng đồng nghĩa rằng các
công ty bảo hiểm cần thường xuyên giám sát hoạt động của các đại lý, đảm bảo các nhân viên của
đại lý được đào tạo đầy đủ, liên tục, và luôn làm việc một cách chuyên nghiệp.

Trái lại, những người môi giới bảo hiểm thường tách biệt khỏi những công ty bảo hiểm. Những
người môi giới bảo hiểm thường là thực hiện chức năng là người tư vấn độc lập cho khách hàng để
hỗ trợ họ giải quyết các nhu cầu bảo hiểm.

Những trách nhiệm của người yêu cầu bảo hiểm

Những người nộp đơn yêu cầu bảo hiểm không nhất thiết là người được bảo hiểm; họ là
những người yêu cầu bảo hiểm. Như vậy, họ chưa chắc đã có những trách nhiệm theo hợp đồng hay
ở cương vị của người được bảo hiểm.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người yêu cầu bảo hiểm không phải chịu bất kỳ trách nhiệm
pháp lý nào. Tùy theo luật pháp ở mỗi nước, người yêu cầu bảo hiểm thường phải thực hiện hai
trách nhiệm pháp lý chính sau:

· Trách nhiệm trung thực tuyệt đối, và

· Trách nhiệm khai báo thông tin.

Cả hai trách nhiệm này đều được áp dụng cho công ty bảo hiểm, người yêu cầu bảo hiểm và người
được bảo hiểm. Công ty bảo hiểm luôn luôn phải hoạt động một cách trung thực tuyệt đối với người
yêu cầu bảo hiểm/người được bảo hiểm. Còn về trách nhiệm khai báo thông tin thì tùy thuộc vào
luật pháp của các nước mà trách nhiệm này của công ty bảo hiểm có thể được đưa ra trong luật hay
không.

Nhưng vấn đề chính mà chúng ta quan tâm là nghiên cứu những trách nhiệm này của người
yêu cầu bảo hiểm.

Cam kết trung thực tuyệt đối

Một số hợp đồng thương mại được giao kết theo nguyên tắc “Hãy để người mua thận trọng”,
điều đó có nghĩa là Người mua phải tự chịu mọi rủi ro khi mua sản phẩm hoặc dịch vụ. Luật pháp
không bảo vệ người đã giao kết những hợp đồng một cách thiếu thận trọng.

Nhưng đối với những hợp đồng bảo hiểm, chỉ có một bên biết toàn bộ sự việc (đó là bên yêu
cầu bảo hiểm) và công ty bảo hiểm phải dựa vào việc cung cấp thông tin một cách trung thực để
đánh giá rủi ro. Do đó, quy tắc áp dụng cho các hợp đồng bảo hiểm là Cam kết trung thực tuyệt đối

71
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Trách nhiệm trung thực tuyệt đối là một điều khoản ngầm định trong các hợp đồng bảo
hiểm. Điều này có nghĩa là luật pháp quy định tất cả các hợp đồng bảo hiểm phải có điều khoản
này; việc ghi lại điều khoản này trong hợp đồng thành văn là không cần thiết.

Người yêu cầu bảo hiểm có trách nhiệm phải thực hiện điều này kể từ khi bắt đầu quá trình
yêu cầu bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, trong suốt thời hạn của hợp đồng bảo hiểm, và có thể
tiếp tục sau khi hợp đồng hết hiệu lực hoặc bị hủy bỏ, do còn những trách nhiệm theo hợp đồng
giữa các bên (ví dụ như trong trường hợp có tổn thất chưa được giải quyết, hay những yêu cầu bồi
thường được báo cáo chậm)

Người yêu cầu bảo hiểm thể hiện cam kết trung thực tuyệt đối với công ty bảo hiểm như thế
nào ?

Thông thường, người yêu cầu bảo hiểm sẽ thể hiện cam kết trung thực tuyệt đối của mình
thông qua quá trình cung cấp thông tin. Nhưng trách nhiệm trung thực tuyệt đối là rất rộng và chi
phối cả quan hệ hợp đồng. Do đó, nó không thể bị giới hạn chỉ ở trách nhiệm phải cung cấp thông
tin cho công ty bảo hiểm. Việc bảo vệ những tài sản đã bị hư hỏng để tránh những thiệt hại nặng
hơn cũng là một hành động thể hiện cam kết trung thực tuyệt đối. Đưa ra yêu cầu bồi thường gian
lận là một hành động vi phạm cam kết trung thực tuyệt đối.

Nhưng chúng ta thường xem xét trách nhiệm thực hiện theo cam kết trung thực tuyệt đối của
khách hàng trong bối cảnh họ thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin. Để thực hiện điều này,
người yêu cầu bảo hiểm cần phải tuyệt đối cởi mở, trung thực, và không giấu diếm công ty bảo
hiểm bất cứ điều gì, hay nói cách khác là trung thực tuyệt đối với công ty bảo hiểm.

Trách nhiệm khai báo thông tin

Luật pháp của các nước đều có quy định về trách nhiệm khai báo thông tin, và có thể có
những sự khác biệt nhỏ về nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm này.

Nhưng thông thường người yêu cầu bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp tất cả các thông tin cho công
ty bảo hiểm:

· Người yêu cầu bảo hiểm có những thông tin mà công ty bảo hiểm muốn biết.

· Một người bình thường cũng biết công ty bảo hiểm cần biết những thông tin gì. Công ty bảo hiểm
không thể nghĩ được tất các các thông tin để hỏi người yêu cầu bảo hiểm.

Vai trò của công ty bảo hiểm

Những thông tin mà công ty bảo hiểm muốn biết thường được liệt kê trong mẫu yêu cầu bảo hiểm.

72
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Do đó, công ty bảo hiểm có vai trò quan trọng, giúp người được bảo hiểm cung cấp thông tin.

Trách nhiệm cung cấp thông tin của người yêu cầu bảo hiểm sẽ đỡ nặng nề hơn trong những trường
hợp sau đây:

· Mẫu yêu cầu bảo hiểm

− Có những câu hỏi cụ thể, có liên quan và toàn diện

− Có đủ chỗ để người yêu cầu bảo hiểm ghi đầy đủ thông tin.

· Những thông tin thiếu, chưa hoàn chỉnh hoặc không phù hợp được giải thích rõ ràng cho người
yêu cầu bảo hiểm trước khi bắt đầu hợp đồng bảo hiểm.

· Người yêu cầu bảo hiểm được cung cấp đầy đủ thông tin để hiểu rõ về trách nhiệm khai báo
thông tin và những hậu quả của việc không tuân thủ trách nhiệm này.

Thông qua những việc được liệt kê trên đây, công ty bảo hiểm cũng thể hiện cam kết trung
thực tuyệt đối của mình với người yêu cầu bảo hiểm.

Vai trò của người yêu cầu bảo hiểm

Các công ty bảo hiểm không thể hỏi tất cả những người yêu cầu bảo hiểm riêng lẻ mọi điều.
Do vậy, mẫu yêu cầu bảo hiểm chỉ đáp ứng được trong những tình huống thông thường. Nếu mẫu
đơn quá dài, thì những khách hàng tiềm năng sẽ cảm thấy nản khi điền thông tin đầy đủ.

Chỉ người yêu cầu bảo hiểm mới biết được tình trạng của riêng mình. Thông thường luật
pháp giải quyết vấn đề này bằng cách quy định 2 điểm trong trách nhiệm cung cấp thông tin của
người yêu cầu bảo hiểm, đó là:

− Thứ nhất là những thông tin mà người yêu cầu bảo hiểm biết công ty bảo hiểm muốn có,

− Thứ hai là tất cả những thông tin khác có liên quan mà một người bình thường đều biết rằng nó
cần cho công ty bảo hiểm.

Do đó, trách nhiệm cung cấp thông tin không kết thúc khi công ty bảo hiểm không còn gì để
hỏi. Người yêu cầu bảo hiểm phải tự nguyện cung cấp những thông tin mà một người bình thường
cũng biết là cần phải khai báo. Chính điểm này sẽ giải quyết những:

· Tình huống đặc biệt của từng người yêu cầu bồi thường, hoặc

· Những thông tin không có trong bảng câu hỏi đề nghị bảo hiểm của công ty bảo hiểm.

Luật pháp ở những nước khác nhau có thể có những sự khác biệt trong 2 điểm của trách
nhiệm cung cấp thông tin này. Ví dụ luật pháp ở Việt Nam cho phép khách hàng chỉ có trách nhiệm
73
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
cung cấp thông tin giới hạn ở việc trả lời tất cả những câu hỏi cụ thể có liên quan.

Trách nhiệm cung cấp thông tin kéo dài bao lâu ?

Điều này còn phụ thuộc vào luật pháp của từng nước, nhưng thông thường đây là một quy
tắc chung trong bảo hiểm và trách nhiệm cung cấp thông tin kéo dài cho đến khi hợp đồng bảo hiểm
được ký kết. Tức là người yêu cầu bảo hiểm vẫn có trách nhiệm này sau khi điền xong mẫu yêu cầu
bảo hiểm. Trách nhiệm này sẽ kéo dài cho đến khi công ty bảo hiểm chấp nhận yêu cầu bảo hiểm và
hợp đồng bắt đầu có hiệu lực.

Do đó, bất kỳ sự thay đổi thông tin nào trong khoảng thời gian từ khi đơn yêu cầu được
hoàn thành cho đến thời điểm công ty thực sự chấp nhận rủi ro vẫn phải được thông báo cho công ty
bảo hiểm.

Thông thường, trách nhiệm này lại được thực hiện khi hợp đồng được tái tục hoặc thời điểm
giữa kì khi rủi ro bị thay đổi.

Luật pháp một số nước có thể yêu cầu phải có thông báo cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông
tin này. Ví dụ như ở Việt Nam, luật pháp yêu cầu công ty bảo hiểm phải thông báo một cách rõ ràng
bằng văn bản cho người yêu cầu bảo hiểm về bản chất và những tác động của trách nhiệm này dưới
hình thức một bản thông báo cụ thể về việc cung cấp thông tin. Luật pháp ở Malaysia quy định
trong những mẫu đề nghị bảo hiểm phải có một dòng cảnh báo những người yêu cầu bảo hiểm rằng
họ phải trả lời những câu hỏi một cách trung thực tuyệt đối và về hậu quả của việc không tuân thủ
trách nhiệm này.

3.3.5. Quyền lợi có thể được bảo hiểm khi ký kết hợp đồng bảo hiểm

Trong những ngày đầu của lịch sử ngành bảo hiểm, trước khi khái niệm quyền lợi có thể được
bảo hiểm được xây dựng một cách rõ ràng, người ta thường sử dụng hợp đồng bảo hiểm như một
hình thức đánh bạc. Họ thường cá cược những vấn đề như:

 Liệu chiến tranh có xảy ra không ?

 Liệu một con thuyền nào đó có trở về cảng an toàn không

 Liệu một người nào đó sẽ chết trong tương lai gần không

Những hợp đồng có tính đầu cơ này được hình thành bất kể chúng có mối liên hệ nào với vấn đề
bảo hiểm hay không. Thói quen sử dụng bảo hiểm cho các mục đích đánh bạc là một vấn đề nổi
cộm trong quá khứ.

74
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Vậy chúng ta thấy rằng, vấn đề cốt lõi của Quyền lợi có thể được bảo hiểm là một khái niệm
đơn giản: Người được bảo hiểm phải có mối liên quan đến đối tượng bảo hiểm mà anh/chị ta sẽ
được hưởng lợi nhờ sự an toàn của đối tượng bảo hiểm hoặc có thể bị thua thiệt do tổn thất xảy ra
với đối tượng bảo hiểm đó.

Trong những hợp đồng bảo hiểm tài sản, một quyền lợi với đối tượng của hợp đồng bảo hiểm (ví dụ
một tòa nhà, phương tiện xe cơ giới hay một nhà máy) được coi là một Quyền lợi có thể được bảo
hiểm chỉ khi quyền đó là hợp pháp (theo thông luật) hoặc là quyền sở hữu (theo luật) và chỉ khi
quyền lợi đó tồn tại ở thời điểm hợp đồng bảo hiểm được ký kết và tại thời điểm xảy ra tổn thất.

Quyền pháp lý thường liên quan đến các vấn đề sở hữu, trong khi quyền sở hữu thường là
vấn đề sử dụng.

Trong bảo hiểm tài sản, một ví dụ so sánh giữa quyền pháp lý và quyền sở hữu là quyền của
một người được uỷ thác (có quyền sở hữu hợp pháp đối với một tài sản) và quyền của một người
hưởng lợi (người có quyền sử dụng hợp pháp nhưng không có quyền sở hữu tài sản đó).

Một ví dụ khác, một người mua nhà thực hiện một hợp đồng thế chấp thông thường (và trở
thành người đi thế chấp), khi đó người cho vay theo kiểu thế chấp có quyền pháp lý với tài sản (ví
dụ một ngân hàng cho vay tiền để hỗ trợ mua nhà). Người đi mua nhà có quyền sở hữu đối với tài
sản (đó là quyền sử dụng tài sản) và bên cho vay theo kiểu thế chấp giữ quyền pháp lý với tài sản đó
cho đến khi khoản nợ, đã thế chấp, được trả lại cho bên cho vay.

Ở nhiều nơi trên thế giới, Luật Kinh doanh Bảo hiểm không đòi hỏi quyền pháp lý hay
quyền sở hữu nữa. Tất cả những gì điều luật này đòi hỏi để chứng minh quyền lợi có thể được bảo
hiểm là tại thời điểm thiệt hại (bất kể tại thời điểm ký hợp đồng bảo hiểm có quyền lợi đó hay
không), người đó có được lợi từ việc đối tượng được bảo hiểm vẫn tồn tại hay có bị thua thiệt do
đối tượng đó bị tổn thất (bao gồm thiệt hại và phá hủy). Quyền lợi có thể được bảo hiểm, như quy
định trong Luật Hợp đồng Bảo hiểm, không cần thiết phải là quyền pháp lý hay quyền sở hữu, mà
chỉ cần là một lợi ích kinh tế hay tài chính (có nghĩa là sự tổn thất, thiệt hại hoặc phá hủy của vật đó
sẽ gây ra những thiệt hại về tài chính cho con người). Hãy xem xét bài tập tình huống sau đây.

Các tình huống về Quyền lợi có thể được bảo hiểm

Vụ kiện giữa Macaura và công ty TNHH Bảo hiểm Northern [1925]

Macaura sở hữu một xưởng gỗ. Xưởng gỗ này được bảo hiểm bởi một hợp đồng dưới tên
Macaura. Tuy nhiên gỗ đã được bán cho một công ty một thành viên. Một vụ cháy xảy ra tại xưởng
gỗ, phá hủy toàn bộ số gỗ. Khi Macaura cố gắng đòi bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm, công ty

75
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Bảo hiểm Northern từ chối chi trả, với lý lẽ rằng Macaura không có quyền lợi có thể được bảo hiểm
đối với gỗ. Cuộc tranh chấp này được đưa ra tòa. Tòa án xử công ty Bảo hiểm Northern không phải
chi trả. Công ty là một pháp nhân độc lập đối với cổ đông của nó và, trong khi công ty là chủ sở hữu
đối với lượng gỗ (và vì thế có quyền lợi có thể được bảo hiểm), song công ty lại không có hợp
đồng. Trong khi đó, Macaura có hợp đồng nhưng không có quyền lợi có thể được bảo hiểm bởi vì
gỗ đã được bán cho công ty rồi.

Giá trị của quyền lợi có thể được bảo hiểm

Trong hợp đồng bồi thường, một người được bảo hiểm không thể lấy lại được nhiều hơn mức độ
anh ta đã bị thiệt hại. Người được bảo hiểm chỉ có thể lấy lại được đúng mức thiệt hại mà họ thực
sự phải gánh chịu. Nếu một tài sản được bảo hiểm ở mức lớn hơn giá trị thực thì chỉ có giá trị thực
của nó tại thời điểm xảy ra thiệt hại mới được hoàn trả.

Xem xét tình huống sau

Ông Nguyên sở hữu một biệt thự lớn hai tầng bằng đá đã được sử dụng để thế chấp. Rõ ràng
là cả hai bên, ông Nguyên và Người cho vay thế chấp sẽ phải chịu thiệt hại tài chính nếu tài sản này
bị hư hại hoặc phá hủy. Vì thế cả hai đều có mối quan hệ với tòa lâu đài và đều có thể được có lợi
nếu nó an toàn và thiệt hại nếu gặp rủi ro. Ông Nguyên có lợi ích chính đáng đối với lâu đài, ông ta
là người sở hữu. Người cho vay có trách nhiệm đối với tài sản và vì thế có quyền pháp lý đối với tài
sản. Cả hai bên có thể bảo hiểm tài sản của mình với quyền và lợi ích riêng của họ bởi vì luật công
nhận họ có quyền lợi có thể được bảo hiểm.

Nhưng quyền lợi của hàng xóm của ông Nguyên thì sao? Nhà của ông hàng xóm nhìn ra
hướng biệt thự này và ông rất thích ngồi ở sân nhà mình ngắm nhìn biệt thự. Nếu biệt thự này bị
phá hủy ông sẽ mất đi thú vui này. Cũng còn có khả năng nữa đó là chính nhà của ông cũng sẽ đổ
nếu biệt thự bị phá hủy. Thực tế người hàng xóm cho rằng tài sản của ông ta sẽ có giá hơn vì biệt
thự này thu hút nhiều khách hàng tiềm năng cho ông. Vậy trong trường hợp này người hàng xóm có
được coi là có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với biệt thự này hay không?

Sự tồn tại của căn biệt thự có thể hoặc không ảnh hưỏng đến giá trị của ngôi nhà của người
hàng xóm, nhưng đó là rủi ro có khả năng xảy ra, tuy nhiên nó chỉ thuần túy là một rủi ro đầu cơ.
Nếu căn biệt thự phải bị phá bỏ, người hàng xóm sẽ không phải chịu thiệt hại trực tiếp về tài chính.
Hay hiểu một cách đơn giản, ông ta không có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với căn biệt thự.
Việc ông ta thích ngắm nhìn tòa lâu đài và tài sản của ông ta có thể mất đi khả năng thu hút khách
hàng do căn biệt thự bị phá hủy đều không phải là những yếu tố phù hợp để hỗ trợ cho quyền lợi có

76
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
thể được bảo hiểm. Chỉ cần làm phép thử xem ông ta phải có quyền lợi trực tiếp đối với đối tượng
được bảo hiểm, đó là quyền pháp lý hay quyền sở hữu hay không.

Tóm lại, cơ sở để xác định sự tồn tại quyền lợi có thể được bảo hiểm cho cả ba bên trong
tình huống là như sau:

Quyền lợi của các Ngưòi cho vay thế


Ông Nguyên Người hàng xóm
bên có phải là: chấp
Có, vì ông ta là Không
a) Quyền sở hữu ? Không
người sở hữu => Nên không có
Không có thông Có. Khoản thế chấp Không quyền lợi có thể
b) Quyền pháp lý ?
tin trên tài sản đó được bảo hiểm

3.3.6. Phí bảo hiểm và chu trình sản xuất ngược của các công ty bảo hiểm

Để được quyền lợi bồi thường khi tổn thất xảy ra đối với các hợp đồng bảo hiểm thiệt hại
hoặc chi trả tiền bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm con người, bên được bảo hiểm cần phải
thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn. Bản chất của phí bảo hiểm là gì và được xác định như
thế nào?

Ở giác độ là các tổ chức bảo hiểm (cụ thể là công ty bảo hiểm), phí bảo hiểm là nguồn hình
thành nên quỹ bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ sử dụng khoản phí thu được phần lớn là để bồi
thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra, phần còn lại dùng để trang trải các chi phí hoạt
động của công ty bảo hiểm. Khoản phí dùng để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy
ra được gọi là phí thuần hay phí rủi ro, khoản phí dùng để trang trải các chi phí hoạt động của công
ty bảo hiểm được gọi là phí quản lý. Để xác định được phí rủi ro là một việc không hề đơn giản bởi
vì công việc này là trách nhiệm của các chuyên gia tính toán phí bảo hiểm (actuary) và trong phạm
vi quyển sách này, chúng tôi không có ý định hướng dẩn chi tiết cho người đọc cách thức tính phí
các sản phẩm bảo hiểm mà các actuary đang làm. Nhưng một cách chung nhất, các actuary trước
hết sẽ dựa vào các số liệu thống kê về các rủi ro và tổn thất đã xảy ra trong quá khứ, sau đó dự báo
một cách thận trọng về tổn thất và xác suất xảy ra trong tương lai và phân bổ tổn thất dự kiến này
cho số đông người tham gia bảo hiểm từ đó sẽ xác định phí bảo hiểm (phí thuần) cần phải thu cua
người tham gia bảo hiểm. Với cách thức như trên thì phi bảo hiểm sẽ bị ảnh hưởng rất lớn bởi hai
yếu tố:

- Số liệu thống trong quá khứ, và:

77
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
- Số liệu dự báo trong tương lai.

Các nội dung vừa phân tích trên đây thường được sử dụng để tính phí cho các sản phẩm bảo hiểm
phi nhân thọ, còn các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thì việc xác định phí bảo hiểm còn phức tạp hơn.
Đó là cần dựa vào số liệu thống kê dân số và kết hợp với các yếu tố khác để dự báo xác suất sống và
xác suất tử vong trong tương lai của một quốc gia, đồng thời các actuary cần phải dự kiến sẽ thu
được lãi suất bao nhiêu từ hoạt động đầu tư mà nguồn vốn đầu tư là lấy từ phí bảo hiểm thu đươc.
Rất may mắn là phần này sẽ được phân tích khá chi tiết trong phần nội dung quản trị tài chính trong
các công ty bảo hiểm.

Từ cách thức xác định phí bảo hiểm như trên, rõ ràng số phí bảo hiểm mà công ty bảo hiểm thu
được từ những người thm gia bảo hiểm chỉ là số phí dự kiến, mặc dù công ty bảo hiểm là một nhà
kinh doanh rủi ro nhưng đến lượt mình, công ty bảo hiểm cũng có thể bị rủi ro đó là tổn thất xảy ra
lớn hơn so với dự kiến, phí bảo hiểm lúc này sẽ không đủ chi bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm.
Hậu quả là kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm sẽ bị thua lỗ, ngược lại kết quả kinh doanh của
công ty bảo hiểm sẽ có lãi. Một cách đơn giản để xác định kết quả kinh doanh (trước thuế thu nhập)
công ty bảo hiểm sẽ lấy doanh thu phi bảo hiểm trừ đi tổng các chi phí hợp lệ hợp lý trong kỳ (chi
phí lớn nhất là chi để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm). Mà doanh thu phí bảo hiểm được xác định
ngay khi bán hợp đồng bảo hiểm, chi bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm đươc xác định khi đã có tổn
thất xảy ra. Như vậy, phí bảo hiểm (được xem là giá bán của sản phẩm bảo hiểm) được xác định
trước trên cơ sở các dự báo về rủi ro và tổn thất sẽ xảy ra, chi bồi thường hoặc trả tiền (được xem là
giá thành của sản phẩm bảo hiểm) được xác định sau khi tổn thất thực tế đã xảy ra. Chính vì điều
này mà các công ty có một chu trình kinh doanh khá khác biệt với các công ty sản xuất và dịch vụ
khác, đó là chu trình sản xuất ngược. Chu trình ngược này đã tác động rất lớn đến việc tổ chức hoạt
động kinh doanh của các công ty bảo hiểm.

3.3.7. Bồi thường, thế quyền và đóng góp rủi ro

Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là những hợp đồng bồi thường và nguyên tắc
bồi thường là một khái niệm rất cơ bản đã được phân tích trong chương 2.

“Bồi thường là gì” ?

Thuật ngữ bồi thường có thể thấy trong hầu hết các bộ quy tắc bảo hiểm của các hợp đồng
bảo hiểm, nhưng nguyên tắc bồi thường không áp dụng đối với bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên
quan đến tai nạn. Các hình thức bảo hiểm còn lại đều áp dụng nguyên tắc bồi thường và nó được coi
là nguyên tắc chi phối của hợp đồng.

78
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, công ty bảo hiểm đồng ý bồi thường người được bảo hiểm
cho những tổn thất gây ra do một sự kiện được bảo hiểm xảy ra. Công ty bảo hiểm thường có lựa
chọn quyết định bồi thường được thực hiện như thế nào. Ví dụ, công ty bảo hiểm có thể chọn hình
thức chi trả bằng tiền mặt, hoặc thay thế hoặc sửa chữa những tài sản đã hư hại.

Trong bảo hiểm trách nhiệm, công ty bảo hiểm đồng ý bồi thường người được bảo hiểm
khoản tiền mà người được bảo hiểm có trách nhiệm pháp lý phải chi trả như là khoản bồi thường
cho những thương tật cá nhân hoặc thiệt hại tài sản gây ra cho người thứ ba.

Dưới đây là một định nghĩa khá chuẩn xác về nguyên tắc bồi thường: Nguyên tắc bồi
thường có nghĩa là người được bảo hiểm, theo điều khoản hợp đồng, sẽ được hồi phục lại vị thế tài
chính giống như trước khi xảy ra tổn thất, như thể chưa hề xảy ra tổn thất này.

 Chú ý những điều sau: Bồi thường được trả phải tuân thủ theo các điều khoản hợp đồng. Có
một số yếu tố ngăn cản việc công ty bảo hiểm chi trả bồi thường đủ cho người được bảo hiểm. Ví
dụ,

- Khoản tiền được bảo hiểm nhỏ hơn giá trị

- Có thể có sự khấu trừ

Giá trị bồi thường được xác định như thế nào?

Cách xác định giá trị bồi thường phổ biến nhất cho mục đích khiếu nại là dựa trên giá trị thị
trường của nó tại thời điểm xảy ra thiệt hại hoặc tổn hại. Điều này về mặt khái niệm thì đơn giản,
song vấn đề khó khăn là ở chỗ làm thế nào để thỏa thuận đi đến thống nhất về giá thị trường của tài
sản với khách hàng là vấn đề nan giải đối với nhân viên giải quyết khiếu nại. Người khiếu nại
thường có những mong đợi thiếu thực tế về giá trị tài sản của họ. May mắn thay, hầu hết các tài sản
trong các tình huống khiếu nại đều có một giá thị trường. Chúng ta có thể định giá thị trường của
một chiếc TV Sony đã dùng 4 năm, hay của một chiếc xe Toyota bốn chỗ ngồi đã dùng được 5 năm.
Luôn luôn có sự nhượng bộ lên xuống trong quá trình thương lượng, song giá thị trường của hầu hết
những sản phẩm này có thể định đoạt được một cách hợp lý.

Đối với nhà cửa, giá trị bồi thường thường được tính dựa trên chi phí thay thế một cấu trúc
tương tự, trừ đi hao mòn, khấu hao và cải tạo. Cải tạo ở đây là nói đến trường hợp việc sửa chữa và
thay thế tạo ra một giá trị cho người được bảo hiểm sử dụng tốt hơn những gì anh ta có trước khi
xảy ra thiệt hại. Giả sử chúng ta lấy ví dụ một ngôi nhà bằng gỗ đã được sử dụng 75 năm, chúng ta
sẽ tính chi phí để thay thế ngôi nhà đó với nguyên liệu mới và sau đó trừ đi tiền khấu hao cho thời

79
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
gian sử dụng của ngôi nhà và điều kiện của khung nhà để tính ra chỉ số thể hiện giá trị bồi thường
được đánh giá. Dưới đây là định nghĩa chuẩn về giá trị bồi thường:

“Giá trị bồi thường là chi phí cần thiết để thay thế, sửa chữa hoặc xây mới lại tài sản được bảo
hiểm để khôi phục nó về tình trạng cơ bản giống như nhưng không tốt hơn hoặc đắt hơn hiện trạng
của tài sản tại thời điểm thiệt hại xảy ra, trong đó có tính đến năm sử dụng, tình trạng và thời gian
còn sử dụng được của tài sản.”

Đây là một định nghĩa có ích vì nó tổng kết lại một cách ngắn gọn về các bước công ty bảo
hiểm sẽ thực hiện khi quyết định giá trị bồi thường của tài sản được bảo hiểm.

“Bồi thường” có thể là một vấn đề phức tạp

Không phải tình huống nào cũng đơn giản và trực tiếp như những ví dụ trên. Trong một số trường
hợp có thể sẽ không có giá trị thị trường rõ ràng cho những tài sản mà khách hàng muốn bảo hiểm.
Ví dụ giá trị thị trường của một tác phẩm nghệ thuật ? Thời điểm cuối cùng bức tranh được bán
trong cuộc đấu giá là khi nào và chúng ta có thể sử dụng giá bán đó làm cơ sở hợp lý cho mục đích
bảo hiểm không ? Giá trị bồi thường của một kiến trúc lịch sử cổ đại là bao nhiêu ?

Hợp đồng bảo hiểm Khôi phục & Thay thế

Một số hợp đồng bảo hiểm tài sản được thực hiện trên cơ sở “mới thay cũ”. Điều này có
nghĩa là nếu một ngôi nhà bị phá hủy, nó sẽ được xây mới lại mà không khấu trừ bất kỳ một khoản
nào như hao mòn, khấu hao hoặc nâng cấp. Người được bảo hiểm nhận được một ngôi nhà mới thay
thế cho ngôi nhà cũ. Nội dung bảo hiểm tương tự trong đó công ty bảo hiểm đồng ý thay thế tài sản
cũ bằng một cái mới tương đương về chất lượng và kiểu dáng. Nhìn bề ngoài, dường như người
được bảo hiểm sẽ nhận được bồi thường nhiều hơn ở hình thức hợp đồng này. Tuy nhiên tòa án
không nhìn nhận từ góc độ này. Các bên liên quan trong hợp đồng đã thỏa thuận với nhau về cơ sở
của bồi thường là bồi thường mới thay cũ, chứ không phải là cũ thay cũ. Vẫn có bồi thường và
người được bồi thường sẽ được hưởng một ngôi nhà về cơ bản giống như nhưng không tốt hơn hoặc
đắt hơn khi nó còn mới. Nhiều hợp đồng ra điều kiện nếu người được bảo hiểm không xây lại được
nhà theo đúng khung thời gian đã định thì hợp đồng sẽ được trở về hình thức dựa trên cơ sở bồi
thường.

Về nội dung, người ta có thể thấy rằng trong hợp đồng mới thay cũ, người được bảo hiểm sẽ
ở vị thế tài chính tốt hơn nhiều so với trường hợp hợp đồng bồi thường. Người được bảo hiểm đã
hưởng lợi từ thiệt hại, như vậy là đi ngược lại với nguyên tắc của bảo hiểm. Thực ra, việc thay thế
trong hợp đồng mới thay cũ là có lợi cho cả hai bên. Khách hàng vui vì được bồi thường bằng một

80
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
cái mới thay vì tiền mặt, và công ty bảo hiểm hưởng lợi từ việc tránh được những khó khăn thực tế
nảy sinh trong quá trình xác định giá trị bồi thường cho các đồ dùng trong nhà đã sử dụng nhiều
năm nhưng vẫn ở tình trạng tốt tại thời điểm thiệt hại.

Đơn bảo hiểm được định trước giá trị (first loss)

Một số công ty bảo hiểm phát hành loại Đơn bảo hiểm được định trước giá trị và trong loại
đơn này, các bên trong hợp đồng thỏa thuận trước về giá trị của vật được bảo hiểm cho mục đích
bồi thường. Trong trường hợp thiệt hại, toàn bộ giá trị bồi thường đã thỏa thuận hoặc công bố sẽ
được chi trả. Thiệt hại một phần sẽ được giải quyết bằng chi phí bồi thường sửa chữa hoặc bằng
cách so sánh với giá trị đã thỏa thuận. Một hợp đồng thỏa thuận trước về giá trị của một chiếc ô tô
là một ví dụ của hợp đồng đơn bảo hiểm được định trước giá trị. Một số đồ cổ, tranh hoặc các đồ
vật giá trị khác cũng có thể được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm được định trước giá trị. Điều này sẽ
tránh được bất kỳ sự tranh chấp nào liên quan đến việc khiếu nại về chi trả bồi thường vì các bên đã
đồng ý với nhau trước đó về giá trị bồi thường. Nếu giá cả thị trường tăng hoặc giảm thì giá trị này
vẫn được trả đầy đủ trong trường hợp thiệt hại toàn bộ.

Vậy đối với loại hợp đồng bảo hiểm định giá trị trước, chúng ta chỉ cần hai bên hợp đồng
thỏa thuận trước với nhau về cơ chế bồi thường. Những hợp đồng này vẫn thuộc loại hợp đồng bồi
thường, trong đó giá trị bồi thường đã được thỏa thuận trước ngay từ đầu chứ không phải sau khi
xảy ra thiệt hại.

Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên quan đến tai nạn

Chỉ có bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm liên quan đến tai nạn cá nhân không phải là những hợp
đồng thuộc dạng bồi thường. Trong loại bảo hiểm này, thuật ngữ số tiền bồi thường không được sử
dụng mà thay vào đó gọi là số tiền bảo hiểm hay số tiền chi trả. Số tiền này được qui định trước trên
hợp đồng (số tiền bảo hiểm được trả theo nguyên tắc khoán). Tuy nhiên, một số lĩnh vực của các
sản phẩm này có liên quan đến bồi thường. Ví dụ, chi phí thuốc men và bồi thường hàng tuần cho
việc mất khả năng tạo thu nhập là những lĩnh vực bảo hiểm có thể coi là liên quan đến bồi thường.

Có hai hệ luận quan trọng của bồi thường, gồm:

 Thế quyền, và

 Đóng góp rủi ro.

Những hệ luận này giúp vận hành tốt nguyên tắc bồi thường.

81
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm

Thế quyền

Nguyên tắc thế quyền là một lĩnh vực của bồi thường. Nó đặt công ty bảo hiểm ở địa vị của
người được bảo hiểm, nhưng theo thông luật, chỉ khi công ty bảo hiểm đã bồi thường người được
bảo hiểm cho những thiệt hại họ phải gánh chịu. Công ty bảo hiểm có điều khoản về thế quyền
trong hợp đồng của mình để tạo quyền đòi hỏi bồi thường thế quyền trước khi công ty bồi thường
cho người được bảo hiểm. Điều này cần thiết để bảo đảm quyền của công ty bảo hiểm để có khả
năng thu hồi, vì thông thường, cần vài tháng hoặc vài năm để người được bảo hiểm được bồi
thường hoàn toàn, đặc biệt đối với những hình thức thiệt hại phức tạp, như khiếu nại trách nhiệm.

Thế quyền không được áp dụng đối với những hợp đồng phi bồi thường như hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn và ốm đau.

Thông qua thế quyền, công ty bảo hiểm có toàn quyền của người được bảo hiểm đối với bên
thứ ba có thể có trách nhiệm với những thiệt hại dẫn đến bồi thường, gây ra do sơ suất hoặc theo
nghĩa vụ trong hợp đồng. Học thuyết này cũng đảm bảo rằng người được bảo hiểm không thể kiếm
lời từ thiệt hại bằng cách cũng gây ra một hành động gì đó đối với sự bất cẩn của bên thứ ba bên
cạnh việc thực hiện khiếu nại. Đây có thể là trường hợp bồi thường trùng.

Đóng góp rủi ro

Đóng góp rủi ro là một nguyên tắc bảo hiểm khác bổ sung cho nguyên tắc bồi thường. Nó đề
cập đến tình huống khi người được bảo hiểm đã mua hai hoặc ba bảo hiểm cho cùng một rủi ro, và
tổng số tiền của các hợp đồng vượt quá thiệt hại thực tế được công ty bảo hiểm đảm bảo. Trong
trường hợp này, người được bảo hiểm phải chọn một công ty bảo hiểm để khiếu nại. Người được
bảo hiểm chỉ được phép nhận một lần bồi thường. Khiếu nại ở hơn một công ty bảo hiểm bị cho là
hành động gian lận.

Các hợp đồng không nhất thiết phải cùng loại, chỉ cần chúng bảo hiểm cho cùng một thiệt
hại. Ví dụ Bình và An, hai nhà tư vấn làm việc ở văn phòng tại gia, đã mua một hợp đồng bảo hiểm
kinh doanh để bảo hiểm rủi ro tài sản và trách nhiệm kinh doanh. Ngoài các vật dụng khác hợp
đồng này còn bảo hiểm cho chiếc máy tính dành cho công việc kinh doanh. Trong khi đó hợp đồng
bảo hiểm cho ngôi nhà của Bình và An đã bao gồm bảo hiểm trị giá 100 triệu đồng cho thiết bị
trong nhà gồm cả những thiết bị dùng cho công việc kinh doanh của họ.

82
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Khi một trong hai công ty bảo hiểm không bồi thường đầy đủ, người được bảo hiểm có thể
khiếu nại số còn thiếu từ công ty bảo hiểm kia. Công ty bảo hiểm đã bồi thường cho người được
bảo hiểm có thể khiếu nại phần đóng góp rủi ro đến các công ty bảo hiểm khác để chia sẻ thiệt hại.

Luật pháp sẽ không cho phép người được bảo hiểm kiếm lời từ việc được bồi thường cao hơn
mức đáng được hưởng. Giống như thế quyền, đóng góp rủi ro bổ sung cho nguyên tắc bồi thường.

Bồi thường theo tỷ lệ

Điều khoản “bồi thường theo tỷ lệ” mục đích của nó là nhằm đảm bảo rằng người được bảo
hiểm chỉ nhận được khoản bồi thường cho thiệt hại của họ theo mức mà họ đã tham gia bảo hiểm.

Ngoài chế độ bồi thường theo tỷ lệ, việc bồi thường có thể áp dụng theo chế độ rủi ro thứ
nhất hay chế độ vượt mức miễn thường

Tình huống

Vinh sở hữu một căn hộ trị giá 1,6 tỷ đồng, nhưng anh ta chỉ bảo hiểm nó với giá trị 1,2 tỷ
đồng. Một cơn bão lớn xảy ra phá hủy ngôi nhà và gây tổn thất cho ngôi nhà 800 triệu đồng. Theo
điều khoản trong hợp đồng của Vinh, công ty bảo hiểm chỉ có trách nhiệm với một phần của thiệt
hại này 600 triệu đồng

Nghĩa vụ chứng minh

Người được bảo hiểm muốn khiếu nại trong hợp đồng, người đó phải có nghĩa vụ phải tìm ra
bằng chứng để chứng minh rằng:

 Một sự kiện được bảo hiểm trong hợp đồng đã xảy ra, gây thiệt hại cho người được bảo hiểm

 Sự kiện này là nguyên nhân chủ yếu, mang lại hậu quả, và có tính tác động đối với thiệt hại
được bảo hiểm

Nguyên nhân gần nhất

Lý thuyết về nguyên nhân gần nhất rất quan trọng để quyết định công ty bảo hiểm có bồi
thường hay không.

Nhân viên giải quyết bồi thường khi đó phải quyết định rằng sự kiện được bảo hiểm là
nguyên nhân gần nhất của thiệt hại hay là một số sự kiện không được bảo hiểm hay bị loại trừ khác
là nguyên nhân gần nhất của thiệt hại.

83
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Chứng minh nguyên nhân gây thiệt hại

Chứng minh rằng thiệt hại gây ra do một rủi ro đã được bảo hiểm sẽ khá đơn giản bởi vì rủi
ro gây ra thiệt hại thường rất dễ nhận thấy. Tuy nhiên, các tình huống xuất hiện theo thời gian ngày
càng trở nên phức tạp khi có hơn một nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc có một nguyên nhân ban
đầu và rồi các nguyên nhân kéo theo.

Nếu tất cả các nguyên nhân gây ra một thiệt hại đều là những rủi ro được bảo hiểm thì không có
vấn đề gì. Nhưng điều gì xảy ra nếu không phải như vậy? Hãy xem xét tình huống trong đó khi sự
kiện thiệt hại xảy ra:

 Rủi ro được bảo hiểm có tham gia

 Rủi ro không được bảo hiểm hoặc bị loại trừ khỏi bảo hiểm cũng tham gia

Nguyên nhân cùng gây thiệt hại

Hãy xem xét tình huống một cơn bão không những gây thiệt hại mà còn gây lụt lội. Giả sử một
hợp đồng bảo hiểm cho thiệt hại bão gây ra nhưng loại trừ tình huống lụt lội, vậy hai sự kiện xảy ra
trùng nhau. Tòa án khi xem xét những trường hợp như thế này thường phải yêu cầu xác định
nguyên nhân gần nhất trong trường hợp xảy ra. Trong trường hợp này, họ phải xác định:

 Khi có một rủi ro được bảo hiểm và một rủi ro không được bảo hiểm cùng xảy ra, sẽ có khiếu
nại xảy ra

 Khi có một rủi ro được bảo hiểm và một rủi ro bị loại trừ bảo hiểm cùng xảy ra, sẽ có khiếu nại
xảy ra

 Khi có một rủi ro không được bảo hiểm và một rủi ro bị loại trừ bảo hiểm cùng xảy ra, sẽ
không có khiếu nại xảy ra

Có một tiêu chuẩn quan trọng cho những tiêu chí này là khi có thể vừa xác định và phân biệt
rõ ràng giữa thiệt hại được bảo hiểm và thiệt hại bị loại trừ trong một tình huống cùng gây thiệt hại
thì có thể thực hiện bồi thường cho phần tổn thất đã bảo hiểm.

Những nguyên nhân nối tiếp

Trong nhiều trường hợp thiệt hại, rủi ro nối tiếp nhau theo thứ tự. Hãy xem ví dụ sau đây:

 Một ngôi nhà bốc cháy gây ra tổn thất chính

 Chỉ còn một bức tường vẫn chưa đổ sụp

 Chính quyền địa phương ra lệnh phá hủy bức tường

84
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
 Một cơn bão xảy ra đêm đó và gió to đã làm đổ bức tường

 Bức tường đó đã gây tổn thất lớn cho nhà máy bên cạnh

 Nhưng nhà máy đó chỉ được bảo hiểm cho thiệt hại hoặc tổn thất do lửa gây ra.

 Người được bảo hiểm lý luận rằng lửa chính là nguyên nhân gần nhất. Công ty bảo hiểm cho
rằng cơn bão mới là nguyên nhân gần nhất, và rủi ro này không được bảo hiểm.

Vậy, đâu là nguyên nhân gần nhất của thiệt hại này? Ví dụ này là một vụ có thật và tòa án đã
phán quyết rằng tổn thất đối với tài sản bên cạnh là do lửa gây ra. Không có sự gián đoạn trong
chuỗi các tác nhân gây thiệt hại.

Nguyên nhân gần nhất có nghĩa là các nguyên nhân tích cực, chủ động có hiệu quả gây ra một
chuỗi những sự kiện, những sự kiện này tạo ra những kết quả mà không có sự can thiệp hay nguồn
lực nào bắt đầu và diễn tiến một cách chủ động từ một nguồn mới và độc lập.

Tòa án, khi xem xét những tình huống đòi hỏi phải xác định nguyên nhân gần nhất xảy ra theo
thứ tự, phải quyết định những điều sau:

 Khi một rủi ro không được bảo hiểm được tiếp nối bởi một rủi ro được bảo hiểm, thì có bồi
thường

 Khi một rủi ro được bảo hiểm được tiếp nối bởi một rủi ro không được bảo hiểm, thì có bồi
thường

 Khi một rủi ro được bảo hiểm được tiếp nối bởi một rủi ro bị loại trừ, thì có bồi thường

 Khi một rủi ro bị loại trừ được tiếp nối bởi một rủi ro được bồi thường, thì không có bồi
thường

 Khi một rủi ro bị loại trừ được tiếp nối bởi một rủi ro không được bồi thường, thì không có
bồi thường

Việc cân nhắc nguyên nhân gần nhất không chỉ đơn thuần là bài toán học thuật. Gần đây,
nhiều nước vừa trải qua và bị thiệt hại nặng nề bởi một số cơn bão lớn gây lụt lội nghiêm trọng.
Trong những trường hợp này, hai hiểm họa cùng xảy ra và gây thiệt hại cho cộng đồng trên diện
rộng, một là bão, một rủi ro luôn luôn được bảo hiểm và lụt lội - một rủi ro luôn bị loại trừ. Việc
quyết định nguyên nhân gần nhất không phải là một bài toán dễ dàng.

Gian lận bảo hiểm (Trục lợi bảo hiểm)

85
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
Một tỷ lệ lớn trong tổng số tiền bồi thường chi trả là kết quả của việc gian lận bảo hiểm và
công ty bảo hiểm đã xây dựng được một số cơ sở chung để phát hiện khả năng gian lận. Vấn đề này
được các nhà bảo hiểm trên thế giới rất quan tâm.

Gian lận bồi thường có hậu quả gì đối với một hợp đồng bảo hiểm ?

Trong các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm, gian lận bồi thường có thể dẫn đến:

 Hợp đồng bị vô hiệu hoá ngay từ đầu

 Từ chối mọi nghĩa vụ bồi thường, ngay cả khi chỉ một phần của bồi thường liên quan đến
gian lận

 Hủy tất cả các hợp đồng bảo hiểm khác được thực hiện tại thời điểm đó

Những biểu hiện gian lận

Dưới đây là một số ví dụ về chỉ số gian lận hoặc những dấu hiệu để nhân viên giải quyết bồi
thường có thể điều tra sâu hơn trong quá trình thẩm định bồi thường.

 Bảo hiểm vượt quá giá trị thực. Số tiền được bảo hiểm, hoặc giá trị đã công bố phải là những
đánh giá khá chính xác đối với tài sản được bảo hiểm. Khi hợp đồng có lượng tiền được bảo hiểm
vượt quá rõ rệt mức giá trị thật của tài sản được bảo hiểm, tính theo cơ sở thay thế hay bồi thường,
thì nhân viên giải quyết bồi thường phải yêu cầu thêm thông tin

 Thông tin do người được bảo hiểm cung cấp không thống nhất. Những thông tin trái ngược
trong đơn bồi thường, hoặc có thể là các thông tin trong đơn bồi thường hoàn toàn ngược lại với
thông tin trong đơn xin bảo hiểm, hoặc trong báo cáo của cảnh sát hoặc có sự sửa chữa trong báo
cáo, tất cả các trường hợp này cần phải được làm rõ thêm.

 Bằng chứng thiệt hại tài chính. Khi công việc kinh doanh có dấu hiệu thua lỗ về tài chính thì
đó cũng có thể là một động cơ để người được bảo hiểm gian lận bồi thường.

 Điều kiện vật chất của tài sản tại thời điểm thiệt hại. Khi người được bảo hiểm, ví dụ một nhà
máy thải chất gây ô nhiễm, đang phải đối mặt với việc chi phí lớn để sửa chữa hoặc chi phí cho việc
nâng cấp tài sản để tuân thủ quy định của chính quyền địa phương, thì có thể họ sẽ có động lực để
gây ra những hành vi gian lận yêu cầu bồi thường.

 Các vấn đề an toàn ở nơi đặt tài sản. Một hoạt động kinh doanh được bảo hiểm phụ thuộc rất
nhiều vào vị trí của nó. Kế hoạch tái phát triển của vùng, hoặc khi hạn thuê nhà xưởng sắp hết có
thể là những đe doạ đối với khả năng bền vững của công ty. Tương tự ở đây cũng có động cơ để
thực hiện gian lận bồi thường.
86
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
 Sự có mặt của một nhân tố xúc tác. Xe cứu hỏa, cảnh sát và những cơ quan giám định hình sự
có thể cung cấp những thông tin khiến người ta chắc chắn về một vụ cháy do chủ ý và một yếu tố
xúc tác cho quá trình này có thể tìm thấy, ví dụ đó là xăng.

 Khi không tìm thấy bằng chứng của sự đột nhập dùng lực. Lính cứu hỏa thường báo cáo rằng
khi họ đến hiện trường vụ cháy tất cả các cửa chính và cửa sổ đều khoá an toàn, và họ phải dùng
dùng lực để vào được trong ngôi nhà. Điều này có thể chứng minh một điều đây không phải là một
vụ cố tình gây cháy, song cũng có thể cho là ai đó có chìa khoá nhà có thể gây ra vụ cháy này.

 Loại tài sản được yêu cầu bồi thường. Ví dụ như một số tài sản giá trị và hấp dẫn kẻ đột nhập
hơn đã không bị lấy cắp trong khi những vật kém giá trị hơn đã bị lấy đi. Tài sao tên trộm lại lấy đi
những thứ không mấy giá trị và để lại những món đồ giá trị hơn? Đây có thể là dấu hiệu của một
yêu cầu bồi thường giả, do sự thiếu logic trong những vật dụng bị đánh cắp

 Thông tin lưu giữ về những yêu cầu bồi thường khác. Yêu cầu Phòng đối chiếu Bảo hiểm
cung cấp thông tin có thể tìm thấy bằng chứng là người được bảo hiểm đã khiếu nại với nhiều công
ty bảo hiểm để được bồi thường và thông tin này đã không được khai báo khi thực hiện hợp đồng
bảo hiểm này. Trong trường hợp này có thể nghi ngờ phẩm chất đạo đức của người được bảo hiểm

 Ngày xảy ra thiệt hại. Ngày thực sự xảy ra thiệt hại có thể là biểu hiện chỉ dẫn về sự gian lận
rất có ích khi kết hợp với các số liệu khác, ví dụ ngày thiệt hại trong quan hệ với:

- Ngày bảo hiểm được mở rộng phạm vi, theo hợp đồng, ví dụ thêm một số phần mới, yêu cầu
phạm vi bảo hiểm rộng hơn.

- Ngày mà số tiền bảo hiểm được tăng lên

- Quyết định từ chối bồi thường lần trước

- Bản chất của kinh doanh được bảo hiểm. Ví dụ, yêu cầu bồi thường cháy hoặc mất trộm của
một công ty nhập khẩu đồ chơi vào thời điểm tháng một hoặc tháng hai có thể bị nghi ngờ là hành
động gian lận nhằm thanh lý hàng tồn kho sau mùa Giáng sinh.

- Thời điểm bắt đầu có hiệu lực của một quy định pháp lý, (hoặc mối đe doạ), đối với người
được bảo hiểm hoặc việc kinh doanh của người được bảo hiểm

- Bắt đầu có những biểu hiện không tốt trong mối quan hệ cá nhân của người sở hữu kinh
doanh, ví dụ việc chấm dứt hợp tác kinh doanh.

87
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
Nguyên lý thực hành bảo hiểm
3.4. KẾT LUẬN

Luật là một hệ thống các quy tắc, được phát triển qua một thời gian dài để điều chỉnh quan hệ
giữa con người với con người nhằm tổ chức các hoạt động cộng đồng và duy trì sự lành mạnh của
xã hội. Nhiệm vụ của bảo hiểm là chia sẻ rủi ro hoặc nói theo cách khác là chia sẻ tổn thất. Những
rủi ro gây thiệt hại được chia sẻ từ người phải chịu rủi ro sang những người đã có sự chuẩn bị để
gánh vác rủi ro. Nhiệm vụ của pháp luật là bảo đảm quá trình này được vận hành một cách công
bằng giữa các bên và phát huy các chức năng một cách có trách nhiệm trong xã hội.

Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm có trước, vì thế luật pháp luôn luôn ở trạng thái thường xuyên
điều chỉnh để bắt kịp với thực tế. Cũng chính vì vậy Luật Kinh doanh Bảo hiểm luôn phát triển để
giải quyết những mối quan hệ phát sinh trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm.

Sự ra đời và phát triển của Quyền lợi có thể được bảo hiểm là để ngăn chặn hành động cá cược
thông qua hợp đồng bảo hiểm. Để chứng minh Quyền lợi có thể được bảo hiểm, người được bảo
hiểm phải có mối quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được hưởng lợi nếu nó an toàn hoặc phải
chịu thiệt thòi nếu xảy ra thiệt hại. Phần còn lại của chương 3 phân tích các qui định cũng như cách
thức xác định phí bảo hiểm, cách thức bồi thường, các hình thức gian lận và xử lý gian lận trong
hợp đồng bảo hiểm nếu điều này xảy ra.

88
Chương 3: Pháp luật về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm

You might also like