Professional Documents
Culture Documents
Xemtailieu Phuong Ngu Nam Bo Trong Tieu Thuyet Dat Rung Phuong Nam Cua Doan Gioi
Xemtailieu Phuong Ngu Nam Bo Trong Tieu Thuyet Dat Rung Phuong Nam Cua Doan Gioi
1
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
B - PHẦN NỘI DUNG
Chương một: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
VỀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT
1. Về khái niệm phương ngữ
2. Về việc phân vùng phương ngữ trong Tiếng Việt
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
1. Về khái niệm phương ngữ Nam Bộ
2. Một vài đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
2. 1. Đặc điểm ngữ âm
2.2. Đặc điểm từ ngữ và phong cách
3. Các kiểu phương ngữ Nam Bộ
3.1. Kiểu I- Những từ khác âm, khác nghĩa
3.2. Kiểu II - Những từ khác âm nhưng gần nghĩa
Khác ở kiểu đầu ở chỗ cặp yếu tố được so sánh tuy khác âm nhưng lại gần
nghĩa, nói cách khác là chỉ chung ở một số nét nghĩa nào đó. Chẳng hạn như:
vào và vô thoạt nhìn tưởng là hai từ đồng nghĩa hoàn toàn, nhưng thật ra
nghĩa của từ vào rộng hơn và có khả năng kết hợp rộng hơn. Tác giả lấy ví dụ
hai câu Kiều:
3.3. Kiểu III - Những từ khác âm nhưng đồng nghĩa
3.4. Kiểu IV- những từ gần âm nhưng khác nghĩa
3.5. Kiểu V - Những từ gần âm và gần nghĩa
3.6. Kiểu VI - Một trong hai từ là biến thể ngữ âm của từ kia
3.7. Kiểu VII - Những từ đồng âm nhưng khác nghĩa
2
3.8. Kiểu VIII - Những từ giống âm nhưng chỉ gần nghĩa
Chương hai: KHẢO SÁT TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT
RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI
I. GIỚI THIỆU VĂN BẢN ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN
GIỎI
1. Vài nét về tác giả
1.1. Cuộc đời
1.2. Sự nghiệp sáng tác
2. Vài nét về tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
II. THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI
1. Thống kê từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi
2. Phân loại từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi
3. Bảng thống kê kết quả phân loại các từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu
thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi
III. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ TỪ PHƯƠNG NGỮ TRONG TIỂU
THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI
IV. GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI
1. Từ phương ngữ Nam Bộ trong việc thể hiện những đặc điểm của thiên nhiên
Nam Bộ
2. Từ phương ngữ Nam Bộ trong việc thể hiện sinh hoạt của con người Nam Bộ
3. Từ phương ngữ Nam Bộ trong việc xây dựng con người Nam Bộ
3.2. Thể hiện tính cách, hành động và tâm lí nhân vật
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
3
A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, vùng đất Nam Bộ chỉ mới hình thành trên dưới 300 năm.
So với các vùng miền khác trên cả nước thì Nam Bộ còn là một vùng đất mới, hoang
sơ. Con người ở đây cũng không phải là những bậc danh nhân tài tử, những nhà Nho,
nhà tri thức lỗi lạc, mà đa số họ là những người nông dân tay lắm chân bùn, là những
người nghèo khổ, bị áp bức phải bỏ quê hương xứ sở đến đây lập nghiệp, cũng có một
số người bị đày đi khai vùng hoang đất mới,…. Và đã trở thành những chủ nhân đầu
tiên của vùng đất cực Nam Tổ Quốc này.
Với hệ thống sông ngòi dày đặc, phù sa màu mỡ thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp trồng lúa nước. Khí hậu ở đây ấm áp, mưa thuận gió hòa tạo điều kiện cho cây
cối sinh sôi, nảy nở. Nam Bộ được xem là vùng đất trù phú với sự ưu đãi của thiên
nhiên, sông ngòi chằng chịt là nơi sinh sống của rất nhiều loài cá tôm, đây là nguồn
thực phẩm dồi dào và vô tận mà tự nhiên đã ban tặng cho con người. Thiên nhiên đã
tạo điều kiện để con người gắn bó hơn với vùng đất này. Từ đó, họ ra sức khai hoang,
lập vườn, mở ruộng dần biến vùng đất đầm lầy hoang sơ thành một vùng đồng bằng
màu mỡ, phì nhiêu hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển.
Bên cạnh sự ưu đãi, con người cũng phải luôn đương đầu với những thử thách,
khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà trong ca dao có câu: “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa
lền tợ bánh canh” hay “dưới sông sấu bắt, trên bờ hùm tha”, mà đây là điều có thật.
Cuộc sống như vậy đã hình thành cho con người Nam Bộ những nét tích cách riêng,
rất đặc biệt. Tính cách đặc trưng, ngôn ngữ cũng rất đặc trưng. Bên cạnh đó, còn có sự
giao lưu văn hóa, ngôn ngữ của các dân tộc sống trên cùng một lãnh thổ, mà tiêu biểu
là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa ba dân tộc anh em: Kinh- Hoa- Khơme.
Do quá trình hình thành và phát triển dân cư, do điều kiện thiên nhiên địa lí và
phương thức sản xuất, do truyền thống tín ngưỡng và tập tục lâu đời…. Trên đất nước
ta đã hình thành những vùng văn hóa khác nhau. Đó là dạng văn hóa mang đậm sắc
thái tâm lý cộng đồng, thể hiện trong sinh hoạt, trong ngôn ngữ, trong thái độ đối với
các di sản, các giá trị tinh thần, trong sự cảm thụ và thưởng thức nghệ thuật trong
phong thái ứng xử, quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với những
gì ràng buộc chung quanh nó….
4
Việc khảo sát nghiên cứu PN sẽ là cơ hội tốt để người viết có thể tìm hiểu
những điều vừa nói trên. Đồng thời, học hỏi nhiều điều thú vị từ mảnh đất Nam Bộ,
mảnh đất đã sinh ra tôi và những người người dân Nam Bộ giàu tình cảm. Đó vừa là
điều kiện để người viết học hỏi, trau dồi thêm kiến thức chuyên môn nói riêng và một
phần tìm hiểu cách sáng tác văn chương nghệ thuật. Thấy được cái hay, cái đẹp trong
việc sử dụng từ là chất liệu cấu thành nên một tác phẩm nghệ thuật, học hỏi cách sử
dụng khéo léo, linh hoạt của nhà văn trong việc sử dụng từ phương ngữ trong tác phẩm
của mình. Và thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ, người viết còn được hiểu thêm về
phong tục, tập quán cũng như tâm tư, tình cảm, tính cách của người dân Nam Bộ để có
cách ứng xử đúng đắn.
2. Lịch sử vấn đề
Về vấn đề PN và PNNB, có rất nhiều công trình nghiên cứu, chuyên luận và
chuyên đề xem xét đến. Nhưng cũng bởi có rất nhiều tác giả cùng nghiên cứu nên hình
thành nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất về vấn đề này. Trong khi đó, tài
liệu tham khảo về tác giả Đoàn Giỏi và tiểu thuyết Đất rừng phương Nam lại rất hạn
chế. Nhìn chung, có rất ít bài viết bàn về ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của
Đoàn Giỏi.
2.1. Về phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ
2.1.1. Về phương ngữ
Theo các tác giả cuốn Tiếng Việt trên đường phát triển, vấn đề PN tiếng Việt đã
được các nhà ngôn ngữ học quan tâm từ rất sớm, khoảng đầu thế kỉ XX.
Năm 1092, L. Cadière đi theo hướng mô tả đặc điểm cụ thể của một vùng PN
đã cho xuất bản công trình nghiên cứu đầu tiên về PN.
H. Maspero (1912) cũng theo hướng của L. Cadiere kết hợp vấn đề phân vùng
PN với việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt cũng công bố một công trình nghiên cứu với
những nhận định khá cơ bản về PN.
Đến nửa sau thế kỉ XX, việc nghiên cứu PN được triển khai mạnh hơn, lực
lượng tham gia nghiên cứu và cách tiếp cận, nhìn nhận vấn đề của các tác giả này đa
dạng và phong phú hơn. Cụ thể các tác giả đó tiếp cận PN theo ba xu hướng sau:
(1) Xu hướng quan tâm đến vấn đề phân vùng PN có rất nhiều ý kiến khác
nhau. Có tác giả phân thành hai vùng, có ý kiến phân thành ba vùng, lại có ý kiến phân
5
thành bốn vùng hoặc nhiều hơn bốn vùng PN. Thậm chí còn có ý kiến không phân
vùng PN.
(2) Mô tả cấu tạo, đặc điểm của các thổ ngữ hay vùng PN là xu hướng thứ hai
được nhiều tác giả chú ý. Khách quan mà xét, xu hướng này thu được kết quả nhiều
hơn. Đây là xu hướng xuất hiện ngay từ khi có các công trình nghiên cứu PN tiếng
Việt và tiếp tục cho đến ngày nay. Các tác giả tiêu biểu cho xu hướng tiếp cận này là
Hoàng Thị Châu, Cao Xuân Hạo, Võ Xuân Trang,…
(3) Xu hướng tiếp cận mặt văn hóa xã hội của PN là xu hướng xuất hiện từ nửa
sau thế kỉ XX.
Bên cạnh ba xu hướng trên thì cũng có một vài ý kiến nhìn nhận vấn đề PN theo
hướng khác, ví dụ như quan tâm đến kĩ thuật xử lý vấn đề. Hoàng Cao Cương và Đinh
Lệ Thư đã đưa giọng địa phương cụ thể vào nghiên cứu thực nghiệm, cách này cũng là
một phát kiến mới. Tuy nhiên, đây là cách khác phức tạp nên ít được các tác giả khác
vận dụng.
2.1.2. Về phương ngữ Nam Bộ
Như đã nói, từ xưa đến nay, PN là một vấn đề quan trọng được rất nhiều người
quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là PNNB có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như
sau:
Phương ngữ Nam Bộ - những khác biệt về từ vựng ngữ nghĩa so với phương
ngữ Bắc Bộ cuả Trần Thị Ngọc Lang. Trong công trình này, phần I là phần dẫn luận,
tác giả nêu các khái niệm PN, ngôn ngữ toàn dân, thổ ngữ, biệt ngữ, tiếng lóng,….
Cũng như nguyên nhân hình thành PN, ý nghĩa việc nghiên cứu PN. Sang phần II, tác
giả phân loại PN thành tám kiểu, ở mỗi kiểu tác giả trình bày đặc trưng riêng của từng
kiểu. Đồng thời, đưa ra những vấn đề rất cụ thể căn cứ vào hai tiêu chí là âm và nghĩa.
Ở phần II, tác giả nêu lên một số vấn đề cụ thể như cách xưng hô trong PNNB, nhóm
từ liên quan đến sông nước, từ láy trong PNNB, ngữ khí từ trong PNNB. Cuối cùng là
phần kết luận chung của tác giả và bản phụ lục về từ láy trong PNNB có từ láy tương
ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Công trình này có thể làm cơ sở cho việc nghiên cứu về
PNNB.
Một công trình đáng chú ý khác là Từ điển đối chiếu từ địa phương của Nguyễn
Như Ý. Ở công trình này, trước khi đi vào giải nghĩa từ, để người đọc hiểu sơ lược về
6
PN, tác giả đã viết lời đầu sách để đưa ra một số khái niệm như: PN, phương ngữ học,
mục đích nghiên cứu, công dụng và đối tượng sử dụng của công trình.
Bên cạnh đó còn có sổ tay phương ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái (chủ biên).
Trong công trình này tác giả có nói qua vài nét về PNNB như: PN và tình hình phân
bố PN ở Việt Nam, nguyên nhân hình thành PN, đặc điểm về ngữ âm, đặc điểm về từ
vựng phong cách. Sau đó, tác giả mới đi vào giải thích những từ PNNB một cách
chính xác và ngắn gọn. Chính vì vậy, công trình này giúp ích rất nhiều cho việc tra cứu
để ứng dụng và học tập nghiên cứu.
Công trình có quy mô lớn về PNNB gần đây nhất có lẽ là quyển Từ điển từ ngữ
Nam Bộ của tác giả Huỳnh Công Tín. Cũng như các tác giả khác biên soạn từ điển về
PNNB, trước khi đi vào giải nghĩa từ, tác giả cũng gởi đến bạn đọc những nội dung có
liên quan đến vấn đề tác giả muốn hướng tới, cụ thể như: nội dung cấu tạo, quyển từ
điển, các bảng vận mẫu tiếng Hà Nội, vận mẫu tiếng Sài Gòn, vận mẫu tiếng Trà Vinh
được viết theo phiên âm quốc tế, các bản đồ hành chính Nam Bộ qua các thời kì ….
Tiếp theo tác giả cũng đưa ra một số vấn đề về PNNB: sự hình thành vùng đất con
người, sự hình thành PNNB, đặc điểm PNNB, một số hạn chế của PNNB. Công trình
này có đặc điểm nổi bật là mỗi từ đều có phiên âm quốc tế giúp ích cho người trong
nước và cả người ngoài nước nước muốn nghiên cứu về PNNB. Bên cạnh đó, số lượng
từ được đưa vào rất lớn và được đánh giá là: “quyển từ điển có dung lượng lớn và nội
dung phong phú hơn nhiều so với các quyển từ điển phương ngữ trước đây” – lời NXB
chính trị quốc gia. Cho nên, đây cũng là một trong những tư liệu tra cứu rất hữu ích
cho những ai quan tâm đến PNNB.
Ngoài ra, còn có các công trình khác có liên quan như: Bùi Tất Tươm (chủ
biên), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tam, 1997, Giáo trình Cơ sở ngôn ngữ học và
tiếng việt, Nhà xuất bản Giáo dục; Nguyễn Thiện Giáp, 2003, từ vựng học tiếng việt,
NXB Giáo dục; Nguyễn Như Ý (chủ biên), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,
NXB Giáo dục,….
2.2. Về ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Đoàn Giỏi
Nhà thơ Xuân Diệu đã có nhận xét: “Miền Nam có Đoàn Giỏi là một tự hào
lớn, và chỉ có Đoàn Giỏi mới có nhân vật, phong cách ngôn ngữ, phong tục của vùng
đất hào hùng đó.”
7
Theo Đoàn Minh Tuấn: “nhà văn Đoàn Giỏi là một trong những người đầu tiên
truyền bá ngôn ngữ phương Nam hiện đại, anh là người “máu của máu Việt Nam”
là vậy!”
Trong tập tiểu luận - phê bình Tiếng vọng những mùa qua của Nguyễn Thị
Thanh Xuân (NXB Trẻ, 2004) nhận định về tác giả Đất rừng phương Nam: “Có
mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang viết đã biến miền
quê riêng của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm tưởng bao người...
Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc đó... Ông đã đem
đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất mà trước đó
xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người... Ông đã xây dựng những nhân
vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa..." (Đoàn Giỏi, đất và rừng
phương Nam).
Phạm Văn Tình trong bài Mái đình - nét đẹp trong hồn quê Việt Nam viết: Nhà
văn Đoàn Giỏi, trong bài tùy bút Măng tầm vông đã có những dòng thật cảm động,
mô tả tâm trạng của người con miền Nam tập kết ra Bắc, ngồi trên thuyền nhìn lại
xóm làng của mình lần cuối: “Tôi đứng mãi trên boong, chờ đợi phút qua ngang nhà.
Làng tôi, xanh ngắt những tàu dừa, tàu chuối. Mái đình cháy hơn một nửa, nhô ra
giữa rặng cây. Bờ tầm vông thấp thoáng, ngọn tầm vông hoe vàng trong ánh nắng
một chiều thu".
Mái đình cháy hơn một nửa - vết tích của chiến tranh tàn phá, như một nỗi đau
gieo giữa lòng nhà văn, một người con sắp tạm rời xa xứ sở. Đấy là nỗi đau đau đáu
của dân tộc bao nhiêu năm. Đó là một mảnh hồn quê, làm nên một nét đẹp của xóm
làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những
áng thơ văn.
Nhà thơ Tế Hanh đã đánh giá với các bạn nhà văn nước ngoài: “chúng tôi có
thể gọi Đất rừng phương Nam đó là truyện Rôbinxơn của Việt Nam! Vì nó cũng là
những trang vàng huyền thoại và hấp dẫn không kém.”
Cái chất thơ mà Đoàn Giỏi gửi vào từng trang bút kí, vốn bắt nguồn từ tình yêu
mảnh đất và con người Nam Bộ và được thể hiện trong từng chi tiết miêu tả, trong
ngôn ngữ và tính cách nhân vật. Cái “chất liệu miền Nam” ấy đã đem tới nền văn học
của chúng ta trong những năm 50, 60 ngày ấy một sự khởi sắc đầy ấn tượng mới mẻ,
8
hấp dẫn, một thứ bổ sung cho cách nhìn về con người và thiên nhiên vùng đất
phương Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để giúp cho người viết hiểu biết thêm về phong tục tập quán, cũng
như tâm tư tình cảm của con người Nam bộ. Điều này giúp bản thân thêm thận trọng,
giữ gìn những điều tốt đẹp mà con người quê hương Nam Bộ đã có được. Nghiên cứu
để thấy và hiểu được cái hay của tác phẩm mang đậm chất Nam Bộ của nhà văn Đoàn
Giỏi.
Để thực hiện đề tài này, người viết phải làm có kế hoạch, sưu tầm nhiều nguồn
tài liệu có liên quan để đối chiếu so sánh và đưa ra kết luận riêng của bản thân. Mỗi kết
luận được đưa ra đều phải có cơ sở rõ ràng.
Mọi công việc khi tiến hành đều được xác định rõ ràng tầm quan trọng, ảnh
hưởng đặc biệt là mục đích, yêu cầu của nó. Hơn thế nữa, khi nó là công trình nghiên
cứu thuộc lĩnh vực khoa học.
Nghiên cứu đề tài: “Từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất rừng phương
Nam của tác giả Đoàn Giỏi”, mục đích người viết là phải chỉ ra được các kiểu PNNB
mà tác giả thể hiện trong tác phẩm. Trong sáng tác văn học, tác giả có thể đưa các từ
PNNB vào tác phẩm của mình nhưng vấn đề đặt ra là phải vận dụng như thế nào để
vừa có sắc thái địa phương mà vẫn gây được hiệu quả, giúp ta hiểu được nhiều hơn
cách nói của người miền Nam lúc ấy. Khảo sát PNNB ta hiểu được phần nào mối quan
hệ ngôn ngữ Nam Bộ với ngôn ngữ Bắc Bộ và Trung Bộ và với ngôn ngữ toàn dân. Từ
đó, chúng ta có thể vận dụng PNNB đúng hoàn cảnh, đúng mục đích để tạo được giá
trị sử dụng cao.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do người viết thấy rằng trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của tác giả
Đoàn Giỏi, tác giả chủ yếu viết về con người Nam Bộ trong kháng chiến, những cuộc
chia lìa, mất mát, vùng quê bị quân thù tàn phá, …. Chính điều đó đã làm nên tinh thần
yêu nước của người dân tăng lên gấp bội và lòng căm thù giặc ngày càng sâu sắc.
Không chỉ các chiến sĩ cách mạng chống giặc mà ngay cả những người nông dân quê
mùa chất phát cũng quyết tâm giết kẻ thù để bảo vệ xóm làng. Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi đã viết về người nông dân Nam Bộ như thế. PNNB đã được tác giả vận
9
dụng nhiều để thể hiện sự đồng cảm của mình, đồng thời nói lên những đặc trưng của
vùng đất và con người nơi đây.
Do thời gian có hạn nên người viết chỉ khảo sát PNNB trong cuốn tiểu thuyết
Đất rừng phương Nam, gồm có 20 chương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu người viết đã sử dụng kết hợp các phương pháp.
Trước hết là hệ thống hóa và tổng hợp hóa các kiến thức, lí luận cơ bản về PN và
PNNB để làm cơ sở lí thuyết cho quá trình nghiên cứu. Sau đó, người viết sử dụng
phương pháp thống kê, phân loại kết hợp với đối chiếu, so sánh để tiến hành thống kê,
phân loại các từ phương ngữ trong ngữ liệu văn học cụ thể. Cuối cùng, người viết hệ
thống và khái quát hóa lại kiến thức để đưa ra những kết luận, những nhận định chung
về vấn đề sử dụng từ PNNB trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi.
10
B - PHẦN NỘI DUNG
Chương một: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
VỀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT
1. Về khái niệm phương ngữ
Phương ngữ vốn là một đề tài nghiên cứu thu hút nhiều tác giả. Và trong thực tế
có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Ở mỗi công trình các tác giả đều có
hướng nghiên cứu riêng. Hiện nay những nhận định này cũng chưa hoàn toàn thống
nhất. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu về khái
niệm PN:
Các tác giả trong cuốn Ngôn ngữ học khuynh hướng – lĩnh vực – khái niệm (tập
hai) cho rằng: “phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và
ngữ âm riêng biệt sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp là ngôn ngữ, là một
hệ thống kí hiệu và nguyên tắc kí hiệu có nguồn gốc chung với hệ thống khác được coi
là ngôn ngữ (cho toàn dân tộc), các phương ngữ (có người gọi là tiếng địa phương,
phương ngôn) khác nhau trước hết là về mặt ngữ âm, sau đó là ở vốn từ vựng”.[23;
tr.275]
Nguyễn Văn Ái cho rằng: “có thể nói một cách nôm na phương ngữ là một
chuỗi các nét biến dạng phương ngữ của một ngôn ngữ chung toàn dân, do những tác
động về địa lí xã hội mà dần dần hình thành.”[1; tr.9]
Theo ý kiến của Nguyễn Hữu Chỉnh trong Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ:
“phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm riêng
biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hẹp hơn là ngôn ngữ dân tộc. Nó khác biệt
với ngôn ngữ dân tộc trước hết là cách phát âm, sau đó là vốn từ vựng. Còn cú pháp
và hệ thống âm vị là những bộ phận cơ bản của kết cấu ngôn ngữ cũng có thể khác
biệt, song rất ít”.[6; tr.145]
Trong cuốn Phương ngữ Nam Bộ - những khác biệt về từ vựng – ngữ nghĩa
Trần Thị Ngọc Lang viết: “phương ngữ là phương tiện diễn đạt và giao tiếp của một
địa bàn (khu vực) dân cư”.[10; tr.10]
Theo các tác giả trong cuốn Từ điển đối chiếu địa phương cho rằng: “phương
ngữ hay còn gọi là tiếng địa phương là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong cộng
đồng dân cư tại một vùng, miền nhất định trên một lãnh thổ một nước”.[20; tr.3]
11
Theo Hoàng Thị Châu: “phương ngữ là thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu
hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó
so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác”.[5; tr.29]
Trịnh Sâm trong cuốn Đi tìm bản sắc tiếng Việt cho rằng: “Tiếng Việt bao giờ
cũng tồn tại dưới dạng những giọng nói cụ thể. Sự khác nhau trong giọng nói, tức về
mặt ngữ âm, là cơ sở đầu tiên, sau đó đến từ vựng để phân chia ranh giới giữa các
tiếng địa phương”.[18; tr.97]
Trong quyển Ngôn ngữ học xã hội – những vấn đề cơ bản Nguyễn Văn Khang
có viết: “Kết hợp với cách nhìn của ngôn ngữ học truyền thống về phương ngữ, có thể
thấy phương ngữ được xem xét ở hai mặt cấu trúc và chức năng, nếu nhìn ở góc độ
cấu trúc, gọi là phương ngữ của một phương ngữ một khi các phương ngữ này tuy có
hệ thống cấu trúc riêng nhưng vẫn chứng minh được mối quạn hệ cội nguồn giữa các
phương ngữ đó với ngôn ngữ. Hay nói cách khác, giữa ngôn ngữ và các phương ngữ
có mối quan hệ cội nguồn với nhau”[9; tr.109]. Nếu nhìn từ gốc độ chức năng thì
“phương ngữ là một loại biến thể ngôn ngữ mà chức năng giao tiếp chịu sự hạn chế
mang tính địa phương và sự phát triển của nó chưa đạt đến mức tiêu chuẩn hóa”.[9;
tr.109].
Thông qua việc tìm hiểu các khái niệm về PN của các nhà nghiên cứu, ta nhận
thấy mỗi tác giả có cách hiểu, cách đánh giá riêng dựa trên một tiêu chí nào đó. Nhìn
chung, vẫn chưa có sự thống nhất về mặt câu chữ. Nhưng chúng ta có thể hiểu nôm na
là: “Phương ngữ là ngôn ngữ riêng, tiếng nói riêng của một vùng hay một khu vực với
những khác biệt cụ thể của nó so với ngôn ngữ toàn dân”.
2. Về việc phân vùng phương ngữ trong Tiếng Việt
Vấn đề phân vùng PN trong tiếng Việt được rất nhiều người quan tâm. Và thực
tế có rất nhiều cách phân vùng PN trong tiếng Việt. Có thể khái quát thành nhiều
khuynh hướng như: không phân vùng PN, phân chia thành hai vùng, ba vùng, bốn
vùng, năm vùng và còn nhiều hơn nữa. Cụ thể:
Các ý kiến theo khuynh hướng phân chia hai vùng PN: công trình nghiên cứu
Ngữ âm lịch sử tiếng Việt của H.Maspero hoặc một số ý kiến khác của tác giả như:
M.V Gordina và các đồng sự 1970, I.S Bustrow và Hoàng Phê. Các tác giả này đều
thừa nhận PN của hai địa bàn nằm hai tuyến của đất nước: Hà Nội – Sài Gòn. Quan
điểm này có tính chất đối trọng về mặt lịch sử, xã hội, còn tiếng nói nằm ở khu vực
12
giữa hai vùng được lập luận là có tính chất chuyển tiếp. Các ý kiến phân vùng này chủ
yếu đặt nặng yếu tố ngoài ngôn ngữ hơn là các yếu tố ngôn ngữ.
Ý kiến chia tiếng Việt thành ba vùng PN: Bắc, Trung, Nam có phần đông đảo
hơn. Có thể kể tên các tác giả như: Hoàng Thị Châu 1989, Võ Xuân Trang 1997, Đỗ
Hữu Châu, Phan Kế Bính, MV. Gordire, I.S Bustrou, Nguyễn Bạt Tụy,… Ở các tác giả
này đã có sự kết hợp hài hòa giữa các nhân tố góp phần tạo nên PN: tính chất địa lí –
xã hội, tính chất ngôn ngữ, ngữ âm, từ vựng,… ý kiến này đã khắc phục được hạn chế
của khuynh hướng phân chia thành hai vùng PN. Theo Hoàng Thị Châu thì “chia tiếng
Việt thành 3 vùng PN lớn: PN Bắc, PN Trung và PN Nam là ý kiến chung của nhiều
người và phù hợp với quan điểm dân gian” [6; tr.88]. Bởi, mọi người khi phân chia
các vùng PN chủ yếu dựa vào thanh điệu, giọng nói để phân chia, do đó mà gọi là
“giọng Bắc”, “giọng Nam”, “giọng Trung”.
Tuy nhiên, Huỳnh Công Tín cho rằng: “vẫn chưa nhìn nhận đầy đủ sự khác biệt
ngữ âm trong nội bộ vùng PN như vùng phương ngữ Nam Bộ”.[15; tr.31]
Phân thành bốn vùng PN: Đây là ý kiến được đông đảo các tác giả đồng tình:
Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Văn Ái, Trần Thị Ngọc Lang, Huỳnh Công Tín,
L.Cadiere, Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Trọng Báu,…
Theo Nguyễn Kim Thản (1982, 51 – 69):
PNBB bao gồm Bắc Bộ và một phần Thanh Hóa
PN Trung Bắc gồm Nam Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên
PN Trung Nam từ Quảng Nam tới Phú Khánh
PN Nam từ Thuận Hải trở vào [12; tr.88]
Theo cách phân chia này còn có tác giả Nguyễn Văn Ái: “phương ngữ Bắc Bộ
từ các tỉnh phía Bắc đến Thanh Hóa, phương ngữ Bắc Trung Bộ từ Nghệ Tĩnh đến
Bình Trị Thiên, phương ngữ Nam Trung Bộ từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Thuận Hải,
phương ngữ Nam Bộ từ Đồng Nai - Sông Bé đến mũi Cà Mau”.[1; tr.7]
Tác giả Huỳnh Công Tín cũng phân chia tiếng Việt thành bốn vùng PN trong
bài viết Tiếng Việt và vấn đề phân vùng phương ngữ tác giả đã có cách phân chia như
sau: “hướng phân chia mà chúng tôi tán thành là hướng phân chia mà chúng tôi tán
thành là hướng phân chia như tiếng Việt với ít nhất bốn vùng phương ngữ. Đó là
phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Trung Bộ : Bắc Trung Bộ,
Nam Trung Bộ”. [15; tr.32]. Cụ thể như sau:
13
PNBB: các tỉnh phía Bắc
PN Bắc Trung Bộ: từ Nghệ Tĩnh đến Bình Trị Thiên
PN Nam Trung Bộ: từ Quảng Nam tới Phú Yên
PNNB: từ Nha Trang vào Minh Hải
Cách phân vùng như trên đã bỏ qua Thanh Hóa nhưng đến khi viết quyển Từ
điển từ ngữ Nam Bộ tác giả Huỳnh Công Tín đã có đưa ra một cách phân chia khác
như sau:
Vùng phương ngữ Bắc Bộ được xác định bao gồm các tỉnh Bắc Bộ và Thanh
Hóa.
Vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ bao gồm các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên
Huế.
Vùng phương ngữ Nam Bộ bao gồm 3 khu vực là miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn
và Tây Nam Bộ, tính từ Bình Phước, Tây Ninh đến mũi Cà Mau.
Năm 1950, Nguyễn Bạt Tụy chia tiếng Việt thành ba vùng PN nhưng đến 1960
lại chia ra năm vùng PN, cụ thể:
PN Bắc: Bắc Bộ và Thanh Hóa
PN Trung trên: từ Nghệ An đến Quảng Trị
PN Trung giữa: từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Ngãi
PN Trung dưới: từ Bình Định đến Bình Tuy
PN Nam: từ Bình Tuy trở vào (dẫn theo Hoàng Thị Châu [5; tr.89])
Mỗi phương hướng phân vùng PN đều dựa trên một nhân tố nào đó. Thật ra,
chúng ta phải có cái nhìn bao quát hơn về vấn đề phân vùng PN hay không phân vùng
PN. Đó là phải xem xét một PN theo hai nhân tố: xã hội ngôn ngữ và ngôn ngữ. Có
nhiều cách phân chia vùng PN khác nhau nhưng các khuynh hướng này thường chỉ
khác nhau ở chỗ gộp chung hoặc phân chia vùng PN ở khu vực Trung Bộ. Bởi nội bộ
PN ở vùng này có sự khác nhau rất lớn về ngữ âm, chỉ cần có tiêu chí phân chia khác
nhau thì lập tức sẽ có cách phân chia mới. Vì vậy, đã tạo nên sự thiếu thống nhất trong
cách phân chia vùng PN. Riêng người viết đồng tình với cách phân chia thành bốn
vùng PN.
14
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
1. Về khái niệm phương ngữ Nam Bộ
Theo Huỳnh Công Tín thì “phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người dân
Nam Bộ dựa vào định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt, tác giả còn giải thích thêm
phương ngữ Nam Bộ được hiểu là biến thể địa lí của ngôn ngữ toàn dân”[16; tr.40]
Một số ý kiến xác định PNNB dựa vào phạm vi sử dụng của nó, tiêu biểu như:
Tác giả Nguyễn Kim Thản cho rằng: “phương ngữ Nam Bộ được sử dụng từ
Thuận Hải trở vào, phương ngữ này trẻ nhất, mới hình thành dần từ thế kỉ XVIII. Tuổi
đời ấy khiến nó tương đối thuần nhất”.[12; tr.61]
Theo Trần Thị Ngọc Lang thì “phương ngữ Nam Bộ là các đơn vị từ vựng tiếng
Việt ở khu vực dân cư Đồng Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau”.[10; tr.7]
Tác giả Nguyễn Phương Thảo trong quyển Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng
sông Cửu Long quan niệm “tiếng nói đồng bằng sông Cửu Long đồng nhất với tiếng
nói của cả một miền rộng lớn từ Thuận Hải trở vào, chủ yếu là vùng Nam Bộ cũ”.[13;
tr.142]
Có thể hiểu PNNB: “phương ngữ Nam Bộ là ngôn ngữ riêng của một cộng
đồng dân cư thuộc một phạm vi lãnh thổ là vùng Nam Bộ của Việt Nam (từ Bình
Phước, Tây Ninh đến mũi Cà Mau). Nó có sự khác biệt với ngôn ngữ toàn dân chủ yếu
ở ngữ âm, từ vựng riêng về ngữ pháp cũng có sự khác biệt nhưng rất ít”.
2. Một vài đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
2. 1. Đặc điểm ngữ âm
Xét trên bình diện ngữ âm, PNNB có sự khác nhau so với hệ thống ngữ âm của
ngôn ngữ Tiếng Việt toàn dân. Sự khác biệt này diễn ra trên các thành phần khác nhau
của âm tiết: phụ âm đầu, thanh điệu, phần vần, có thể nêu một số hiện tượng sai biệt
đáng chú ý:
Trước hết là về thanh điệu không những khác nhau về số lượng, PNNB chỉ có 5
dấu: ngang, huyền, hỏi, sắc, nặng. PNBB có 6 dấu là thêm dấu ngã, mà còn khác nhau
về chất, đặc biệt 3 dấu: hỏi, ngã, nặng của PNBB còn phát âm gằn nặng, nghẹn và
rung mạnh thanh đới, tạo nên màu sắc âm thanh khác với cách phát âm nhẹ lướt của
PNNB.[1; tr.10]
PNNB tận dụng 5 dấu làm phương tiện tạo ra từ mới hoặc láy từ, ví dụ như: tăn
măn, tằn mằn, tẳn mẳn, tắn mắn đêu mang ý nghĩa riêng hoặc gần nghĩa; hoặc cạn
15
xều, cạn xểu, cạn xếu, cạn xệu là những từ đồng nghĩa có tác dụng láy từ kiểu như: cạn
xếu cạn xệu, cạn xều cạn xểu.
Với phụ âm đầu ta có thể thấy sự phân biệt ở những âm tiết như: tr – ch – gi, r –
d, nh – l, s – x và cặp vần ăm – âm, ắp - ấp. Những phụ âm này thường được phát âm
rất khó phân biệt với nhau theo từng cặp như trường hợp của cặp s - x (sinh sản, số
sáu, xấu xa, ….) hay cặp tr – ch (trần, trên, trong, ….). Đó là điều hợp lí, phản ánh
đúng chữ viết của tiếng Việt và phù hợp với một vài PN khác.
Ngoài ra, âm đầu v ở PNNB chỉ tồn tại trong chữ viết không tồn tại hoặc một
phần nào đó trong phát âm v – d – gi đều phát âm thành d: vì, dì, gì. Hiện nay cách
phát âm đúng v đã tương đối phổ biến từ thành thị đến nông thôn Nam Bộ, đó là điều
hợp lí.
Phần vần có ba điều đáng nói. Thành phần âm đệm trong PN có điểm khác biệt,
mặc dù về hình thức chữ viết, chính tả so với ngôn ngữ toàn dân thì không có gì khác
biệt. Một là âm đệm o và u như: loan, luyến,… vốn là một âm lướt nhẹ, lơi, do đó khi
phát âm ở PN này, hoặc bị lược bỏ, ví dụ: loan – lan, luyến – liến, lòe loẹt – lè lẹt,
đường thủy – đường thỉ, chung thủy – chung thỉ. Hai là âm đôi iê, ươ, uô và các âm
đơn o, ô, ơ khi đứng trước m, p thì ở các âm đôi mất yếu tố sau, ví dụ: tiêm - tim, tiếp
– típ, lượm – lợm, cướp – cúp, luộm thuộm – lụm thụm. Các âm đơn đều phát âm thanh
ôm, ốp. Ví dụ: nom – nóm – nôm, họp – hộp – hợp. Hay con kênh – con kinh, nề nếp –
nề níp, sắp xếp – sắp xíp,…. Ba là phát âm không phân biệt 3 cặp âm cuối: n – ng, t –
c, y – i, ví dụ: tan – tang, tác – tát, tay – tai.[1; tr.11]
Cách phát âm ba cặp âm cuối nói trên và ba dấu giọng: ngã, hỏi, nặng tạo thành
một nét tiêu biểu giữa giọng Bắc và giọng Nam.
Nhìn chung, các hiện tượng khác biệt trong phát âm của người Nam Bộ có là
do khuynh hướng lựa chọn dễ dãi, ưa chuộng hình thức đơn giản hóa trong cuộc sống
giao tiếp sinh hoạt. Họ thường không thích dài dòng, có sự lựa chọn, câu nệ trong câu
nói, nghĩ sao nói vậy, nói rất phóng khoáng. Song ta nhận thấy rằng diện mạo ngữ âm
của đồng bằng Nam Bộ mang tính thống nhất cao, ít có “thổ âm”, qua phát âm không
thể phân biệt được ở tỉnh nào hay vùng nào mà chỉ có cảm giác chung là tiếng nói hay
giọng nói Nam Bộ mà thôi. Các PN khác không như vậy, có thể qua phát âm mà biết
được người ở tỉnh nào hay vùng nào.
16
2.2. Đặc điểm từ ngữ và phong cách
Sức mạnh của một PN hay của một ngôn ngữ không phải ở cách phát âm như
thế này hay thế khác, mà là ở vốn từ ngữ của nó. Vốn từ ngữ dồi dào thì sức biểu hiện
của ngôn ngữ hay PN đó càng mạnh. Ngôn ngữ phát triển chủ yếu ở mặt từ ngữ, tăng
thêm từ mới và bổ sung, biến đổi nghĩa của từ cũ.
Từ ngữ và phong cách của PNNB mang những đặc điểm cơ bản sau đây:
2.2.1. Giàu hình tượng, giàu tính so sánh và cụ thể
Sống giữa thiên nhiên hài hòa và đa dạng, có đồng ruộng bao la, có rừng sâu
biển dài, có sông ngòi chằng chịt, có vườn cây trái xanh thẳm bốn mùa, hoa thơm trái
lạ, muông thú sinh sôi…, mọi thứ gần như nằm trong tầm tay, ở ngay trước mắt. Con
người mang nặng dấu ấn của thiên nhiên. Ca dao, dân ca Nam Bộ chở nặng đầy ắp
hình tượng thiên nhiên: cây chuối – con quạ, cây bần – con đom đóm, cây mù u – con
bướm, lung đìa – con cá,….
Đối với tâm lý người bản địa, lời nói thiếu hình tượng và so sánh là lời nói thiếu
sức mạnh, thiếu sắc thái, nghèo nàn. Ngôn ngữ không thể sáng tạo ra thế giới và xã
hội, song, từ ngữ của ngôn ngữ có thể tạo ra hình ảnh của thế giới và in lại dấu ấn của
xã hội.
Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày cũng không vắng mặt hình tượng cụ thể: uống
mật gấu, dai như trâu đái, tức hơn bò đá, nhát như thỏ đế, ăn như xáng múc làm như
lục bình trôi,….đến việc lấy chồng lấy vợ là việc hệ trọng, bên cạnh bao nhiêu từ ngữ
hoa mĩ, nên thơ như: kết duyên, kết tóc se tơ, kết bạn trăm năm,…, bình dân hơn gọi là
lấy nhau thế mà người ta vẫn thêm một từ rất chi là bất ngờ, đến mức ngạc nhiên
đụng:
Chồng chèo thì vợ cũng chèo
Hai đứa cùng chèo lại đụng với nhau
(ca dao)
Ý nghĩa cụ thể đã được khái quát hóa, không dung tục mà giàu hình tượng.
Mặt khác, vùng Nam Bộ có mạng lưới sông ngòi chi chít gắn bó bao đời với
sinh hoạt của con người, đã là đối tượng để con người tìm hiểu, sử dụng, và từ đó đã
sáng tạo ra vô số từ ngữ có liên quan đến sông nước.
17
Nhóm từ chỉ địa hình: ngoài những tên gọi chung như: sông, ngòi, mương,
máng, lạch, kênh, ao, hồ,…. Mà còn thêm rạch, xẻo, xép, ngọn, rọc, dớn, láng, lung,
bung, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành,….[1; tr.14]
Nhóm từ chỉ sự vận động của dòng nước, ngoài sự phân biệt nước lớn (thủy
triều dâng) và nước ròng (thủy triều hạ) mà còn thêm nhiều từ ngữ khác như: nước
rong, nước kém, nước trồi, nước dềnh, nước sụt, nước giựt, nước bò, nước nhảy, nước
đứng, nước nằm, nước chừng, nước những, nước ương, nước chết, nước sát, nước rặt,
nước quay,…. [1; tr.14]
Nhóm từ chỉ phương tiện đi lại trên sông nước cũng rất phong phú muôn màu,
muôn vẻ, PN tỏ ra có khả năng diễn đạt những khái niệm đa dạng: ghe bầu, ghe bầu
nóc, ghe be, ghe cà vàm, ghe chài, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe hầu, ghe lồng, ghe
lườn, ghe ngo, vỏ lải, tắc rán, ba lá,…[1; tr.14]
Nhóm từ chỉ động vật sống dưới nước, tuy cùng một loại những cũng có cách
phân biệt cụ thể, tỉ mỉ, chẳng hạn con tôm thì có: tôm bạc, tôm càng, tôm châm, tôm
chấu, tôm chì, tôm chông, tôm chục, tôm cỏ, tôm đất, tôm gậy, tôm gọng, tôm hùm, tôm
kẹt, tôm lóng, tôm lứa, tôm mắt tre, tôm quỵt, tôm rồng, tôm sắc, tôm sú, tôm thẻ, tôm
tích, tôm tu, tôm vang,….[1; tr.14]
Giàu tính hình tượng trong PNNB phản ánh hiệu quả tri giác của con người đối
với hiện thực khách quan, khi con người nhận thức được thực tiễn một cách sâu sắc
với những khía cạnh muôn màu muôn vẻ của nó thì con người cảm thấy cần thiết phải
phân biệt những ý nghĩa tinh tế đó bằng những từ ngữ khác nhau. Tính cụ thể của PN
là nguồn phát triển của kho từ vựng ngày thêm phong phú, giúp cho tư duy con người
thêm chính xác. PNNB đa phần hướng đến sử dụng tối đa các hình thức cấu trúc của
ngôn ngữ để biểu thị những khái niệm gì hay những sắc thái ý nghĩa gì được con người
nhận thức được.
Tính cụ thể trong PN này không làm nghèo đi tính khái quát trừu tượng vốn có
của ngôn ngữ, ngược lại, chúng được phát triển song song. Ví dụ: để miêu tả những
đứa trẻ hư hỏng, lạc loài, bị ruồng bỏ, PNNB có từ bụi đời vừa cụ thể vừa khái quát để
diễn tả quan niệm phức tạp nói trên. Hoặc tương tự, từ chịu chơi diễn tả việc một
người tham gia vào một việc gì đó làm hết khả năng, không né tránh, e sợ bất cứ điề
gì.
18
2.2.2. Giàu tính cường điệu và khuếch đại
Cường điệu và khuếch đại trong ngôn ngữ không đồng nghĩa với nó trong cuộc
sống, không phải bốc đồng và làm to chuyện một cách vô lí. Nhưng, tính cường điệu,
khuếch đại ở PNNB nhằm phục vụ mục đích tâm lí của con người luôn sống cởi mở,
lạc quan và hướng về cái lớn, muốn nhấn mạnh những gì mình yêu thích một cách rõ
ràng, dứt khoát.[1; tr.15]
Tính cường điệu và khuếch đại cộng thêm với tính giàu hình tượng, giàu tính so
sánh, cụ thể đã tạo cho PNNB một nét thú vị mới lạ, độc đáo dù được cấu tạo bằng
những từ hết sức bình dân, quen thuộc. Ví dụ như đói queo râu từ này dùng cho tất cả
mọi người bất kể nam hay nữ, người không có râu vẫn bị đói queo râu như thường,
một số ví dụ khác như: rầu thúi ruột, tức cành hông, muồi rụng rún, nghèo xơ xác,
nghèo rớt mồng tơi, nghèo không có đồng xu dính túi,… Do tính cường điệu, khuếch
đại nên đôi khi dù diễn tả nỗi buồn, giận PNNB vẫn ẩn trong nó nụ cười hóm hỉnh, lạc
quan.
Cường điệu, khuếch đại là một biện pháp tu từ thường có trong ngôn ngữ: ăn
như điên, ngủ như chết, nói nhanh như gió,… nhằm tăng thêm hiệu quả diễn cảm của
ngôn ngữ. Nhìn chung, ở PNNB, tính cường điệu, khuếch đại được sử dụng nhiều, độc
đáo, mang tính mộc mạc, chất phát, không ngoa cách, tạo nên một trong những sắc
thái đặc thù của PNNB. Ngay cả trong ca dao Nam Bộ, tính cường điệu, khuếch đại
được vận dụng phổ biến, có phần táo bạo, gây nhiều cảm xúc:
Anh than một tiếng nát miễu xiêu đình
Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao huỳnh vội xếp vi.
(ca dao)
Ra về ruột nọ quặn đau
Sắc sâm mà uống mấy tàu chưa nguôi.
(ca dao)
2.2.3. Giàu tính dí dỏm, hài hước, khỏe khoắn
Thiên nhiên Nam Bộ trong những ngày đầu khai khẩn không kém phần dữ dội
nguy hiểm. Tuy nhiên, đây là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi. Điều đó cũng tác động
đến những con người sinh sống ở vùng này. Họ vừa thẳng thắn bộc trực, giàu nghĩa
khí lại vừa vui tươi, dí dỏm. Có như vậy, họ mới đủ sức để vượt qua những hiểm nguy
trong những ngày đầu đến với vùng đất vừa trù phú lại vừa bí hiểm này. Không phải vì
19
vậy mà họ hời hợt, vô tâm. Trái lại, người dân Nam Bộ cũng rất sâu sắc, tinh tế, một
nội tâm kín đáo, sâu thẳm, một suy tư trăn trở, khắc khoải, những nỗi buồn da diết:
Ru con con ngủ cho rồi
Mẹ ra chỗ vắng mẹ ngồi mẹ than thân
(ca dao)
Bên cạnh cái sâu lắng đó, người dân Nam Bộ sống nổi bật với tinh thần lạc
quan, sôi nổi, cởi mở, thích trẻ trung, dí dỏm:
Hột châu nhỏ xuống kẹt rào
Thò tay em lượm, phụ mẫu chào, em buông
(ca dao)
2.2.4. Giàu biểu cảm chú trọng mức độ tình cảm hơn tính logic, nhiều
thán từ và ngữ khí từ
Trong PNNB người ta thường hay bắt gặp các từ láy có vần ui kết hợp với dấu
nặng tạo ra một loạt từ gợi lên sự vất vả, nặng nề, ì ạch: ạch đụi, xịch đụi, lụi đụi, lụi
hụi,… nếu cộng thêm tiếng cà thì càng tạo ra thêm cảm giác nặng nhọc: cà ạch cà đụi,
cà xịch cà đụi,…[1; tr.18]
Ngoài những từ chỉ mức độ thường thấy ở các PN khác như: rất, lắm, quá,…
PNNB còn có những từ độc đáo riêng như: quá sá, quá trời quá đất, quá cỡ thợ mộc,
hết sẩy, tùm lum tùm la,, tứ tung minh tàng,…. Hoặc xuất phát từ một từ người dân
Nam Bộ có thể sáng tạo một loạt từ như: mềm èo, mềm ẻo, mềm ẹo,…[1; tr.18]
Trong lời nói của người dân Nam Bộ xuất hiện rất nhiều thán từ và ngữ khí từ.
Ví dụ như đầu câu thì có các từ: chèn ơi – chèn đét ơi, mèn ơi – mèn đét ơi, ác hôn,
úy,… ở cuối câu thì thường có các từ: nghen, hen – hen, hé, á, mừ, đa, cà, há, lận,…
2.2.5. Giàu tính bình dân giản dị mộc mạc
PNNB ít dùng hình ảnh bóng bẩy trau chuốt. Họ thường thể hiện tâm tư tình
cảm một cách giản dị mộc mạc. Đặc biệt, PNNB không phân chia đẳng cấp sang hèn,
luôn lấy lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động làm gốc. Sự chân thành, bình dị ấy thể
hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ hằng ngày và văn chương trên giấy không khác nhau
mấy. Lời nói của người lao động có sức diễn đạt mạnh mẽ, nó đơn giản về cấu trúc,
song, đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung, không gò bó, khuôn sáo, mà
được tự do bộc lộ, phát triển đến tận cùng.
20
Anh về em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ ở giữa đàng cho em
(ca dao)
Đây cũng là một cách tỏ tình gián tiếp nhưng không kém phần táo bạo. Cách
nói như vậy là phù hợp với người dân Nam Bộ, hợp với tính cách phát triển đến tận
cùng vừa ẩn đâu đó nụ cười hóm hỉnh vốn có của người dân Nam Bộ.
3. Các kiểu phương ngữ Nam Bộ
Trần Thị Ngọc Lang đã chia các kiểu PNNB bằng việc so sánh PNNB với
PNBB. Trước khi phân loại, tác giả đã chỉ ra cách chia của các tác giả đi trước như Đỗ
Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Quang Hồng, Hồng Dân, Nguyễn Đức
Dương, Nguyễn Thiện Chí…. Tác giả cho biết những nhà nghiên cứu trên cũng dựa
trên hai phương diện về âm và về nghĩa nhưng các tác giả ấy chỉ phân thành ba loại:
Những từ đồng âm khác nghĩa
Những từ đồng âm khác âm
Những từ khác âm hoàn toàn
Theo tác giả Trần Thị Ngọc Lang nhận xét, cách phân chia trên đã bỏ qua các
trường hợp:
Các từ không hoàn toàn đồng âm
Các từ không hoàn toàn đồng nghĩa
Các từ không hoàn toàn khác nhau
Từ việc nhìn ra nhược điểm của các tác giả trước, Trần Thị Ngọc Lang đã đưa cách
phân loại của mình:
3.1. Kiểu I- Những từ khác âm, khác nghĩa
Theo Trần Thị Ngọc Lang những từ khác âm khác nghĩa được chia thành 4 tiểu
loại nhỏ:
3.1.1. Đó là những từ ngữ dùng để gọi tên những sự vật, hiện tượng, hoàn cảnh….
đặc biệt vốn chỉ bắt gặp trong thiên nhiên, sinh hoạt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội,…. ở Nam Bộ, ví dụ như: tràm, đước, tầm vông, thao lao, sầu riêng, măng
cụt,…[10; tr.37]
3.1.2. Những từ hoặc từ tố hoàn toàn chỉ có ở PNNB như các yếu tố chỉ mức độ
của tính từ như: (cao) nhòng, (nhẹ) hều, (dơ) hầy,…. Hoặc các từ láy chồm hổm, chầu
21
hẩu, chàm ngoàm,….đó cũng là những tính từ hoặc trạng từ như: hườm, hà rầm, lơn
tơn, sớn sác, bái xái, xính vính, xửng vửng,…[10; tr.38]
3.1.3. PNNB có nguồn gốc từ ngôn ngữ của các dân tộc anh em. Vùng đất Nam Bộ
là nơi cộng cư dân tộc chủ yếu là người Kinh, Hoa (Quảng Đông và Triều Châu),
Khơme nên có hiện tượng vay mượn ngôn ngữ của nhau. Đây là hiện tượng tất yếu và
quá trình vay mượn từ ngữ Khơme, Quảng Châu, Triều Châu cũng là quá trình Việt
hóa thấy rõ nhất là sự Việt hóa ngữ âm.
3.1.3.1.Về mặt từ mượn gốc Khơme, có các từ như: lâm thôn (một loại hình múa
tập thể), phum (xóm, làng), xà rông (váy), vàm (cửa sông), cà ròn (bao bằng bàng),….
Riêng những từ như: bò hóc (mắm cá), dù kê (hát cải lương khơ-me), ên (một mình),
nóp (vật dùng để ngủ), tà (ông),…[10; tr.39] được tác giả Trần Thị Ngọc Lang xếp vào
những từ mượn chỉ dùng ở phạm vi khẩu ngữ.
3.1.3.2.Từ mượn gốc Quảng Châu, Triều Châu: các từ chỉ quan hệ gia đình như:
chế (chị), hia (anh), củ (cậu), tía (cha), ỷ (dì),…
Trong số các từ biểu hiện tên gọi một số món ăn thì có những từ đã đi vào tiếng
Việt phổ thông như: bánh bao, hoành thánh, hủ tiếu, lạp xưởng, xá xíu, tàu hủ,…
Nhưng phần lớn chỉ dùng trong phạm vi PN như: xí muội, há cảo, hủ tiếu, bò bía,
xương xáo, ….
Các từ dùng trong quan hệ thương mại: xì thầu (chủ tiệm), tào kê (người chủ
nhà),…
Các từ dùng trong các trò chơi cờ bạc: xí ngầu lắc, dì dách, xập xám,, chướng,…
3.1.4. Những từ được sử dụng chủ yếu ở nghĩa bóng như: thí cô hồn, trật đường
rầy, (chợ) chồm hổm, (xử) chìm xuồng.
3.2. Kiểu II - Những từ khác âm nhưng gần nghĩa
Khác ở kiểu đầu ở chỗ cặp yếu tố được so sánh tuy khác âm nhưng lại gần
nghĩa, nói cách khác là chỉ chung ở một số nét nghĩa nào đó. Chẳng hạn như: vào và
vô thoạt nhìn tưởng là hai từ đồng nghĩa hoàn toàn, nhưng thật ra nghĩa của từ vào
rộng hơn và có khả năng kết hợp rộng hơn. Tác giả lấy ví dụ hai câu Kiều:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Và phân tích rằng không thể thay thế từ vào bằng từ vô được vì từ vào ở đây
còn để chỉ một phong cách, một dáng dấp. Đồng thời, tác giả cũng đưa một số ví dụ
22
như không thể thay làng vào hội hoặc làng vào đám bằng làng vô hội hay làng vô đám
được. Một ví dụ khác: coi và xem. Coi chỉ tương ứng với xem trong trường hợp: coi
hát (xem hát), coi phim (xem phim) nhưng coi nhà, coi em thì không tương ứng với từ
xem nhà, xem em mà lại tương ứng với trông nhà, trông em, và coi kiếng tương ứng
với soi gương, coi mắt tương ứng với nom mắt. Ngoài ra tác giả còn đưa ra các so sánh
khác như: giữa van xin và năn nỉ, ngấy và ngán, lì xì và mừng tuổi, áo cộc và áo ngắn,
ăn mừng và ăn khao, bánh ga - tô và bánh bông lan,…[10; tr.44]
3.3. Kiểu III - Những từ khác âm nhưng đồng nghĩa
Kiểu này gồm nhiều tiểu loại nhưng đều giống nhau một điểm: khác âm nhưng
đồng nghĩa.
3.3.1.Những từ đồng nghĩa của PNBB và PNNB được ghép lại với nhau, tạo
nên một từ ghép thường với một ý nghĩa tổng quát hoặc trừu tượng, có hàng loạt từ
ghép mà PNNB dùng yếu tố thứ nhất, PNBB dùng yếu tố thứ hai: dơ bẩn, đau ốm, lời
lãi, bao bọc, mai mối, hư hỏng, dư thừa,…. Hoặc ngược lại, PNBB dùng yếu tố thứ
nhất còn PNNB dùng yếu tố thứ hai: nông cạn, giẫm đạp, đón rước, lừa gạt, sắc bén,
lau chùi, rượt đuổi, thứ hạng, chăn mền,…[10; tr.45]
Một số trường hợp tuy khác biệt nhưng vẫn dùng chung ở nhiều từ ngữ như:
đón (PNBB) và rước (PNNB), vâng (PNBB) và dạ (PNNB), thuê (PNBB) và mướn
(PNNB).
Minh họa chi tiết hơn về các từ đường, phố, lộ: trong PNBB, từ đường tương
ứng với phố của PNNB, còn lộ lại ứng với đường. Tuy nhiên, có hàng loạt từ đường
được dùng chung ở cả hai vùng: ngả đường, qua đường, khách qua đường, mặt đường,
lề đường, soi đường,… PNBB cũng dùng từ lộ: quốc lộ,, lục lộ, công lộ, mãi lộ, đại lộ,
tử lộ, thượng lộ,….
Mặt khác, các từ khác âm cùng nghĩa, tác giả Trần Thị Ngọc Lang đưa ví dụ hai
từ khác âm đồng nghĩa là kêu và gọi. Nếu được dùng ở nghĩa đen, hai từ này có thể
thay thế cho nhau, sau đây là ví dụ của tác giả:
Ai kêu ai réo bên sông
Tôi đang nấu nướng cho chồng tôi ăn
Tới sang chị gọi: bớ Hai
Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm bèo
(ca dao)
23
Theo tác giả thì ở hai câu ca dao trên, kêu và gọi có thể thay thế cho nhau.
Nhưng trong trường hợp sau đây kêu không thể thay thế cho gọi được: Nghe theo tiếng
gọi của Tổ Quốc bởi vì từ gọi ở đây được dùng với nghĩa bóng hay nghĩa phát sinh và
nghĩa của chúng thực ra chỉ trùng có một phần.
Những từ ghép đẳng lập được tác giả Trần Thị Ngọc Lang xếp vào kiểu từ khác
âm đồng nghĩa nhưng chỉ đồng nghĩa bộ phận – có sự khác nhau về nét nghĩa hạn định
lựa chọn (điều kiện dùng hay tiền giả định) : kêu gọi, hình ảnh, nóng nực, thứ hạng, dư
thừa, dơ bẩn, bể vỡ,… mà mỗi PN dùng một tiếng, đầu hoặc cuối.
Tác giả Trần Thị Ngọc Lang nhận xét: “khi xã hội phát triển, nhận thức con
người càng gần với các quy luật khách quan thì một mặt số lượng từ ngữ ngày càng
phong phú, mặt khác các từ được phân biệt nhau một cách tinh tế hơn, nghĩa là các
nét nghĩa hạn định lựa chọn của mỗi từ càng tăng hơn và khu biệt nhỏ hơn, phạm vi sử
dụng của mỗi từ ngày càng hẹp đi”.[10; tr.48]
Tác giả đưa ra nhiều ví dụ trong đó có ví dụ sau: từ xài tương ứng với nhiều từ
khác trong ngôn ngữ toàn dân, tương ứng với từ tiêu trong xài tiền, tương ứng với
dùng trong xài lâu, tương ứng với chơi trong thằng đó xài không được, là dạng rút gọn
của xài xể với nghĩa mắng nhiếc.[ 10; tr.50]
3.3.2. Ở tiểu loại này, các yếu tố từ vựng khác biệt nhau ở chỗ mỗi PN có một
lối nhìn riêng đối với từng sự vật cụ thể, đối với từng hiện tượng cụ thể, nên cùng một
đối tượng lại được định danh bằng những phương thức từ vựng khác nhau.
Ví dụ: (Vải) sọc và (vải) kẻ, PNNB gọi theo sản phẩm của hoạt động, còn
PNBB gọi theo cách hoạt động để tạo ra sản phẩm. PNNB dùng danh từ (sọc) còn
PNBB dùng động từ (kẻ) để tạo ra tên gọi cho cùng một loại vải.
(Bánh) tráng và (bánh) đa, từ (bánh) tráng được gọi theo phương thức chế tác
còn từ (bánh) đa được gọi theo phương thức ẩn dụ. Tráng là động từ, đa là danh từ.
Bộ phận cơ thể con người mà PNBB gọi là cổ tay thì PNNB gọi là cườm tay.
Cách đặt tên của PNBB theo lối ẩn dụ, còn cách đặt tên của PNNB theo lối hoán dụ.
Lại có trường hợp PNBB gọi tên vật phẩm theo chất liệu căn bản làm nên vật
phẩm là nước hoa, nhưng cũng vật phẩm này, PNNB lại dùng thuộc tính hương vị,
mục đích của vật phẩm để gọi tên: dầu thơm, dầu hôi, dầu hỏa, dầu lửa,…
Còn có sự khác biệt căn cứ vào cách gọi tên theo tính chất hoặc tác dụng của
vật phẩm: PNBB nói kính râm, còn PNNB nói kiếng mát….
24
3.3.3 Đây là những từ khác biệt tạm gọi là những từ khác biệt nhau về nguồn
gốc. Hay nói cụ thể hơn, PNNB mượn từ nước ngoài nhưng PNBB thì không hoặc
ngược lại.
So sánh các từ liên quan tới xe cộ:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
xe hơi ô tô (auto), xe hơi
vỏ (xe) lốp (xe) envelope
ruột (xe) săm (xe)
thắng phanh (frein)
đùm moi – đơ (moyeur)
sên (chaine) xích
chén cổ cồn (colle)
Và:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
bông cải súp lơ (chou- flueur)
muỗng thìa, cùi dìa (cuillere)
túi dết túi dết, sắc – cốt (sacoche)
Qua một số ví dụ như trên, tác giả cũng kết luận rằng PNNB có khuynh hướng
Việt hóa nhiều hơn.
Bên cạnh đó, cũng có trường hợp PNNB mượn còn PNBB dùng từ thuần Việt:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
banh (balle) bóng
bóp (tiền) (portefcuille) ví (tiền)
bắc (bac) phà
Các từ vay mượn gốc Hán, gốc Khơme, gốc Chăm:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
trái quả (gốc Hán)
xá lị (gốc Hán) lê (gốc Hán)
cần xé (gốc Hán_ quảng Châu) sọt (thuần việt)
cà rá (gốc Chăm) nhẫn (thuần việt)
bao thơ phong bì (gốc Hán)
lố (lot: gốc Pháp) tá (gốc Hán)
25
bôm (pome: gốc Pháp) táo (gốc Hán)
bột ngọt (thuần việt) mì chính (gốc Hán)
Tác giả nhận xét rằng: PNBB có số lượng từ gốc Hán nhiều hơn. Sau đó, tác giả
cũng lí giải hiện tượng tuy cùng mượn gốc Hán nhưng lại mượn khác nhau. Miền Bắc
mượn từ âm Bắc Kinh, còn từ gốc Hán ở Nam Bộ mượn từ các PN Quảng Đông, Triều
Châu, Phúc Kiến.
Hoặc, cùng gốc vay nhưng có cách đọc khác nhau:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
xà bông xà bông (saron)
phô mai phó mát (fromage)
bót bốt (poste)
cạc – tông các – tông (carton)
3.3.4. Những hiện tượng được xếp vào tiểu loại này tuy có một số nét riêng
nhưng đều giống nhau ở một điểm là không tương đồng với nhau về mặt cấp độ.
a. Cùng một nghĩa nhưng PNNB diễn đạt bằng từ còn PNBB diễn đạt bằng tổ
hợp từ hoặc từ ghép.
Ví dụ:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
hườm quả cây/ vừa chín
ngún bắt đầu bén cháy
tộ bát chiết yêu
rệu sắp sập, sắp rã
Hoặc ngược lại:
chưa xong / dở
nói thêm là điều không hay / điêu
(ngồi) chồm hổm / (ngồi) xổm
đèn cầy / nến
b. Hàng loạt các yếu tố trong PNNB có xu thế đơn âm hóa. Các yếu tố này
trong PNNB được dùng một cách tự do, độc lập .
Ví dụ:
chế (châm chế)
kênh (kênh kiệu)
26
khi (khinh khi)
nạnh (tị nạnh)
ganh (ganh tị)
ưng (ưng thuận)
vị (vị nể)
nài (nài nỉ)
nôn (nôn nóng)
lẹ (mau lẹ)
bộn (bề bộn)
ngộ (ngộ nghĩnh) …..
c. Để biểu đạt nghĩa, PNNB có thể dùng các phương tiện diễn đạt nhỏ hơn tiếng
(hình vị).
Yếu tố “?”
Ở các từ xưng hô:
ông + ấy ổng
bà + ấy bả
cậu + ấy cẩu
Hay trong các từ chỉ vị trí:
trên+ ấy trển
trong +ấy trỏng
Yếu tố “ch” trong những thể láy kiểu: chàu quạu, chổm hổm, chò hỏ, …
Yếu tố “cà” trong PNNB nhiều từ ngữ được cấu tạo có đệm thêm tiếng cà ở
đầu: cà chớn, cà rờn, cà nhắc, cà thọt, cà lăm,… trừ một số trường hợp: cà phê, cà
rem, cà rốt,… mượn của tiếng Pháp hoặc cà rá mượn của tiếng Chăm. Trần Thị Ngọc
Lang còn đưa ra nhận xét: yếu tố cà kết hợp với những vị từ chỉ hoạt động có tính
chất dao động đều có thêm một nghĩa thái (hoạt động) lặp đi lặp lại với một chu kì
ngắn và không đều đặn. Tác giả còn nhận xét thêm: phương thức hoạt động đó là bất
bình thường và không thể gây thiện cảm được: cà chớp, cà giựt, cà hẩy,…. Từ đó,
PNNB tạo thêm kiểu kết hợp từ có yếu tố cà làm yếu tố đệm ở đầu, nghĩa của từ nằm
ở yếu tố sau, từ loại của chúng chủ yếu là tính từ và đa phần là chỉ những tính chất tiêu
cực: cà chía, cà chớn, cà xấc,… [10; tr.57]
27
3.4. Kiểu IV- những từ gần âm nhưng khác nghĩa
Đó là trường hợp của các từ gần âm nhưng khác nghĩa của hai PN.
Ví dụ: xét từ hì hượm và lì lượm: PNBB chỉ có lì lượm được dùng để chỉ tính
khí ngang bướng, PNNB có cả hai, lì lượm để chỉ tính chất, hì hượm để nói về hình
dáng. Các cặp từ kính và kiếng, cảnh và kiểng cũng được tác giả Trần Thị Ngọc Lang
xếp vào kiểu này. Ta xét từ kính và kiếng: trong PNNB, kiếng là biến âm của kính như:
tủ kiếng (tủ kính), cửa kiếng (cửa kính), nhưng kiếng cũng được dùng để chỉ cái
gương.
Tương tự như vậy, từ kiểng là biến âm của từ cảnh chúng cùng có chung nét
nghĩa vật nuôi, cây trồng hoặc tạo ra để ngắm, để giải trí. Chỉ riêng từ kiểng được
dùng rộng rãi ra nghĩa bóng: lính kiểng. Đặc biệt, Trần Thị Ngọc Lang còn cho biết
kiểng còn dùng để chỉ cái kẻng: đánh kiểng.
3.5. Kiểu V - Những từ gần âm và gần nghĩa
Đó là trường hợp của hai từ gần nghĩa và gần nghĩa ở hai PN. Ví dụ: từ bìa và
từ rìa. Cả hai PN đều có danh từ bìa nghĩa giống nhau về căn bản nhưng trong PNNB
có cách nói bìa rừng, bìa làng, ngồi bìa, nằm bìa… không có trong PNBB. Có nghĩa
mép ngoài cũng là nghĩa của từ rìa được dùng cho cả hai PN: ngồi chầu rìa, cho ra
rìa,… trong PNBB nói rìa nhà, rìa làng thì được chuyển thành bìa nhà, bìa làng trong
PNNB.
Một ví dụ khác: bệu và rệu. Bệu trong PNBB thường được dùng để nói về
người béo nhưng nhão thịt: béo bệu. Còn nói về nhà cửa, máy móc, tổ chức, hoạt
động… cũ kĩ, sắp sập, sắp rã, PNBB dùng rệu rã. Trong những trường hợp này, từ rệu
trong PNNB có khả năng dùng độc lập.
3.6. Kiểu VI - Một trong hai từ là biến thể ngữ âm của từ kia
Là trường hợp của các biến thể ngữ âm của cả hai PN. Tác giả Trần Thị Ngọc
Lang còn giải thích thêm, nguyên nhân của hiện tượng này là do hệ thống ngữ âm của
từng PN tạo nên hoặc do biến đổi lịch sử của từng vùng mà có sự sai khác và theo như
tác giả khảo sát và nhận xét thì những sai khác này không đáng kể.
Ví dụ:
Ở phụ âm đầu:
d/đ: dĩa/ đĩa, (cây) da/ (cây) đa
28
l/nh: lạt/ nhạt; lát/ nhát; lầm/ nhầm, lanh/ nhanh, lời lẽ/ nhời nhẽ, lớn/ nhớn,
xao lãng/ xao nhãng, lờn mặt/ nhờn mặt
s/th: sẹo/ thẹo, sớ (thịt)/ thớ (thịt), thẫm/ sẫm
nh/d: nhóm bếp/ dóm bếp, nhíp/ díp,…
nh/ r: nhuộm/ ruộm, nhăn nheo/ răn reo, chôn nhau/ chôn rau,…
ph/ b: bị phỏng/ bị bỏng
r/s: rờ/ sờ, rởn (tóc gáy)/ sởn (tóc gáy),…[ 10; tr.59]
Ở âm chính:
a/i: chánh/ chính, sanh/ sinh, tánh/ tính
a/ô: bản (than)/ bổn (thân), hạt/ hột
ang/ ênh: sanh mạng/ sinh mệnh
âu/ u: thâu/ thu, châu vị/ chu vị, châu đáo/ chu đáo.... [10; tr.60]
Ở thanh điệu:
sắc/ nặng: nhái (giọng)/ nhại (giọng), thiếp (mời)/ thiệp (mời)
sắc/hỏi: (học) lóm/ (học) lỏm
ngã/sắc: miễu/ miếu
huyền/nặng: (năm) nhuần/ (năm) nhuận [10; tr.61]
Có một số vần biến trại đi di kị húy:
hoa huê
cảnh kiểng
vũ võ
hoàng huỳnh
hồng hường
phúc phước.... [10; tr.61]
3.7. Kiểu VII - Những từ đồng âm nhưng khác nghĩa
Là trường hợp của những từ đồng âm khác nghĩa ở hai PN, những từ này không
có quan hệ nguồn gốc gì với nhau.
Ví dụ: từ té trong PNBB có nghĩa là hắt nước, còn từ té trong PNNB có nghĩa
là ngã/ sinh ra, vãi ra.
Từ bôi trong PNBB có nghĩa là làm cho một chất nào đó dính thành lớp mỏng
lên bề mặt: bôi dầu, bôi đen, bôi nhọ,… còn bôi trong PNNB thì có nghĩa là xóa: bôi
bảng (xóa bảng), bôi tên (xóa tên)
29
Một số ví dụ khác:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
(củ) sắn củ đậu
(khoai) mì sắn
hòm áo quan, quan tài
rương hòm
thằn lằn thạch sùng
rắn mối thằn lằn [10; tr.64]
3.8. Kiểu VIII - Những từ giống âm nhưng chỉ gần nghĩa
Là những từ có hiện tượng giống âm giữa những từ có những bộ phận nghĩa
giống nhau, chúng chỉ khác nhau ở một bộ phận nghĩa nào đó.
3.8.1. Tác giả cho biết thêm rằng những từ này đáng ra nên coi chúng là một từ
nhưng vì lí do chúng trãi qua diễn biến lịch sử của từng vùng khác nhau nên ở mỗi
vùng các từ này có thêm nghĩa phát sinh hoặc đã thay đổi ít nhiều về nghĩa.
Ví dụ: từ cậu ở cả PNNB và PNBB đều được chỉ người em của mẹ nhưng
PNNB dùng từ cậu để chỉ cả người anh của mẹ - nét nghĩa này trong PNBB dùng từ
bác. Tương tự như vậy, từ dì trong cả 2 PN đều có chung nét nghĩa là để chỉ em gái
của mẹ nhưng ở PNNB còn dùng để chỉ chị gái của mẹ - nét nghĩa này trong PNBB
được thể hiện bằng từ bác.
3.8.2. Cùng một từ nhưng ý nghĩa của hai PN lại khác nhau, nghĩa của từ này
bao luôn nghĩa của từ kia, ví dụ như:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
màn, mùng màn
mủ, nhựa nhựa
thuốc tẩy, thuốc xổ thuốc tẩy
Hoặc ngược lại:
Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ
nón nón, mũ
bông bông, hoa
dư dư, thừa
3.8.3. Khác biệt ở nghĩa phát sinh của từ ngữ, tác giả lấy rất nhiều ví dụ, trong
đó có: từ đèo bòng trong PNBB có nghĩa là mang lấy vào mình điều làm cho vương
30
vấn, bận bịu thêm, trong PNNB thì đèo bòng có nghĩa là đua đòi, được cái này đòi cái
khác cao hơn.
Nực cười cho kẻ đèo bòng
Cóc đòi đi guốc sao xong mà đòi
(ca dao)
Hay Ăn mặn ngoài nghĩa chung ăn thức ăn cho nhiều mắm muối, PNNB còn có
thêm nghĩa với ăn lạt, ăn chay nghĩa là ăn cá, ăn thịt.
Từ đụng ngoài nghĩa chung sát chạm vào nhau do dời chỗ ở PNNB đụng còn được
dùng ở nghĩa bóng gặp nhau rồi lấy làm vợ chồng.
Như bao quốc gia khác, Việt Nam cũng có nhiều vùng PN (cụ thể là bốn vùng
PN). Ở một số nước, chúng ta bắt gặp hiện tượng người ở vùng PN này không thể hiểu
ngôn ngữ của người ở vùng PN khác mặc dù họ sống trên cùng một quốc gia. Hoặc ít
nhất, họ phải dùng “bút đàm” thì mới hiểu nhau. Ở Việt Nam lại khác, ta không hề
thấy hiện tượng này, người ở vùng PN này có thể tự do giao tiếp với người ở vùng PN
khác. Không phải không có rào cản ngôn ngữ nhưng rất ít và rất dễ giao tiếp để hiểu
nhau. Đó là do các PN ở Việt Nam có sự thống nhất tương đối cao, sự khác biệt giữa
PN nói chung và PNNB nói riêng so với từ toàn dân không quá lớn.
Minh chứng là: Tuy PNNB có rất nhiều kiểu nhưng chỉ trừ nhóm từ ở kiểu I thì
các từ còn lại đều có mối quan hệ ngữ âm và ngữ nghĩa với từ toàn dân. Qua khảo sát
ta thấy rằng, có một số lượng từ không thể tìm ra từ toàn dân tương ứng (kiểu I). Hoặc,
nếu từ PNNB có từ toàn dân tương đương thì đôi khi cũng nãy sinh nghĩa bóng, nghĩa
phát sinh. Thông thường, ngoài những từ định danh sự vật thì hiếm khi nào PNNB lại
tìm được một từ toàn dân tương ứng. Ta thấy trong tám kiểu được khảo sát thì chỉ có
hai kiểu: kiểu III và kiểu VI là tìm được sự tương đồng về nghĩa giữa từ PNNB và từ
toàn dân.
31
Chương hai: KHẢO SÁT TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ TRONG
TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI
I. GIỚI THIỆU VĂN BẢN ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN
GIỎI
1. Vài nét về tác giả
1.1. Cuộc đời
Đoàn Giỏi sinh sinh ngày 17 tháng 5 năm 1925 tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho
(nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), Ông xuất thân từ một
gia đình địa chủ lớn, có hàng trăm mẫu ruộng màu mỡ ven sông Tiền. Nhà ông xưa toà
ngang dãy dọc, nơi mà bây giờ trở thành trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành.
Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940.
Tất cả nhà và đất gia đình ông đã tự nguyện hiến cho kháng chiến ngay từ đầu.
Sau ngày thống nhất đất nước, nhà văn Đoàn Giỏi ra vào Nam – Bắc như cánh chim
trời. Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an
ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin
Rạch Giá (1949). Từ năm 1949 đến năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam
Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên
tập sách báo, công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là
ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ông là Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn Giỏi còn có các bút danh khác: Nguyễn Hoài,
Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
Đoàn Giỏi là con đẻ và là kết tinh của nền văn hoá phương Nam, ông đã hiến
trọn của cải vật chất và tinh thần của mình cho những người dân phương Nam khẳng
khái khai phá, sáng tạo. Để có được một miền đất phương Nam trù phú với những
cánh đồng thẳng cánh cò bay, những cánh chim tung trời, tiếng vó ngựa reo vui trên
đường làng, tiếng mái chèo trên sông nước… chúng ta không thể quên được công lao
to lớn của ông cha ta hơn 300 năm về trước xuôi thuyền vô phương Nam đi mở đất –
qua bao cuộc bể dâu, qua bao cuộc đổi thay, qua bao gian khổ hy sinh với một tình yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu quê hương mãnh liệt. Không biết tự bao giờ những câu
hò, điệu lý đã đi sâu và in đậm trong từng tấc đất, từng con người và từng mái nhà,
32
từng rặng cây… để hôm nay chúng ta được kế thừa một tài sản âm nhạc vô giá mang
đậm dấu ấn của miền sông nước, cái nôi của các ngón đờn tài tử cải lương.
Ngoài truyện, truyện ngắn, ký, Đoàn Giỏi còn sáng tác thơ. Đất rừng phương
Nam là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện
đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in
trong Tủ Sách Vàng của NXB Kim Đồng. Cả cuộc đời của Đoàn Giỏi, ông cứ đi và cứ
viết. Những trang viết của Đoàn Giỏi bao giờ cũng mang đậm chất hoang sơ và tính
sáng tạo dựa trên vốn sống và cảm nhận tinh tế.
Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư.
Ngày 7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định
đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến đất rừng phương Nam trở nên thân thuộc, đáng
yêu đối với độc giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi. Những trang văn của ông thắm
đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện cả thực cả kỳ bí của thiên
nhiên Nam Bộ hoang sơ và truyền được hơi thở ấy cho độc giả. Có được điều đó
không những là nhờ tình yêu của ông đối với miền đất Nam Bộ quê hương mà còn ở
óc quan sát tỷ mỷ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của mình.
Tác phẩm:
Truyện
Đường về gia hương (1948)
Cá bống mú (1956)
Đất rừng phương Nam (1957)
Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962)
Truyện ngắn
Hoa hướng dương (Đoàn Giỏi) (1960)
Truyện ký
Ngọn tầm vông (1956)
Trần Văn Ơn (1955)
Từ đất Tiền Giang
Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày
Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh
33
Ký
Khí hùng đất nước (1948)
Những dòng chữ máu Nam Kỳ 1940 (1948)
Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
Cây đước Cà Mau
Tết Nguyên Đán ở Nam Bộ
Kịch thơ
Người Nam thà chết không hàng (1947)
Chiến sĩ Tháp Mười (1949)
Thơ
Bến nước mười hai
Truyện thằng Cồi
Giữ vững niềm tin (1954)
Biên khảo
Những chuyện lạ về cá (1981)
Tê giác giữa ngàn xanh (1982)
35
Thực chất, cách phân loại này của Trần Thị Ngọc Lang là sự triển khai, chi tiết
hóa cách phân loại của Đỗ Hữu Châu. Theo Đỗ Hữu Châu, căn cứ vào mặt nghĩa thì
PNNB có 6 loại:
(1) Những từ chỉ “đặc sản” của địa phương, do đó không có từ tương đương ở
các địa phương khác. Ví dụ như sầu riêng, măng cụt, mù u,… và “những từ ghép biệt
loại riêng” của từng địa phương tương ứng với từng chủng loại phong phú ở địa
phương của các sự vật hiện tượng như xoài, xoài tượng, xoài thanh ca,…
(2) Những từ PN tuy không có từ tương đương trong các PN khác những chúng
không chỉ những đặc sản mà “chỉ những sự vật, hiện tượng khắp nơi đều biết, đều ý
thức được, có điều để chỉ những sự vật hiện tượng đó những tiếng phương ngữ không
có từ phải dùng cả cụm từ hay câu” [3; tr.200]. Ví dụ như sạ là “gieo thẳng hàng ở các
ruộng nước”, rộng là “thả cá trong vại để giữ cho sống”.
(3) Các từ PN có nghĩa hoàn toàn giống nhau nhưng hình thức ngữ âm hoàn
toàn khác nhau ở các PN khác nhau. Ví dụ như: heo (lợn), mè (vừng),…
(4) Các từ PN có hình thức ngữ âm giống nhau những nghĩa hoàn toàn khác
nhau. Ví dụ: mận (Nam Bộ: quả roi), đào (Thừa Thiên: quả roi), mũ (nón), té (ngã),…
(5) Các từ PN “có hình thức ngữ âm giống nhau (hay khác nhau do sự sai dị về
phát âm) nghĩa có bộ phận giống nhau, có bộ phận khác nhau” [3; tr.201]. Ví dụ từ
ngon (Nam Bộ) vừa có nghĩa là “ngon” vừa có nghĩa là “tốt, tiện lợi, không gặp vấp
váp, không hay hỏng hóc”.
(6) Các từ PN có “hình thức ngữ âm khác nhau những nghĩa có bộ phận khác
nhau” [3; tr.201]. Ví dụ như từ om có nghĩa như vỗ béo của tiếng Bắc Bộ những khác
so với từ sau ở chỗ có thể dùng cho người.
Cách phân loại này ít nhập nhằng và có phần rõ ràng hơn. Do đó khi tiến hành
phân loại từ PNNB, người viết đã tiếp thu quan điểm của tác giả này. Tuy nhiên, người
viết nhận thấy trong cách phân chia này có sự thiếu nhất quán giữa lí lẽ và ví dụ minh
chứng. Tác giả đã có sự nhầm lẫn giữa loại (4) với loại (3) mà chính ông đề xuất khi
phân loại. Người viết xin tiếp nhận có điều chỉnh quan điểm phân loại của hai tác giả,
người viết xin phân loại từ PNNB thành 5 loại:
Loại 1: Những từ chỉ “đặc sản” địa phương, do đó không có từ tương đương ở
các PN khác và những từ ghép biệt loại riêng của từng địa phương tương ứng với từng
chủng loại phong phú ở địa phương của sự vật, hiện tượng.
36
Loại 2: Những từ tuy không có từ tương đương ở các PN khác nhưng nó không
chỉ là những đặc sản mà chỉ những sự vật, hiện tượng khắp nơi đều biết, đều ý thức
được. Và để chỉ những sự vật, hiện tượng ấy các PN không có từ tương đương phải
dùng cả cụm từ hoặc cả câu để diễn đạt.
Loại 3: Các từ có hình thức ngữ âm hoàn toàn khác nhau, có nghĩa hoàn toàn
giống nhau.
Loại 4: Các từ có hình thức ngữ âm giống nhau, có nghĩa có bộ phận giống; có
bộ phận khác và các từ có hình thức ngữ âm khác nhau do sự sai dị về phát âm nhưng
giống nhau về nghĩa.
Loại 5: Các từ có hình thức ngữ âm khác nhau, có nghĩa có bộ phận giống; có
bộ phận khác.
3. Bảng thống kê kết quả phân loại các từ phương ngữ Nam Bộ trong
tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi
(Tổng số từ PNNB thống kê được là 187 từ và từ tố)
1 Ăn ong 3
2 Bà ba 12
3 Bánh tét 4
4 Bàu 3
5 Bần 3
6 Đèn trứng vịt 1
7 Đước 9
8 Đọt 1
Từ phương ngữ loại 1:
Số lượng 24 9 Gáo 1
Tỉ lệ:12,8% 10 Ghe 6
11 Ghe chài 1
12 Ghe lườn 2
13 Khăn rằn 1
14 Lung 4
15 Mắm(1) 2
16 Mắm(2) 9
37
17 Măng cụt 1
18 Qua 8
19 Rạch 16
20 Sầu riêng 1
21 Tam bản 11
22 Tràm 16
23 Trút 2
24 Xuồng ba lá 2
1 ảnh 5
2 Áo chích 1
3 Ba hột 2
4 Bà thủy 2
5 Bả 6
6 Bay 4
7 Bộ 2
8 Bốt 3
9 Bựng 1
10 Cà nhắc 1
11 Cà ràng 3
12 Cà ròn 4
13 Cần xé 2
14 Cầu nước 4
15 Cha nội 1
16 Chà gạc 1
17 Chả 1
18 Chú mày 2
19 Chịu 3
20 Coi bộ 14
21 Cốt dừa 1
22 Cộ 2
38
23 Củ mỉ cù mì 1
Từ phương ngữ loại 2: 24 Dễ ợt 1
Số lượng: 66 25 Dễ sợ 3
Tỉ lệ:35,3% 26 Dóc 1
27 Đa 5
28 Đỏi 2
29 Đồ bỏ 1
30 Giạ 1
31 Hổm rày 1
32 Hông 8
33 Hủ tiếu 1
34 Lai rai 2
35 Làm bộ 3
36 Lèn quèn 1
37 Mã tà 1
38 Mãi võ 1
39 Mẹ rượt 1
40 Mồ tổ 1
41 Ná 1
42 Nghề hạ bạc 2
43 Ngoải 1
44 Nhà việc 1
45 Nhậu 7
46 Ngún 1
47 Như vầy 1
48 Nóp 17
49 ổng 14
50 Phảng 1
51 Quá giang 6
52 Quýnh quáng 2
53 Rộng 2
39
54 Rượu đế 1
55 Tài công 5
56 Te tua 1
57 Tèng xí 1
58 Thím 8
59 Thuyền trà vải 1
60 Trầm 3
61 Trật 1
62 Trời ơi 14
63 Vọp 2
64 Xe thổ mộ 1
65 Xé phay 1
66 Xị 1
1 Anh Hai 31
2 Ăn vận 2
3 Ba 18
4 Ba khía 2
5 Bắp chuối 1
6 Bắp vế 3
7 Bận 10
8 Be 5
9 Biên 2
10 Bồ bịch 1
11 Bội 1
12 Bông 2
13 Bộn 2
14 Bự 2
15 Cá lóc 3
16 Cạn 2
17 Căm 1
40
18 Cẳng 5
19 Con nít 10
20 Cùi 2
21 Dằn bụng 3
22 Dây nịt 1
23 Dù 2
24 Dựa 3
25 Giùm 9
26 Kêu 4
Từ phương ngữ loại 3: 27 Khóm 1
Số lượng: 57 28 Khứng 1
Tỉ lệ: 30,5% 29 Kiếm 3
30 La 3
31 Lu mái 1
32 Lục bình 5
33 Lụt 1
34 Mả 9
35 Má 169
36 Mai mốt 2
37 Máng 2
38 Mướn 2
39 Ngon 1
40 Nhỏ 3
41 Nón 4
42 Nước màu 1
43 Nước ròng 2
44 ớt hiểm 2
45 Quá trớn 1
46 Quài 2
47 Rày 1
48 Thằn lằn 3
41
49 Thương 3
50 Tía(1) 380
51 Tía (2) 2
52 Tiệm 2
53 Vận 6
54 Vịt xiêm 1
55 Xà rông 3
56 Xài 2
57 Xích hầu 2
1 Bấy giờ 12
2 Bí rợ 2
3 Bới 1
4 Cặm 1
5 Chắc mẻm 2
6 Chòm gởi 3
7 Chớ 3
8 Cọng 10
Từ phương ngữ loại 4:
Số lượng: 23 9 Đặng 3
42
22 Trự ta 1
23 Vạt 3
1 Bậy 7
2 Coi 32
3 Con 8
4 Cỡ 12
5 Dì 125
6 Lộ 1
Từ phương ngữ loại 5:
7 Mạnh 1
Số lượng: 17
Tỉ lệ: 9,1% 8 Mập 1
9 Ngán 3
10 Ngó 27
11 Nhát 1
12 Ông già 2
13 Rầy 5
14 Thiệt 1
15 Thủ lãnh 1
16 Tới 153
17 Vô 18
43
Từ PN loại 2 chiếm tỉ lệ cao nhất là một điều hợp lý và đã thể hiện rõ quy luật
tiết kiệm ngôn ngữ. Trong khi cùng một đối tượng, một hiện thực khách quan thì ngôn
ngữ toàn dân phải diễn đạt bằng cả cụm từ hoặc cả câu, còn tác giả Đoàn Giỏi chỉ sử
dụng một từ PN để diễn đạt. Đó là một giải pháp hiệu quả và có tác dụng rất lớn.
Sử dụng các từ như: bựng, chịu, lai rai, nóp, rộng,… nhà văn vừa tiết kiệm
được rất nhiều ngôn từ, vừa tạo được tính hàm súc, cô đọng cho lời văn, và tạo nên
một màu sắc Nam Bộ rất độc đáo cho tác phẩm. Thay vì phải dùng những tổ hợp từ
ông ấy, bà ấy, anh ấy, ngoài ấy,… thì tác giả đã sử dụng các từ ổng, bả, ảnh, ngoải,…
vừa gọn, vừa dứt khoát lại vừa có sắc thái mạnh mẽ, nhanh gọn. Tần số xuất hiện của
các từ xuất hiện khá cao, điển hình như từ nóp: 17 lần, ổng: 14 lần trong tác phẩm. Và
còn rất nhiều trường hợp cụ thể khác được tác giả dùng từ rất đúng lúc và đúng chỗ.
Về từ PN loại 3 được xếp sau từ PN loại 2, chiếm tỉ lệ: 30,5%. Đây là những từ
PN có nghĩa hoàn toàn giống nhau nhưng khác nhau hoàn toàn về hình thức ngữ âm.
Về vấn đề phân vùng PN của các tác giả, bình diện ngữ âm là yếu tố đóng vai trò quan
trọng trong việc xác định và phân vùng PN. Cùng là những sự việc, hiện tượng giống
nhau nhưng người miền Nam lại có cách định danh, cách gọi hoàn toàn khác với người
miền Trung và miền Bắc. Ví dụ như cá lóc (Nam Bộ), cá quả (Bắc Bộ), cá chuối, cá
tràu (Trung Bộ). Nếu PNNB dùng động từ thì PNBB và Trung Bộ dùng danh từ để
định danh sự vật. Từ PN loại này không có tác dụng thể hiện quy luật tiết kiệm ngôn
từ trong sáng tác. Tác dụng chính của các từ loại này là tô đậm sắc thái, màu sắc địa
phương, chỉ mới đọc lên là người đọc xác định được đó là từ ngữ của người miền
Nam. Chính vì vậy mà loại từ PN này cũng được tác giả sử dụng với tỉ lệ khá cao.
Chẳng hạn như: má, tía,.. xuất hiện với tần số rất cao trong tác phẩm: má (169 lần), tía
(389 lần).
Từ PN loại 1 được người viết rất quan tâm. Đoàn Giỏi đã sử dụng các từ loại
này khi cần nêu tên các đặc sản hoặc sự vật, hiện tượng riêng có của Nam Bộ. Nói đến
đặc sản tức là đề cập đến tính độc đáo, cá biệt của sự vật. Mỗi một vùng với những
loại đặc sản khác nhau đã làm nên cái giàu đẹp, góp từng nét riêng cho bức tranh
chung của xã hội thêm phong phú. Những sản vật này được người dân dùng hàng loạt
các từ để định danh cho chúng. Tuy số lượng không nhiều nhưng các từ loại này mang
lại hiệu quả cao và bất ngờ. Những loại cây và trái cây đặc sản của quê hương Nam
Bộ: tràm, đước, bần, mắm, sầu riêng, măng cụt,… Hiện nay, chúng được phổ biến
44
khắp mọi miền đất nước và trở nên quen thuộc tất cả mọi người. Có thể nói, thông qua
những từ ngữ chỉ những đặc sản của vùng đất Nam Bộ, tác phẩm đã làm toát lên được
cái hồn của thiên nhiên Nam Bộ. Bởi người đọc bắt gặp những gì thân quen nhất. Tất
cả đã vẽ nên một bức tranh đậm đà màu sắc của vùng quê Nam Bộ mới mẻ này.
Từ PN loại 4 cũng chiếm tỉ lệ không cao nhưng người viết lưu ý đến lớp từ là
biến thể ngữ âm của nhau (phát sinh do có sự phát âm sai dị của người địa phương).
Các từ như: bới, gài, gởi, chớ, thành thực, nhơn,…chủ yếu thể hiện sự sai khác với từ
tương đương trong ngôn ngữ toàn dân. Lớp từ này phản ánh chân thật thói quen phát
âm của người dân Nam Bộ nói chung. Xu hướng chung là lược bớt âm đệm và chuyển
đổi nguyên âm có cách phát âm rắc rối thành những nguyên âm có cách phát âm đơn
giản. Đoàn Giỏi đã sử dụng có cân nhắc và chọn lọc những từ PN trong tác phẩm của
mình.
Cuối cùng là từ PN loại 5, đây là loại từ PN được tác giả sử dụng ít nhất, chỉ
chiếm 9,1%. Trên thực tế, những từ PN khác nhau về mặt ngữ âm, nghĩa có bộ phận
giống, có bộ phận khác chiếm số lượng không nhiều. Xét về mặt nghệ thuật, chúng lại
không tạo ra được màu sắc địa phương cao như từ PN thuộc 4 loại kia. Từ PN loại 5
này chủ yếu làm tăng thêm vốn từ tiếng Việt và làm phong phú thêm cách diễn đạt của
nhà văn. Vì vậy, với kết quả khảo sát này thì cũng không có gì là bất ngờ.
Có thể nói, thông qua kết quả thống kê và phân loại trên, ta có thể bước đầu
nhận ra ý đồ nghệ thuật của nhà văn khi sử dụng từ PNNB trong tác phẩm. Với ý đồ
nghệ thuật rõ ràng: tả nét đẹp đặc trưng cảnh vật, tính cách con người Nam Bộ…. hoặc
khi không có từ toàn dân tương ứng. Như khi nói đến những đặc sản chỉ có ở Nam Bộ,
ví dụ thay vì miêu tả dài dòng như một câu đố: đây là một loại quả có nhiều gai bên
ngoài vỏ, quả này có mùi thơm đậm, đặc trưng, bên trong có nhiều múi, ăn rất ngọt và
béo nhưng không phải là quả mít thì nhà văn hoàn toàn có thể sử dụng từ sầu riêng để
thay thế. Đó là cả một sự lựa chọn cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng và cả những trăn trở,
những tìm tòi, đã giúp cho Đoàn Giỏi vận dụng thành công từ PNNB trong tiểu thuyết
Đất Rừng Phương Nam.
45
IV. GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI
Tác phẩm văn học là một loại hình nghệ thuật độc đáo. Trong đó yếu tố ngôn
ngữ là một trong những yếu tố rất quan trọng. Bởi ngôn từ góp phần tạo nên sự thành
công của tác giả. Khi nói đến ngôn ngữ trong văn chương tức là nói đến cái riêng, cái
đặc sắc của tác giả cùng với những nhận xét, đánh giá, bình luận đối với ngôn ngữ
trong tác phẩm. Mỗi nhà văn đều có ngôn từ riêng và cách thể hiện cũng rất khác nhau.
Thông qua ngôn ngữ, ta có thể nhận biết phần nào về tư tưởng, tình cảm và tính cách,
nó thể hiện phần hồn của tác giả, vì vậy việc đầu tư cho ngôn ngữ là rất quan trọng.
Chính vì vậy, khi xem xét, đánh giá một tác phẩm, điều đầu tiên chúng ta cần chú
trọng là ngôn từ nghệ thuật. Một tác phẩm hay phải thu hút được người đọc, để làm
được điều này đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn từ ngữ sao cho nó mang tính cảm xúc
thẩm mĩ. Đoàn Giỏi đã biết vận dụng và phát huy thế mạnh của mình khi chọn PNNB
làm ngôn ngữ chính trong sáng tác. Ông đã sử dụng khéo léo, tinh vi vốn từ địa
phương của mình vào tác phẩm. Ngôn ngữ trong tác phẩm đã phản ánh chân thực hiện
thực vùng đất Nam Bộ, xây dựng và thể hiện thành công bức tranh đời sống sinh hoạt,
cách nói năng cũng như tâm hồn và tính cách của con người Nam Bộ.
1. Từ phương ngữ Nam Bộ trong việc thể hiện những đặc điểm của
thiên nhiên Nam Bộ
Nam Bộ là vùng đất sông nước, ruộng vườn. Sông rạch chằng chịt gắn bó bao
đời với sinh hoạt, chi phối đời sống kinh tế cũng như đời sống tinh thần của con người.
Thông qua từng trang viết, cảnh sắc vùng đất Nam Bộ hiện lên với đầy đủ các nét đặc
trưng của nó. Ở phương Nam nước ta, những cánh rừng bao bọc ra tận cửa sông. Càng
đổ về Cà Mau càng nhiều kênh rạch, vũng lầy, rừng lá với những cái tên nôm na, thân
thuộc mới nghe đã như thấy được những công sức mồ hôi của con người làm nên:
sông Cửa Lớn, sông Năm Căn, rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mát,… rừng U Minh quanh
năm xanh ngắt bóng tràm, bóng đước, dưới ngòi bút miêu tả chân thực và sinh động
của nhà văn đã tạo nên bức tranh muôn màu nghìn sắc của thiên nhiên Nam Bộ. Phần
lớn từ PNNB mà ông sử dụng thường là những từ địa phương đặc sản, những từ chỉ có
ở miền Nam và những từ chỉ cách diễn đạt riêng của con người Nam Bộ không có từ
tương đương trong ngôn ngữ toàn dân.
46
Thiên nhiên cảnh sắc Nam Bộ qua ngòi bút miêu tả của Đoàn Giỏi hiện lên như
một vùng đất đầy hứa hẹn và được sự ưu đãi đặc biệt của tạo hóa. Từ PN đã giúp cho
tác giả thể hiện được điạ hình sông nước Nam Bộ như: rạch, kênh, sông, vàm, lung,
bàu,… Trong đó, các từ này là yếu tố chính cộng với tên riêng do người dân Nam Bộ
đặt cho: rạch Mái Giầm, sông Bảy Háp, kênh Bọ Mắt, kênh Ba Khía, sông Cửa Lớn,
sông Năm Căn,… “Từ khi qua Chà Là, Cái Keo… rồi bỏ con sông Bảy Háp xuôi
thuyền xuôi theo dòng, thì tôi bắt đầu có cảm giác trên đây…. Ở đây, người ta không
gọi tên đất tên sông không phải bằng những danh từ mỹ lệ. Chẳng hạn như gọi rạch
Mái Giầm, vì hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên
chỉ xòa ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ; gọi kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập
không biết cơ man nào là bọ mắt đen như hạt vừng, chúng cứ bay theo thuyền từng
bầy như những đám mây nhỏ, ta bị nó đốt vào da thịt chỗ nào đó ngứa ngáy nổi mẩn
đỏ tấy lên; gọi kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ tập trung toàn những con ba khía,
chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây.”[tr.273]
“Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm
Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá
nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu
sóng trắng.” [tr.274]
Không những đa dạng về địa hình nổi bật với hệ thống sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt mà cảnh sắc Nam Bộ còn hiện lên với sự phong phú, đa dạng về chủng loại
động, thực vật nổi tiếng với những loại đặc sản độc đáo được khắp nơi biết đến: tràm,
đước, mắm, bần, sầu riêng, măng cụt,… “Những làng mạc êm đềm, bóng dừa bóng
chuối che rợp các khu vườn mát rượi đất phù sa, con đường rất nhỏ lượn trên bờ rạch
nước đầy ăm ắp soi bóng những cây sầu riêng, măng cụt…. Những ngôi nhà mái đỏ
thấp thoáng trong các khu vườn xoài….”[tr.108]
Đó còn có sắc tím hoa lục bình, một loài hoa bình dị mộc mạc, gắn liền với kỉ
niệm tuổi thơ của con người vùng sông nước: “Một lúc sau, qua khỏi cánh đồng ngập
tím lục bình, chúng tôi bắt đầu chui vào vòm cây đen thẳm như một cái hang.”[tr.151]
Ở đây, chúng ta chứng kiến một cảnh quần tụ đến kì lạ. Những cá trê, cá lóc cả
đàn, những cá sấu, những con rùa, những kỳ đà, kỳ nhông, những rắn cạp nong cạp
nia, hổ đất, hổ mang, hổ lửa ở nước và đầm lầy. Những nai, khỉ, những hổ, báo,….
Rừng kề mặt nước, ngập trong nước, bao nhiêu loài chim, con điêng điểng, con chằng
47
bè, con sếu, những cò bợ, cò xanh, cò lửa. Con chim đẵng trí đậu xuống lưng cá sấu,
con chim mỗ xỉa răng cho hổ. Những đàn ong mật rừng tràm, những vòm trời muỗi
bay dày đặc táp xuống mặt và khi mùa xuân đến, vô vàn bướm sặc sỡ ra rợp rừng, rợp
bóng nước.
“Cua biển cũng có, ếch cũng có, nghêu sò cũng có. Còn cá tôm thì nhiều lắm, đủ các
loại cá loại tôm, không kể xiết.”[tr.15]
“Ừ, cá ăn tía thì nghe phải giống như nồi cơm sôi kia… cá trê đi từng đàn, bơi đặc cả
nước, quẫy móng, lách tách lục ục như nước cơm sôi, lăm tăm một quãng dài trên
sông. Đi chài mà gặp cá ăn tía, quăng chài xuống, khi kéo lên nếu gặp loại chài cũ bở
bở, có thể đứt tung chài.”[tr.153]
“Một con rắn rằn ri cóc to cỡ bắp chân người lớn đang vùng vẫy uốn mình lên quấn
lấy chùm dây câu. Cái miệng nó há ra, đầy răng chơm chởm.”[tr.158]
“Mấy con kỳ nhông nằm vươn kỳ phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn
biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh.”[tr.164]
“Thảo nào người ta hay nói “như ong vỡ tổ!” Ong vỡ tổ là lúc này đây. Không biết cơ
man nào là ong. Chúng bay vù vù, đen ngòm, loạn xạ, thành một vầng đen như cái
chiếu.”[tr.168]
Chúng tôi xin đi sâu vào tìm hiểu nét đặc trưng văn hóa được gợi ra từ những
cây tràm, cây đước. Chúng vốn là những loài cây phổ biến của vùng đất Mũi. Những
cánh rừng, những cánh rừng bạt ngàn những rừng ở đây lại rất trẻ. Rừng mắm, rừng
đước, rừng tràm, đâu cũng la liệt rừng, phía nào cũng như nhau một màu xanh nước,
xanh cây, xanh biển và xanh trời: “Ở đó toàn là rừng: rừng đước, rừng mắm, rừng
bần…”[tr.270]
Trong quan niệm của người dân nơi đây tràm, đước và mắm là ba loài cây tiên
phong trong công cuộc mở đất, giữ làng, vì vậy trong ca dao có câu:
Mắm trước, đước sau, tràm theo sát
Sau hàng dừa nước mái nhà ai
(ca dao)
Đoàn Giỏi đã chú ý đặc tả rừng tràm, rừng đước trong tác phẩm của mình.
Rừng tràm, rừng đước từ lâu đã gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân. Rừng
tràm sinh trưởng và phát triển xanh tốt trong môi trường ngập nước, kể cả môi trường
nước mặn, nước lợ. Và rừng tràm cũng là nơi cư trú lí tưởng của các loài động, thực
48
vật quý hiếm như các loại rùa, rắn, tôm cá, chim chóc và nhất là các loài ong mật. Sau
đây là những đoạn miêu tả của các giả về tràm: “Bờ tràm khô đứng im lìm dưới ánh
sáng xanh biếc.”[tr.153]
“Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung,
khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.”[tr.161]
“Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đoàn li ti như nấm trấu bay, phát ra
những tiếng eo…eo…eo…eo”.[tr.164]
“Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, mình mới
định chỗ gác kèo.”[tr.166]
“Khu rừng bên tả ngạn vẫn còn đứng xanh rờn, soi bóng những cây tràm bạc thếch
trên dòng nước lờ đờ.”[tr.202]
Tác giả đã dùng các từ địa phương làm điểm nhấn trong câu văn, kết hợp với lối
so sánh và lối miêu tả tỉ mỉ, cụ thể… nên bức tranh rừng đước thêm sống động, thu
hút:
“Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước
dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo
từng lứa trái rụng, ngọn băng tăm tắp, lớp này chống lên lớp kia ôm lấy dòng sông,
đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lòa nhòa ẩn hiện
trong sương mù và khói sóng ban mai.”[tr.274]
“Rừng đước mênh mông. Cây đước mọc dài tăm tắp, cây nào cây nấy thẳng như cây
nến khổng lồ.”[tr.289]
“Những buổi triều lên, nước chỉ ngập quá gối thôi, chúng tôi năm bảy đứa rủ nhau đi
bắt vọp, bắt cua, trên đường về thường đuổi nhau chui qua những “cánh tay đước”,
móc bùn ném nhau, té nước và reo hò ầm ĩ – những lúc đang vui và chung quanh có
đông bạn bè ấy thì tôi có cảm giác như rừng đước đang xôn xao từ dưới biển mọc
lên.”[tr.290]
“Giữa vắng lặng xanh nhờ của rừng đước âm u, từng bước di động của chúng tôi mồn
một động vào tĩnh mịch.”[tr.290]
Sân chim, vườn cò là sản phẩm tất yếu của những rừng tràm, rừng đước. Chúng
được nhà văn miêu tả với những chi tiết đầy ấn tượng:
“Cò thì không biết bao nhiêu mà kể. Cò ngà, cò trắng cò xanh, cò ma… buộc từng
xâu.”[tr.266]
49
“Tôi dụi mắt bò ra khoang trước, vốc nước dưới sông lên rửa mặt. Trên vệt rừng đen
ở chỗ con sông ngoặt, như lưỡi cưa cá mập chơm chởm dựng đầu răng nhọn, đã ửng
lên màu mây hồng phơn phớt. Từ chỗ vệt rừng đen xa tít đó, chim cất cánh tua tủa bay
lên, giống hệt đàn kiến từ lòng quả đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên da trời. Càng đến
gần, khi bóng chim chưa hiện rõ hình đôi cánh, thì quang cảnh đàn chim bay lên
giống như đám gió bốc tro tiền, tàn bay liên tri hồ điệp.”[tr.270]
Tác giả đã tạo cho người đọc như thấy được sân chim qua cách tái hiện lại âm
thanh và màu sắc đầy độc đáo:
“Những bầy chim đen bay kín trời, vươn cổ dài như tàu bay cổ ngỗng lướt qua trên
sông, cuống theo sau những luồng gió vút cứ làm tai tôi rối lên, hoa cả mắt.”[tr.270]
“Mỗi lúc tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng.
Và gió đưa đến một mùi tanh lợm giọng, khiến tôi chỉ chực nôn ọe.”[tr.270 – tr.271]
Một bức tranh thiên nhiên thật vô cùng sống động, hấp dẫn như hiện ra trước
mắt người đọc:
“Chim đậu chen nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi
gần hết lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng
đồng đen đang vươn tay múa. Chim già đãy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo
xám, trầm tư rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ, to như con ngỗng đậu đến
quằn nhánh cây.”[tr.271]
“Một con điêng điểng ngóc cổ lên mặt nước, thoạt trông tôi tưởng là một con rắn từ
dưới nước cất đầu lên.”[tr.271]
Rừng tràm còn tượng trưng cho sức sống và tính cách của con người Nam Bộ.
Đặc biệt, hình ảnh rừng tràm trải qua bao bom đạn và sự tàn phá khốc liệt của bọn Tây
mà vẫn xanh tốt là biểu tượng cụ thể nhất cho sức sống bền bỉ và phẩm chất anh hùng,
bất khuất của người dân miền Nam trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm. Rừng tràm là nơi chứng kiến bao mất mát, hi sinh và cũng là nơi ghi dấu những
chiến công oanh liệt, hào hùng của bao thế hệ cha anh chúng ta trong suốt hai cuộc
trường kì kháng chiến.
2. Từ phương ngữ Nam Bộ trong việc thể hiện sinh hoạt của con
người Nam Bộ
Vùng đất Nam Bộ có nhiều kênh rạch sông ngòi, con người sống gắn bó với
đồng ruộng. Ấn tượng sông nước ghi dấu lại trong cả cách ăn, nếp ở của con người nơi
50
đây. Bức tranh đời sống sinh hoạt của người dân Nam Bộ được tác giả khai thác theo
chiều sâu, nó thể hiện bản sắc đậm đà của người miền Nam.
Để di chuyển, đi lại ở vùng sông nước người ta sáng chế ra các loại ghe, xuồng.
Đây là phương tiện rất thuận lợi dùng để đi lại trên sông, rạch, có thể để chuyên chở
vật dụng, tải bom đạn phục vụ đắc lực cho chiến tranh.
Người dân dùng ghe xuồng để chuyên chở vật dụng:
“Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong
một chiếc ghe lườn bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư
Mắm.”[tr.31]
“Từ sáng sớm, ghe xuồng đã cập vào bến chợ, đậu san sát như lá tre.”[tr.264]
“Tiếng chim kêu râm ran trong đám ghe xuồng và trên sân chợ.”[tr.264]
“Anh lần theo đòn dài bắc sang một chiếc thuyền khác, và lẹ làng như con sóc, co
người trèo qua be mấy chiếc tam bản, mấy chiếc xuồng nhỏ của những người đi chợ
đậu ken dọc theo bến rồi nhảy phốc lên bờ.”[tr.12]
“Lão Ba Ngù xung phong nhận lãnh chiếc tam bản của anh Sáu tuyên truyền chèo đưa
ông Huỳnh Tấn.”[tr.48]
“Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam bản của người trên phố buộc dưới chân cầu
nước trồi lên hụp xuống theo lượn sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa muốn bứt
dây cương.”[tr.64]
Những năm đầu khẩn hoang đường xá đi lại không thuận tiện, mọi sinh hoạt
của người dân đều gắn liền vào các phương tiện ghe xuồng. Các phương tiện này rất
phong phú, phù hợp cho từng mục đích sử dụng. Khi đi chài, đi câu người ta dùng
xuồng ba lá cho gọn vì khi đi chài, đi câu không có chuyên chở vật gì khác ngoài
người và chài.
“Xuồng chúng tôi lướt qua một quãng kênh, hai bên bờ lau sậy mọc rậm rịt”.[tr.151]
Nói chung, xuồng ghe đã gắn bó mật thiết đối với con người, nhất là người dân
ở miền nông thôn sông nước. Và chiếc xuồng là phương tiện không thể thiếu trong
cuộc sống của người dân nơi đây.
51
“Từ chiếc xuồng vỏ gòn nhỏ, như con cá thòi lòi nhảy sóng rất tinh, cho đến chiếc ghe
chài đồ sộ như một quả đồi, ì ạch, nặng nề, chỉ có thể nhờ tàu kéo dắt đi.”
Và để thích nghi với nơi mình đang sống người dân đã chế tạo ra hàng loạt
những công cụ lao động. Với hệ thống sông ngòi chằng chịt là điều kiện thuận lợi để
đánh bắt cá, tôm, câu rắn. Nhưng làm sao để đánh bắt đây. Người ta đã chế tạo ra
những loại công cụ rất độc đáo như: sợi gai, lưỡi câu, cây lao… Đây là những loại
công cụ dễ làm, nhà nào cũng có thể làm được.
“Đây là một gói lưỡi câu đủ cỡ, mười hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy dầu
cỡ bàn tay . Một cục đá và một miếng thép dẹt dẹt to và dài hơn một bao diêm.”[tr.67]
“Ông kéo thúng gai đến bên chân, cầm lên vuốt từng sợi gai, sau đó lại rút cái giũa
giắt bên vách ta giũa lại những chiếc lưỡi câu lụt.”[tr.148]
“Ông cầm một cuộn gai ước chừng bốn năm mươi sợi, to như cổ tay tôi, toàn là những
sợi gai rời nhau, dài hơn thước, thong thả buộc chúm hai đầu lại, một đầu buộc vào
chiếc lưỡi câu thép có ngạch rất sắc.”[tr.149]
“Chúng tôi ăn cơm xong thì má nuôi tôi đã ôm nóp, đèn soi, mác và một cái giỏ tre to
tướng bỏ xuống xuồng rồi.”[tr.150]
“Khi tôi phóng mũi lao trúng con cá sấu này, thì tôi nghe đằng xa nước động dữ
dội.”[tr.245]
Bên cạnh đó, người dân cũng rất giỏi trong việc chế tạo ra các công cụ để phục
vụ cho nông nghiệp như: phảng, mác, xà beng, chĩa,… những công cụ này rất dễ làm
và cũng rất cần thiết để phục vụ cho nông nghiệp.
“Ông đăm đăm nhìn thằng Cò đang đắp chiếu nằm thiêm thiếp hồi lâu, rồi lặng lẽ
đứng dây bịt khăn lên đầu, xách mác đi lột bẹ dừa nước chẻ lại quai chèo.”[tr.252]
“Trong ánh nắng vàng nhẹ chưa xua tan hết lớp mù kéo lê trên đầu ngọn cỏ ướt đầm
sương, bóng những người đàn ông xách xà beng, cầm chĩa, xách phảng chạy hộc tốc
về hướng đồng mả.”[tr.279]
Với địa hình sông ngòi, kênh rạch mà người dân Nam Bộ chuộng sống trong
những ngôi nhà sàn rộng rãi, thoáng mát, cất ven bờ các dòng sông, con rạch.
“Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình những khúc
gỗ xêp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò
lên.”[tr.176]
52
“Đây là một xóm nghèo, nhà cất lưa thưa trên bờ một con rạch nhỏ dựa lưng vào
rừng.”[tr.277]
Người dân Nam Bộ tận dụng những vật liệu từ thiên nhiên, cây cỏ xung quanh
để cất nhà. Họ thường dùng những thân tràm, thân đước để làm kèo cột, tận dụng lá
dừa nước để dừng vách, lợp nhà.
“Hai vợ chồng che một túp lều bên cây tràm độc chiếc, để lấy nơi làm phương hướng
tìm về.”[tr.161]
“Những người thợ đốt than đã tiếp tay đốn cây, chặt lá dựng cho chúng tôi một ngôi
lều nhỏ.”[tr.277]
Không những giản dị trong nếp ở, người dân Nam Bộ cũng không câu nệ trong
thói quen ăn uống. Với những thức ăn bình dị, sẵn có, qua sự sáng tạo của con người,
chúng trở thành các món ăn mang đậm chất Nam Bộ: thịt nai xào cải rổ, thịt bò xào lá
cách, gà xé phay, cháo gà nấu đậu xanh, rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt dừa,…
“Ê, mày đã ăn thịt nai xào cải rổ chưa? Sáng mai tao cho mày ních một trận, phải biết
nhá!”[tr.14]
Người Nam Bộ ăn uống giản dị nhưng lại rất tinh tế và rất sành về mùi vị thức
ăn. Nhân vật ông Ba Ngù đã rất tự hào khi nói về món ăn rất ngon và bổ dưỡng:
“Ngon tuyệt! Ngon tuyệt! Rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt dừa thì phải biết
nhá! Già bảy mươi tuổi ăn món ấy thấy trẻ tráng ra như con trai mười bảy. Sơ sài thì
rắn nước, rắn bông súng ướp xì dầu, cặp gắp nguyên cả con mà nướng, bẻ từng khúc
cầm tay xé ra chấm muối ớt nhậu. Thịt ngọt không gì bằng. Cầu kỳ thì rắn hổ đất, mèo
mun chưng thuốc bắc, gọi là “long hổ hội”. Thường thường thì hoặc băm xào sả ớt,
hoặc nấu ca – ri nước dừa… khối cách ăn. Nhưng gì thì gì, cũng không bằng nấu
cháo. Món phổ biến nhất mà! Vừa bổ lại vừa mát!”[tr.56]
Sẽ rất thiếu sót trong bức tranh đời sống sinh hoạt của người dân mà không đề
cập đến sinh hoạt chính trị của họ. Tác phẩm đã đề cập đến cuộc chiến đấu đầy khó
khăn, gian khổ mà rất oanh liệt của nhân dân ta. Mọi sinh hoạt của người dân lúc này
đều chuyển sang sinh hoạt thời chiến.
53
“Đợi cho mọi người ngớt tiếng, bấy giờ anh Ba Dương mới đứng dậy, thong thả rút
trong túi áo bành tô ra một cái chai, đặt cộp xuống giữa mặt bàn. Biết gì không? Trời
ơi, trong chai toàn là những ngón tay người ngâm rượu. Anh nói: “Đây là ý kiến của
anh em Bình Xuyên phát biểu với hội nghị, khi nghe nói có lệnh đình chiến”…” [tr.44],
những từ ngữ: bốt, bưng biền, ruồng,… được tác giả chọn lọc sử dụng.
Hình ảnh đồng bào miền Nam anh hùng, bất khuất trong cuộc chiến đối đầu với
kẻ thù. So sánh mối tương quan lực lượng giữa ta với địch, rõ ràng ta thấp hơn về mọi
mặt: trang bị, thiết bị, vũ khí,… Đoàn Giỏi đã ghi lại sự đấu tranh gian khổ mà hào
hùng của cách mạng miền Nam, phải lánh mình trong những cánh rừng tràm ngập
nước quanh năm.
“Bà Tám ngoài xóm có bảo nhỏ với tao rằng: nghe đâu anh em bộ đội đằng mình còn
ẩn trong rừng. Bả còn nói họ rách lắm.”[tr.297]
“Đồng bào đều biết chúng ta ở đây mà anh em chúng ta có người nào hở môi chỉ chỗ
cho họ biết đâu! Như vậy thì… khu rừng này đâu có thể chắc chắn bảo đảm che giấu
được những cái lều này.”[tr.306]
Bên cạnh đó, bộ mặt kẻ thù được hiện lên với đầy đủ nét bạo tàn, man rợ. Các
hình ảnh đó được tác giả khắc họa qua hai nhân vật là vợ chồng Tư Mắm. Chúng đã có
những hành động vô cùng tàn nhẫn đối với một đứa bé như An, một người dân lương
thiện như Dì Tư Béo.
Song song đó, kẻ thù còn liên tiếp ban hành và thực thi chính sách dồn dân lập
ấp chiến lược, chiến lược ruồng bố, đốt rừng. Chúng ỷ vào vũ khí tối tân, hiện đại mà
thẳng tay ném bom tàn phá kênh rạch, xóm làng. Và mọi hậu quả đều trút lên đầu
người dân vô tội. Giặc càn đến đâu thì người dân phải chạy loạn đến đó, điển hình như
gia đình bé An, phải quýnh quáng chạy loạn và phải lạc mất cả cha mẹ.
Có thể nói, bức tranh sinh hoạt ở Nam Bộ được tác giả phản ánh vô cùng chân
thật và sinh động qua tiểu thuyết Đất Rừng Phương Nam.
3. Từ phương ngữ Nam Bộ trong việc xây dựng con người Nam Bộ
Xét về mặt thể hiện nhân vật, Đoàn Giỏi đã xây dựng thành công nhiều tính
cách điển hình cho tính cách của người Nam Bộ, đặc biệt là hình tượng người nông
dân và người phụ nữ miền Nam. Nhà văn đã chú ý nói lên tâm lí, cá tính cũng như
miêu tả ngôn ngữ, hành động và ngoại hình của các nhân vật. Và ở mỗi yếu tố, tác giả
lại chú ý tô đậm sắc thái Nam Bộ.
54
3.1. Thể hiện ngoại hình nhân vật
Đoàn Giỏi đã rất thành công trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Các nhân
vật trong tác phẩm của ông không có sự trau chuốt, quý phái mà nó rất giản dị, gần gũi
và bình dân, hầu hết họ là những người nông dân chân chất. Ngoài những tấm áo vá
vai, manh quần vá gối thì chiếc khăn rằn là “vật bất ly thân” của người dân Nam Bộ
Chiếc khăn không còn là vật dụng bình thường mà nó được xem như là một thứ “trang
sức” của người bình dân, đôi khi nó còn là một tín vật thể hiện tình cảm. Và cùng với
chiếc áo bà ba đã mang lại nét duyên, nét đẹp cho con người Nam Bộ.
“Chỗ khoảng sân rộng, những người đàn bà nông dân mặc quần áo bà ba đen, khăn
rằn đen vắt chéo qua vai ngồi xếp từng dãy dài sau những chiếc cần xé to tướng,
những thúng đựng đầy ắp không rõ và không biết đó là thức gì mà họ mang ra chợ
bán.”[tr.12]
Về hình tượng người nông dân Nam Bộ, nhà văn đã xây dựng nhiều nhân vật
tiêu biểu như: Ông Hai, chú Võ Tòng, ông Ba Ngù,… Và Đoàn Giỏi đã có những
đoạn miêu tả ngoại hình của các nhân vật đầy sinh động, cụ thể. Nhân vật ông Hai
được tác giả miêu tả :
“Đằng sau lái, một ông cụ già cao to, vạm vỡ, khăn đầu rìu màu đỏ, áo bà ba đen thả
cúc, vạt áo bay phần phật, đang nghiêng người quạt mái chèo đưa thuyền cập
bến.”[tr.55]
“Ông cụ già chít khăn đầu rìu màu đỏ đã ra đứng trước mũi thuyền.”[tr.57]
“Ông cụ vẫn ngồi đó, tay chậm rãi nhồi thuốc lá vào nỏ tẩu, cán tẩu vừa dài vừa quăn
queo trông rất lạ. Gương mặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da xám nắng hun hun
màu đất thó vẫn còn căng như da mặt người trẻ, chỉ ở đôi khóe mắt và trên vầng trán
cao là có xếp mấy đường nhăn. Râu ông không dày lắm, nhưng chắc như rễ tre và đen
nhánh. Khi ông cắn tẩu thuốc vào mồm, môi dưới hơi trễ ra, méo xệch một bên vì khối
nặng của cái tẩu hình thù kỳ dị và hơi to quá cỡ, thì trông ông như có vẻ hung
tợn.”[tr.59 – 60]
“Tôi ngồi sát vào gốc cây, bên ông cụ già lực lưỡng ấy. Bộ quần áo bà ba đen đã bạc
thếch vì dãi dầu nắng mưa sương gió của ông còn mang nguyên mùi hăng hăng của lá
cỏ cây rừng tận những vùng đất hoang dã, và mùi khói nồng lửa bếp trong chiếc
thuyền con lưu động.”[tr.60]
“Đôi mắt to, đen nhánh đăm đăm nhìn vào khoảng không trước trước mặt.”[tr.60]
55
Còn nhân vật ông Ba Ngù thì được nhà văn khắc họa rất độc đáo:
“Nói cho đúng thì lão ta cũng không phải tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai
uống được suốt ngày…. Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ để vắt hờ bên vai, bảo: “Để vậy
cho nó mát”. Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: da mặt, da lưng đỏ như cua luộc.
Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hình lão cũng có thể chảy rượu ra
ngay được…”[tr.29 – 30]
Chú Võ Tòng thì được miêu tả cụ thể ở đoạn văn sau: “Một người đàn ông cổ
hầu, đen như cột nhà cháy, cửi trần, cao lêu nghêu đang hiện ra trong ánh lửa. Hai hố
mắt ông ta sâu hoắc, và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một cặp tròng mắt trắng dã,
long qua long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như bờm ngựa phủ dài xuống gáy.
Bộ ngực chắc nịch của ông ta ướt đẫm mồ hôi. Dưới lớp mồ hôi bóng như mỡ đó, có
hình một con rồng cuộn khúc xanh lè thích chàm bằng những nét tinh vi, phập phồng
theo hơi thở của ông ta. Con rồng xanh vươn vây ôm chặt một quả tim, giữa có những
chữ gì lấp loáng mồ hôi trông không rõ. Chỗ gò má bên phải, năm cái sẹo dài sả
xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu móng cọp cào.”[tr.130]
Như đã nói vùng đất Nam Bộ là vùng đất đầy hoang dã, và để cải tạo được
thiên nhiên, con người phải đối mặt với bao nguy hiểm, thử thách. Chính những hoàn
cảnh thử thách đã tạo nên ngoại hình dạn dày sương gió và có phần “gân guốc”.
Về hình tượng người phụ nữ Nam Bộ, nhà văn đã xây dựng thành công nhân
vật bà Hai đầy phúc hậu: “Một bà già cao lớn, hơi gầy, tóc bới cao hình bánh lái, mặc
chiếc áo bà ba vải đen kiểu xưa, từ trong lều bước ra, chạy đến cúi xuống vuốt ve con
chó.” [tr.134]
3.2. Thể hiện tính cách, hành động và tâm lí nhân vật
Khi nói về con người, tác giả không trực tiếp khẳng định nhân vật của mình là
thẳng thắn, nghĩa khí, hay thủy chung, mà thông qua lời nói và hành động của các
nhân vật. Qua đó bộc lộ được tâm lí, tính cách đặc trưng của người dân Nam Bộ.
Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng đa phần người dân sống ở Nam Bộ là những
người di cư, họ là dân “tứ chiếng” từ những tỉnh, phủ, xã khác nhau, chủ yếu từ những
vùng nổi tiếng hay cứng đầu, mang trong mình nhiều chất phản kháng, nổi dậy, ít chất
thần phục, càng ít ràng buộc của lễ giáo đạo đức khổng mạnh, có tư tường “dọc ngang
nào biết trên đầu có ai”. Đúng như một nhà văn đã nhận xét: “Đất nước ta càng về
phương Nam càng là đất lưu đày, đất của những người không có quyền sống trên
56
mảnh đất đã được khai phá, vì vậy cũng là đất của những người nổi dậy? Miền tây
Nam Bộ là mảnh đất lưu đày và nổi dậy cuối cùng của Tổ Quốc. Đến đây là sơn cùng
thủy tận rồi. Đến đây chỉ có hai con đường, một là không đủ nghị lực sống nữa thì
đâm đầu xuống biển mà chết, hai là cố bám lại đấu tranh mà sống” (Nguyễn Văn
Bổng). Đấy là những yếu tố hình thành nên tính cách, cá tính của người Nam Bộ.
Về ngoại cảnh và môi trường sống, chúng ta không thể không công nhận tác
động không nhỏ của chúng đến việc hình thành và phát triển tính cách của con người.
Việc sinh ra và lớn lên bên cạnh những dòng kênh, con rạch hiền hòa, trong mát quanh
năm, bốn mùa cây trái sum suê, tươi tốt…. đã tạo nên con người Nam Bộ với tâm hồn
chân chất, sôi nổi, đôn hậu, phóng khoáng và giàu nghĩa khí. Tâm hồn họ rộng mở như
cái bát ngát của những cánh đồng lúa cò bay thẳng cánh. Không những sôi nổi, thành
thật mà con người Nam Bộ qua cách nhìn, cách cảm của nhà văn còn rất chính chắn,
sâu sắc trong suy nghĩ, kiên quyết, dũng cảm trong hành động, quyết liệt khi đối mặt
với kẻ thù, hi sinh quên mình vì bạn bè, đồng chí. Tình cảm họ thẳng thắn, không màu
mè giả dối. Ngôn ngữ họ mộc mạc, chân chất thể hiện trong lời ăn tiếng nói hằng
ngày.
Họ đôi khi có tính ngang tàng nhưng bộc trực, thẳng thắn, họ nghĩ sao nói vậy
không khoa trương, khách sáo, dài dòng trong lời nói. Nhân vật Võ Tòng là một nhân
vật điển hình cho những tính cách trên. Qua cách nói chuyện của Võ Tòng.
“Quần áo rách hết rồi. Nghe Tây sắp đến, đi đón kiếm một bộ ka – ki mặc chơi! Võ
Tòng đáp chậm rãi”[tr.132]
“Súng để bắn giặc chứ có súng đâu thừa mà đi săn! Nhất định là tôi sẽ kiếm được. Chỉ
lấy quần áo thôi. Còn súng phải để cho anh em tự vệ chứ!”[tr.132]
“Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần
gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải
không anh Hai! Tôi cho rằng súng dở lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một
tiếng, chết ngay thằng Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không
hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay
lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng “mút” nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra
mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ! Tôi xách
cây tiểu liên bay vào rừng, chờ mò trở ra. May sao cái thây thằng râu xồm còn nằm
thẳng cẳng đấy, đợi tôi đến hết lột hộ bộ quần áo ka – ki… hê…hê…hê! Khi lọt lòng
57
mẹ, nó chui ra như thế nào, thì bây giờ nó chui nằm xuống đất cũng như thế ấy…. cho
được thủy chung như nhất! tôi chỉ lấy cái quần để che chỗ xấu xa của con người thôi,
anh Hai à.. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi biếu cho anh em lính đằng mình.” [tr.180]
“Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi
tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây tác hại nhiều
đấy.”[tr.183]
Qua lời kể lại hoàn cảnh của Võ Tòng qua nhân vật tôi, thì ta thấy khi xưa gã
cũng có một gia đình êm ấm, vì vợ lúc chửa đứa đầu lòng, thèm ăn măng, gã xách dao
đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng, và gã đã bị tên địa chủ vu cho là lấy trộm
măng tre của hắn. Qua sự đôi co, Võ Tòng đã bộc lộ được sự phản kháng:
“Gã một mực cãi lại, nhưng tên địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba toong đánh
lên đầu gã. “Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu la nơi thờ phụng ông
bà…thì số mày tới rồi!” Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang
ngược kia giơ tay đánh ba toong lên đầu gã đên cái thứ hai.” [tr.179]
Với lời kể của lão Ba Ngù thì cái chết của Võ Tòng có một chút xíu tính ngang
tàng mà rất kiên quyết: “Nhưng Võ Tòng cương quyết “phục” chỗ đó. Chú bảo tôi là
thế nào cũng làm ăn được. Bọn giặc sẽ không ngờ. Chú mang nỏ, trèo lên ngồi trên
nhánh gừa gie ra sông, núp trong mấy đám tầm gởi.”[tr.214 - 215]
Nhân vật ông Hai cũng có sự phản kháng quyết liệt đối với tên địa chủ Khá: “Anh Hai
quay lưng ra hứng đòn cho người vợ chưa cưới đang thiêm thiếp trong tay mình. Sức
người dù khẻo đến đâu cũng có hạn thôi. Anh lảo đảo ngã khuỵu xuống. Nhưng anh
vẫn còn đủ sức đặt chị Hai nằm đấy, vớ con dao quay lại.”[tr.140]
Không chịu được sự áp bức, bóc lột, hai vợ chồng ông Hai quyết định vào rừng
sống, ở giữa chốn mịt mùng sương lam chướng khí, chung quanh chỉ còn nghe tiếng
vượn hú, tiếng beo gầm, dù phải chịu đựng không biết bao gian nan cơ cực, nhưng
cuộc sống họ được thảnh thơi dễ chịu hơn lúc còn chung đụng với những con người đã
cầm vận mệnh họ trong tay trước kia.
Không chỉ thật thà, thẳng thắn, giản dị mà con người Nam Bộ còn mang những
tính cách rất anh hùng là trọng nghĩa khí. Nhân vật ông Hai là như thế: khi Võ Tòng bị
giặc giết do người đàn bà Việt gian thì ông Hai đã kiên quyết trả thù cho chú. Thông
qua ngôn ngữ miêu tả và trần thuật, tác giả đã cho người đọc thấy được tâm trạng của
ông Hai thay đổi và mối thù nhất định phải trả.
58
“Tía nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm ra ít nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà
đi luôn. Nhiều khi cả ngày không về nhà. Có về nhà thì lại thắp hương cắm lên bàn
thờ, rồi lại ngồi uống rượu khan một mình.”[tr.220]
“Tía nuôi tôi đã mấy lần mò ra tới quán cà phê, lần nào về cũng trở về với bộ mặt rầu
rầu khiến cho thằng Cò và tôi không dám nói chuyện to tiếng.”[tr.220]
“Người ông thay đổi hẳn, chân tay nhanh nhẹn, vui vẻ hoạt bát lên như ngày trước.
Ông chẻ tre, nắn nót chuốt từng mũi tên, ban ngày phơi nắng, ban đêm hong lửa. Ông
nâng từng mũi tên lên tay, cân xen có vừa sức nặng và bề dài của ba mũi tên tẩm độc
của ông không…. Ba hôm liền, ngày nào ông cũng ngậm tẩu thuốc lá, cầm nỏ, mang
tên, dắt con Luốc đi vào rừng.”[tr.220]
Ông Hai đã tập bắn tên để trả thù cho Võ Tòng: “Tía nuôi tôi cởi trần, đang
loay hoay bơi trong một đám rều. Ông nhặt lục bình, rau mác phủ kín thân người, rồi
giương nỏ, chống hai khuỷu tay lên hai khúc bẹ dừa nước thả giữa đám rều, giữ thăng
bằng trên mặt nước, không động đậy. Khi mặt bàu đã trở lại phẳng lặng, và một cái lá
lục bình cũng chẳng thấy còn rung nữa, thì từ trong đám rêu nghe vang ra một tiếng
tách rất khẽ của cánh nỏ bật dây. Chiếc tên bay ra, cắm phập vào một bẹ dừa nước
cặm ở mấp mé ven bờ, mà đám rều không mảy may động đậy.”[tr.221 – 222]
Và mũi tên thù cũng đã được trả: “Vì thù mà phải báo, chứ tía đâu màng tới chuyện
giết một con đàn bà!”[tr.229]. Một tinh thần đầy nghĩa khí, rất trọng nghĩa trọng tình.
Nhân vật Võ Tòng cũng được nhấn mạnh qua đoạn miêu tả: “ Hơn mười năm
sống trơ trọi giữa rừng, mặc dù cũng có nhiều người mai mối cho gã, nhưng tuyệt
nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm
chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính
tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ
đến chuyện người ta có đền đáp lại mình không.”[tr.180]
Ngay cả một đứa bé như An cũng rất bộc trực, anh hùng, và tình cảm thì chân
thực, yêu ra yêu, ghét ra ghét. Khi lượm được chiếc túi da của ông già bán rắn thì An
đã tìm để trả lại. Và khi bị vợ chồng Tư Mắm phát hiện, An có chút rùng mình, nhưng
câu hỏi: “Sao mày hèn thế!”[tr.84], đã giúp cậu mạnh mẽ hơn để vượt qua đêm kinh
hoàng. Mặc dù còn nhỏ, An đã biết phân biệt được đâu là tốt, đâu là xấu. Tía nuôi và
An đã cũng nhau trả thù cho Võ Tòng.
“Tôi đi ra đi vào, bụng nóng như lửa đốt. Tai cứ hướng về phía đồn.”[tr.226]
59
“Tôi bất chấp cả đạn bắn vèo vèo bên tai, xách mác đứng dậy chạy đi… Giá tôi có
khẩu súng trường trong tay, thì tôi đã nổ cho nó một phát rồi. Máu dồn lên nóng cả
mặt. Tôi che tay lên mồm hô lớn: “xung phong”.”[tr.228]. An đã cứu tía nuôi thoát
chết. Phát hiện ra tía nuôi vào rừng chơi với mấy anh du kích, An đã tự đi một mình
vào rừng tìm tía. Một hành động vô cùng dũng cảm và gan dạ.
Không những tình cảm chân thực, rõ ràng, người nông dân Nam Bộ qua ngòi
bút của Đoàn Giỏi cũng dí dỏm, hóm hỉnh với nét riêng của họ. Điển hình là nhân vật
Ba Ngù tuy say xỉn suốt ngày nhưng “Nước nhà còn mất, đến một thằng “mẹ rượt”
như lão đây cũng còn có trách nhiệm mà!”[tr.47]. Qua cách miêu tả của nhà văn thì
lão Ba Ngù hiện lên thật thú vị: “Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã
thượng, lão kể đi kể lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu nhưng vẫn thích nghe….
Ai mời rượu lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụng
người ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. “Mình là người biết tự trọng.
Mình có phải là thằng già nát rượu đâu!” Lão thường lè nhè nói một mình như
vậy.”[tr.30]
Ông yêu nước, khi tàu bay thả truyền đơn xuống, lão đứng chửi oang oang: “Tổ
cha thằng Tây. Mày bảnh thì xuống đây! Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì cũng
chưa gọi là bảnh.”[tr.32]. Khi nghe một giọng hát buồn của anh thanh niên nào đó,
đang thả thuyền trôi theo dòng kênh, lão Ba Ngù tức thời đứng dậy, bước thình thịch
ra ngoài: “Ê, nghe ai chèo lạo xạo đó? Lão hỏi.
Dưới thuyền có tiếng đáp:
Đi chở củi về đấy, ông nội. Xét giấy hả?
Dưới ghe có ai bệnh sắp chết phải không? Lão Ba Ngù lại hỏi, giọng cay độc.
Có ai bệnh gì đâu! Đừng có trù mạt!
Hừ, vậy mà tưởng thằng nào đang mắc dịch mắc gió gì dưới ghe đó chớ. Bộ sắp chết
sao mà rên khừ khừ vậy! Ê, bây giờ không phải là lúc hát giọng mèo ướt đó nữa a,
nghe chưa?” [tr.46]
Ông kể lại lúc bị giặc bắt: “Chắc mẻm nó bắn mình rồi! Tôi sắp sẵn mấy câu
khẩu hiệu để hô trước khi chết cho đúng tư thế một người chiến sĩ. Ha… ha…. Mỗi
thước đất là một chiến hào, mỗi người dân là một chiến sĩ mà! Chắc nó đem bắn mình
ở ngoài mé sông kia.”[tr.211]
60
“Rồi chúng nó dỗ tôi là chỉ điểm! Mả mẹ nó lúc nãy nghĩ nó sắp đem bắn mình, tôi
không nao chút nao núng. Sao giờ nghe chúng nó nói thế, tôi lại phát nổi gai ốc đầy
mình? Tôi tỉnh lại ngay tức khắc. Trời ơi, bây giờ tôi mới biết những thằng rượu chè
be bét, những thằng trác tang trụy lạc, giặc coi như là dân “bồ bịch” của nó
đấy!”[tr.211]
Bên cạnh người nông dân, Đoàn Giỏi cũng rất thành công trong việc xây dựng
hình tượng người phụ nữ Nam Bộ. Người phụ nữ hiện lên với những phẩm chất cao
quý: trung hậu, thủy chung, gan dạ, giàu tình thương và đức hy sinh. Nhân vật bà Hai
hiện lên thật đầy đủ với những phẩm chất trên. Khi còn trẻ bà là một cô gái xinh đẹp,
được quen biết với ông Hai và tính đến chuyện trăm năm. Nhưng khi ông Hai đưa
người yêu về ra mắt tên địa chủ Khá, hắn đã ngon ngọt dỗ dành bảo bà ưng thuận thì
hắn sẽ cưới làm hầu ba. Bà Hai sụp lạy hắn, xin tha cho về.
“Hắn đã dùng gậy, dùng roi mây đánh thâm tím mình mẩy, và lôi nhốt bà trong gian
nhà kho bỏ trống với vò nước lã. Rồi hắn lại mò xuống dụ dỗ, đánh đập, nhưng hơn
mười ngày vẫn không xoay chuyển được lòng chị. Chị Hai cứ nằm khóc, hết khóc lại
ngóng ra khe vách, trông chờ người yêu một cách tuyệt vọng.” [tr.137 – 138]
Khi quá tuyệt vọng, bà chọn lấy cái chết để chung thủy với người yêu: “Chị Hai ôm
mặt khóc nấc lên. Chỉ còn có lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết, đền đáp lại mối tình
của người yêu thôi. Chị thò tay ra một lỗ vách thủng, với lấy sợi thừng ai máng bên
ngoài…”[tr.138]
Được ông Hai cứu ra khỏi nhà tên địa chủ Khá, bà chờ đợi ông và quyết định
vào rừng để được sống yên ổn bên nhau. Sự gan dạ của bà được khắc họa sâu sắc trong
câu nói của ông Hai nói với Võ Tòng: “Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà
tôi còn mê tính dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì… chú cứ tin ở lời
tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu!”[tr.183]
Tính cách nhân hậu của bà được thể hiện trong việc thương yêu người con nuôi. An đã
được bà yêu thương, bà đã kể cho An nghe chuyện cổ tích, dạy dỗ mọi thứ.
“Con đây với tía má! Tía má nghèo lắm, chẳng có gì đâu. Nhưng con cứ tin rằng cuộc
sống của con không đến nỗi như cuộc đời đau khổ của tía má ngày xưa!”[tr.144]
Bà Hai còn có lòng yêu cách mạng, khi biết An vào rừng tìm tía, bà vội vã quay
vào, soạn trong rổ may lấy một ống kim khâu và mấy cuộn chỉ, gói vào mảnh giấy
61
nhật trình cũ, nhét vào túi áo An: “Nhà nghèo chẳng có gì…. Con vào gặp các ảnh, nói
là của má gởi biếu…”[tr.297]
Và khi tiễn An lên đường chiến đấu: “Thằng An đấy à? Tao chỉ lo tới đây thì
mày đã đi mất rồi! Khổ quá, có mỗi cái lược chải tóc mà mày cũng quên! Thấy còn
giắt bên vách, tao vội cầm chạy đem ra đây.”[tr.322]. Dường như đó chỉ là cái cớ để
bà đến, bà cười mà như mếu: “Gói ruốc thịt nai! Má nuôi tôi cười, nụ cười không tự
nhiên làm cho gương mặt bà như mếu. - Thằng Cò nó không chịu ăn. Nó bảo đem ra
cho thằng An.”[tr.322]
Tình thương của bà còn được nhà văn miêu tả qua hành động: “Mặc kệ tía nuôi
tôi nhìn bà bằng cặp mắt sốt ruột, má nuôi tôi cứ cầm lược chải chải mái tóc lòa xòa
trước trán tôi thành nếp xuôi ra sau, đoạn bà nhét cái lược vào túi áo trên ngực tôi.
Bà thong thả gỡ chiếc ba lô trên vai tôi, tháo ra, đặt gói ruốc vào. Bàn tay gầy gò của
má tôi lật lật mớ quần áo đã xếp thẳng nếp trong ba lô, lôi ra chiếc áo cũ kẹp nách,
rồi vội vã buộc ba lô lại vuốt đeo lên vai cho tôi: Cái áo này sờn mấy chỗ sau lưng, để
má mạng lại. Rồi có anh em nào đến chỗ con ở, má sẽ gởi theo!”[tr.322]
Không như những vùng miền khác trong cả nước người ta đặt nặng vấn đề
huyết thống, đối với người Nam Bộ, người hàng xóm chính là người thân thiết nhất, có
khi còn hơn cả dòng họ bởi có câu: “bán bà con xa mua láng giềng gần” hay câu
“hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”. Người ta có thể sống xa gia đình, xa
người thân nhưng không thể tách khỏi cộng đồng làng xóm. Qua tác phẩm, ta càng
thấy rõ hơn tình nghĩa của bà con láng giềng đối với nhau, khi Võ Tòng chết chính
những người hàng xóm lo cho chú, chứ không phải là bà con họ mạc: “Đi nhắc hàng
cho Võ Tòng đây. Bác lên vuốt mắt ông ấy thử coi… Tội nghiệp, chết rồi mà cặp mắt
vẫn không chịu nhắm lại… Lát nữa, tôi sẽ quay về ngay.”[tr.204]
“Tía nuôi tôi nhìn vào mặt cái xác, khấn to, như cố gọi hồn người chết về chứng chiếu
lời mình: Võ Tòng ơi! Vong hồn chú sống khôn thác thiêng, cho tôi vuốt mắt chú nhắm
lại đi. Đừng để bà con thấy thêm đau lòng…” [tr.205]. Và bàn tay ông Hai từ từ đặt
lên đôi mắt dại đờ, để yên khá lâu, khi ông vuốt mí mắt xuống thì đôi mắt của Võ
Tòng đã khép lại. Mọi người quyết tâm trả thù cho chú: “Chú Võ Tòng!Đồng bào sẽ
trả thù cho chú!”[tr.207]
62
Khác hẳn với sự gắn bó của những người cùng huyết thống, tình bạn của con
người nơi đây rất thắm thiết, sẵn sàng hy sinh cho nhau mà không hề toan tính. Tình
bạn được đúc kết từ tình chòm xóm láng giềng.
Tóm lại, nhân vật trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi dù là
người nông dân, người phụ nữ… thì ở họ đều toát lên tính cách đặc trưng của người
Nam Bộ: bộc trực, thẳng thắn, giàu nghĩa tình, yêu quê hương, quý cách mạng, thủy
chung son sắc trong tình cảm gia đình, gan dạ, bất khuất khi đối mặt với cái ác, cái
xấu. Để xây dựng thành công những con người như thế, tác giả đã tận dụng tối đa các
yếu tố nghệ thuật như phóng đại, xây dựng chi tiết đặc sắc…. Và lẽ hiển nhiên là phải
sử dụng từ PNNB hợp lí, đúng nơi, đúng lúc, là yếu tố quan trọng hàng đầu đem lại
thành công cho tác giả trong việc thể hiện nhân vật. Đoàn Giỏi sinh ra và lớn lên trên
vùng đất Nam Bộ, vì thế ông thông thạo lời ăn tiếng nói cũng như ngôn ngữ của người
dân nơi đây. Do đó mỗi trang viết nhà văn đều thấy có sự hiện diện của từ địa phương.
Chính lớp từ này, làm cho văn phong của Đoàn Giỏi trở nên gần gũi, thân quen với
con người Nam Bộ. Mặt khác, sử dụng từ PNNB trong tác phẩm đã tạo cho nhà văn
một phong cách riêng, đậm đà bản sắc dân tộc. Đọc tác phẩm, người đọc sẽ nhận ra cái
giọng Nam Bộ, nhưng từ phương ngữ tác giả sử dụng không làm cản trở việc tiếp nhận
của người đọc trong cả nước. Chính vì thế, việc sử dụng từ PN của tác giả Đoàn Giỏi
trong tác phẩm đã đạt được hiệu quả cao.
63
C – PHẦN KẾT LUẬN
Từ PN vốn là một đề tài thú vị và càng thú vị hơn khi ta xem xét nó trong một
tác phẩm văn học cụ thể. Để tạo cơ sở lí luận, người viết đã tập trung và hệ thống hóa
lại các kiến thức có liên quan về PN. Phần lược thuật có thể không đề cập đầy đủ ý
kiến của các tác giả. Song trong khả năng của mình, chúng tôi đã cố gắng lược thuật
chi tiết, chính xác phần lí thuyết của tác giả Trần Thị Ngọc Lang.
Từ cơ sở lí luận, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, thống kê và phân loại từ
PNNB trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi. Để dễ dàng trong quá
trình phân loại cũng như tiện trong việc tham khảo, tìm hiểu tài liệu, chúng tôi đưa ra
cơ sở phân loại cụ thể (tiếp thu có điều chỉnh quan điểm phân loại từ PN của Đỗ Hữu
Châu)
Cuối cùng, chúng tôi đã dựa trên lí luận về PN cũng như căn cứ vào kết quả
thống kê và phân loại để tiến hành phân tích sơ bộ giá trị văn học của các từ PNNB
được tác giả Đoàn Giỏi sử dụng trong tác phẩm.
Khi sử dụng những từ PNNB, tác giả Đoàn Giỏi đã thoát khỏi lối viết gọt giũa,
trang trọng. Trong tác phẩm, ta ít gặp những từ hoa mĩ, cầu kì, có tính chất trang
nghiêm, công thức mà thay vào đó là những từ ngữ bình dân được đúc kết qua lời ăn
tiếng nói hằng ngày của con người Nam Bộ. Nổi bật nhất trong các thành công của
Đoàn Giỏi là việc sử dụng từ miền Nam để viết về vùng đất và con người miền Nam,
nó không chỉ chính xác mà còn thể hiện được “cái hồn” của tác phẩm. Bằng việc sử
dụng từ PNNB trong sáng tác, Đoàn Giỏi đã miêu tả một cách chân thật về mảnh đất
và con người Nam Bộ, tạo được sự gần gũi và thân thuộc, người đọc cảm nhận được
một cách trực tiếp tiếng nói của con người Nam Bộ. Tác phẩm mang màu sắc của cuộc
sống thực sự. Những hình ảnh trong tác phẩm được tác giả khắc họa từ cuộc sống đời
thường, những con người thật bước vào tác phẩm một cách tự nhiên với những lời nói
hết sức bình thường đã làm cho tác phẩm thêm phần sinh động.
Bên cạnh những thành công, tác giả cũng không tránh khỏi những hạn chế trong
những trang viết của mình. Tuy thế, như nhà văn Tô Hoài đã nói: “Nhưng cái đặc sắc
riêng của Đất rừng phương Nam ấy là nhà văn Đoàn Giỏi đưa bạn đọc đến vùng đất
rừng phương nam thật xa, thế mà mỗi trang truyện lại làm chúng mình thấy thiết tha
và sôi nổi yêu đất nước khắp mọi nơi, yêu con người khắp đất nước, bất cứ đâu.”
64
PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
CỦA ĐOÀN GIỎI
TỪ/ TS
STT NGỮ LIỆU CỤ THỂ NGHĨA PL
NGỮ XH
1. Anh Ở vùng Phong Mỹ, ai cũng khen anh Hai Anh cả, từ 31 3
Hai là một thanh niên hiền lành, chịu khó. dùng để gọi
Mỗi lần nghe như vậy, anh Hai lại cố người đàn
sức làm lụng ngày đêm cho vừa lòng ông lớn tuổi
chủ,…. hơn mình.
65
thì trăng đã lặn.
66
nhanh như chớp anh Hai ạ!
2. Ảnh Tôi muốn vào báo cho anh biết tôi đã lên Anh ấy 5 2
đây, nhưng bụng phân vân: “Lỡ ảnh bảo
xuống thuyền thì sao?...”
Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi đem cho
ảnh một ít bún tươi, rồi ảnh rút trong
bao cà – roong ra một cuộn giấy nhặt lấy
hai tờ rộng khổ nhất úp lên bàn, bảo tôi
phết bún vào.
67
4. Ăn Lần đầu tiên, tôi theo tía nuôi tôi và Lấy mật ong, 3 1
ong thằng cò đi “ăn ong” đây! sáp ong có tự
cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, rừng
nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn
ong” ra sao.
68
nhớ ba má tôi bằng cách đi chơi đây
đó,…
69
Cháu lạc mất ba má cháu đã lâu rồi.
Đọc xong rồi, lão Ba Ngù lẳng lặng bước dài không túi,
đến chỗ móc áo, lấy cái áo bà ba đen của cạp rộng
lão giũ giũ mấy cái. kuồn dải rút,
có thể dùng
Đằng sau lái, một ông cụ già cao to, vạm
cho cả nam
vỡ, khăn đầu rìu màu đỏ, áo bà ba đen
nữ
thả cúc, vạt áo bay phần phật, đang
70
nghiêng người quạt mái chèo đưa thuyền
cập bến.
71
đi lên.
72
12. Bánh Còn dì Tư Béo thì chẳng những dứt Thứ bánh gói 4 1
tét khoát không nhận món tiền bữa rượu, lại bằng gạo nếp,
còn biếu ông Huỳnh Tấn và lão Ba Ngù đậu xanh và
mỗi người một đòn bánh tét nhân tôm thịt lợn, hình
thịt mang theo lót dạ dọc đường đòn dài, ăn vị
Bà ta sụt sịt mũi, giúi vào tay tôi một đòn như bánh
13. Bàu Nước lênh láng cả bàu, làm gì sôi được? Đầm nước, 3 1
Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín thường nông
dưới một lớp tro dày chừng hai ba đốt và có cỏ mọc.
tay.
Có bàu, chúng tôi bắt vài chục con trong
một ngày.
14. Bắp Chân tôi đạp lên một khúc lưng con vật Bắp chân 1 3
chuối gì trơn trơn, to như bắp chuối.
73
15. Bay Ông già có bùa, tụi bay ơi! Chúng mày 4 2
16. Bắp vế Đầu lắc qua lắc lại, hàm râu cọ vào bắp Bắp đùi 3 3
vế tôi sào sạo, ông cất tiếng cười ha hả.
17. Bần Ê, tao còn thấy cái bông bần trôi giữa Giống cây to 3 1
kênh kia nhá!... hay mọc dọc
Ở đó toàn là rừng: rừng đước, rừng mắm, theo bờ sông,
rừng bần… quả tròn dẹp,
ăn có vị chua
Con cá sấu này, màu da xám ngoét như
và chát, rễ
da cây bần, gai lưng mọc chừng ba đốt
phụ mọc
tay, trông rất dễ sợ.
ngược lên
mặt bùn,
nhọn và xốp.
18. Bận Giống hệt như cái lần mụ đã “chế biến Lần, lượt 10 3
món thuốc giải cảm” bận trước
Ai gặp tôi cũng hỏi, cũng bắt tôi phải kể
lại câu chuyện mà tôi đã kể đi kể lại có
hàng trăm bận.
74
xuống mấy bận ở dọc đường
19. Bấy Thực ra thì bấy giờ tôi cũng không hiểu Bây giờ 12 4
giờ hết ý nghĩa của danh từ “độc lạp” là ra
sao cả.
75
Đi một quãng thật xa, bấy giờ tôi mới rờn
rợn nghĩ lại lúc mình ngồi ở bờ sông.
21. Be Anh lần theo đòn dài bắc sang một chiếc Mạn thuyền, 5 3
thuyền khác, và lẹ làng như con sóc, co ghe
người trèo qua be mấy chiếc tam bản,
mấy chiếc xuồng nhỏ của những người đi
chợ đậu ken dọc theo bến rồi nhảy phốc
lên bờ
Muốn thò tay ra ngoài be xuồng vốc
nước lên rửa mặt mà không dám.
76
22. Bí rợ Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, Bí đỏ 2 4
mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ
trong một chiếc ghe lườn bán dọc theo
các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là
Tư Mắm.
23. Biên Biên các số tiền chi tiêu lặt vặt ấy mà! Ghi, viết 2 3
24. Bộ Bộ rắn tới nạp mạng cho tụi mình hả? Như vậy, như 2 2
25. Bồ Trời ơi, bây giờ tôi mới biết những thằng Người yêu, 1 3
bịch rượu chè be bét, những thằng trác táng nhân tình
trụy lạc, giặc coi như là dân “bồ bịch”
với nó đấy!
26. Bội Không lại vớ phải thứ cá lọt giỏ, gà lọt Bu, lồng 1 3
bội, quặt quẹo ốm đau, về phải nuôi báo
cô thì khổ cho mày!
27. Bộn Da con này lột ra phơi, bán bộn tiền. Nhiều, khá 2 3
28. Bông Ê, tao còn thấy cái bông bần trôi giữa Hoa 2 3
kênh kia nhá!...
… ta có thể nghe tiếng gió vù vù bất tận
của hàng nghìn loại côn trùng có cánh
không ngớt bay đi bay lại trên những
bông hoa nhiệt đới sặc sỡ, vừa lộng lậy
nở ra đã vội tàn nhanh trong nắng.
77
29. Bốt Giặc vào đóng bốt tại Cây Gừa rồi! Đồn nhỏ hoặc 3 2
Nhưng bây giờ sự tình đã lỡ rồi, ông giữ trạm canh gác
cái giấy xanh xanh ấy, cứ ra vô bốt như của binh lính,
thường, có tin tức gì thì báo cho anh em cảnh sát dưới
biết. chế độ cũ
30. Bới Một bà già cao lớn, hơi gầy, tóc bới cao Búi 1 4
hình bánh lái, mặc chiếc áo bà ba vải đen
kiểu xưa, từ trong lều bước ra, chạy đến
cúi xuống vuốt ve con chó.
31. Bự Lấy cái giỏ bự cho tía đi, con! To, lớn 2 3
Để chừng bắt được con rắn bự, tao bẻ
răng nó cho mày coi.
32. Bựng Khói nhà cháy đã dựng lên từng bựng ở Đám hoặc 1 2
mạn Bần Cùi. tảng to và
dày đặc
quyện chặt
vào nhau
33. Cà Tía nuôi tôi đi cà nhắc đến ngồi trên một nhắc nhắc, 1 2
nhắc gốc cây cắt ngang giống như cái đôn sù khập khiểng,
sì đặt bên bếp lửa,… đi bước thấp
bước cao
34. Cà Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt Lò bếp bằng 3 2
ràng một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên đất nung
cà ràng bắc một nồi đất đậy vung kín
mít.
78
ục…ục… trên bếp cà ràng, khiến tôi có
một thứ cảm giác rợn rợn không tả được.
36. Cá lóc Cái thứ mồi nhái sống gặp nước bơi lom Cá quả 3 3
xom thì chỉ tổ quến cá lóc tới phá mất.
Thế này thì cá lóc hết phương chồm lên
phá mồi.
… tôi đã theo ông nội đi bắt cá sấu như
bắt cá lóc rộng trong khạp vậy thôi.
37. Cạn Tía con chúng tôi bơi đi, ước độ hơn hai Nông 2 3
nghìn thước thì bị cạn, không bơi được
nữa, phải dùng sào chống xuồng lướt trên
mặt bùn xăm xắp nước.
38. Căm Xe thổ mộ chọc cán roi vào căm xe khua Nan hoa 1 3
lách cách.
79
bờ…
40. Cẳng Bọn con nít từ khắp các ngõ ngách, từ Chân 5 3
trong các chỗ tối, từ dưới thuyền, dưới
xuồng chèo lên, ba chân bốn cẳng reo hò
chạy về chỗ đám hát rong.
41. Cần xé Chỗ khoảng sân rộng, những người đàn Sọt vuông to 2 2
bà nông dân mặc quần áo bà ba đen, có hai quai
khăn rằn đen vắt chéo qua vai ngồi xếp chắc dùng để
từng dãy dài sau những chiếc cần xé to xách hoặc để
tướng, những thúng đựng đầy ắp không xỏ đòn vào
rõ và không biết đó là thức gì mà họ mà khiêng,
mang ra chợ bán. thường dùng
Giỏ cần xé chất ngổn ngang, đựng đầy để đựng hàng
các thứ trứng chim. hóa hoặc hoa
quả khi
chuyên chở
42. Cầu Những đêm giật mình thức giấc, nằm Cầu nhỏ bắc 4 2
nước nghe tiếng gió rít thê lương từ cánh đồng chìa ra ở bến
xa mông quạnh và lắng nghe tiếng nước nước, dùng
80
chảy ào ào dưới chân cầu nước bắc ra để làm nơi
con kênh thẳng tắp chạy dài vô tận trước lên xuống
ngôi chợ này, tôi vẫn thường ngẩn ngơ tắm giặt và
nghĩ vậy rửa ráy
Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam
bản của người trên phố buộc dưới chân
cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn
sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa
muốn bứt dây cương.
43. Cha Vô ban tuyên truyền công tác với tôi đi, Tổ hợp dùng 1 2
nội cha nội… trong đối
thoại để gọi
đùa người
đàn ông trẻ,
hàm ý thân
mật
44. Chà Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lủng lẳng Thứ rìu dùng 1 2
gạc chiếc túi da beo, lưng mang cái gùi bằng để đi rừng, có
tre đã trát chai, tay cầm chà gạc. hình cong
cong như cái
gạc nai
45. Chả Ờ, mà các chả đang làm cà phê trong cái Cha ấy 1 2
quán chỗ đám hát Sơn Đông đó!
81
46. Chắc Chắc mẻm nó bắn mình rồi! Chắc mẩm 2 4
mẻm Tôi chắc mẻm rằng người ta vừa hạ một
con beo con cọp gì đấy, nhưng chưa kịp
hỏi ai thì nghe có tiếng một người nào đó
trong đám đông kêu lên!
47. Chòm Chòm tầm gởi rung rung trên nhánh cây Chùm gửi 3 4
gởi gừa, rồi trở lại im lìm không động đậy.
48. Chớ Hừ, vậy mà tưởng thằng nào đang mắc Chứ 3 4
dịch mắc gió gì dưới ghe đó chớ.
Chớ để một thằng Tây nào chạy thoát.
49. Chú Đưa tay chú mày cho tao coi nào! Cách gọi một 2 2
mày Chú mày có số lênh đênh… và sẽ chịu người nhỏ
50. Chịu Bấy giờ tôi mới đành chịu hỏi thằng bé Vừa lòng, hài 3 2
câu ấy. lòng, đồng ý
Bao giờ đang cãi nhau vì sự bất đồng ý
kiến trên một vấn đề nào đó với tía nuôi
tôi, mà má nuôi tôi bỗng dưng quay ra
nói một chuyện gì khác, thì tôi hiểu ngay
rằng bà đã chịu cái lý của tía nuôi tôi là
đúng.
82
51. Coi Lại coi con bé nhào vòng lửa đi! Xem, trông 32 5
83
tháng
52. Coi bộ Coi bộ ông Huỳnh Tấn và anh Sáu tuyên Có vẻ như 14 2
truyền đói dữ.
84
Coi bộ chúng nó không có vẻ gì lo lắng
lắm
53. Con Cầm bánh xà phòng thơm của dì, xuống Cháu 8 5
bến tắm đi. Rồi lên mà mặc quần mới,
85
con!
54. Con Bọn con nít từ khắp các ngõ ngách, từ Trẻ con 10 3
nít trong các chỗ tối, từ dưới thuyền, dưới
xuồng chèo lên, ba chân bốn cẳng reo hò
chạy về chỗ đám hát rong.
86
xuống thì bọn con nít đã trèo phốc lên be
rồi.
55. Cọng Chỉ cần một cái mo cau rụng và mươi Cuống 10 4
cọng sậy là chúng tôi đã làm thành chiếc
cộ hai ngựa kéo, đưa viên tướng cở
truồng đầu đội mũ tết lá xanh….
87
lì.
56. Cốt Rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt (nước) cốt 1 2
dừa dừa thì phải biết nhá! dừa, nước
đầu tiên được
vắt ra từ cơm
dừa khô nạo
nhuyễn, có
màu trắng
như sữa.
57. Cộ Sau đó mới phát sậy, dọn một đường như Xe không có 2 2
đường cộ trâu từ bàu chạy thẳng ra bờ bánh, do trâu
sông nào gần nhất bò kéo chạy
Chỉ cần một cái mo cau rụng và mươi trượt trên mặt
cọng sậy là chúng tôi đã làm thành chiếc đất
cộ hai ngựa kéo, đưa viên tướng cởi
truồng đầu đội mũ tết lá xanh….
58. Cỡ Con nào con nấy to cỡ bắp tay ông. Độ, chừng, 12 5
Bụng dẹt to cỡ bắp vế, không dài lắm, khoảng
non mét rưỡi thôi, mà cái đầu thì bé như
một quả bàng khô.
88
Nó to cỡ cổ tay, mang nhiều nhánh con
tua tủa vào quãng giữa.
59. Củ mỉ Chao ôi! Những người nông dân xưa kia Chậm chạp, ít 1 2
cù mì đi vào thành phố thì củ mỉ cù mì, chẳng nói năng
thấy nói một câu, bước e dè, sợ sệt từ
thẳng lính mã tà cho đến con mụ góp tiền
chỗ, nhẫn nhục mỉm cười trước những
cặp mắt rẻ khinh của bạn người thành
phố ăn trắng mặc trơn, thì giờ đây, họ đã
vùng lên một cách dũng mãnh, sẵn sàng
lao vào cái chết để chặn giặc, sẵn sàng
cưu mang giúp đỡ những con người đã
rời bỏ đô thị chạy đi trước khi giặc tới.
61. Dằn Để tôi đi lo cho các ông nồi cháo gà dằn Lót dạ 3 3
bụng bụng để buổi khuya đi đường.
89
Khi tía nuôi tôi kiểm tra tất cả những
cuộn gai và ướm xong từng lưỡi câu rồi,
ông bèn bảo chúng tôi đi dằn bụng cho
no, kẻo thức khuya mau đói lắm.
62. Dây Giữa cái bụng tròn như quả bóng bơm Thắt lưng 1 3
nịt căng của nó, một sợi dây nịt mới toanh
thắt ngang.
63. Dễ ợt Ấy, ngày xưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt Rất dễ, quá 1 2
như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ! dễ
64. Dễ sợ Tôi bỗng nhớ tới bàn tay ngón búp măng Cực kì 3 2
của con mụ đàn bà đẹp một cách dễ sợ đã
dúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào nơi
quán dì Tư Béo mà tôi đã từ chối không
nhận
90
bởi lý do mong gặp người quen.
91
Dì Tư Béo tức thời quát tôi.
92
nướng bóc vỏ.
93
Dì Tư Béo nhướng lông mày, làm mặt
quan trọng.
94
nhiêu đó.
95
biết nó nói gì mà bà chủ quán của tôi
cười lên khấc khấc…
Dì Tư! Dì Tư!
Dì Tư Béo vẫn quay mặt vào bóng tối.
Dì Tư Béo đã đi rồi.
Dì muốn cho ăn gì cũng được.
96
của con mụ đàn bà đẹp một cách dễ sợ đã
dúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào nơi
quán dì Tư Béo mà tôi đã từ chối không
nhận.
… chợt nhớ tới “thằng bé hầu rượu”
trong quán dì Tư Béo.
97
ghé quán dì Tư Béo, chú có gặp anh phân
đội trưởng…
66. Dóc Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi Khoác lác và 1 2
tán dóc suốt ngày cũng có. bịa đặt,
thường là cho
vui câu
chuyện.
68. Dựa …. Với những túp lều lá thô sơ kiểu cổ Kề, cạnh 3 3
xưa nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch
văn minh hai tầng, những đống gỗ cao
như núi chất dựa bờ, những cột đáy,
thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn
dập dềnh trên sóng…
98
Tốt lắm, chú em! Qua cảm ơn chú em được nhắc
71. Đèn Má tôi cứ cầm cái đèn trứng vịt chạy ra Đèn dầu nhỏ 1 1
trứng chạy vào. có bóng tròn
vịt như quả
trứng vịt
72. Đỏi Trên cầu tàu lục tỉnh, anh ngồi tựa lưng xích 2 2
vào một trụ buộc đỏi, tay cầm tẩu thuốc
lá; những làn khói mỏng xanh xanh từ
trong tẩu thuốc cháy chưa kịp bay lên đã
tan mất ngay theo gió.
74. Đước Ở đó toàn là rừng: rừng đước, rừng mắm, Một cây phổ 9 1
rừng bần… biến ở Nam
99
cây nến khổng lồ.
75. Đương Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ Đang 2 4
gặp gỡ, trao đổi tin tức các luồng hàng
đương khan hiếm, và để kiếm món xào
nướng khoái khẩu hơn là vì cần rượu.
76. Gài Nghe then cửa gài đánh “cách” một cài 2 4
tiếng.
100
Nó dạy tôi cách gài nhiều thứ bẫy, đặc
tính của nhiều con thú,…
77. Gáo Những lưỡi lửa khổng lồ le lên liếm trụi Tên một loại 1 1
các cành khô của ngọn gáo cổ thụ. cây
80. Ghe Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, Thuyền độc 2 1
lườn mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ mộc, dùng để
trong một chiếc ghe lườn bán dọc theo chuyên chở
các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là trong kênh,
Tư Mắm. rạch
81. Giạ Một chiếc thuyền nát, một con dao rựa, Đơn vị dân 1 2
một con chó gầy gò, ngồi bên mẻ lửa hun gian ở Nam
khói đuổi muỗi, đuổi bọ mắt trước mũi Bộ, dùng để
thuyền, người nông dân cùng đường này đong hạt rời,
chèo đưa vợ con và mấy giạ lúa ăn, lúa tương đương
giống cuối cùng, mỗi ngày đi một sâu khoảng 35 –
101
vào rừng rậm. 40 lít
82. Gởi Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu! Gửi 7 4
83. Giùm Thấy tôi đi qua, nó nhe răng khẹc khẹc, Giúp, hộ 9 3
ngó tôi rồi quay lại nhòm người chủ,
dường như muốn bảo tôi hỏi giùm tại sao
cái lão rậm râu kia không thả mối dây
xích cổ ta để nó được tự do đi chơi như
tôi….
102
đưa giùm qua chút!
84. Hổm Chẳng vậy mà một hôm, bà ta đã bảo tôi: Hôm ấy đến 1 2
rày “Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này nay
như con chó hoang. Tội quá! Về đây mà
ở, tiếp giúp tai việc vặt trong quán. Mày
tha hồ ăn, tha hồ uống. Còn như công
xá…”
85. Hông Một thằng bé lùn lùn, béo ục ịch, trợn Mặt bên, phía 8 2
mắt hích khuỷu tay vào hông tôi. bên của cái gì
Hình như một con dao, bởi cái sừng ló ra đó, nơi nào
ngoài cồm cộm thúc vào hông tôi. đó
103
Thấy tôi lắc đầu, nó hích khuỷu tay vào
hông tôi.
86. Hủ Chỉ còn quán cà phê dưới tàn cây bã đậu, Món ăn phổ 2 2
tiếu mấy tiệm hủ tiếu của người Hoa kiều ở biến ở miền
chỗ dãy phố ngói nằm bên trong chợ ngó Nam, được
ra kênh và quán dì Tư Béo là có ánh đèn, làm bằng sợi
lác đác bóng người lui tới. bột gạo nấu
Cả ba bốn ngôi quán bán cà phê, hủ tiếu với nước súp
cũng vừa dựng lên.
88. Khăn Chỗ khoảng sân rộng, những người đàn Khăn thưa, có 1 1
rằn bà nông dân mặc quần áo bà ba đen, sọc ô vuông,
khăn rằn đen vắt chéo qua vai ngồi xếp có ô đen
từng dãy dài sau những chiếc cần xé to trắng hoặc
tướng, những thúng đựng đầy ắp không xanh dương
rõ và không biết đó là thức gì mà họ trắng, thường
mang ra chợ bán. được người
dân Nam Bộ
đi đường
mang theo
104
quấn ở cổ,
89. Khóm Tôi bước thêm mấy bước , qua những Dứa 1 3
đống trái khóm chín vàng tỏa thơm mùi
mật, thấy hai con trút nằm khoanh, vảy
xếp lại như những đồng hào lấp lánh.
93. Lai rai Nhưng lão có thể lai rai uống được suốt Từ từ, từng 2 2
ngày. chút một,
Dằn bụng rồi, bây giờ có thể lai rai được không vội
94. Làm Tôi nghĩ vậy và làm bộ vấp chân, kêu “ái Giả bộ, giả 3 2
bộ ôi” một tiếng. vờ, vờ
105
Dường như nó chỉ chờ nghe tôi hỏi để
được trả lời, nhưng vẫn còn làm bộ làm
tịch, chưa vội bảo ngay.
96. Lèn Coi nó lèn quèn vậy, mà chữ Tây đọc Nhỏ nhặt, ít 1 2
quèn giòn như bắp rang đó. ỏi, không
đáng kể
97. Lén Quẩn quanh bên chân má tôi được vài Lẻn 1 4
buổi, tôi lại lén theo bọn trẻ,…
98. Lộ Hồi đằng cựu các ổng rải quả mù u trên Đường lớn 1 5
lộ.
99. Lu mái Bàn ghế, lu mái nhận lổm nhổm dưới Chum to 1 3
mương.
100. Lục Chống đi một lúc nữa, gặp cái lung còn Bèo lục bình 5 3
bình nhiều nước, tía nuôi tôi vác đồ lề lên bờ,
rồi ông nhận xuồng chìm xuống nước và
vớt lục bình, vớt rong phủ lên để xuồng
khỏi bị nẻ nắng.
106
Ông nhặt lục bình, rau mác phủ kín thân
người, rồi giương nỏ, chống hai khuỷu
tay lên hai khúc bẹ dừa nước thả giữa hai
đám rều, giữ thăng bằng trên mặt nước,
không động đậy.
101. Lung Chống đi một lúc nữa, gặp cái lung còn Đầm, bàu có 4 1
nhiều nước, tía nuôi tôi vác đồ lề lên bờ, chứa nước ở
rồi ông nhận xuồng chìm xuống nước và giữa nơi
vớt lục bình, vớt rong phủ lên để xuồng hoang dã
khỏi bị nẻ nắng.
102. Lụt Ông kéo cái thúng gai đến bên chân, cầm Cùn 1 3
lên vuốt từng sợi gai, sau đó lại rút cái
giũa giắt bên vách ra giũa lại những chiếc
lưỡi câu lụt.
107
Tất cả những cánh tay nhớp nháp bùn đất
của người đứng chung quanh huyệt mả
cùng giơ thằng lên trời.
108
104. Mã tà Chao ôi! Những người nông dân xưa kia Cảnh sát 1 2
đi vào thành phố thì củ mỉ cù mì, chẳng chuyên làm
thấy nói một câu, bước e dè, sợ sệt từ nhiệm vụ
thẳng lính mã tà cho đến con mụ góp tiền tuần tra
chỗ, nhẫn nhục mỉm cười trước những đường phố
cặp mắt rẻ khinh của bạn người thành dưới thời
phố ăn trắng mặc trơn, thì giờ đây, họ đã thực dân
vùng lên một cách dũng mãnh, sẵn sàng Pháp.
lao vào cái chết để chặn giặc, sẵn sàng
cưu mang giúp đỡ những con người đã
rời bỏ đô thị chạy đi trước khi giặc tới.
109
Má tôi cứ cầm cái đèn trứng vịt chạy ra
chạy vào.
110
tôi mỗi ngày một kiệt đi.
111
Ba má tôi cũng rất quý anh thủy thủ vui
tính, biết nhiều chuyện lạ này.
112
mắt còn đọng trên má tôi.
113
Những điều má nuôi tôi kể, trong các
sách giáo khoa không thấy nói.
114
… đúng như lời má nuôi đã tả.
115
Tôi không chú ý tới sự mừng rỡ của má
nuôi tôi và thằng Cò.
116
Má nuôi tôi lắc đầu.
117
tôi dò hỏi.
118
biếu.
106. Mai Mai mốt đây quên đi, làm sao đòi được. Mai kia 2 3
mốt Khó quá!
119
Chà, mai mốt đây các anh thanh niên
đuổi giặc ra khỏi thành phố, chúng tôi lại
quay về gặp nhau, tha hồ mà kể đủ thứ
chuyện nhé!
107. Mãi võ Người Khách mãi võ mặc quần áo chẽn Múa võ cho 1 2
màu đen đã bán qua một lượt thuốc cao, khách xem để
bắt đầu giới thiệu tiết mục “Em bé mười bán thuốc
tuổi nhào qua vòng lửa”.
108. Máng Chị thò tay ra một lỗ vách thủng, với lấy Đeo, mắc 2 3
sợi thừng ai máng bên ngoài…
Tôi cởi quần áo giặt giũ qua loa rồi máng
lên nhánh đước, tắm vội tắm vàng một
chốc là xong ngay.
109. Mạnh Tôi cúi đầu chào tía nuôi tôi, chào má Khỏe, không 1 5
nuôi tôi, gởi lời chúc thằng Cò mau đau yếu.
mạnh,…
110. Mắm( Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, Một loại thức 2 1
1) mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ ăn ở Nam Bộ
trong một chiếc ghe lườn bán dọc theo
các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là
Tư Mắm.
111. Mắm( Anh ta đành buộc thừng rút xác vợ treo Một loại cây 9 1
2) lên cây mắm khô giữa khoảng đất trống, được trồng
chờ mai sáng nước triều lên, sẽ đưa xác phổ biến ở
vợ xuống thuyền chở về mai tang. vùng nước
Hai cha con đốt một đống lửa to tướng mặn
dưới gốc cây mắm khô, trước khi trèo lên
một cây khác ngồi chờ bình minh tới.
Trong ánh trăng xanh lạnh ngắt, người
chồng thấy con cọp cứ chạy vòng quanh
120
gốc mắm, lâu lâu lại đứng dựng hai chân
sau lên như người, còn hai chân trước thì
với với cào cào gốc cây mắm.
Tía nuôi tôi rướn người bước lên sàn cầu
lát toàn bằng những cây mắm nhỏ.
Cứ mỗi bước ông đi tới, những cây mắm
lại kêu lắc rắc dưới chân.
Ở đó toàn là rừng: rừng đước, rừng mắm,
rừng bần…
Chim đậu chen nhau trắng xóa trên
những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt
rụng trụi gần hết lá.
112. Măng Những làng mạc êm đềm, bóng dừa bóng Giống cây ăn 1 1
cụt chuối che rợp các khu vườn mát rượi đất quả cùng họ
phù sa, con đường rất nhỏ lượn trên bờ với bứa, lá
rạch nước đầy ăm ắp soi bóng những cây dài, mọc đối,
sầu riêng, măng cụt… quả có vỏ dày
và chat, cùi
trắng và ngọt,
một sản vật
của vùng
Nam Bộ
121
hỏi tôi.
119. Ngán Các đồng chí thấy chưa, ngán dân đất Ngại đến 3 5
122
Chắc – Băng này chưa? mức sợ
120. Nghề Thưở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội Nghề chài 2 2
hạ bạc nhiều năm trong nghề hạ bạc. lưới, câu kéo
121. Ngó Ngồi trên mui ngó lên bờ chơi cũng Nhìn 27 5
được.
123
rô- đê, che dù đầm, núng na núng nính
rén bước lên chợ, mắt ngó xuống chân
dép xăng đan, sợ bùn đất vấy gấu quần.
124
Hắn ngó trở vào quán rồi quay lại vươn
cái cổ dài ra nhìn xuống chỗ đầu nóp tôi
đã kéo ló ra mũi thuyền.
125
trong mui ôm con Luốc ngó lên chợ, coi
bộ thèm thuồng lắm.
123. Ngon Tao còn chọn chỗ nào ngon sẽ xuống Giỏi, cừ 1 3
mồi.
124. Nhà Gã đường hoàng xách dao đến ném trước Nơi lo việc 1 2
việc nhà việc, bó tay chịu tội. hành chính ở
làng, ở xã
trong thời
Pháp thuộc
125. Nhậu Mái lá rách thủng lỗ chỗ, ban ngày nắng Uống rượu, 7 2
soi xuống mặt chiếc bàn dài, thả những bia
bóng trứng vịt xuống bên mâm người
ngồi nhậu, và ban đêm, người ta có thể
uống cả một vì sao xanh rơi trong lòng
cốc.
126. Ngún Tôi khom người chồm tới, thổi phù phù Cháy ngầm, 1 2
mấy cái vào những đầu củi ngún lem vừa cháy bén
nhem.
126
sợ
128. Nhỏ Nhỏ! Phải mày ở trong đoàn thuyền vận Trẻ, trẻ nhỏ 3 3
tải không?
129. Nhòm Thấy tôi đi qua, nó nhe răng khẹc khẹc, Dòm 4 4
ngó tôi rồi quay lại nhòm người chủ,
dường như muốn bảo tôi hỏi giùm tại sao
cái lão rậm râu kia không thả mối dây
xích cổ ta để nó được tự do đi chơi như
tôi….
Bọn trẻ nhỏ tức thời kêu lên: “Eo ôi!” và
xô nhau lùi lại, vừa lùi vừa tranh nhau
ngỏng cổ nhòm tới.
130. Nhơn Đôi vai rộng bè khom khom chồm tới Nhân 2 4
trước như một con giả nhơn; khi hắn
ngước lên, tôi vừa kịp trông một nửa bên
quai hàm rạch ra, trán rất thấp, vòm mắt
nhô cao, lông mài rậm rịt.
127
131. Như Ai lại để cái mùi người chết xông ra mà Như thế này 1 2
vầy đứng quanh hít thở mãi như vầy được.
133. Nóp Tôi co chân nhảy độp xuống thuyền, lôi Bao lớn đan 17 2
cái nóp ra giũ phành phạch, vờ sửa soạn bằng cói để
chui vào nóp. Nhưng tôi không chui vào, chui vào nằm
tôi lấy chiếc gối chống dựng một đầu nóp tránh muỗi
lên và kéo cho đầu nóp ló ra ngoài mui
thuyền để người đứng trên bờ có thể nhìn
thấy được.
Lộ rồi! Tư Mắm thều thào nói với bóng
đen, và hất hàm về phía đâu nóp ló ra
mui.
Hắn ngó trở vào quán rồi quay lại vươn
cái cổ dài ra nhìn xuống chỗ đầu nóp tôi
đã kéo ló ra mũi thuyền
128
đã ôm nóp, đèn soi, mác và một cái giỏ
tre to tướng bỏ xuống xuồng rồi.
134. Núp Tôi núp theo bóng cây, chui vào một cái Nấp 8 4
hốc có chùm lá ráng phủ bên ngoài mà
một hôm tình cờ tôi đã phát hiện ra.
129
Lỡ tía nuôi tôi núp trong một đám rêu
trôi qua rồi, mà con gián điệp khốn kiếp
chưa ra tắm thì sao?
135. Nước Từ ngoài góc sân sau, tôi đã thấy trong Nước hàng 1 3
màu hơi khói bếp bay tỏa ra xa mùi cháy của
cá kho khô ướp nước màu dừa, rưới mỡ
béo ngậy và có rắc hạt tiêu thơm phức.
136. Nước Nhổ sào từ hồi nước mới ròng. Nước rút 2 3
ròng Chà nước giật ròng rồi.
137. Ông Trời ơi, ông già mình ổng làm gì vậy Cha 2 5
già kìa?
Trời đất quỷ thần ơi, ông già mình hồi
chiều đưa mình đến đơn vị, ổng có uống
chén rượu nào đâu!
138. Ổng Hồi đằng cựu các ổng rải quả mù u trên Ông ấy 14 2
lộ.
Ối, có trời biết ổng đi đâu!
130
Thới Bình, tôi cũng có gặp ổng.
139. Ớt Ông thường ngồi lặng lẽ đánh những sợi ớt chỉ thiên 2 3
hiểm dây gai hoặc giũa lưỡi câu, miệng không
rời cái tẩu thuốc lá hình thù kì dị làm
bằng một gốc ớt hiểm rừng.
140. Phảng Trong ánh nắng vàng nhẹ chưa xua tan Dao lưỡi to, 1 2
hết lớp mù kéo lê trên đầu ngọn cỏ ướt cán dai, cổ
đầm sương, bóng những người đàn ông cong, dùng
xách xà beng, cầm chĩa, xách phảng để phát bờ,
chạy hộc tốc về hướng đồng mả. phát cỏ
141. Qua Em bé, vác cho qua bó mía đi! Từ người đàn 8 1
131
Chịu khó thức một chút. Rồi qua cho tiền ông lớn tuổi
sáng mai ăn bánh. dùng để tự
xưng một
Qua coi nhà còn gì nhậu được nữa không
cách thân mật
thôi mà.
khi nói với
Nướng giùm qua chút, chú em!
người vai em,
Qua ghi các món tiền người ta mua chịu
vai dưới
mà.
Tốt lắm, chú em! Qua cảm ơn chú em
đa!
143. Quá Dường như cơn dông ban chiều đã phung Quá đà 1 3
trớn phí quá trớn, giờ đây, đêm đến, hết sạch
gió rồi.
144. Quài Dì Tư Béo chạy vào cầm cây phất trần Buồng 2 3
bằng cuống quài dừa nước quét lach
xạch trên bàn rượu.
132
Thầy giáo Bảy ngồi cầm cái cuống quài
dừa nước đã đập tơi dùng làm phất trần
xua muỗi quơ qua quơ lại, mỉm cười nói
thong thả.
145. Quýnh Mấy người đàn ông kia, có người quýnh Cuống lên, 2 2
quáng quáng toan chạy, nhưng cũng có người lung túng,
vẫn đứng yên nghe ngóng. không còn
Má tôi móc được bao diêm trong túi ra, làm chủ được
quýnh quáng đánh lên. động tác, cử
chỉ của mình.
146. Rạch Những làng mạc êm đềm, bóng dừa bóng Lạch nước 16 1
chuối che rợp các khu vườn mát rượi đất nhỏ dẫn nước
phù sa, con đường rất nhỏ lượn trên bờ từ sông vào
rạch nước đầy ăm ắp soi bóng những cây đồng ruộng,
sầu riêng, măng cụt… thuyền bè có
133
nào chẳng được.
147. Rày Rày đây mai đó… trên rừng, dưới biển, Rầy 1 3
đồng rộng, núi cao, bất cứ chỗ nào mình
cũng đi tới.
134
rót mía xả bừa bãi, la hét, cãi nhau ỏm tỏi
mà cũng chẳng ai rầy la gì.
149. Rộng Mấy thím bán cá nhờ tôi khiêng thúng Nhốt 2 2
mủng, xách nước cho họ thay nước rộng
cá.
150. Rượu Tư Mắm gọi một xị rượu đế, ngồi ngay ở Rượu lậu, 1 2
đế đầu chiếc bàn dài chỗ cửa ra vào, rót rượu có nồng
rượu ra cốc và lặng lẽ xé mực bỏ vào độ cao,
miệng nhai nhồm nhoàm. thường có
màu trắng
151. Sầu Những làng mạc êm đềm, bóng dừa bóng Giống cây ăn 1 1
riêng chuối che rợp các khu vườn mát rượi đất quả cùng họ
phù sa, con đường rất nhỏ lượn trên bờ với cây gạo,
rạch nước đầy ăm ắp soi bóng những cây quả có gai to
sầu riêng, măng cụt… trông như quả
mít nhỏ, thịt
có mùi thơm
nồng đặc
trưng, ruột có
múi, ăn ngọt
và béo một
135
sản vật của
vùng Nam Bộ
152. Tài Thằng An còn ngồi đấy không?- bác tài Người lái tàu 5 2
công công già cầm xâu thịt và một mớ rau cải thủy
vừa bước đòn dài vừa hỏi, giọng ồm ồm.
Bác tài công vứt xâu thịt vào cái rổ, vặn
lưng uốn xương sống nghe rắc rắc, hơi
nặc nồng mùi rượu
153. Tam Anh lần theo đòn dài bắc sang một chiếc Thuyền nhỏ 11 1
bản thuyền khác, và lẹ làng như con sóc, co không mui,
người trèo qua be mấy chiếc tam bản, có một chèo,
mấy chiếc xuồng nhỏ của những người đi thường làm
chợ đậu ken dọc theo bến rồi nhảy phốc bằng ba tấm
lên bờ. gỗ ghép lại,
Lão Ba Ngù xung phong nhận lãnh chiếc dùng để đi lại
tam bản của anh Sáu tuyên truyền chèo trên vùng
đưa ông Huỳnh Tấn. sông nước
136
Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam
bản của người trên phố buộc dưới chân
cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn
sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa
muốn bứt dây cương.
154. Tàu Một buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm Máy bay 11 4
bay càng xanh từ chợ về đường thì nghe tiếng
tàu bay vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn
137
đến.
155. Te tua Còn chiếc quần đùi bằng vải đen của tôi ở trạng thái 1 2
thì bạc phếch ra, hai ống rách te tua như rách bươm ra
cá chốt rỉa. thành nhiều
138
mảnh, nhiều
miếng nhỏ
156. Tèng Vợ một tên lái mắm tèng xí mà cũng học Đồ bỏ, của 1 2
xí đòi làm sang đến thế kia ư? vứt đi, của
không đáng
gì
157. Thành Con mụ càng cố ý đánh lừa tôi bằng vẻ Thành thật 2 4
thực thành thực thì tôi cũng mượn màu thành
thực để lừa lại nó.
158. Thằn Ngoài thằng Bé ra, bây giờ chỉ còn có Thạch sùng 3 3
lằn con thằn lằn chắt lưỡi trên vách và con
cốc nghiến răng ngoài thềm thương cho
cảnh ngộ chị thôi.
159. Thiệt Thiệt chứ! Trời, thằng này giỏi đa! Thật 1 5
160. Thím Mấy thím bán cá nhờ tôi khiêng thúng Từ dùng để 8 2
mủng, xách nước cho họ thay nước rộng gọi người phụ
cá. nữ lớn tuổi
Thím viết chữ đẹp quá! với ý thân
mật
Đọc nãy giờ… mà thím viết thứ chữ Tây
chữ u gì, cháu không hiểu được.
139
xem…
161. Thủ Thủ lãnh Bình Xuyên, dân anh chị mà Thủ lĩnh 1 5
lãnh lúc nào cũng khiêm tốn, ôn hòa, ít nói…
162. Thuyề Một buổi sáng sớm, tôi và thằng Cò xách Thuyền bán 1 2
n trà chai ra bờ sông chờ thuyền trà vải đón hàng tạp hóa
vải mua dầu lửa. lưu động trên
sông nước
164. Tía(1) Lấy cái giỏ bự cho tía đi, con. Cha 380 3
140
mà! Tía cứ bảo rơi dưới kênh!
141
đến cầm tay tôi trỏ lên.
Tía nuôi tôi vừa nói vừa đưa bàn tay dính
đầy mật ra cho con chó săn liếm.
142
con chúng tôi lắm.
143
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống
tên bước xuống xuồng.
144
chạy ngược hướng gió…
145
lắm…
Cọp…hở tía?
Tía nuôi tôi ngồi lại chỗ chạc ba, tay cầm
nỏ đưa mắt xuống quan sát.
Tía ơi!
Ừ, tía thấy rồi…
146
Đầu mũi tên tẩm độc từ nồi thuốc đó
đang nằm chắc trong tay tía nuôi tôi đây
mà.
147
Làm sao bây giờ, tía?
148
Khi thấy lão nhận lời mời “về ở chơi vài
bữa” của tía nuôi tôi mà không một lời từ
chối,…
149
Tôi đoán rằng tía nuôi tôi dắt tôi đi phục
kích bắn giặc,…
150
… vẫn còn thấy tía nuôi tôi ngồi cầm cái
tẩu lăn tăn trong lòng bàn tay, bên gốc
tràm trước sân.
Tía nuôi tôi quay lại bảo tôi giữ con chó,
đừng cho nó chạy theo.
151
Lúc qua ngang chỗ ngôi mộ Võ Tòng, tía
nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ.
Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôi
xuống thuyền.
152
Tía nuôi tôi rướn người bước lên sàn cầu
lát toàn bằng những cây mắm nhỏ.
153
Người đàn ông đầu trọc cao lêu nghêu
rướn cổ lên như con kỳ đà, hỏi tía nuôi
tôi.
154
Tía nuôi tôi thả trôi theo nước như vậy,
có khi hàng hai, ba giờ liền.
Tía nuôi tôi lặn rất lâu mới trồi lên thở.
Thường sau mỗi lần như vậy, tía nuôi tôi
bao giờ cũng làn vài hớp rượu cho lại
sức.
155
Tía nuôi tôi chèo lái.
Tía nuôi tôi đưa tay lên che mắt nhìn vào
chân trời,…
Tía nuôi tôi thay áo, bịt khăn mới, dắt tôi
lên chùa xin thuốc cho thằng Cò.
Tía nuôi tôi chắp hai tay vái Lục rất kính
cẩn.
Tía nuôi tôi đập đập chân giũ bụi bên góc
phản, rồi ngồi xếp bằng tròn trên chiếc
chiếu hoa rất đẹp, đối diện với Lục.
Tôi thấy Lục ân cần rót nước mời tía
nuôi tôi,…
Tía nuôi tôi cầm gói giấy vàng bước ra,
còn ngoái lại vái ông Lục cụ một lần nữa.
156
nuôi tôi giật mình quay lại.
Tía nuôi tôi chỉ “ừ” rồi cười cười nhìn tôi
bằng cặp mắt khó hiểu.
157
đượcn đâu! – tía nuôi tôi bảo.
158
tiếp…
Mỗi ngày tía nuôi tôi lại một thêm lầm lì,
ít nói.
Nhưng mỗi lần tía nuôi tôi trở về, tôi lại
thấy ông tỉnh táo và vui vẻ hơn trước.
159
gì?
160
Không lẽ tía nuôi tôi đến đây biến thành
chim bay mất hay sao?
161
Bàn tay tía nuôi tôi đang run run vuốt lại
nếp áo, và đôi mắt ông cũng vừa liếc
nhìn sang tôi.
162
ông như thế được không, giọng tía nuôi
tôi nói nghe sao mà khẩn thiết,…
163
sốt ruột,…
165. Tía(2) Cái gì lóc bóc như cá ăn tía vậy, Cò? Bầy, đàn 2 3
166. Tiệm Đèn măng sông trong các hiệu buôn, các Quán, cửa 2 3
tiệm ăn của người Hoa kiều thắp lên sáng hàng
rực.
Chỉ còn quán cà phê dưới tàn cây bã đậu,
mấy tiệm hủ tiếu của người Hoa kiều ở
chỗ dãy phố ngói nằm bên trong chợ ngó
ra kênh và quán dì Tư Béo là có ánh đèn,
lác đác bóng người lui tới
167. Tới Tôi lạc tới xóm chợ này, tính ra đã có Đến một nơi 153 5
hơn nửa tháng. nào đó
Không chờ nghe bác ừ, thoáng cái, tôi đã
đặt chân tới bờ.
164
thì nói không có ai tới uống rượu đây cả
nhé!
165
quán rượu này, không có hắn.
166
anh chưa đặt chân tới thôi.
167
Khi anh Hai bế chị Hai ra đến sân thì tên
địa chỉ Khá đã cầm gậy lững thững bước
tới.
168
kêu ầm ĩ.
Tôi lại nhớ tới cái địa bàn có cây kim lúc
nào cũng quay quay chỉ về phương bắc.
169
Không phải đã tới “số” rồi à?
170
quán dì Tư Béo mà tôi đã từ chối không
nhận.
171
bè khác.
172
Lâu lâu có luồng gió từ xa chạy tới, cuốn
từng vầng cát lớn bay mù mịt, phủ mất
bóng những đàn bò uể oải đứng gặm cỏ
khô dưới những tầng cây thốt nốt,…
173
Nhưng mấy tiếng kêu bất thình lình từ
chỗ bờ sông vọng tới khiến thầy quay
mặt trông ra và thôi không nói nữa.
174
dễ sợ.
175
Nhưng dẫu sao thì nó hãy còn ăn chưa no
lo chưa tới.
168. Trái Tôi bước thêm mấy bước , qua những Quả 2 3
đống trái khóm chin vàng tỏa thơm mùi
mật, thấy hai con trút nằm khoanh, vảy
xếp lại như những đồng hào lấp lánh.
169. Tràm Những đầu ngọn cây tràm và chiếc Loại cây vỏ 16 1
xuồng không đang buộc bên bờ kia hiện xốp, lá làm
lên xanh biếc, dường như trời đất cỏ cây thuốc nhuộm
và những gợn sóng lăn tăn không ngớt vỗ hoặc xoa bóp
nhẹ đôi bờ kia thảy đều rung rung trong
sắc xanh kỳ ảo, mắt người chưa kịp trông
rõ đã biến mất vào bóng tối.
Mặt trời đã xuống ngang ngọn cây tràm
bên kia bờ kênh
…hai bên bờ mọc chen chúc những cây
tràm vỏ trắng, cánh lá rậm rạp.
Hai vợ chồng che một túp lều bên cây
tràm độc chiếc, để lấy nới làm phương
hướng tìm về.
Bờ tràm khô đứng im lìm dưới ánh sáng
xanh biếc.
Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút
176
óng ánh trên những đầu hoa tràm rung
rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm
giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.
Bây giờ mày cứ nhìn kĩ vào khoảng cách
giữa hai nhánh tràm cao kia!
Trên những ngọn tràm cao, đang lướt
qua một đoàn li ti như nấm trấu bay, phát
ra những tiếng eo…eo…eo…eo
Tôi nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kèo
ong gác trên cây tràm thấp.
Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến
mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, minhg
mới định chỗ gác kèo.
170. Trầm Ông trầm mình dưới nước, chỉ ló người Chìm, hoặc 3 2
từ phần giữa ngực lên trên. làm cho chìm
177
Bao giờ ông cũng phải uống một tô nước ngập dưới
171. Trật Cũng như người lính cầm sung, phải bắn Sai, không 1 2
bách phát bách trúng, bắn sao cho đừng đúng, không
trật một viên. trúng
172. Trời ơi Trời ơi! Chỉ nhích ra một phân, bất cứ ở Vớ vẩn, 14 2
phía nào thì những mũi dao sắc nhọn như chằng ra gì
gươm kia cũng đâm xóc lút vào da thịt.
178
tôi chưa từng thấy và chưa từng nghe tía
má nuôi tôi nói đến bao giờ.
173. Trúng Dây thừa quá thì mất công lặn xuống Bị thương 2 4
thương kiếm lâu mới gặp cá sấu trúng thương,
mà dây ngắn quá thì nó kéo phao chìm
dưới nước, chẳng biết đâu mà mò.
174. Trút Tôi thu lại như một con trút, ngồi sát vào Tê tê 2 1
chân bệ thờ.
175. Trự ta Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, Hắn ta 1 4
trầm lâu thì ngạt, mà hễ bị tro cay mắt thì
là y như trự ta đập đuôi chạy lên bờ tức
khắc.
176. Vạt Thằng Cò đang ngủ trưa, ngáy khò khò Giác 3 4
bên bộ vạt. (giường)
179
vì lâu ngày không cạo, đang ngồi trên bộ
vạt lót bằng cọng sống lá kia thì tôi trông
quen lắm.
178. Vịt Dì Tư Béo lạch bà lạch bạch như con vịt Ngan 1 3
xiêm mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thở
ài vừa hỏi phụ họa..
179. Vọp Những buổi triều lên, nước chỉ ngập quá Loại sò to, vỏ 1 2
180
gối thôi, chúng tôi năm bảy đứa rủ nhau trắng, sống ở
đi bắt vọp, bắt cua, trên đường về thường biển
đuổi nhau chui qua những “cánh tay
đước”, móc bùn ném nhau, té nước và
reo hò ầm ĩ – những lúc đang vui và
chung quanh có đông bạn bè ấy thì tôi có
cảm giác như rừng đước đang xôn xao từ
dưới biển mọc lên.
181
khoát là không trở vô!”
181. Xà Một ông cụ già cởi trần, râu quăn queo, Váy 3 3
rông vận xà rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ,
người cao lớn như tía nuôi tôi, đứng lên
cất giọng ồm ồm.
182. Xài Số ông đưa tới… chỗ có bạc xài. Tiêu, dùng, 2 3
183. Xe thổ Xe thổ mộ chọc cán roi vào căm xe khua Xe ngựa, 1 2
mộ lách cách. thùng xe có
mái che,
182
thường được
trang trí đẹp,
dùng để chở
hàng hóa.
185. Xị Tư Mắm gọi một xị rượu đế, ngồi ngay ở Chai nhỏ có 1 2
đầu chiếc bàn dài chỗ cửa ra vào, rót dung tích
rượu ra cốc và lặng lẽ xé mực bỏ vào khoảng một
miệng nhai nhồm nhoàm. phần tư lít.
186. Xích Chúng cho quân xích hầu ăn mặc giả Mật thám, 2 3
hầu thường dân mò vào, toan bắt sống mấy thám báo.
anh tự vệ ở đầu trạm canh, nhưng ta có
cảnh giác phát hiện kịp.
187. Xuồng Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam Xuồng nhỏ, 2 1
ba lá bản của người trên phố buộc dưới chân đóng bằng ba
cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn tấm ván ghép
sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa lại.
muốn bứt dây cương.
183
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Ái, (1987), Sổ tay phương ngữ Nam Bộ, NXB Cửu Long.
2. Đỗ Hữu Châu, (1997),Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, NXB Đại Học
Quốc Gia Hà Nội.
3. Đỗ Hữu Châu, (2006), Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại Học Sư
Phạm.
4. Đỗ Hữu Châu, (1998), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo Dục.
5. Hoàng Thị Châu, (2004), Phương ngữ tiếng Việt, NXB Đại Học Quốc Gia Hà
Nội.
6. Nguyễn Hữu Chỉnh, (1993), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, trường Đại
Học Cần Thơ.
7. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) – Đoàn Thiện Thuật – Nguyễn Minh Thuyết,
(1998), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo Dục.
8. Nguyễn Thiện Giáp, (2003), Từ vựng học Tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo
Dục.
9. Nguyễn Văn Khang, (1999), Ngôn ngữ học xã hội – những vấn đề cơ bản,
NXB Khoa học xã hội.
10. Trần Thị Ngọc Lang, (1995), Phương ngữ Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội.
11. Hoàng Phê, (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
12. Nguyễn Kim Thản và các tác giả, (2002), Tiếng Việt trên đường phát triển,
NXB Khoa học xã hội.
13. Nguyễn Phương Thảo, Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long
14. Huỳnh Công Tín, (2007), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, NXB Khoa học Xã
Hội.
15. Huỳnh Công Tín, (1996), Tiếng Việt và vấn đề phân vùng phương ngữ, Ngữ
học trẻ 96, Diễn đàn học tập và nghiên cứu, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hà
Nội.
16. Huỳnh Công Tín, (2009), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, NXB chính trị Quốc gia.
17. Bùi Tất Tươm (chủ biên) (1997), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Giáo
trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo Dục.
18. Trịnh Sâm, (2001), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, NXB trẻ.
184
19. Nguyễn Thị Thanh Xuân, (2004), tập tiểu luận – phê bình “Tiếng vọng
những mùa qua”, NXB trẻ.
20. Nguyễn Như Ý, (2001), Từ điển đối chiếu từ địa phương, NXB Giáo Dục, Hà
Nội.
21. Nguyễn Như Ý (chủ biên), (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học, NXB Giáo Dục.
22. Nhiều tác giả, (1978), Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả, (1986), Ngôn ngữ học: khuynh hướng – lĩnh vực – khái niệm,
tập hai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
185
MỤC LỤC
A - PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................... 4
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................ 6
4. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................. 7
B - PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................... 8
Chương một: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG
VIỆT VÀ TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ........................................................................... 8
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT ............................................ 8
1. Về khái niệm phương ngữ ..................................................................................8
2. Về việc phân vùng phương ngữ trong Tiếng Việt ...............................................9
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ .....................................15
1. Về khái niệm phương ngữ Nam Bộ ..................................................................15
2. Một vài đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ .....................................................15
2. 1. Đặc điểm ngữ âm......................................................................................15
2.2. Đặc điểm từ ngữ và phong cách.................................................................17
3. Các kiểu phương ngữ Nam Bộ .........................................................................18
3.1. Kiểu I- Những từ khác âm, khác nghĩa....................................................18
3.2. Kiểu II - Những từ khác âm nhưng gần nghĩa ............................................19
3.3. Kiểu III - Những từ khác âm nhưng đồng nghĩa ........................................23
3.4. Kiểu IV- những từ gần âm nhưng khác nghĩa.............................................28
3.5. Kiểu V - Những từ gần âm và gần nghĩa ....................................................28
3.6. Kiểu VI - Một trong hai từ là biến thể ngữ âm của từ kia ...........................28
3.7. Kiểu VII - Những từ đồng âm nhưng khác nghĩa.......................................26
3.8. Kiểu VIII - Những từ giống âm nhưng chỉ gần nghĩa ................................27
Chương hai: KHẢO SÁT TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU
THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI...................................... 29
I. GIỚI THIỆU VĂN BẢN ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI: ....29
1. Vài nét về tác giả..............................................................................................29
1.1. Cuộc đời....................................................................................................29
186
1.2. Sự nghiệp sáng tác.....................................................................................30
2. Vài nét về tiểu thuyết Đất Rừng Phương Nam..................................................34
II. THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI..............................................................................35
1. Thống kê từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất Rừng Phương
Nam của Đoàn Giỏi................................................................................................35
2. Phân loại từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi......................................................................................................35
3. Bảng thống kê kết quả phân loại các từ phương ngữ Nam Bộ trong tiểu
thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi.......................................................37
III. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ TỪ PHƯƠNG NGỮ TRONG TIỂU THUYẾT
ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI ....................................................43
IV. GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA TỪ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ TRONG TIỂU
THUYẾT ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN GIỎI ....................................45
1. Từ phương ngữ trong việc thể hiện những đặc điểm của thiên nhiên Nam Bộ ..46
2. Từ phương ngữ trong việc thể hiện sinh hoạt của con người Nam Bộ...............47
3. Từ phương ngữ trong việc xây dựng con người Nam Bộ..................................54
3.1. Thể hiện ngoại hình nhân vật.....................................................................55
3.2. Thể hiện tính cách, hành động và tâm lí nhân vật.......................................53
C – PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................64
PHỤ LỤC......................................................................................................................65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................184
MỤC LỤC...................................................................................................................183
187