Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 182

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN TUYÊN

PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ


CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN TUYÊN

PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ


CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. PGS.TS. HOÀNG ANH
2. TS. VĂN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã
được trích dẫn đầy đủ đúng quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Văn Tuyên


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.........................................................................6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giá trị con người,
phát triển giá trị của con người Việt Nam.................................................6
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển giá trị của con người Việt Nam..........................................17
1.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu...............................................................................................26
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỆ GIÁ TRỊ CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM....................................................................30
2.1. Một số khái niệm......................................................................................30
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người
Việt Mam.................................................................................................35
2.3. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người
Việt Nam.................................................................................................54
Chương 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA CON
NGƯỜI VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.......................89
3.1. Nhân tố tác động đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.......89
3.2. Sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam....................................103
3.3. Những vấn đề đặt ra từ sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam....121
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH....................................................................................129
4.1. Quan điểm..............................................................................................129
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh....................................135
KẾT LUẬN..................................................................................................160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.....................................................162
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................163
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người nói chung, giá trị của
con người Việt Nam nói riêng là một nội dung quan trọng, vừa là mục tiêu,
động lực của sự nghiệp cách mạng, vừa là mục đích của tư tưởng; sức mạnh
của văn hóa và con người Việt Nam là nhân tố làm nên thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặc dù trong di sản tinh thần của Hồ
Chí Minh để lại, không có những tác phẩm chuyên khảo bàn về hệ giá trị của
con người Việt Nam, nhưng được thể hiện ở trong nhiều bài viết, bài nói dưới
những hình thức, mức độ khác nhau; đặc biệt được thể hiện rõ trong quá trình
thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng,
phát triển giá trị của con người Việt Nam, trong Di chúc, Người căn dặn sau
khi chiến tranh kết thúc "đầu tiên là công việc đối với con người" [99, tr.616].
Việt Nam đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp
4.0). Nhờ có đường lối đúng đắn, chúng ta đã tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ của
nhân loại để không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa tinh thần cho người dân... Tuy nhiên, mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, kinh tế thị trường và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động
tiêu cực đến hệ giá trị truyền thống của người Việt Nam; làm cho thang giá trị có
sự xung đột, chuyển đổi, thậm chí khủng hoảng trong việc lựa chọn giá trị định
hướng, nhất là ở thế hệ trẻ. Nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc
như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, nghĩa tình, hiếu học, cần cù… dù vẫn được
phần lớn người dân Việt Nam trân trọng, gìn giữ và phát huy, nhưng cũng đang
có biểu hiện mai một, suy thoái, nhất là giá trị đạo đức. Thực tế đó đòi hỏi yêu
cầu bức thiết cần tìm ra những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực,
2

hạn chế mặt tiêu cực, hướng tới xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, cùng với phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng phát triển văn hóa, con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển văn hóa. Điều đó được thể hiện thông qua các Văn kiện
Đại hội Đảng, từ Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1998) đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016); các Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII,
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX, Hội nghị Trung ương 7 khóa X… Trong
nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,
Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng con
người có nhân cách, đạo đức tốt đẹp và tinh thần đó được thể hiện xuyên
suốt trong Nghị quyết, từ tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ cũng
như những giải pháp. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu,
đúc kết và xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Với những lý do trên, tôi chọn “Phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận
án tiến sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về
hệ giá trị con người Việt Nam; từ đó vận dụng vào việc phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ một số khái niệm cơ bản về: Giá trị, hệ giá trị; tư
tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam; phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam.
3

- Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của
con người Việt Nam.
- Nghiên cứu quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về hệ giá trị tiêu
biểu, cốt lõi và phương pháp phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
- Phân tích sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trước tác
động tích cực, tiêu cực của nhân tố khách quan và chủ quan.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ
giá trị của con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Trong di sản tinh thần để lại, Hồ Chí Minh đã đề cập
trực tiếp, gián tiếp đến nhiều giá trị của con người Việt Nam. Có những giá trị
chung của dân tộc như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, cần cù, hiếu học…; có
giá trị riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, ngành nghề: công nhân, nông
dân, bộ đội, công an, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng…; có giá trị cá
nhân: sức khỏe, các quyền con người… Có những giá trị chính trị: độc lập, tự
do, hạnh phúc, dân chủ…; có những giá trị đạo đức: trung thực, dũng cảm,
liêm khiết, chính trực… Song, trong khuôn khổ của luận án, tác giả chỉ tập
trung đi sâu nghiên cứu các giá trị: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn
kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đây là những giá trị
tiêu biểu, cốt lõi nhất, tạo nên bản sắc văn hóa, con người Việt Nam. Từ
những giá trị tiêu biểu, cốt lõi mang tính nguyên tắc này đã sản sinh ra nhiều
giá trị quý báu khác của con người Việt Nam.
- Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2018, là giai đoạn nước ta bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
4

quốc tế; là giai đoạn Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng xây dựng, phát
triển văn hóa, con người, đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII.
- Về không gian: Trong quốc gia Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích
và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, tổng hợp và khái quát hóa, đối chiếu và so sánh,
thống kê,...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam; hệ thống hóa các quan điểm
lý luận của Người về hệ giá trị của con người Việt Nam.
- Góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, về hệ giá trị của con người Việt Nam nói riêng; khẳng định
những đóng góp quan trọng của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
5.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
- Từ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt
Nam, có thể vận dụng vào việc phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh tại các cơ quan nghiên
cứu, các học viện và nhà trường về văn hóa, con người Việt Nam đương đại.
5

6. Kết cấu của luận án


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ GIÁ
TRỊ CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Bàn về vấn đề giá trị và giá trị con người Việt Nam đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước dưới những góc độ khác nhau.
Tiêu biểu có Nguyễn Hồng Phong, trong cuốn Tìm hiểu tính cách dân tộc [122]
đã nêu và phân tích khá sâu sắc về đặc điểm, tính cách con người Việt Nam
truyền thống như: tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình,
nhân đạo; tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần cù, giản dị, thực tiễn; lạc
quan. Nghiên cứu từ góc độ lịch sử, ông khẳng định rằng dân tộc Việt Nam là
một dân tộc anh hùng, một dân tộc được rèn giũa trong một môi trường đặc
biệt, vừa mới ra đời hãy còn chập chững đã phải chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược; là một dân tộc có tinh thần tương trợ, hào hiệp, nghĩa tình, trung hậu, vị
tha, coi trọng đạo đức và những giá trị tinh thần, là một dân tộc cần cù, giản dị,
lạc quan… Chính “nhờ có những đức tính ấy mà đã vượt bao nhiêu trở ngại vô
cùng lớn lao trên con đường tiến hóa của mình” [122, tr.200].
Cũng với cách tiếp cận trên, trong cuốn Những giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam [149], Ngô Đức Thịnh đã phân tích khá sâu sắc một số vấn đề
lý luận trong nghiên cứu giá trị văn hóa và chuyển đổi hệ giá trị trong đổi mới
và hội nhập ở Việt Nam, trong đó nêu lên định nghĩa về “giá trị”, cách phân
loại “giá trị”; nêu và phân tích hệ giá trị văn hóa tổng quát truyền thống Việt
Nam, trong đó có những giá trị tiêu biểu như: Chủ nghĩa yêu nước; tinh thần
cộng đồng; tinh thần lạc quan, nhân nghĩa; tinh thần cần cù, chịu đựng gian
khổ… Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó và khảo sát riêng ở
cả ba miền Bắc, Trung, Nam, tác giả đã chọn ra 5 giá trị tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam đó là: Chủ nghĩa yêu nước; tính cộng đồng (làng xóm, vùng, miền,
7

dân tộc); cần cù, chịu khó; hiếu học, khát vọng học; gắn bó huyết thống (gia
đình) và làng bản. Bên cạnh những giá trị tổng quát đó, tác giả nêu và phân
tích các giá trị bộ phận, thể hiện trong một số lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
hội như: Thích ứng môi trường và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, trong lĩnh vực văn hóa đảm bảo đời sống như ăn, mặc, ở, đi lại,…
trong các cách tổ chức và quản lý xã hội truyền thống, trong giáo dục và đào
tạo con người,...
Trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam [44],
Trần Văn Giàu đã đưa ra các khái niệm: “giá trị”, “giá trị tinh thần”, “truyền
thống”. Theo tác giả, các giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành từ tác
động tổng hòa của năm yếu tố cơ bản đó là: Hoàn cảnh địa lý; vị trí ngã tư
đường giao lưu văn hóa và kinh tế Bắc Nam - Đông Tây; có nền văn minh
bản địa đặc sắc; hoàn cảnh lịch sử; chủ nghĩa Mác - Lênin. Tác giả đã nêu và
phân tích những điều kiện lịch sử và những nhân tố tác động đến sự hình
thành, phát triển của giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Ông đưa ra bảng
giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng,
sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Theo tác giả, những giá trị đó vừa
mang tính phổ biến, vừa mang dấu ấn riêng và cái làm nên dấu ấn riêng, đặc
sắc riêng đó chính là tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó hoàn cảnh lịch sử
đặc thù của dân tộc đóng vai trò quyết định. Những giá trị tinh thần truyền
thống ấy, theo tác giả "vừa đủ để cho dân tộc ta sinh tồn tự do và vinh dự…
các đức tính ấy hoàn toàn phù hợp, hài hòa với các giá trị đạo đức, giá trị tinh
thần mà cả loài người đều quý trọng" [44, tr.164].
Tác giả Phạm Minh Hạc, trong cuốn Giá trị học, Cơ sở lý luận góp phần
đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay [55] đã phân tích
làm rõ các khái niệm cơ bản về “giá trị”, “hệ giá trị”, “thang giá trị”, “thước đo
giá trị”. Ông nêu lên hệ thống giá trị của con người bao gồm: Giá trị chung của
loài người (tính người, tình người, các giá trị chân, thiện, mỹ); các giá trị toàn
8

cầu (hòa bình, an ninh, hữu nghị, hợp tác, không xâm phạm chủ quyền, độc lập
dân tộc); các giá trị dân tộc (tinh thần dân tộc, lấy các giá trị bản sắc dân tộc
làm chuẩn mực (yêu nước, trách nhiệm cộng đồng); các giá trị gia đình (hòa
thuận, hiếu thảo, coi trọng giáo dục gia đình); giá trị bản thân (giá trị nhân
cách, giá trị cá nhân). Theo ông, các giá trị chân, thiện, mỹ; giá trị sống còn;
giá trị lao động; giá trị gia đình là những giá trị chung của nhân loại. Trong bài
mục thứ sáu với tiêu đề Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - Tư tưởng chỉ đạo
nghiên cứu giá trị, tác giả đã đề xuất nội dung cơ bản chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh, bao gồm: Yêu thương vô hạn con người, nhất là người bị áp bức,
nghèo khổ; tôn trọng con người; giải phóng con người khỏi áp bức, nô lệ,
nghèo khổ, lầm than; khoan dung; sử dụng đúng từng người… từ đó tác giả
khẳng định: "Chủ nghĩa nhân văn và nhân cách Hồ Chí Minh là một xuất phát
điểm đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của chúng ta" [55, tr.71]. Trong bài
mục thứ hai mươi ba và thứ hai mươi tư, tác giả đã chỉ ra những biến động
phức tạp một số giá trị ở Việt Nam; đồng thời đề xuất một số nguyên tắc và
phương án nhằm đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Trong cuốn Về giá trị và giá trị châu Á [128], Hồ Sĩ Quý đã phân tích
những quan niệm cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống, cắt nghĩa tại sao giá
trị lại có vai trò đặc biệt đối với đời sống con người? Ông cho rằng, thế giới các
giá trị, về thực chất chính là toàn bộ thế giới bên trong và bên ngoài con người
được định hình trong tư duy và tình cảm của con người. Do tồn tại với tư cách
là khuôn thước của sự đánh giá, là một biểu hiện đặc trưng cho quan hệ giữa
chủ thể với khách thể trong đời sống xã hội. Theo ông, truyền thống, ngoài
những giá trị cơ bản, còn có những giá trị gián tiếp và phái sinh khác, bởi
vậy, “hầu hết mọi hiện tượng truyền thống trong xã hội thường là có giá trị
không giống nhau, thậm chí nước đôi (tính hai mặt) đối với từng cộng đồng
người” [128, tr.56]. Theo ông, hệ giá trị ưu trội của người Đông Á nói chung,
9

người Việt Nam nói riêng “có thể gồm nhiều giá trị cụ thể khác nhau, song
đứng hàng đầu trong hầu hết các bảng phân loại bao giờ cũng là bốn giá trị
hiếu học, cộng đồng, cần cù và huyết tộc” [128, tr.210]. Trong chương VI
của cuốn sách này, tác giả tập trung phân tích những tác động tích cực và
tiêu cực của toàn cầu hóa đến sự biến động giá trị ở Việt Nam. Thông qua
kết quả khảo sát và lấy từ các nguồn tư liệu khác nhau, tác giả khẳng định
trong toàn cầu hóa, một số giá trị có sự biến động, trong đó có các giá trị:
"hiếu học", “cần cù”, "cộng đồng, gia đình".
Cuốn Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường
tới tương lai [146] do Trần Ngọc Thêm chủ biên là sản phẩm của đề tài khoa
học cấp Nhà nước KX.04.15/11-15 "Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" thuộc Chương trình KX.04/11-
15 "Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-2015". Trong đó,
đã xây dựng khung lý luận về giá trị và hệ giá trị (bao gồm các khái niệm
công cụ; các quy luật, đặc tính; phương pháp luận và các phương pháp cụ
thể…) làm cơ sở cho việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xác lập một hệ giá trị Việt Nam truyền thống với 23 giá trị, được tập hợp theo
05 đặc trưng cơ bản; giải thích nguồn gốc hình thành của các đặc trưng và các
giá trị mà mỗi đặc trưng chi phối. Các học giả đã tập trung nghiên cứu sự biến
động của hệ giá trị Việt Nam truyền thống trong giai đoạn hiện đại, trong đó
chỉ ra những giá trị được bảo tồn, những giá trị đang mất đi, những thói hư tật
xấu (phi giá trị) đang phát sinh và những giá trị cần phát triển. Trên cơ sở đó,
đề xuất mô hình hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm gồm 10 giá trị: 2 giá
trị xã hội phổ biến (dân chủ và pháp quyền); 2 giá trị con người truyền thống
điển hình (yêu nước và nhân ái); 2 giá trị con người thời kỳ hội nhập (trung
thực và bản lĩnh); 2 giá trị con người trong quan hệ với đồng loại (trách nhiệm
và hợp tác); 2 giá trị con người thời kỳ công nghiệp và kinh tế tri thức (tính
khoa học và sáng tạo). Để hiện thực hóa được hệ giá trị định hướng cốt lõi
10

trọng điểm này, tác giả đã phác thảo 5 nhóm giải pháp cơ bản: nhóm giải
pháp về thể chế; nhóm giải pháp về tổ chức; nhóm giải pháp giáo dục - tuyên
truyền; nhóm giải pháp hành động; nhóm giải pháp phát triển.
Trong cuốn Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn
hiện tại [145], do Trần Ngọc Thêm chủ biên đã tập hợp khá nhiều bài viết của
các nhà khoa học. Trong đó đáng lưu ý là bài viết của tác giả Lương Đình Hải
với tiêu đề “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế: góp thêm vài ý kiến nhỏ”. Theo tác giả, hệ
giá trị của một dân tộc hay một cộng đồng được hình thành qua quá trình lịch
sử lâu dài, được sàng lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau. Hệ giá trị được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này
qua thế hệ khác sẽ trở thành tài sản, là thước đo, “khuôn mẫu” để mỗi cá nhân
và cả xã hội định hướng cho các hành vi hoạt động của mình. Trên cơ sở
nghiên cứu, khảo sát riêng, tác giả nêu lên bảng giá trị Việt Nam cần xây
dựng trong giai đoạn hiện nay đó là: 1) Tinh thần yêu nước; 2) Tinh thần nhân
ái; 3) Anh hùng, dũng cảm; 4) Biết chấp nhận (nhẫn), tiếp thu; 5) Hiếu học; 6)
Sáng tạo; 7) Cần cù; 8) Lạc quan; 9) Trọng đạo lý; 10) Ưa ổn định. Tác giả
khẳng định “Dù đang có những biến động nhưng các giá trị này không thể
biến mất mà đang được tiếp tục củng cố, có những hình thức biểu hiện mới
với những mức độ khác nhau” [145, tr.244]. Cũng trong cuốn sách này, tác
giả Nguyễn Hữu Nguyên với bài viết với tiêu đề “Phác thảo hệ giá trị Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại” đã phác thảo những giá trị Việt Nam hiện
đại bao gồm: 1) Ý chí bền bỉ, chịu khó và vượt khó; 2) Ý chí bất khuất, tự
cường dân tộc; 3) Tài năng quân sự, dũng cảm; 4) Lạc quan và hài hước; 5)
Dung hợp các giá trị văn hóa; 6) Khéo léo, năng động, sáng tạo; 7) Đoàn kết
và tính thực tế.
Bàn về vấn đề phát triển giá trị cho con người Việt Nam, trong cuốn
Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập [56],
11

đồng tác giả Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên, ngoài việc nêu lên một số
khái niệm cơ bản về “giá trị”, “thang giá trị”, “thước đo giá trị”, “định hướng
giá trị” đã nêu lên những cơ sở lý luận xây dựng bộ công cụ điều tra; nêu lên
một số yêu cầu về hệ giá trị trong thời kinh tế thị trường; dự báo xu hướng
biến đổi định hướng giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tác giả cho rằng, con người Việt Nam hiện nay đang hình
thành định hướng giá trị mới. Vì vậy, phải “tổ chức, điều khiển sao cho việc
điều chỉnh hệ thống định hướng giá trị cũ có thể thay bằng một hệ thống định
hướng giá trị mới, diễn ra một cách thận trọng, tuần tự, bảo đảm sự an tâm, ổn
định trong từng con người, từng gia đình và toàn xã hội” [56, tr.59]. Cũng ở cách
tiếp cận này, đồng tác giả Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Thạc - Mạc Văn Thăng,
trong cuốn Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị [166] đã
phân tích một số vấn đề lý luận về giá trị, định hướng giá trị và quá trình hình
thành giá trị. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả nêu lên một số giá trị như: tự do,
hòa bình, sức khỏe, việc làm… và định hướng giá trị nhân cách như: sống có
tình nghĩa; sáng tạo trong học tập, lao động, công tác; có ý thức và hành vi
sẵn sàng bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.
Ngoài các sách đã nêu ở trên, còn có một số bài báo khoa học đăng trên
tạp chí Triết học, Xã hội học, Khoa học xã hội Việt Nam… đã tập trung phân
tích những tác động của toàn cầu hóa đến sự biến đổi của văn hóa, con người
Việt Nam. Trong đó, đáng lưu ý có bài viết của Hồ Sĩ Quý, Động thái của
một số giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa [127], trong đó, tác
giả khẳng định toàn cầu hóa với bộ mặt phức tạp của nó đang làm cho hệ
thống các giá trị thay đổi đáng mừng và cũng đang lo; đồng thời, tác giả chỉ ra
những biến động của một số giá trị truyền thống ở Việt Nam như: giá trị “Hiếu
học, đề cao giáo dục”, “cần cù, yêu lao động”, giá trị “cộng đồng, gia đình”. Ở
góc nhìn khác, Nguyễn Đình Tường, trong bài Giữ gìn và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa [162] cũng cho
12

rằng, toàn cầu hóa không chỉ mang lại thời cơ lớn, mà còn tạo ra những thách
thức không nhỏ đối với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát
triển. Đối với Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa đang tác động tích cực lẫn tiêu
cực đến giá trị truyền thống của con người; đặt ra vấn đề làm thế nào để vừa
có thể tiếp thu các giá trị của thời đại, vừa có thể giữ được bản sắc dân tộc
vốn có, để không bị nhấn chìm vào các nền văn hóa khác. Trên cơ sở đó, tác
giả nêu lên một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống dân
tộc Việt Nam bao gồm: Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền
thống cách mạng của dân tộc cho thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống phải luôn gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật; xác lập
bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, trong bài viết Toàn cầu hóa và nguy
cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay [68] cho rằng,
toàn cầu hóa bên cạnh mặt tích cực là đã góp phần làm biến đổi con người
Việt Nam, từ lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn có sang lối
sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế
thời đại; mặt khác, làm xuất hiện lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ,
thực dụng, đua đòi, ăn chơi, lãng phí, trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực…
làm suy thoái nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Về vấn
đề này, Mai Thị Quý, trong bài viết Tác động của toàn cầu hóa đến truyền
thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam [129] cho rằng, toàn cầu hóa
kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo chiều
hướng vừa tích cực, vừa tiêu cực: một mặt, toàn cầu hóa tạo điều kiện phát
huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân; mặt khác, toàn cầu
hóa cũng đem đến nguy cơ xem nhẹ, hay chí ít là chưa phát huy đúng mức
truyền thống cần cù của dân tộc. Tác giả Võ Văn Thắng trong bài viết Nhân
ái - một giá trị văn hóa truyền thống cần kế thừa và phát huy trong việc xây
dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay [140] cho rằng, lòng nhân ái là một giá trị
13

của dân tộc ta, góp phần tạo nên một nét độc đáo trong chủ nghĩa nhân văn
truyền thống Việt Nam… Hiện nay, tinh thần nhân ái vẫn được nhân dân ta kế
thừa, phát huy và nâng lên một tầm cao mới; lòng nhân ái không chỉ bó hẹp
trong phạm vi quốc gia mà đã vượt ra ngoài biên giới, đến với các nước trong
khu vực và quốc tế. Tác giả Trương Hoài Phương, trong bài Giữ gìn và phát
huy giá trị truyền thống của con người Việt Nam - Một yêu cầu tất yếu khách
quan trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [123] nêu ra những biện
pháp để giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống của con người Việt Nam đó là:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhân thức về các giá trị truyền
thống của con người Việt Nam; quan tâm, tạo lập môi trường xã hội lành
mạnh, đấu tranh chống nguy cơ xói mòn các giá trị truyền thống của con
người Việt Nam; tích cực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhằm đổi mới
và nâng cao các giá trị truyền thống của con người Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dưới góc độ triết học, tác giả Trần Sĩ Phán, trong bài viết Xung đột hệ
giá trị tinh thần và xây dựng giá trị của con người Việt Nam [118], đã phân
tích sự xung đột hệ giá trị tinh thần, đó là những tình huống hoặc quá trình xã
hội trong đó tồn tại các mâu thuẫn, những khác biệt giữa hai bên (cá nhân với
cá nhân, cá nhân với xã hội hay giữa các nhóm xã hội với xã hội nói chung)
trong nhận thức, trong quan niệm về sự sắp xếp thứ bậc, lựa chọn các giá trị
tinh thần. Theo tác giả, “nguyên nhân của xung đột chủ yếu do những khác
biệt, thiếu thống nhất trong nhận thức về các giá trị; thiếu tương ứng, tương
dung, sự cách biệt giữa sự mong đợi, kỳ vọng của cá nhân, của nhóm người
với giới hạn bởi những yếu tố và khả năng đáp ứng sự kỳ vọng đó của xã hội”
[118, tr.21-22]. Để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam hiện nay, tác
giả đề xuất một số giải pháp: Coi trọng tổng kết thực tiễn, xây dựng lý luận
giá trị con người Việt Nam, nhằm góp phần nâng tầm tư duy của chúng ta
trong việc giải quyết các vấn đề xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đáp
14

ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững; tạo sự thống nhất, đồng thuận
trong nhận thức, trong việc lựa chọn các giá trị… truyền bá hệ giá trị đó vào
trong xã hội thông qua nhiều con đường, nhiều phương thức khác nhau, trong
đó các phương tiện truyền thông đại chúng giữ một vai trò hết sức quan trọng;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người Việt Nam; khắc
phục tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ, truyền thống lạc hậu.
Trước những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
kinh tế thị trường đến giá trị của con người Việt Nam, một số học giả đã
nghiên cứu, đề xuất những định hướng và giải pháp xây dựng, phát triển giá
trị của con người Việt Nam. Trong đó, đáng lưu ý là bài viết của Đỗ Huy và
Nguyễn Thu Nghĩa, với tiêu đề Bảng giá trị của văn hóa Việt Nam trong
hành trình chuyển từ truyền thống sang hiện đại [66] đã nêu lên một số giá trị
truyền thống tiêu biểu của người Việt Nam như: yêu nước; đoàn kết; nhân ái;
tiết kiệm; ham học; biết ơn tổ tiên và những người có công với nước. Theo tác
giả, để phát huy những giá trị đó cần thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa cá
nhân và cộng đồng, giữa dân tộc và quốc tế; kiến tạo những năng lượng dân
chủ mới, ý thức pháp luật mới; huy động đông đảo nhân dân tham gia các quá
trình xã hội hóa, hoạt động văn hóa lành mạnh thống nhất và đa dạng; điều
hòa quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế…; làm cho các quá trình hiện đại
hóa khắc phục được sự tha hóa thái quá trên con người.
Tác giả Lê Vân Anh, trong bài viết Vấn đề giáo dục định hướng giá trị
trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO [4] cho rằng, định hướng giá trị là
một trong những biến đổi rõ nét của đặc trưng, xu hướng nhân cách và có ý
nghĩa hướng dẫn hoạt động của con người. Định hướng giá trị mang đậm tính
lịch sử - xã hội chung của cả cộng đồng, nét riêng của từng dân tộc, nét đặc
thù của các nhóm xã hội, “giá trị, thước đo giá trị hay định hướng giá trị, có ý
nghĩa khác nhau với từng người, nhóm người, giai cấp, dân tộc. Đối với người
này nó có ý nghĩa tích cực, nhưng đối với chủ thể khác nó có ý nghĩa ngược
15

lại” [4, tr.8]. Cùng với cách tiếp cận đó, đồng tác giả Thái Duy Tuyên và Phan
Minh Tiến, trong bài viết Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho rằng các giá trị cốt lõi đã được hình thành
qua quá trình lịch sử, cho đến nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong bảng
giá trị của người Việt Nam đó là: yêu nước; nhân ái; hiếu học; cần kiệm;
năng động, sáng tạo; dũng cảm; tự chủ, tự cường; mềm dẻo; cởi mở, lạc
quan… Những giá trị tiêu biểu đó là những thế mạnh của Việt Nam trong
điều kiện hiện tại. Theo các tác giả, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
đã mở đầu cho công cuộc đổi mới với việc xác nhận các giá trị như: Chuyển
nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; thi hành chính sách mở cửa. Từ
ba giá trị cơ bản này đã tạo ra nhiều giá trị dẫn xuất, làm thay đổi hệ giá trị xã
hội cũng như định hướng giá trị cho con người Việt Nam. Tác giả cho rằng
“để chuyển từ một hệ giá trị này sang một hệ giá trị khác của một cộng đồng
thường là một quá trình không giản đơn và diễn ra trong một thời gian dài. Vì
vậy, cần hình thành hệ giá trị quá độ, nhằm đảm bảo sự phát triển cân bằng,
ổn định và bền vững của xã hội” [164, tr.23].
Bàn về giáo dục, định hướng giá trị cho con người Việt Nam có khá
nhiều bài viết. Đáng lưu ý là bài viết của tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến, Giáo
dục nhân cách con người Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa [154] đã chỉ rõ
nhân cách con người hình thành phụ thuộc vào ba môi trường văn hóa quan
trọng: văn hóa học đường, văn hóa gia đình và văn hóa xã hội. Theo tác giả,
nếu các chuẩn mực giá trị tạo nên văn hóa nhà trường không được xây dựng
và phát triển một cách có ý thức thì mặt tiêu cực sẽ có chiều hướng lấn át mặt
tích cực, mà kết quả cuối cùng là chất lượng dạy và học không đảm bảo; văn
hóa gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách đứa trẻ. Thiếu văn hóa gia đình, đứa trẻ sẽ rơi vào trạng thái mất đi
16

những liên kết tình cảm với gia đình và cộng đồng. Văn hóa xã hội tích cực
hay tiêu cực sẽ tác động trở lại với văn hóa gia đình và văn hóa nhà trường.
Hướng vào đối tượng cụ thể trong xã hội là thế hệ trẻ, tác giả Trần Viết
Lưu trong bài viết Giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ [82] cho rằng,
giá trị truyền thống có vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của quốc gia. Tác giả chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt giá trị
truyền thống trong thế hệ trẻ là do: Ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị
trường đã khiến cho đời sống xã hội ngày càng nảy sinh nhiều hiện tượng phi
đạo đức; sự lạc hậu về chương trình và phương pháp giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân; một số bộ phận thế
hệ trẻ không chịu tu dưỡng rèn luyện, sa ngã trước những cám dỗ vật chất và
thị hiếu tầm thường. Tác giả nêu lên định hướng giáo dục giá trị truyền thống
cho thế hệ trẻ, trong đó nêu lên những yêu cầu cần đạt được và một số giải
pháp chủ yếu trong giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ. Tác giả Nguyễn Văn Công
và Lê Phạm Phương Lan, trong bài viết Định hướng giá trị đạo đức cách mạng
- giữ vững nền tảng nhân cách của thanh niên trong giai đoạn hiện nay [22]
cho rằng, xu hướng chung của thanh niên Việt Nam hiện nay là không ngừng
tu dưỡng đạo đức, lối sống, nỗ lực vươn lên trong học tập và rèn luyện… Bên
cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ có biểu hiện phẩm chất đạo đức, lý
tưởng cách mạng và niềm tin đang bị suy giảm; sống thiếu trách nhiệm với
bản thân, gia đình và xã hội; sự lệch lạc trong nhận thức về giá trị và định
hướng giá trị.
Những công trình nghiên cứu, bài viết trên đây đã cung cấp cho tác giả
cơ sở lý thuyết về giá trị học, giúp tác giả hiểu rõ hơn các khái niệm công cụ
có liên quan như: “giá trị”, “hệ giá trị”, “thang giá trị” “thước đo giá trị”
“định hướng giá trị”; về cách tiếp cận vấn đề giá trị của con người nói chung,
người Việt Nam nói riêng; về những giá trị phổ quát và giá trị đặc thù của mỗi
quốc gia dân tộc, trong đó có giá trị tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Việt Nam
như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, cần cù, sáng tạo... Các công trình trên đây
17

đã giúp tác giả có cái nhìn tổng quát về sự tác động của toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và kinh tế thị trường đến sự vận động, biến đổi những giá trị
truyền thống của con người Việt Nam theo cả hai xu hướng tích cực lẫn tiêu
cực; nêu lên định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam trong bối cảnh mới hiện nay. Đây là nguồn tư liệu
quý báu để tác giả có thể vận dụng vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra ở
trong luận án này.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Vấn đề con người, xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các
đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học ở trong và ngoài nước.
Tiêu biểu có Thủ tướng Phạm Văn Đồng với cuốn Hồ Chí Minh và con người
Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 1994 [41]. Trong cuốn sách, tác giả phân tích, luận giải con
người Việt Nam trong lịch sử Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp như: kiên
cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, coi trọng đạo đức làm người, cần cù
nhẫn nại trong lao động, tương trợ nhân ái trong đời sống, khoan dung độ
lượng trong quan hệ xã hội, linh hoạt trong phong cách ứng xử, quý trọng ý
thức cộng đồng. Từ đó, tác giả đề cập vấn đề Hồ Chí Minh và con người Việt
Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, trong đó khẳng định người làm chủ
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh là quần chúng nhân dân. Con người phải được
thực hiện các quyền con người, quyền công dân trên các phương diện: dân
sinh, dân trí và dân chủ. Khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Đồng tác giả Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm trong cuốn Về
phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa [50] đã phân tích những nội dung cơ bản về: Đường lối giáo dục, phát
triển toàn diện con người; mô hình nhân cách con người Việt Nam có khả
18

năng thích ứng với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là: Con người
có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có khả năng tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao…; có lòng nhân
ái, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân; có tư duy
sáng tạo và óc khoa học; có kỹ năng thực hành giỏi, tay nghề cao; có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao; tôn
trọng và hợp tác được với người khác; có sức khỏe, có khả năng tự hoàn
thiện không ngừng, năng động và thích ứng; ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu
cái đẹp [50, tr.203].
Các tác giả nêu lên những định hướng chiến lược xây dựng đạo đức
con người Việt Nam; định hướng chiến lược phát triển trí tuệ con người Việt
Nam; định hướng chiến lược phát triển thể chất con người Việt Nam; định
hướng chiến lược phát triển thẩm mỹ đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Phân tích
vấn đề xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đề xuất phương hướng, nhiệm vụ
và các giải pháp về thể chế, xã hội, giáo dục, đầu tư để xây dựng lối sống, đạo
đức và chuẩn giá trị xã hội mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các tác giả tập trung phân tích thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
của thanh niên hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất 6 giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lý tưởng chính trị, lối sống cho thế hệ trẻ, đó
là: Tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng
chính trị, lối sống cho thế hệ trẻ; thống nhất mục tiêu, nội dung giáo dục đạo
đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh viên; đổi mới
nội dung, phương pháp dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn, đổi mới
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; xây dựng môi trường lành mạnh để giáo
dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh viên;
19

đổi mới đầu tư và những điều kiện cho các hoạt động giáo dục đạo đức, tư
tưởng chính trị, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Cũng với cách tiếp cận trên, trong cuốn Về phát triển văn hóa và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [42], Nguyễn Khoa
Điềm và Phan Hữu Dật nêu lên những định hướng xây dựng, phát triển con
người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những
phương pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống nhằm phát triển văn
hóa, con người Việt Nam phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; đồng thời, đề xuất 5 kiến nghị đó là: 1) Mục tiêu đưa tư tưởng
Hồ Chí Minh vào cuộc sống là xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, phải gắn kết nội dung của tư tưởng
Hồ Chí Minh với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham
nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng; 2) Đẩy mạnh và mở rộng phạm vi nghiên
cứu (cuộc đời của Người cùng tư tưởng chính trị, triết học, tư tưởng kinh tế,
tư tưởng về con người…), đồng thời đổi mới phương pháp nghiên cứu (cách
tiếp cận đa chiều, đặt vĩ nhân trong điều kiện lịch sử cụ thể, trong mối quan
hệ với bối cảnh thời đại, quốc gia, quốc tế…); 3) Đẩy nhanh hơn nữa việc
giáo dục, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh một cách căn bản, chính quy
trong các nhà trường, đối với thanh niên; 4) Tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền để đưa tư tưởng
Hồ Chí Minh vào cuộc sống; chú trọng địa bàn đồng bào dân tộc và đồng
bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; 5) Đảng lãnh đạo tuyệt đối hệ
thống chính trị và toàn xã hội trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống. Phải coi việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh và
chủ nghĩa Mác - Lênin là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, có tính nguyên tắc
đối với toàn Đảng và chính quyền các cấp.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện [28] của Thành Duy, tuy chưa phải là một công trình
20

phản ánh thật đầy đủ và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về con người thể
hiện trên nhiều mặt, song tác giả đã phân tích khá sâu sắc về mối quan hệ giữa
văn hóa với việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, phù hợp
với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về quá trình
hình thành con người Việt Nam phát triển toàn diện; bản chất con người Việt
Nam phát triển toàn diện, trong đó luận giải làm sáng tỏ nội hàm khái niệm
"con người mới xã hội chủ nghĩa" với đầy đủ phẩm chất "đức" và "tài"; nêu
lên những giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trong
đó nhấn mạnh quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng người" gắn
với vai trò của giáo dục đào tạo; xác định rõ đối tượng và nội dung xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện; nêu lên phương pháp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh đến phương pháp
nêu gương.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người [5], Phạm
Ngọc Anh đã phân tích bối cảnh lịch sử, quá trình hình thành, phát triển và
những đặc điểm nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người; nội
dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Trong đó, có quyền
dân sự - chính trị; quyền kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; quyền của phụ nữ; quyền của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam; quyền của trẻ em, vấn đề bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và
các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền con người. Trên cơ sở đó, tác giả vận
dụng vào thực tiễn, bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người ở
nước ta hiện nay.
Cuốn Phát triển văn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ
Chí Minh của đồng tác giả: Hoàng Anh, Nguyễn Huy Bắc, Phạm Văn Thủy [2]
đã tập hợp bài viết của các nhà khoa học về phát triển văn hóa và con
người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân kỷ niệm 120 năm ngày
sinh của Người. Trong đó, các nhà khoa học cho rằng, con người là vấn đề
21

cốt lõi trong triết lý phát triển của Hồ Chí Minh. Đó là triết lý vì mục tiêu
nâng cao giá trị của con người: “Điều vĩ đại của nhà tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện tập trung ở triết lý phát triển vì con người. Con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển ” [2, tr.45]. Các tác giả
nêu lên những nguyên lý, phương pháp, hình thức giáo dục theo tư tưởng
Hồ Chí Minh: Giáo dục gắn liền với chính trị - xã hội; học đi đôi với
hành, lý luận liên hệ với thực tiễn; phối hợp nhà trường - gia đình và xã
hội; giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời.
Cuốn Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con
người mới Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Dương [27], tập hợp những bài
viết cho hội thảo về văn hóa và đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Khu
di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch tổ chức, nhân kỷ niệm 120 năm
ngày sinh của Người. Trong cuốn sách này có một số bài viết đề cập sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Bài viết với tiêu đề “Đạo lý làm người của Bác Hồ chuẩn mực để xây dựng
con người Việt Nam” của Trần Viết Hoàn, nguyên Giám đốc Khu di tích Hồ
Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, trong đó tác giả đã khẳng định rằng đạo lý làm
người của Bác Hồ là những chuẩn mực để xây dựng con người Việt Nam, cụ
thể: Tình người; lòng trung thành; sống khiêm tốn, giản dị; lời nói đi đôi với
việc làm. Bài viết của tác giả Đỗ Hoàng Linh "Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân
cách của thời đại" đã nêu ra những phẩm chất đạo đức mẫu mực của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cần học tập, đó là: Đức tính quyết tâm, kiên trì bền bỉ; luôn
trung thành, ngay thẳng và khảng khái; mềm mỏng nhẹ nhàng nhưng khôn
khéo, thông tuệ, quyết đoán, tự tin. Khiêm tốn, lịch lãm, giản dị, liêm khiết;
lòng nhân ái bao la, quan tâm tận tình, sâu sắc đến từng đồng chí, đồng bào và
tất cả mọi người; kiên định về mục đích, vững vàng về tinh thần, lạc quan
cách mạng, tin tưởng vào sự tất thắng của chính nghĩa. Ngoài ra, bài viết khác
của tác giả Đỗ Huy “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, phát
22

triển giáo dục, nâng cao dân trí”; tác giả Bùi Kim Hồng, Giám đốc Khu di
tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, “Thấm nhuần những lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” để xây dựng con người Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới”,… cũng đã trình bày một số quan điểm của Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Trần Sâm, Cảnh Nguyên, Đào Tam Tỉnh với cuốn Bác Hồ với
sự nghiệp trồng người [132]. Đây là cuốn sách tập hợp những mẩu chuyện
ngắn của nhiều tác giả, ghi chép lại lời kể của những nhân chứng lịch sử đã
nhiều năm sống, hoạt động gắn bó với Hồ Chí Minh như: Trần Đại Nghĩa, Vũ
Kỳ, Nguyễn Văn Cần, Hoàng Đạo Thúy... Qua những hồi ức đó, các tác giả
cho người đọc thấy được những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
sự nghiệp “trồng người” trong suốt cuộc đời hoạt động, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam; giúp người đọc có cách nhìn toàn diện, chân thực hơn về tư tưởng
và sự nghiệp xây dựng con người mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Đài Trang, một nhà nghiên cứu Việt Nam đang sinh sống
và làm việc tại Canađa, trong cuốn Hồ Chí Minh, nhân văn và phát triển [158] đã
cho rằng, lý tưởng sâu xa Hồ Chí Minh là sự hướng dẫn vô song về đạo đức
làm người, “đó là cả một hệ thống những lời dẫn giải về ý nghĩa thực sự của
sự phát triển con người, được truyền dẫn đến nhân dân Việt Nam với một
chân giá trị hiền hòa và cách thức giản dị đi từ nhân cách của một bậc thầy vĩ
đại nhất của thời hiện đại” [ 158, tr.343]. Tác giả dẫn lời của David Halberstam
khi nhận xét rằng “càng thành công Hồ Chí Minh lại càng giữ gìn các giá trị
của người Việt Nam: tôn trọng người lớn tuổi, không màng đến danh lợi,
thương yêu trẻ con” [158, tr.346].
Trong cuốn Xây dựng con người Việt Nam theo Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh [3], tác giả Hoàng Anh cho rằng, con người là vấn đề cốt lõi
trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, triết lý phát triển vì mục tiêu ngày càng
nâng cao giá trị của con người. Theo tác giả, đổi mới, trước hết phải bắt đầu
23

từ đổi mới con người với tư cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể tác động
của sự nghiệp đổi mới; sẽ không có sự đổi mới xã hội nếu không bắt đầu từ
chính con người, chỉ có điều là cần phải có sự phù hợp giữa những thay đổi
của hoàn cảnh và con người, của thực tiễn cách mạng; phải hướng vào
những con người cụ thể, phát triển nhân cách phong phú, đó là nền tảng để
xã hội phát triển, “bởi mục đích phát triển của toàn xã hội nếu không chuyển
thành những động cơ tư tưởng bên trong của các cá nhân thì không thể thực
hiện được" [3, tr.45-46]. Tác giả đề xuất một số giải pháp xây dựng con
người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó nhấn mạnh đến phương
pháp giáo dục, phương pháp nêu gương "Người tốt, việc tốt", những "điển
hình về con người văn hóa" để làm cơ cho việc xây dựng con người mới
Việt Nam, nhất là trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Liên quan đến vấn đề này còn có một số luận án tiến sĩ. Đáng lưu ý
là Luận án tiến sĩ triết học của Lê Quang Hoan, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay [63] đã làm rõ cơ sở, quá trình hình thành phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người; phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về
con người, vai trò của con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam; từ đó
vận dụng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Luận án tiến sĩ Triết học, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện của Nguyễn Hữu Công [21] đã làm rõ cơ sở lý luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện; luận chứng những nội
dung cơ bản trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh,
từ đó vận dụng vào việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. Theo tác giả, con người phát triển toàn diện là những con người được
trang bị thế giới quan khoa học, có lý tưởng cách mạng, có tri thức, đạo đức,
sức khỏe, năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng tốt. Con người Việt Nam
hoàn toàn có đủ khả năng trở thành những con người phát triển toàn diện;
24

Đảng và Nhà nước có thể đào tạo, phát triển con người toàn diện bằng cách
tiến hành giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ; đề ra những yêu cầu phù hợp
về phẩm chất năng lực của con người Việt Nam trong từng giai đoạn cách
mạng. Phát triển con người theo hướng toàn diện là xu thế khách quan của
lịch sử. Cách mạng Việt Nam cần phải chú trọng đến vấn đề này. Dưới góc
độ nghiên cứu này, trong Luận án tiến sĩ Triết học của Phạm Thị Đoạt, Con
người phát triển toàn diện: Từ học thuyết Mác đến tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới [39] đã
phân tích vấn đề con người, bản chất con người; vấn đề giải phóng con
người và phát huy nhân tố con người; xây dựng và phát triển toàn diện con
người Việt Nam hiện nay.
Liên quan trực tiếp, gián tiếp đến vấn đề hệ giá trị của con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh còn có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí: Cộng
sản, Lịch sử Đảng, Triết học, Nghiên cứu con người... Đáng lưu ý là bài viết
của tác giả: Hồng Hà, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và con người [47],
trong đó khẳng định rằng Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng giữ gìn, phát huy
bản sắc dân tộc. Người ý thức rõ giá trị và vị thế của văn hóa dân tộc; coi
trọng những truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam; trong sự nghiệp
xây dựng con người, điều quan trọng bậc nhất là xây dựng lý tưởng, đạo đức
cách mạng. Về lý tưởng, đó là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Về đạo đức cách mạng,
đó là trung với nước, hiếu với dân, biết yêu thương con người; cần kiệm liêm
chính, chi công vô tư và có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, trong bài Đầu tiên là công việc đối với
con người: vì dân - một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh [20] đã khẳng
định, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh
đã tiếp thu giá trị tự do, bình đẳng, bác ái là những giá trị phổ quát của nhân
loại; đồng thời “đã sớm nhận ra sự khác biệt quá lớn giữa những giá trị nhân
văn phương Tây được người ta hết lời ngợi ca và quyền con người trong thực
25

tế ở chính nơi đã sản sinh ra những tư tưởng và giá trị nhân văn ấy” [ 20, tr.4].
Cùng với cách tiếp cận đó, nhưng ở một góc nhìn khác, tác giả Trần Thị Huyền
trong bài viết Công việc đối với con người” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh [70] cho rằng, lòng thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ là sự quan tâm, chăm sóc, mà còn là sự nhắc nhở chăm lo cải tạo và
xây dựng con người, giải phóng con người, bởi “Người luôn đặt niềm tin mãnh
liệt vào sự hướng thiện của con người, sự vươn lên của họ thông qua giáo dục
và tự giáo dục để hướng tới những giá trị cao đẹp” [70, tr.59].
Trong bài Hồ Chí Minh với vấn đề dân sinh [61], tác giả Nguyễn Đình
Hòa cho rằng, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người có cả nhu cầu
giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Vì vậy, chăm lo cho con người không chỉ
chú ý giải quyết những vấn đề ăn, mặc, ở mà còn phải chăm lo đến đời sống
tinh thần của họ. Từ đó, tác giả khẳng định rằng “quan điểm của Hồ Chí Minh
về vấn đề dân sinh không chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân đạo cao cả, mà còn
hàm chứa trong đó những giá trị chỉ dẫn quan trọng mang tầm chiến lược”
[61, tr.22]. Ở khía cạnh này, tác giả Nguyễn Xuân Thông, trong bài viết Đưa
tư tưởng yêu thương, quý trọng con người, sống có tình có nghĩa của Hồ Chí
Minh vào hiện thực cuộc sống [151] cũng cho rằng, yêu thương, quý trọng con
người, sống có tình, có nghĩa là giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, được hình
thành, phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành một giá trị bất hủ của
con người Việt Nam đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển
trong điều kiện mới. Theo tác giả, tư tưởng sống có tình có nghĩa của Hồ Chí
Minh, trước hết đó là tình nghĩa con người, là tình cảm gia đình, anh em, bạn
bè… “nhưng không chỉ dừng lại ở đó, mà được thể hiện với nội dung mang
tính cách mạng rộng lớn và cao cả. Đó còn là tình đồng chí, nghĩa đồng bào,
tình giai cấp và nhân loại, phản ánh chân giá trị đạo đức và nhân văn sâu sắc”
[151, tr.16]. Theo tác giả, ngày nay, giá trị đạo đức “yêu thương, quý trọng
con người, sống có tình, có nghĩa” của Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, thiết
26

thực và sâu sắc, đòi hỏi mỗi chúng ta cần nhận thức đẩy đủ, thể hiện bằng
hành vi cụ thể trong hoạt động và cuộc sống của mình.
Những công trình nghiên cứu, bài viết trên đây giúp tác giả có cái nhìn
tổng quát những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn về các vấn đề: Con người, vị trí vai trò của con người đối
với sự vận động, phát triển của lịch sử; về vấn đề giải phóng con người Việt
Nam bị áp bức; về vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
bao gồm: đức, trí, thể, mỹ; về vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam,... Các công trình nghiên cứu và bài viết trên đã giúp tác giả
nhận thức đầy đủ hơn những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
con người Việt Nam phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là nguồn
tư liệu quý giá để tác giả tham khảo, tiếp tục nghiên cứu vấn đề hệ giá trị của
con người Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung nghiên cứu các vấn đề
chủ yếu sau:
Một là, đã nghiên cứu cơ sở lý thuyết về khoa học giá trị, trong đó nêu
lên các khái niệm công cụ: “giá trị”, “hệ giá trị”, “thang giá trị”, “định hướng
giá trị”…; xây dựng và khái quát hệ giá trị truyền thống con người cùng
những biểu hiện của nó trên cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực; chỉ ra
những tác động ảnh hưởng của nhân tố khách quan (xu thế toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và kinh tế thị trường) và nhân tố chủ quan đến sự biến đổi giá trị
truyền thống con người Việt Nam. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát
huy các giá trị tích cực, đồng thời hạn chế những yếu tố tiêu cực của con
người Việt Nam hiện nay.
Hai là, đã tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con
người, trên các khía cạnh: Khái niệm về con người và bản chất con người;
mối liên hệ hữu cơ giữa xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng, phát
27

triển con người; vị trí, vai trò của con người đối với sự phát triển của lịch sử;
vấn đề giải phóng con người; phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện các quyền con người,... Đặc biệt,
các tác giả đã nghiên cứu vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là những con người có phẩm chất (giá trị)
như: Có lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có năng lực làm chủ; có kiến thức khoa
học, hiểu biết và thực hành pháp luật; có đạo đức cách mạng; năng động,
sáng tạo,…
Ba là, từ sự phân tích nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người như đã nêu ở trên, các tác giả nêu lên những định hướng chiến lược phát
triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ; đề
xuất những giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển con người; phát huy nhân tố
con người; xây dựng và phát triển những mặt tích cực, hạn chế những yếu tố
tiêu cực, những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của con
người Việt Nam hiện nay trước tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
kinh tế thị trường.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên đây có những đóng góp quan
trọng về mặt khoa học, góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với dân tộc và thời đại. Đây là nguồn tài liệu quý giá để các thế hệ sau tham
khảo, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu còn ít, hoặc có nhưng chưa đề
cập một cách trực tiếp đến vấn đề hệ giá trị của con người Việt Nam trong tư
tưởng Hồ Chí Minh; chưa đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam; chưa khái quát thành hệ
thống quan điểm lý luận về hệ giá trị của con người Việt Nam, về phương
pháp phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con
người mới Việt Nam; từ thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam cùng những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
28

hóa và hội nhập quốc tế, cần tìm ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
hệ giá trị của con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây
là những "khoảng trống" trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh hiện nay.
Từ kết quả nghiên cứu tổng quan, luận án tập trung giải quyết một số
vấn đề sau:
Một là, trên cơ sở hệ thống hóa những quan điểm khác nhau về giá trị,
hệ giá trị, cần làm rõ các khái niệm công cụ: tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá
trị của con người Việt Nam; phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con
người Việt Nam. Đây là yêu cầu cần thiết, nhằm giúp chúng ta thấy được
logic trong tư duy Hồ Chí Minh về vấn đề giá trị của con người Việt Nam;
đồng thời, phân biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người
Việt Nam với những tư tưởng khác trong hệ thống tư tưởng của Người.
Hai là, nghiên cứu quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về hệ giá trị tiêu
biểu, cốt lõi của con người Việt Nam: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn
kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo; về phương pháp phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam đã được triển khai trong thực tiễn lãnh
đạo xây dựng, phát triển văn hóa, con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ba là, nghiên cứu, phân tích những nhân tố khách quan (quốc tế), chủ
quan (trong nước) đã và đang tác động tích cực, tiêu cực, cùng những biểu
hiện của nó đến hệ giá trị của con người Việt Nam; phân tích thực trạng phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ
sở đó rút ra những vấn đề cần giải quyết, nhằm tiếp tục phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam trong thời gian tới.
Bốn là, từ những chỉ dẫn Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt
Nam; từ quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển
văn hóa, con người, thể hiện trong nhiều văn kiện, nghị quyết; từ thực trạng
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam, luận án đề xuất một số quan
điểm và giải pháp chủ yếu có tính khả thi, nhằm tiếp tục phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam hiện nay.
29

Tiểu kết chương 1

Vấn đề con người nói chung, hệ giá trị của con người Việt Nam nói
riêng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các
học giả ở trong và ngoài nước, dưới những góc độ khác nhau. Các công trình
nghiên cứu đã tập trung phân tích cơ sở lý thuyết về khoa học giá trị; hệ thống
hóa và phân tích khá sâu sắc một số giá trị truyền thống tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam, cùng với những biểu hiện của nó trên cả hai khía cạnh tích cực và
hạn chế; những xu hướng biến đổi của hệ giá trị truyền thống dân tộc Việt
Nam, trước tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường và
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay… Qua tổng hợp tư liệu cũng cho
thấy, đã có khá nhiều công trình, bài báo khoa học đi sâu nghiên cứu (trực
tiếp, gián tiếp) liên quan đến vấn đề con người, hệ giá trị của con người Việt
Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tập trung vào các vấn đề: Giải
phóng con người; xây dựng và phát triển con người toàn diện; phát huy nhân
tố con người… giúp tác giả có cái nhìn tổng quát hơn những cống hiến to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về
vấn đề con người nói chung, hệ giá trị của con người Việt Nam nói riêng;
khẳng định giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và
nhân loại. Tuy nhiên, còn khá ít công trình nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề hệ
giá trị của con người Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những kết quả đã nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết các vấn
đề: Hệ thống hóa các khái niệm về giá trị, hệ giá trị; làm rõ khái niệm tư
tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam, khái niệm phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam; nêu và phân tích cơ sở hình thành và
nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam;
phân tích thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trước tác
động của nhân tố khách quan, chủ quan, trên cả hai khía cạnh tích cực và hạn
chế; nêu và phân tích một số quan điểm và giải pháp cơ bản, nhằm tiếp tục
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
30

Chương 2

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỆ GIÁ TRỊ


CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM

2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM


2.1.1. Khái niệm giá trị, hệ giá trị
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, thuật ngữ “giá trị” đã được bàn đến từ
rất sớm, bắt đầu bằng quan niệm về lợi ích của các nhà triết học cổ đại như
Xôcrát, Platôn, Protago, tiếp tục được phát triển ở thời kỳ trung cổ và cận đại.
Sang đầu thế kỷ XIX, việc nghiên cứu giá trị phát triển mạnh mẽ, thâm nhập
vào hầu hết các ngành học nhân văn. Sau này, sự phát triển của giá trị học đã
dẫn đến những xu hướng định nghĩa khác nhau về “giá trị”. Có thể khái quát
thành các xu hướng: Một là, xu hướng đồng nhất giá trị với khách thể, cho
rằng giá trị thuộc về bản thân sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, F.Chzel cho
rằng, “giá trị” là “những tiêu chuẩn về cái có thể ao ước được, chúng xác định
các mục đích chung của hành động”. Hai là, xu hướng coi “giá trị” thuộc về
chủ thể đánh giá. Chẳng hạn, theo Ngô Đức Thịnh, khái niệm “giá trị” “là hệ
thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và
tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp” [149, tr.23], hay
nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ,
giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Ba là, xu hướng cho rằng giá trị
thể hiện mối quan hệ giữa khách thể với chủ thể, trong đó, chủ thể giữ vai trò
chủ đạo. Các quan điểm theo xu hướng này cho rằng, bản thân sự vật khi còn
là “vật tự nó”, nghĩa là còn tồn tại “ngoại thân” với con người thì chưa có giá
trị, giống như viên kim cương khi chưa được con người phát hiện ra giá trị
của nó thì cũng chỉ là hòn cuội bên bờ sông Amazone mà thôi. Giáo sư Vũ
Khiêu cho rằng “giá trị là những thành tựu của con người góp vào sự phát
triển đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con
31

người. Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ thể và đối tượng,
nghĩa là từ thực tiễn và chiến đấu của con người xã hội” [136, tr.71]. Lương
Đình Hải cho rằng, giá trị “là những sự vật, hiện tượng, quá trình hay ở tất
thảy những thứ được con người xem là có ý nghĩa nhất định, ít nhiều, đối với
sự tồn tại, vận động và phát triển của con người, xã hội” [145, tr.231]; còn
theo Trần Ngọc Thêm, “Giá trị là tính chất của khách thể được chủ thể đánh
giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể cùng loại trong một bối
cảnh không gian - thời gian cụ thể” [146, tr.39].
Từ quan niệm về giá trị, các học giả đi đến khái niệm “hệ giá trị”. Phạm
Minh Hạc cho rằng: “Hệ giá trị là các giá trị của một tập hợp người như dân
tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân…” [55, tr.30]. Theo Hồ Sĩ Quý, hệ giá
trị “là thuật ngữ/ khái niệm dùng để chỉ một tập hợp các giá trị, được thể hiện
dưới dạng các phẩm chất, các nguyên tắc, các lý tưởng và cả các triết lý…
định hướng cho hoạt động của một công ty, một hãng, một doanh nghiệp, một
viện nghiên cứu, một trường đại học, một khách sạn, hay một ngành hoạt
động” [145, tr.191]. Theo Trần Ngọc Thêm, “Hệ giá trị là toàn bộ các giá trị
của một khách thể trong một bối cảnh không gian - thời gian xác định cùng
với mạng lưới các mối quan hệ của chúng” [146, tr.51].
Như vậy, dù ở cách tiếp cận khác nhau để đưa ra những định nghĩa
khác nhau về “giá trị”, nhưng các học giả đều thống nhất quan điểm coi giá trị
là những sự vật, hiện tượng, quá trình hay tất cả những gì được xem là có ý
nghĩa đối với sự vận động, phát triển của con người và xã hội. Giá trị bao
gồm cả hai mặt chủ quan và khách quan, gắn bó chặt chẽ với nhau, tồn tại
cùng với sự vận động và phát triển của xã hội. Giá trị chỉ có ở xã hội trong đó
con người tồn tại, sinh sống; con người là giá trị cao nhất, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra mọi giá trị.
Các giá trị liên kết với nhau thành hệ thống, trong đó mỗi giá trị có vị
trí xác định gọi là hệ (bảng thang) giá trị xã hội. Cũng như phân loại nhiều đối
32

tượng nghiên cứu khác, đứng trên giác độ nghiên cứu khác nhau, người ta
phân loại giá trị theo nhiều cách khác nhau, song phổ biến hơn cả là phân chia
thành giá trị vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại…) và giá trị tinh thần (nhận thức, giá
trị chính trị, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị tâm linh…). Mỗi quốc gia
- dân tộc, mỗi một cộng đồng, trong những hoàn cảnh lịch sử và xã hội cụ thể
đều có những giá trị riêng của mình. Tuy nhiên, không phải là cái gì mang
tính chuyên biệt, loại trừ và tách biệt hoàn toàn với nhau, mà phần nhiều
mang tính đồng nhất. Chẳng hạn, yêu nước, cần cù lao động không chỉ là giá
trị riêng có ở Việt Nam mà có cả ở nhiều quốc gia khác.
2.1.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người
Việt Nam
Sinh thời, Hồ Chí Minh không có tác phẩm chuyên khảo, cũng không
đưa ra định nghĩa về giá trị, hệ giá trị. Tuy nhiên, khi đọc các trước tác của
Người, ta thấy thuật ngữ “giá trị” xuất hiện trong khá nhiều bài viết, bài nói
và được biểu đạt bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị mà sâu sắc. Có thể khái quát
ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ “giá trị” để so sánh giữa
một sự vật, hiện tượng này với một sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn, Người
viết: “người An Nam phải tòng quân 4 năm, người Angiêri 3 năm; thế là theo sự
tính toán của bọn quân phiệt Pháp thì giá trị của 2 người lính bản xứ gần bằng 5
người lính Pháp” [85, tr.219]. Nhận xét về đặc điểm của các dân tộc phương
Đông, Người cho rằng “đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [85, tr.284].
Thứ hai, Hồ Chí Minh dùng thuật ngữ “giá trị” để khẳng định tính pháp
lý, hay tính chân lý của một sự vật, hiện tượng nào đó. Chẳng hạn, Người viết:
“Nếu viên chủ sự viện kiểm sát xét kỹ theo đúng tinh thần pháp lý thì trong số
hai nghìn rưởi biên bản lập hằng năm ở Bắc Kỳ, không có biên bản nào là có giá
trị đối với Pari cả” [85, tr.445]; “Nếu Pháp đã ký điều ước quân sự với Mỹ, và
33

nếu Mỹ mở cuộc chiến tranh “phòng ngừa” chống Nga, thì thế nào? Trả lời thiết
thực là: Hiệp ước ấy sẽ hoàn toàn không có giá trị” [91, tr.375].
Thứ ba, Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ “giá trị” để khẳng định những
gì đáng quý, cần gìn giữ và phát huy (thường là các giá trị văn hóa tinh thần).
Chẳng hạn, Người viết: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật chất,
chúng ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có giá trị, thì vật chất
càng khổ tinh thần càng sướng” [89, tr.176]. Cũng có khi Người dùng thuật
ngữ “giá trị” trong lĩnh vực kinh tế. Chẳng hạn, Người viết: “Giá trị một ngày
công còn thấp, vì năng xuất lao động thấp” [97, tr.214]. Hồ Chí Minh có hai
lần đề cập trực tiếp đến thuật ngữ “giá trị con người”: lần thứ nhất là trong
Điện gửi nhân dân thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Hồ Chí Minh
viết: “Người ta tưởng đã có thể hy vọng vào việc thiết lập một thế giới mới
dựa trên phẩm cách và giá trị con người, trên quyền bình đẳng của các dân tộc
dù nhỏ hay lớn và quyền tự do của các dân tộc” [89, tr.152]; lần thứ hai là
trong bài Tội ác Mỹ tàn bạo hơn Hítle, Người viết: “Một hiện tượng rõ ràng
nữa là tác hại của những phương tiện chiến tranh hoá học của Mỹ đối với
nhân dân Nam Việt Nam. Những tác hại đó rất khó đánh giá. Làm sao có thể
tính được giá trị của sinh mạng một con người?” [99, tr.247].
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thuật ngữ “giá trị” là những gì
đáng quý, có tính pháp lý, có ý nghĩa đối với sự tồn tại, vận động, phát triển
của con người và xã hội. Giá trị trước hết thuộc về bản thân sự vật, hiện tượng
được con người nhận thức, đánh giá. Giá trị vừa mang tính khách quan lại vừa
mang tính chủ quan, gắn liền với hoạt động của con người, là yếu tố cốt lõi
của văn hóa.
Từ quan niệm về giá trị, đi đến khái niệm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ
giá trị của con người Việt Nam là một hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện
về các giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam, được hình thành trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc các giá trị truyền thống của dân tộc và nhân loại,
34

thể hiện ở lý tưởng, phẩm chất, nguyên tắc ứng xử được xác lập để định
hướng cho hoạt động của con người, nhằm mục tiêu xây dựng xã hội mới,
con người mới.
2.1.3. Khái niệm phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
Trong Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “phát triển” có nghĩa là sự “Biến
đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn
giản đến phức tạp” [119, tr.743]. Phát triển là một phạm trù triết học chỉ quá
trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật. Quá trình vận động đó diễn ra vừa tuần tự, vừa
nhảy vọt để đưa đến sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết
quả của quá trình thay đổi dần về lượng, dẫn đến sự thay đổi về chất, diễn ra
theo đường xoáy ốc đi lên và sau mỗi một chu kỳ, sự vật lặp lại dường như sự
vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam là sự biến đổi theo hướng
ngày càng hoàn thiện của những giá trị tiêu biểu, cốt lõi thuộc về con người
Việt Nam, nhưng ở trình độ ngày càng cao hơn. Sự phát triển đó chịu ảnh
hưởng của nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, trong đó nhân tố chủ
quan có ý nghĩa quyết định. Đó là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cái
thiện (cái tốt) với cái ác (cái xấu) cùng tồn tại đan xen, chuyển hóa lẫn nhau ở
bên trong mỗi cá nhân; là quá trình vừa khắc phục, triệt tiêu các yếu tố tiêu
cực, vừa kế thừa, phát huy những yếu tố tích cực, hướng con người vươn tới
tầm cao văn hóa. Sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam chịu tác
động ảnh hưởng của nhiều nhân tố (khách quan, chủ quan) như: Môi trường
xã hội trong đó con người sống và hoạt động; phụ thuộc cơ chế, chính sách
phát triển văn hóa, con người của các chủ thể lãnh đạo, quản lý…; phụ thuộc
vào năng lực nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của mỗi cá nhân và cộng
đồng người Việt.
35

Khái niệm phát triển và phát huy tuy khác nhau, song lại có mối quan
hệ mật thiết, không tách rời, thậm chí có thể thay thế cho nhau trong một số
trường hợp nhất định. “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và
tiếp tục nảy nở thêm” [119, tr.742]. Để phát triển hệ giá trị văn hóa, con người
đỏi hỏi phải phát huy nhằm làm cho những cái tốt, cái đẹp ngày một lan tỏa
để lấn át những cái ác, cái xấu. Phát triển còn có quan hệ mật thiết với bảo
tồn. Bảo tồn nghĩa là “Giữ lại không để cho mất đi” [119, tr.37]; mục đích của
bảo tồn là để những cái tốt, cái đẹp không bị mất mát, tổn thất. Bảo tồn giá trị
truyền thống văn hóa, con người Việt Nam không mâu thuẫn với phát triển,
mà phải trên nguyên tắc phát triển, vì mục tiêu phát triển. Nói cách khác,
những cái gì trong “kho vốn” giá trị truyền thống văn hóa, con người đóng vai
trò động lực thúc đẩy sự phát triển thì chúng ta bảo tồn, phát huy; còn cái nào
cản trở, kìm hãm sự phát triển thì hạn chế và dần loại trừ. Bảo tồn giá trị văn
hóa, con người không cản trở mà còn là cơ sở cho sự phát triển giá trị con
người theo đúng hướng. Bản thân quá trình phát triển hệ giá trị con người
luôn có sự đào thải yếu tố lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp. Do vậy, nguyên
tắc phát triển là nguyên tắc mang ý nghĩa chỉ đạo cho việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa nói chung, con người nói riêng.
Như vậy, theo tác giả, phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam là
một khái niệm chỉ hoạt động của các chủ thể nhằm làm cho những cái hay,
cái tốt trong các giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam không
ngừng nảy nở, lan tỏa và bồi đắp thêm.
2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỆ GIÁ TRỊ
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.2.1. Cơ sở tư tưởng, lý luận
2.2.1.1. Giá trị truyền thống văn hóa, con người Việt Nam
Từ truyền thống nghĩa là tradition, bắt nguồn từ chữ traditio trong
tiếng Latinh có nghĩa là “giao, chuyển giao”. Truyền thống bắt nguồn từ lịch
36

sử, song không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là truyền thống, mà chỉ có
những gì được kế thừa, lưu truyền mới gọi là truyền thống. Truyền thống
thường có tính hai mặt: Một mặt, nó góp phần suy tôn, gìn giữ những gì quý
giá, là cốt cách, nền tảng cho sự vận động, phát triển của xã hội; mặt khác,
truyền thống cũng là mảnh đất nuôi dưỡng làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu,
lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của mỗi quốc gia. Do vậy, truyền thống chứa
đựng cả cái tốt lẫn cái xấu, cái tốt là các giá trị văn hóa, còn cái xấu là những
phi giá trị văn hóa (Hồ Chí Minh thường gọi những giá trị tốt đẹp là “truyền
thống quý báu” và các phi giá trị là “truyền thống lạc hậu”). Khi nói “giá trị
truyền thống” là nói tới những giá trị tích cực, mang tính phổ biến, tương đối
ổn định, tiêu biểu của một dân tộc, có tác dụng định hướng cho hành động của
con người; nói đến giá trị truyền thống là nói đến những gì tốt đẹp, có ý nghĩa
đối với con người và sự phát triển của xã hội, được thừa nhận, đánh giá, thẩm
định nghiêm ngặt bởi thời gian. Hồ Chí Minh đã kế thừa các giá trị truyền
thống con người Việt Nam, thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tư tưởng truyền thống dân tộc Việt Nam luôn coi trọng con
người, xem con người là quý nhất “một mặt người hơn mười mặt của”, người
ta là “hoa của đất”. Trong sinh hoạt cộng đồng, người Việt rất trọng thể diện,
dù sống trong điều kiện vật chất khó khăn, ông cha ta vẫn dạy con cháu rằng
“lời chào cao hơn mâm cỗ”, “đói cho sạch, rách cho thơm”, “tốt danh hơn
lành áo”… Giữa sự giàu sang, phú quý với phẩm giá con người, ông cha ta
luôn đặt phẩm giá con người lên trên. Kế thừa, phát triển giá trị truyền thống
dân tộc, Hồ Chí Minh coi con người là quý nhất, trên cả ba cấp độ: dân tộc,
cộng đồng và cá nhân. Người đặc biệt coi trọng giá trị sinh mệnh (giá trị
sống) của con người, coi đó là quý nhất. Con người là sản phẩm của quá trình
tiến hóa lâu dài của lịch sử, thông qua hoạt động lao động; đến lượt mình, con
người lại góp phần sáng tạo ra lịch sử, thúc đẩy xã hội phát triển.
37

Trong hệ giá trị thuộc về con người, dân tộc Việt Nam đề cao giá trị
tinh thần hơn giá trị vật chất - những thứ làm nên nhân cách, phẩm giá con
người - đó là các giá trị tiêu biểu như: Yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, ý chí
tự lực, tự cường; đoàn kết, nhân ái, coi trọng nghĩa tình; hiếu học, tôn sư
trọng đạo; biết ơn những người có công với nước, với tổ tiên; lao động cần
cù, sáng tạo… Trong đó nổi lên một số giá trị tiêu biểu được Trần Văn Giàu
sắp xếp thành bảng giá trị bao gồm: yêu nước, cần cù, anh dũng, sáng tạo,
lạc quan, thương người, vì nghĩa. Những giá trị tinh thần truyền thống ấy
được hình thành từ buổi đầu dựng nước, trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu
tranh giữ nước đã trở nên bền vững, thiêng liêng, làm nên “cốt cách”, “bản
sắc” con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị tinh thần truyền thống, coi đó là “chủ
nghĩa dân tộc” hay “tinh thần dân tộc” chân chính làm nên sức mạnh Việt
Nam. Những giá trị tinh thần truyền thống ấy của người Việt Nam được Hồ
Chí Minh bổ sung, phát triển, nâng lên ở tầm cao mới, dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - Lê nin: Từ lòng yêu nước truyền thống đã trở thành chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam trong thời đại cách mạng vô sản; từ truyền thống đoàn
kết, nhân nghĩa đã nâng lên trở thành chiến lược cách mạng, đoàn kết dân tộc
gắn với đoàn kết quốc tế; từ lòng nhân ái, yêu thương con người được nâng
lên trở thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, nhưng mang sắc thái Việt Nam.
Thứ hai, tư tưởng truyền thống con người Việt Nam coi trọng giá trị
đạo đức, coi việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là để dựng làng, giữ nước;
khuyên răn con người ăn ở sao cho có “đức”, có “nhân”. Đại thi hào Nguyễn
Du đã từng viết: “Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
là như thế. Tư tưởng đạo đức cổ truyền Việt Nam là “triết lý vô ngôn”,
không mang tính kinh viện. Người Việt Nam thường đúc kết kinh nghiệm tu
dưỡng, kinh nghiệm ứng xử bằng những câu ca dao, tục ngữ, những bài giáo
huấn; thường xây dựng những hình ảnh nhân vật, những hiện tượng đạo đức
38

trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ và cổ tích thế sự để giáo dục, cảm hóa
con người. Người Việt Nam coi trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”, nhớ ơn tổ tiên và những người có công với nước,
trọng tình, trọng nghĩa trong ứng xử… Những giá trị truyền thống quý báu
ấy là cơ sở cho sự xuất hiện các giá trị tốt đẹp như: lòng nhân ái, khoan
dung; đức tính khiêm nhường; lối sống giản dị, cần cù, sáng tạo và nhiều
đức tính quý báu khác.
Từ truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh coi trọng giá trị đạo đức, xem
đó là yếu tố cốt lõi, tiêu chuẩn của nhân cách con người, nhất là người cách
mạng, như là gốc của cây, nguồn của sông, suối. Người ít xây dựng lý thuyết
về đạo đức, mà thường sử dụng những mệnh đề đạo đức truyền thống, gạt bỏ
yếu tố duy tâm, lạc hậu và bổ sung nội dung trở thành phẩm chất đạo đức của
người Việt Nam trong thời đại mới. Người đặc biệt coi trọng xây dựng những
hình ảnh tiêu biểu, điển hình về đạo đức để toàn xã hội học tập, noi theo;
đồng thời, phát triển giá trị đạo đức của con người, coi đó là nhân tố làm nên
sức mạnh tinh thần trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã
hội mới.
Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng về giá trị con người trên quan
điểm kế thừa, có phê phán, không chỉ nhận thấy mặt tích cực mà còn nhận
thức rõ những tồn tại, hạn chế trong phẩm chất người Việt như: lối sống khép
kín, tư tưởng cục bộ địa phương chủ nghĩa, tư tưởng cào bằng, tâm lý cầu an,
cầu may... Những hạn chế đó xuất phát từ đặc điểm cấu trúc quan hệ kinh tế,
xã hội, văn hóa “Nhà - Làng - Nước”, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
Nho, Phật, Lão và các luồng văn hóa khác. Vì thế, trong quá trình tiếp thu
những giá trị truyền thống con người Việt Nam, bên cạnh việc khẳng định và
đề cao những yếu tố tích cực, Người cũng đồng thời phê phán những yếu tố
tiêu cực, nhằm phát triển những cái hay, cái tốt, không ngừng làm giàu và
nhân lên những giá trị tích cực trong con người Việt Nam.
39

Có thể nói, giá trị truyền thống của dân tộc là cơ sở nền tảng hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị của con người Việt Nam. Người tiếp
thu giá trị truyền thống văn hóa, con người Việt Nam bằng thế giới quan
khoa học và tư duy biện chứng, khái quát thành hệ thống quan điểm lý luận,
góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nói về sự
ảnh hưởng của giá trị truyền thống dân tộc đến tư tưởng Hồ Chí Minh, cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Đức tính của cụ Hồ Chí Minh là sự kết
hợp trí thông minh, óc sáng suốt với lòng nhân đức, cộng với nghị lực kiên
cường và đức tính khiêm tốn hiếm có. Là hiện thân của những đức tính tốt
đẹp nhất của dân tộc, lòng yêu nước thiết tha của Người được kết hợp một
cách hài hòa với tinh thần đoàn kết quốc tế hết sức nồng nhiệt” [44, tr.463].
2.2.1.2. Tư tưởng về giá trị con người ở phương Đông, phương Tây
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam được hình
thành từ sự tiếp thu tư tưởng về giá trị của con người ở phương Đông, phương Tây.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng về giá trị của con người ở
phương Đông (Nho giáo và Phật giáo, Lão giáo). Sinh ra trong một gia đình
nhà Nho An Nam, Người sớm tiếp thu Nho giáo một cách căn bản và có hệ
thống, trước hết từ ông ngoại Hoàng Xuân Đường và người cha Nguyễn Sinh
Sắc, cho đến học tập các thầy đồ nổi tiếng ở trong làng Kim Liên như: Hoàng
Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Thân…; từ việc tiếp thu thông qua trao
đổi các vấn đề thời sự, chính trị trong nước và quốc tế với các nhà Nho thế hệ
trước như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài và
bền bỉ.
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng của Nho giáo về giá trị con người,
trong đó có quan điểm coi con người cùng với trời, đất là “tam tài”, con
người có vai trò góp phần vào sự hóa dục (vạn vật) của trời, đất (trung
dung), đề cao tính người qua Tam cương, Ngũ thường, coi trọng giá trị sống,
phấn đấu để mang lại hạnh phúc cho con người. Hồ Chí Minh tiếp thu giá trị
40

đạo đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… của Nho giáo, gạt bỏ yếu tố tiêu cực, bổ
sung yếu tố tích cực trở thành phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam
mới. Người thường nhắc đến chữ Nhân trong triết học Khổng Tử. Nhân là
tâm điểm của đạo đức Nho giáo, có quan hệ mật thiết với các phạm trù đạo
đức khác để làm nên phẩm giá con người. Nhân là đạo làm người: biết
thương người, giúp đỡ người khác, biết yêu người đáng yêu, ghét người
đáng ghét, luôn hướng tới cái thiện, hướng tới sự hòa nhập vào thế giới đại
đồng. Người khẳng định: “Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ
đồng chí và đồng bào… sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh
phúc sau thiên hạ… không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai
quyền [89, tr.291-292]. Lối sống trong sạch, liêm khiết, phép đối nhân xử
thế đúng mực, trọng nghĩa tình và đạo lý, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn trong
đạo đức Nho giáo đã tác động đến ý thức và hành vi đạo đức, hình thành nên
phong cách Hồ Chí Minh. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh khiến Người
càng trở nên vĩ đại, sống mãi trong hàng triệu trái tim người dân Việt Nam
và bạn bè quốc tế.
Hồ Chí Minh đã tiếp biến tư tưởng của Phật giáo về giá trị con người.
Phật giáo là tôn giáo thế giới, sớm du nhập vào Việt Nam và có ảnh hưởng lớn
đời sống tinh thần của người Việt. Phật giáo chứa đựng nhiều triết lý nhân
sinh như: khuyên răn con người sống trong sạch, có đạo đức; thương người
như thể thương thân; làm điều thiện, tránh điều ác; yêu lao động… Từ triết lý
của Phật giáo, Hồ Chí Minh mong muốn: “Đời sống của nhân dân ta dần dần
được cải thiện, cũng giống như tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng
cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm” [94, tr.472] cho tất
cả mọi người, hướng tới một xã hội hạnh phúc, an lạc. Trong Thư gửi Hội
nghị đại biểu Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, ngày 28 tháng 9 năm 1964,
Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam, đều cố
gắng thực hiện lời Phật dạy là: "Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”” [98, tr.383].
41

Phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh mang đậm triết lý của Đức Phật, luôn
“vô ngã, vị tha”, cả cuộc đời sống thanh bạch, giản dị, mong muốn mang lại
hạnh phúc cho mọi người mà không nghĩ đến bản thân mình. Có thể nói, Phật
giáo với những khía cạnh tích cực về mặt giáo lý, khi du nhập vào Việt Nam,
trải qua nhiều thế kỷ đã được bản địa hóa, dân gian hóa, làm phong phú và sâu
sắc thêm giá trị truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng tư tưởng của Lão giáo, dù ít đề cập đến
Lão Tử trong các bài nói, bài viết của mình. Trong bài viết “Giữ gìn trật tự, an
ninh” đăng trên Báo Nhân dân, số 236, ngày 9/10/1954, Hồ Chí Minh trích
quan điểm của Lão Tử: “dạ bất bế hộ, lộ bất thập di - nghĩa là: ban đêm không
cần đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi” [ 93, tr.77], với mong muốn
xây dựng xã hội văn minh, trong đó quan hệ giữa con người với nhau tốt đẹp,
lối sống trung thực. Người tiếp thu quan điểm của Lão Tử về lối sống với triết
lý “theo tự nhiên” trong thuyết “vô vi”, nghĩa là con người sống và hoạt động
thuận theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, gò ép, trái với bản tính tự
nhiên của mình. Điều này được thể hiện rõ trong phong cách, nếp sống, đối
nhân xử thế rất chân thành, nhã nhặn, thân ái, tự nhiên của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng về giá trị con người ở phương
Tây. Ngay từ khi còn học ở Trường Tiểu học Pháp - Việt, Trường Quốc học
Huế và qua một số tờ báo tiếng Pháp có xu hướng tự do, Người được tiếp xúc
với văn hóa Pháp, với các khẩu hiệu “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” là những
giá trị phổ quát của nhân loại. Sau này, được sống, hoạt động ở môi trường
văn hóa phương Tây trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh có
điều kiện tiếp xúc với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội nổi tiếng như:
Henri Barbusse, Romain Rolland, Sesverine…; có điều kiện đọc các tác phẩm
văn học đặc sắc, đề cao khát vọng tự do, phê phán những bất công, bất bình
đẳng xã hội, hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, trong đó con người được
sống hòa bình, hạnh phúc của các đại văn hào nổi tiếng thế giới như: William
42

Shakespeare, Charles Dickens, Victor Hugo… Hồ Chí Minh tiếp thu chủ
nghĩa nhân văn phương Tây về đề cao sức mạnh sáng tạo, ca ngợi lý tính, lý
tưởng của con người; chống lại thuyết đề cao thần, hạ thấp con người, nhấn
mạnh việc con người được sống theo bản tính tự nhiên của mình, phản đối
gông xiềng tôn giáo và đẳng cấp phong kiến; bước đầu vạch ra nguyên nhân
của sự nô dịch và áp bức giai cấp, những điều kiện và khả năng giải phóng
con người... Người tiếp thu những giá trị ấy trên cả phương diện lý luận và
thực tiễn, khái quát và nâng lên trở thành tư tưởng của mình. Không phải ngẫu
nhiên sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã trích
dẫn câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp, năm 1791 rằng:
“Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [88, tr.1]; “Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi” [88, tr.1]. Từ giá trị con người - cá nhân được khẳng định trong hai
bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh nâng lên trở thành giá trị chung của các dân
tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [88, tr.1]. Tiếp nhận giá trị
văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã vượt xa các nhà yêu nước tiền bối và
đương thời một cách có ý thức, không chỉ tiếp thu những giá trị văn hóa nhân
loại, mà còn góp phần làm giàu thêm vốn tri thức của bản thân để giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra.
2.2.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giá trị con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung, hệ giá trị của con người Việt Nam nói riêng. Hồ Chí
43

Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà tất
yếu giữa những tư tưởng lớn của nhân loại. Lập trường yêu nước và khát vọng
giải phóng dân tộc đã đưa Người tiếp cận Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa của V.Lênin đăng trên tờ L'.Humanite
(Nhân đạo) vào trung tuần tháng 7 năm 1920. Sau này, cùng với quá trình
hoạt động trong Quốc tế cộng sản, Người đã nghiên cứu và tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách căn bản và có hệ thống, trong đó có những quan điểm
về giá trị con người.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đứng trên quan điểm lịch sử để luận giải về
vấn đề con người, giá trị của con người. Theo các ông, giá trị của con người
thể hiện trước hết ở chỗ, không chỉ là sản phẩm của lịch sử, mà còn làm nên
lịch sử. Tuy nhiên, con người muốn khẳng định giá trị bản thân, đòi hỏi phải
hoạt động một cách tự do, tự giác. Trong lao động, con người khẳng định
mình là một sinh vật có tính chất xã hội và sáng tạo, lao động làm cho con
người trở thành sản phẩm hoạt động của chính mình. Giá trị của con người
còn thể hiện ở sự tái tạo ra bản thân con người và làm phát sinh các quan hệ
xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là
quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [83, tr.41]. Theo
các ông, chính con người đã đánh dấu thêm các trang sử hào hùng cho chính
mình. Tự nhiên và xã hội vận động theo những quy luật khách quan vốn có,
song quá trình vận động của xã hội loài người luôn xuất phát từ nhu cầu, động
cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định của chính họ. Do đó, con
người tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng những quy luật của cả
tự nhiên và xã hội cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. Với nghĩa
đó, giá trị của con người thể hiện ở vai trò là chủ thể của sự tồn tại và phát
triển của xã hội, tạo ra giá trị xã hội. Xã hội không thể vận động, phát triển
nếu thiếu vai trò của con người.
44

Đặc biệt, trong Bản thảo kinh tế - chính trị năm 1844, C.Mác đã nêu
lên giá trị bản thân con người thông qua khái niệm “lực lượng bản chất”
người và lý thuyết tha hóa người. Ông cho rằng, tha hóa là sự mất vật phẩm,
bị phẩm phẩm nô dịch; khi bị tha hóa lao động trở thành một lực lượng độc
lập, đối lập với anh ta, chống lại anh ta, và khi ấy đời sống sản xuất chỉ còn là
phương tiện duy trì sự sinh tồn thể xác. Trong Luận cương thứ sáu về
Phoiơbắc, ông khẳng định: Con người không phải là cái gì trừu tượng, mà là
cụ thể, “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội” [83, tr.11]. Luận đề đó của C.Mác chỉ ra rằng, khi nghiên
cứu con người nói chung, giá trị của con người nói riêng, không được bỏ qua
tính lịch sử và phải đặt trong các quan hệ xã hội nhất định để xem xét.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định tính lịch sử - xã hội, tính giai
cấp, tính thực tiễn và sự nhận thức được các giá trị. Giá trị là những hiện
tượng xã hội đặc thù và mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của
quần chúng. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và cá nhân thường có
những quan niệm khác nhau về giá trị. Khi xã hội thay đổi thì thang giá trị
cũng thay đổi. Lịch sử loài người suy đến cùng là quá trình không ngừng tìm
kiếm, nhận thức các chân giá trị; là quá trình phát hiện, chọn lựa, kế thừa các
giá trị mới phù hợp với sự phát triển của xã hội. Khi những giá trị của cá nhân
có ý nghĩa, tác dụng đối cộng đồng được xã hội thừa nhận sẽ trở thành “giá trị
xã hội”; đến lượt mình, giá trị xã hội lại có vai trò định hướng cho hoạt động
của con người.
Nhờ thế giới quan khoa học và phương pháp biện chứng, Hồ Chí Minh
nhận thấy quan hệ sản xuất đã phân chia thành “giống người” đi bóc lột và
“giống người” bị bóc lột, xét ở phương diện giai cấp. Đã là kẻ đi bóc lột thì
đều mang bản chất độc ác; đã là thân phận của những người bị bóc lột thì dù
mang màu da gì chăng nữa đều là những “người cùng khổ”. Theo Hồ Chí
Minh, trong bất cứ xã hội nào cũng đều có người tốt và người xấu; trong mỗi
45

con người, ai cũng có mặt tốt và mặt xấu. Vì thế, khi mới đặt chân đến nước
Pháp, Người nhận thấy, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” [85, tr.287]. Trên
quả đất có hàng muôn triệu người, song số người ấy có thể chia làm hai hạng:
Người “thiện” và người “ác”. Tuy nhiên, việc phân chia người “thiện” hay
người “ác” chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi trong mỗi con người luôn có sự tồn
tại đan xen cả hai mặt tốt - xấu, chỉ khác nhau ở trạng thái biểu hiện của nó;
nếu tính xấu biểu hiện ra nhiều thì đó là người “ác” và ngược lại. Tính tốt hay
xấu trong mỗi con người không phải sinh ra đã có sẵn, mà do điều kiện hoàn
cảnh xã hội, do giáo dục mà nên.
Phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh có thế
giới quan khoa học, tư duy biện chứng trong tiếp thu giá trị của dân tộc và
nhân loại. Người từng viết: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết,
không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà
không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt,
thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm” [89, tr.112-113].
Xây dựng xã hội mới đòi hỏi phải xóa bỏ những tàn dư của xã hội cũ, song
“chúng ta không thể trấn áp nó, không thể dùng vũ lực để tiêu diệt nó, mà
phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” [95, tr.287].
Nghiên cứu Khổng Tử, Hồ Chí Minh không chỉ nhận thấy những giá trị trong
tư tưởng của ông, mà còn phê phán Khổng Tử viết Kinh Xuân Thu chủ yếu là
để chỉ trích "những thần dân nổi loạn" và “những đứa con hư hỏng”, mà
không lên án những tội ác của “những người cha tai ác” và “những Hoàng tử
thiển cận”. Người khẳng định: “Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và
nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông sẽ trở thành phần tử
phản cách mạng. Cũng có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với
hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung thành của Lênin”
[86, tr.563]. Ngay cả đối với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.Lênin, mặc dù coi họ
46

là những người thầy vĩ đại, song Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng của các ông
bằng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, không giáo điều; thậm chí, Người
cho rằng cần “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông” [85, tr.510].
Điều đặc biệt ở chỗ, Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về giá trị con người trên cả phương diện tư duy lý luận và phẩm
chất đạo đức của nhà tư tưởng. Hồ Chí Minh nhận thấy ở Lênin, một “người
thầy đã đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng khắp thế giới, chẳng những bằng
lý luận cách mạng khoa học nhất, mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả
nhất” [91, tr.288]. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tấm
gương đạo đức cách mạng của Lênin, căn dặn cán bộ, đảng viên phải biết
“yêu Tổ quốc và yêu nhân dân một cách thiết tha, không bờ bến, và ghét cay
ghét đắng kẻ địch của Tổ quốc, của nhân dân, đồng thời gắn liền tinh thần yêu
nước với tinh thần quốc tế” [91, tr.289]; phải thấm nhuần và làm theo những
lời dạy của Lênin “ra sức chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Dù vô tình hay là
cố ý, duy trì ba bệnh ấy tức là giúp sức cho kẻ địch và làm hại cho nhân dân,
cho Chính phủ, cho Đảng” [92, tr.13]. Đây là cách tiếp cận rất độc đáo, sáng
tạo của Hồ Chí Minh. Nhờ đó, Người đã góp phần bổ sung vào học thuyết
Mác - Lênin nhiều luận điểm có giá trị lý luận về vấn đề con người nói chung,
hệ giá trị của con người Việt Nam nói riêng.
2.2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.2.1. Trải nghiệm trong hành trình tìm đường cứu nước
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị phổ quát của nhân loại
qua trải nghiệm, khảo sát thực tiễn thế giới trên hành trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc. Ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Hồ
Chí Minh mong muốn tìm hiểu thực chất những giá trị của con người về
quyền tự do, bình đẳng, bác ái mà Người đã từng được biết đến lần đầu tiên
khi còn học ở Trường Tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
47

An. Sau này, khi tâm sự với nhà báo Liên Xô, Ôxip Mandenstam, Hồ Chí
Minh nói: “Khi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ pháp: Tự do -
bình đẳng - bác ái… Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những từ ấy” [46, tr.147]. Như
vậy, xét dưới góc độ giá trị học, có thể khẳng định: động cơ thôi thúc Hồ Chí
Minh ra nước ngoài là nhằm tìm lại giá trị chính trị của người Việt Nam là
độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó cũng là những giá trị phổ biến của nhân loại.
Đặt chân tới nhiều quốc gia trên thế giới như: Pháp, Anh, Tây Ban Nha,
Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây... Hồ Chí Minh nhận thức rõ hơn về giá
trị của con người nói chung, người Việt Nam nói riêng. Chứng kiến ở các xứ
thuộc địa, nhân phẩm con người bị khinh rẻ, bị trà đạp một cách nghiêm
trọng, Người nhận thấy rõ hơn độc lập, tự do không chỉ là giá trị thiêng liêng
của dân tộc Việt Nam mà còn là giá trị phổ quát của nhân loại; đồng thời,
nhận thức sâu sắc hơn nguồn gốc của sự tha hóa con người đó là ách áp bức,
bóc lột giữa con người với con người, làm cho các giá trị công bằng, bình
đẳng trở nên xa lạ với tầng lớp những người lao động nghèo khổ. Khi đến
nước Pháp vốn được coi là trung tâm văn minh châu Âu, Hồ Chí Minh nhận
thấy “những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp
thực dân rất hung ác, vô nhân đạo… Đối với bọn thực dân, tính mạng của
người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu” [153, tr.30]. Vì
thế, thực chất giá trị “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” đầy tính nhân văn mà chủ
nghĩa đế quốc trương lên ở các thuộc địa chỉ là cái “bánh vẽ” do giai cấp tư
sản nặn ra.
Thứ hai, tiếp xúc với những giá trị nhân văn phương Tây, nhất là khi
nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ (1776), Cách mạng tư sản Pháp (1789)
cũng như hai bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và nước Pháp, nhận thức
của Hồ Chí Minh về giá trị của con người được nâng lên, biến thành hành
động cách mạng nhằm khẳng định quyền của dân tộc, quyền của con người.
48

Năm 1919, thay mặt Hội Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người ký vào bản Yêu
sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vecsai để đòi các quyền con
người: Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; cải cách
nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn
các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung
thực nhất trong nhân dân An Nam; tự do báo chí và tự do ngôn luận; tự do lập
hội và hội họp; tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; tự do học tập,
thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người
bản xứ; thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; đoàn đại biểu
thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để
giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản, hoạt động trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, nhận thức của Hồ Chí Minh về giá trị của con
người nói chung, người Việt Nam nói riêng có sự phát triển về chất. Trong
Lời kêu gọi, nhằm tuyên truyền, cổ động cho tờ báo Le Paria (Người cùng
khổ), Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ mục tiêu “giải phóng những người bị áp
bức khỏi các lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và bác ái… Le
Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ
đạt được: đó là giải phóng loài người” [85, tr.491]. Người viết nhiều bài
đăng trên các báo: L'.Humanité (Nhân đạo), Le Paria (Người cùng khổ), Đời
sống thợ thuyền… nhằm tố cáo đanh thép tội ác của chủ nghĩa thực dân đã vi
phạm các quyền con người, luôn “che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết
người… luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những
châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng” [85, tr.93].
Có thể nói, qua trải nghiệm, khảo sát thực tiễn thế giới trên hành
trình tìm đường cứu nước, nhận thức của Hồ Chí Minh về giá trị của con
người không ngừng nâng lên; từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính;
từ khảo sát thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận đã hình thành nên tư
49

tưởng của Người trong việc lựa chọn và phát triển những giá trị truyền
thống tiêu biểu của con người Việt Nam; đưa giá trị con người Việt Nam
bổ sung làm phong phú thêm kho tàng giá trị chung của nhân loại.
2.2.2.2. Thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do
của dân tộc và xây dựng xã hội mới, con người mới, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến xây dựng, phát triển giá trị của con người, thể hiện qua một số
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sau khi nước nhà độc lập, Hồ Chí Minh coi trọng phát huy
quyền quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua việc xây dựng Hiến
pháp, qua thực tiễn xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong Lời
phát biểu tại phiên họp bế mạc kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, tháng 11-1946, Người khẳng định: “Hiến pháp đó
tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến
pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã đứng ngang hàng với đàn
ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân” [ 88, tr.491]. Người
đề ra nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng lúc này là phải giáo dục
nhân dân về tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, kêu gọi mọi người dân Việt
Nam quyết tâm “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [88, tr.3]; phát huy truyền thống đoàn
kết, nhân ái của dân tộc thông qua phong trào Sẻ cơm, nhường áo, Ngày đồng
tâm, khuyên mọi người “lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói
khổ, chúng ta không khỏi động lòng” [88, tr.33], từ đó, đề nghị đồng bào cả
nước và Người gương mẫu thực hành trước cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo; kêu gọi
mọi người dân hăng hái tập thể dục, nâng cao sức khỏe, phát huy truyền thống
50

hiếu học, lao động cần cù, sáng tạo, hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, góp phần tích cực vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Hồ Chí Minh
phát động phong trào xây dựng Đời sống mới, nhằm phát huy giá trị truyền
thống dân tộc, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu như: tư tưởng cục bộ
địa phương, bè phái, óc hẹp hòi, ham chuộng hình thức, phong cách làm việc
quan liêu bàn giấy, vô kỷ luật... Từ trong phong trào do Người phát động đã
góp phần đúc kết và làm phong phú thêm những giá trị truyền của dân tộc
dưới chế độ dân chủ mới.
Thứ hai, cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ
Chí Minh quan tâm xây dựng, phát triển con người, coi đó vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Muốn xã hội chủ
nghĩa, phải có: người xã hội chủ nghĩa” [ 95, tr.595]. Đó là những con người
có tư tưởng, tác phong xã hội chủ nghĩa; có năng lực làm chủ: tự nhiên, xã
hội, bản thân; có kiến thức khoa học; có đạo đức cách mạng, biết sống vì mọi
người; năng động, sáng tạo… Con người được phát triển toàn diện về đức, trí,
thể, mỹ. Hồ Chí Minh coi “trồng người” là một chiến lược lâu dài của Đảng
và của cách mạng; chăm lo, bồi dưỡng con người như chăm sóc, vun trồng
cây cối. Người khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt
và cán bộ tốt cho nước nhà… Đó là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ
vang” [95, tr.528]. Cùng với quá trình xây dựng xã hội mới, con người mới,
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về sự cần thiết phải xây
dựng, phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam với những bước đi thích
hợp. Đó vừa là mục tiêu, vừa là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, thực tiễn lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển
văn hóa và con người Việt Nam trong thời kỳ dân chủ mới và trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là cơ sở thực tiễn quan trọng góp phần hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam.
51

2.2.3. Nhân tố chủ quan với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về hệ giá trị của con người Việt Nam
Tư tưởng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo và khái
quát trên cơ sở nhận thức thực tiễn khách quan. Tác động biện chứng giữa
nhân tố chủ quan với nhân tố khách quan đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam, đó là sản phẩm của cái “tâm”, cái
“tầm” Hồ Chí Minh quyết định, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong phẩm chất Hồ Chí Minh hội tụ nhiều giá trị truyền
thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Trước hết phải kể đến lòng yêu nước,
tinh thần tự tôn dân tộc. Nhờ có lòng yêu nước, Hồ Chí Minh quyết chí ra đi
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Dù trải qua bao sóng gió, gian khổ,
khó khăn, Người vẫn không lùi bước, vẫn kiên định mục tiêu cuối cùng là
giành độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Yêu nước là khát
vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh, là tư tưởng cốt lõi chi phối mọi hành
động cách mạng của Người. Suốt cuộc đời vì dân, vì nước, Người chỉ có một
“ham muốn tốt bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành” [99, tr.627]. Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, Người vẫn nghĩ
đến dân, đến nước.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, nhân ái của dân tộc
Việt Nam. Truyền thống quý báu ấy đã được Hồ Chí Minh nâng lên trở
thành chiến lược cách mạng: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết quốc tế. Người là một biểu tượng sáng ngời của truyền thống nhân ái,
được nâng lên trở thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, nhưng vẫn đậm đà bản
sắc Việt Nam. Tình yêu thương yêu con người ở Hồ Chí Minh là một tình cảm
rất đặc biệt, không chung chung, trừu tượng, mà rất cụ thể với từng thân phận
con người. Là lãnh tụ của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn hòa mình vào cuộc sống
của nhân dân để hiểu rõ dân tình, hiểu thấu dân tâm; cảm thông sâu sắc nỗi
khổ đau của mỗi người, mỗi gia đình Việt Nam. Trước lúc đi xa để gặp cụ
52

C.Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh để lại muôn vàn
tình thân yêu cho toàn Đảng, toàn dân, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng. Có thể nói, trong trái tim nhân hậu của Hồ Chí
Minh đều có chỗ dành cho tất cả mọi người.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của phẩm chất trung thực, trách nhiệm.
Trung thực từ trong suy nghĩ cho đến hành động, từ lời nói đến việc làm. Ở
Hồ chí Minh, tư tưởng và hành động luôn nhất quán, Người luôn nói ít, làm
nhiều, đã hứa là làm. Gần một phần tư thế kỷ trên cương vị lãnh đạo cao nhất
của Đảng và Nhà nước, Người xác định rõ trách nhiệm của mình trước Tổ
quốc và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ mà nhân dân
giao phó như một người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận; sẵn sàng nhận
khuyết điểm thay, khi cán bộ đảng viên làm trái đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của
nhân dân. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh không nghĩ đến việc riêng,
không màng đến danh lợi cho cá nhân mình. Trước lúc đi xa, nằm trên giường
bệnh, Người vẫn một lòng, một dạ vì Tổ quốc, vì nhân dân.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của đức tính cần cù. Phẩm chất ấy được
hình thành từ sự tiếp thu truyền thống lao động cần cù của dân tộc, của quê
hương, gia đình và được phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
nôi nổi của Người. Ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí
Minh từng phải lao động làm thuê như: phụ bếp, cào tuyết, bồi bàn, rửa ảnh…
để kiếm sống và thực hiện hoài bão của mình, Người đã nêu tấm gương về
tinh thần tự học mà thành tài, kiên trì học ngoại ngữ ở mọi lúc, mọi nơi, trở
thành một trong số ít lãnh tụ trên thế giới có khả năng sử dụng thành thạo
nhiều ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc…). Với
vốn ngoại ngữ chắc chắn, Hồ Chí Minh có thể tiếp thu những giá trị của nhân
loại; có thể viết sách, báo tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với các
nước thuộc địa nói chung, Việt Nam nói riêng. Khi đã trở thành lãnh tụ của
dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian để lao động, làm vườn, chăm sóc
53

cây cối; vẫn giữ lối sống cần kiệm, giản dị, không màng danh vọng, không
ham sự xa hoa, không chuộng những nghi thức sang trọng, cầu kỳ.
Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Trước thất bại của
phong trào yêu nước Việt Nam những năm cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
bằng mẫn cảm chính trị đặc biệt, Hồ Chí Minh sớm nhận thấy những hạn chế
của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời, người thì “đuổi hổ cửa trước,
rước beo cửa sau”, người thì “xin giặc rủ lòng thương”, để rồi từ đó quyết
định sang phương Tây tìm con đường cứu nước. Dù không phải là người Việt
Nam đầu tiên ra nước ngoài mang theo khát vọng giải phóng dân tộc, không
phải là người Việt Nam duy nhất tham gia Đảng Xã hội Pháp, nhưng chỉ có
Hồ Chí Minh mới là người Việt Nam đầu tiên trở thành chiến sỹ cộng sản.
Luận giải điều này chỉ có thể cắt nghĩa rằng, Hồ Chí Minh sinh ra trong bối
cảnh nước mất, nhà tan, sớm mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc,
được bồi đắp bởi giá trị truyền thống của dân tộc và nhân loại, được tiếp xúc
với sách, báo tiến bộ và được trải nghiệm qua hành trình tìm đường cứu nước.
Người đã quyết định sáng suốt khi lựa chọn bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ
ba, tại Đại hội Tua (12/1920). Nhờ có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê
phán tinh tường sáng suốt, Hồ Chí Minh không chỉ tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản - mà còn có khả năng tiếp thu
giá trị truyền thống của dân tộc và nhân loại.
Thứ hai, Hồ Chí Minh có ý chí, nghị lực và quyết tâm hiện thực hóa
tư tưởng của mình. Ý chí và nghị lực là những tố chất, năng lực tâm lý hình
thành, phát triển ở con người: Ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho
hành động, khắc phục mọi khó khăn, nhằm đạt được mục đích đó; nghị lực là
sức mạnh tinh thần, giúp con người vượt qua mọi khó khăn. Ý chí và nghị lực
của mỗi người hình thành chịu tác động, ảnh hưởng bởi điều kiện hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, cũng như phụ thuộc vào năng lực nhận thức, hành vi của mỗi
người. Ở Hồ Chí Minh, ý chí và nghị lực hình thành phát triển trong điều kiện
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, được bồi đắp bởi truyền thống của quê
54

hương và gia đình, từ tố chất bẩm sinh và năng lực hoạt động thực tiễn của
Người. Ý chí, nghị lực đã giúp Hồ Chí Minh vượt qua nhiều sóng gió, khó
khăn, vượt qua những cám dỗ vật chất tầm thường cũng như sự đe dọa của kẻ
thù, kiên định mục tiêu con đường đã chọn.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, xây dựng con
người mới nói riêng, Hồ Chí Minh luôn kiên định lập trường quan điểm, đưa
ra nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn, có những quyết định mang tính bước
ngoặt lịch sử. Người luôn thể hiện rõ sự quyết tâm trong việc đưa đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quan điểm của
mình vào trong thực tiễn. Nhờ đó mà các cuộc vận động, phong trào xã hội
như: Phong trào xây dựng “Đời sống mới”, “Thi đua yêu nước”… đã được
triển khai và đạt kết quả tốt, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền văn hóa mới,
con người mới.
Có thể nói, tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam
là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện chứng giữa nhân tố khách
quan với nhân tố chủ quan; là sản phẩm của sự kế thừa những giá trị của
dân tộc và nhân loại cũng như từ thực tiễn trải nghiệm, khảo sát thế giới và
thực tiễn lãnh đạo xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.3. NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỆ GIÁ TRỊ CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.3.1. Hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam
2.3.1.1. Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc
Trước hết cần khẳng định rằng, lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc
là giá trị chung của nhân loại. Tư tưởng, tình cảm yêu nước đều tồn tại ở tất
cả các quốc gia trên thế giới, dù được biểu hiện ở những hình thức, mức độ
đậm nhạt khác nhau. Đối với Việt Nam, lòng yêu nước là một đặc trưng căn
bản nhất, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành tiêu
điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị, là “hằng số” của người Việt
55

Nam. Lòng yêu nước hình thành rất sớm, được bồi đắp, đúc kết trở thành giá
trị thiêng liêng, luôn xếp ở vị trí cao nhất trong bảng giá trị tinh thần của
người Việt. Từ giá trị cốt lõi mang tính nguyên tắc này đã tạo ra những giá trị
khác như: đoàn kết, nhân ái, cần cù, sáng tạo... Giá trị truyền thống tiêu biểu
này đã được Hồ Chí Minh nâng lên trong thời đại mới.
Theo Hồ Chí Minh, lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc được hình
thành từ đặc điểm cấu trúc các quan hệ kinh tế - xã hội của một quốc gia nông
nghiệp, tạo nên mối quan hệ hữu cơ Nhà - Làng - Nước trong sinh hoạt cộng
đồng người Việt. Tính cộng đồng làng xã tạo nên tình yêu gia đình, quê
hương xứ sở, rồi mở rộng ra thành tình yêu Tổ quốc. Trong bài Nước Nam
dưới con mắt người Pháp, Hồ Chí Minh dẫn lời của một du khách người Pháp
khi sang Việt Nam (ông Đờ Puvuốcvin) nhận xét khá tinh tế về đặc điểm tính
cách người Việt Nam rằng: Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, tôn
kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học,
coi trọng lời nói thánh hiền, thương yêu nòi giống, tôn kính lẽ phải; ghét xa
hoa, không hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy sinh. Đó là
những đức tính răn dạy trong sách thánh hiền, lưu lại trong cổ phong và ghi
thành luật pháp. Từ đó khẳng định: “hiện nay đó cũng là những đặc điểm về
bản tính của người An Nam hình thành từ bao thế hệ... người An Nam bình
thường mà người ta gặp bất cứ ở đâu cũng đều như vậy cả [85, tr.451].
Lòng yêu nước của người Việt Nam còn xuất phát từ lịch sử hàng
nghìn năm đấu tranh dựng nước, giữ nước. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn ấy
đã hun đúc nên lòng yêu nước và theo dòng chảy bất tận của thời gian,
không ngừng được bồi đắp trở thành giá trị cốt lõi, ngấm vào trong máu,
thịt, trong tâm thức, tạo nên đặc trưng nổi bật trong bản tính người Việt. Vì
thế, đã là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc. Lòng yêu
nước không dừng lại ở tư tưởng, tình cảm thuần túy, mà trở thành một phạm
trù thiêng liêng, trở thành triết lý sống và ở đây, bản chất con người Việt Nam
56

được bộc lộ rõ ràng và đầy đủ nhất. Điều đó được thể hiện ở sự khẳng định
nguồn gốc dòng giống “con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên”; ở quyết
tâm, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ, gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ
quốc; ở ý thức không cam chịu làm nô lệ. Yêu nước là một nét “tình cảm, đạo
đức” lớn của Việt Nam, là sản phẩm của lịch sử dân tộc Việt Nam. Hồ Chí
Minh khái quát: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta… mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [91,
tr.38].
Theo Hồ Chí Minh, lòng yêu nước được xếp vị trí cao nhất trong thang
giá trị tinh thần của người Việt. Nói đến Việt Nam là nói đến lòng yêu nước,
tinh thần tự tôn dân tộc. Người Việt Nam coi lòng yêu nước là tiêu chuẩn cao
nhất của đạo đức, là thước đo giá trị nhân cách con người, nhất là người cách
mạng, có vai trò chi phối, sản sinh ra những giá trị khác. Từ lòng yêu nước,
người Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ độc lập, tự do, chủ
quyền quốc gia dân tộc và theo dòng chảy lịch sử, trở thành giá trị thiêng
liêng, làm nên sức mạnh Việt Nam. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, trước sự xâm lăng của thực dân Pháp, lòng yêu nước Việt Nam lại dâng
lên mạnh mẽ, lôi cuốn nhiều nhân sĩ, trí, thức, sĩ phu và các tầng lớp nhân dân
tham gia vào các phong trào đấu tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh khẳng định:
nhờ có lòng yêu nước mà “sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân
không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng
của người Đông Dương... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông
Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến” [85, tr.40]. Lòng yêu nước trở thành sức mạnh tinh
thần lớn lao trước những thử thách khắc nghiệt, có thể chuyển hóa thành lực
lượng vật chất để chiến thắng kẻ thù.
57

Hồ Chí Minh khẳng định rằng, lòng yêu nước của người Việt là tinh
thần dân tộc chân chính, chứ không phải “chủ nghĩa dân tộc” vị kỷ, hẹp
hòi, tư tưởng nước lớn; đó cũng không phải tinh thần “vị quốc” mà là một
bộ phận của tinh thần quốc tế. Đây là điểm khác biệt của lòng yêu nước
Việt Nam so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Về điều này, các nhà
nghiên cứu cho rằng, chủ nghĩa yêu nước là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt tiến
trình lịch sử dân tộc Việt Nam, trong khi “chủ nghĩa dân tộc” hiểu theo
đúng nghĩa của nó mới chỉ xuất hiện từ khoảng đầu thế kỷ XX, chịu ảnh
hưởng của hệ tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây” [ 72, tr.488]. Ở Việt
Nam, chủ nghĩa yêu nước truyền thống được bổ sung, phát triển với nội
dung mới đó là gắn liền với bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân đồng thời phải
yêu chủ nghĩa xã hội vì “chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình
mới ngày một giàu mạnh thêm” [95, tr.401]. Vì thế mà chủ nghĩa yêu nước
truyền thống của người Việt phát triển thành chủ nghĩa quốc tế chân chính;
nhờ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, Việt
Nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế , làm cho sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước truyền thống được nhân lên gấp bội. Đây là nhân
tố quan trọng làm nên thắng lợi trong đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Từ truyền thống yêu nước mà người Việt luôn kiên cường, bất khuất
trước kẻ thù xâm lược dù chúng mạnh tới mức nào. Không phải ngẫu nhiên
khi nói về những nghĩa quân Việt Nam bị bắt trong cuộc nổi dậy chống Pháp
ở Nam Kỳ buổi đầu xâm lược, viên sĩ quan Grammont từng thừa nhận:
“Những con người đó đã chấp nhận cái chết với một sự bình thản lạ thường”
[72, tr.489]. Phân tích kỹ hơn về lòng can đảm của người Việt, ông khẳng
định: “Người Annam can đảm, nhưng không theo cách chúng ta (những người
phương Tây) hiểu. Đối với chúng ta, từ “cam đảm” gần như đồng nghĩa với
tính táo bạo, ưa thích phiêu lưu, sự liều lĩnh. Ở người Annam, lòng can đảm
58

thụ động hơn. Họ biết kháng cự lại sự đau đớn, đi đến cái chết mà chẳng hề
run sợ” [72, tr.489].
Hiểu rõ giá trị truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc của
người Việt, khi đế quốc Mỹ tiến hành leo thang chiến tranh xâm lược với quy
mô lớn, tính chất ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh đã cảnh báo với Tổng thống
Mỹ Giônxơn rằng: Mỹ có thể đưa hàng chục vạn quân, hoặc nhiều hơn nữa để
đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam; có thể dùng hàng
nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc “nhưng chúng quyết không thể
lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam anh hùng” [99, tr.131]. Thực tế cho thấy, lòng yêu nước, tinh thần
tự tôn dân tộc của người Việt Nam đã chiến thắng sức mạnh của vũ khí,
phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Sau này, khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi, nguyên Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ Mắcnamara đã thừa nhận trong tập hồi ký Nhìn lại quá khứ: tấn
thảm kịch và những bài học từ Việt Nam, rằng: “Chúng ta… đã hành động
theo nguyên tắc và truyền thống của nước Mỹ. Nhưng chúng ta sai lầm”. Một
trong những sai lầm đó là việc Mỹ đã “đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc”, điều đó “phản ánh sự thiếu hiểu biết cơ bản của chúng ta [người
Mỹ] về lịch sử văn hóa, chính trị” của Việt Nam” [146, tr.268].
2.3.1.2. Đoàn kết
Đoàn kết là giá trị tiêu biểu trong thang giá trị truyền thống của dân
tộc Việt Nam. Đoàn kết dân tộc trước hết được hình thành từ đặc điểm vị
trí địa lý tự nhiên, vừa dành cho người Việt Nam sự ưu đãi từ thiên nhiên,
vừa mang đến những thiên tai khắc nghiệt như bão lụt, hạn hán…, đòi hỏi
mỗi người dân Việt Nam phải gắn kết thành cộng đồng để cùng nhau hạn
chế sức tàn phá của thiên thiên. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp từ
rất lâu đời. Sản xuất nông nghiệp vốn phụ thuộc vào thiên nhiên nên có tính
thời vụ cao, cùng với kỹ thuật canh tác lạc hậu đã đặt ra nhu cầu cần hợp tác,
59

hỗ trợ lẫn nhau mỗi khi đến thời vụ cày, cấy hay gặt hái. Người Việt xưa
thường có câu “đông tay hơn hay làm” là thế. Nhờ đó, tình cảm hàng xóm
láng giềng trở nên gắn bó mật thiết, trở thành triết lý sống của người Việt: “tối
lửa tắt đèn có nhau”, “vắng anh em xa có láng giềng gần”.
Mặt khác, lịch sử dân tộc Việt Nam là sự tiếp nối hàng nghìn năm
những cuộc đấu tranh chống xâm lược, trong tình thế “lấy yếu đánh mạnh, lấy
ít địch nhiều”, với tất cả những gì có trong tay, kể cả những vũ khí rất thô sơ
như gậy tầm vông, giáo mác… Để chiến thắng kẻ thù, người Việt Nam đã
cùng nhau đoàn kết đấu tranh bảo vệ chủ quyền của dân tộc. Từ trong cuộc
đấu tranh sinh tồn ấy đã sớm nảy sinh và định hình ý thức cộng đồng, ý thức
tập thể và cao hơn là ý thức dân tộc, ngấm sâu vào máu thịt trở thành tình cảm
tự nhiên: “nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương
nhau cùng”…; trở thành triết lý nhân sinh “một cây làm chẳng nên non/ Ba
cây chụm lại nên hòn núi cao”…; trở thành phép ứng xử và tư duy chính trị
“chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” của người Việt Nam. Lòng yêu
nước chính là cơ sở của tinh thần đoàn kết của người Việt.
Kế thừa, phát triển giá trị truyền thống đoàn kết của dân tộc, trong
nhiều bài viết, bài nói, Hồ Chí Minh thường sử dụng hai chữ “đồng bào”
(nghĩa là mọi người cùng trong một cái bọc mà ra) và khẳng định rằng chúng
ta đều là “con cháu Hồng Bàng”, “con Lạc, cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên”
để kêu gọi người dân Việt Nam phát huy truyền thống đoàn kết. Khi nói về
giá trị truyền thống đoàn kết dân tộc, trong bài thơ “Hòn đá”, đăng trên Báo
Việt Nam độc lập, số 123, ngày 21-4-1942, Người viết: Hòn đá to/ Hòn đá
nặng/ Nhiều người nhắc/ Nhắc lên đặng/ Biết đồng sức/ Biết đồng lòng/ Việc
gì khó/ Làm cũng xong [87, tr.270].
Theo Hồ Chí Minh, người Việt Nam coi đoàn kết là một nhu cầu tự
nhiên để có thể tồn tại, phát triển. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, người Việt
Nam tin rằng những ai không biết đoàn kết “như chim lạc đàn”, "rồi sẽ trúng
60

tên và làm mồi cho hiểm họa”; đoàn kết sẽ nhân nguồn sức mạnh để giải phóng
dân tộc và xây dựng xã hội mới. Người đúc kết: “Sử ta dạy cho ta bài học này:
Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái
lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [87, tr.256]. Trong
lịch sử đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, người Việt Nam luôn giữ
vững tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng, cùng thực hiện chữ “đồng”: đồng
lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh. Đây thực sự là sức mạnh tinh thần, là
nguồn gốc quyết định mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, truyền thống đoàn kết của người
Việt Nam được nâng lên trở thành một chiến lược cách mạng. Đối mặt với
những đế quốc to như thực dân như Pháp và đế quốc Mỹ, người Việt Nam coi
đoàn kết là nguồn sức mạnh tinh thần để chiến thắng kẻ thù, đoàn kết là then
chốt của thành công, là sức mạnh của chúng ta. Do đó, tinh thần đoàn kết của
người Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tình cảm hết sức tự nhiên, chứ không coi
đó là thủ đoạn chính trị nhất thời mang tính sách lược, từ ý muốn chủ quan của
người lãnh đạo. Trong chiều sâu tâm thức người Việt, đoàn kết thực sự trở
thành chiến lược lâu dài quyết định sự thành bại của cách mạng. Từ yêu nước,
ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết mà người dân Việt Nam luôn tin theo Đảng
và Chính phủ, tích cực, tự giác tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội, nghề
nghiệp, giới tính, lứa tuổi… cùng tham gia kháng chiến giành độc lập dân tộc
và xây dựng xã hội mới. Người khẳng định rằng, trong mấy chục triệu dân Việt
Nam, dù có người thế này, người thế khác, tinh thần yêu nước, đoàn kết có thể
biểu hiện ở những hình thức, mức độ khác nhau, thậm chí có những người từng
làm tay sai cho địch, nhưng đều là dòng dõi của tổ tiên ta, nên người Việt luôn
có tư tưởng “khoan hồng đại độ… đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít
hay nhiều lòng ái quốc” [86, tr.280].
61

Hồ Chí Minh chỉ rõ, từ lâu người Việt Nam đã sống với nhau có tình có
nghĩa, luôn giữ mối bang giao với các nước láng giềng, các nước trong khu
vực trên tinh thần hòa hiếu, hữu nghị. Từ khi có Đảng lãnh đạo, truyền thống
ấy ngày càng phát huy, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình năm
châu bốn biển một nhà. Trong bối cảnh mới chủ nghĩa đế quốc xâm lược các
nước nhỏ yếu làm thuộc địa, người Việt Nam nhận thấy đoàn kết không dừng
lại trong phạm vi quốc gia mà mở rộng ra thành đoàn kết quốc tế “tứ hải giai
huynh đệ”, “bốn phương vô sản đều là anh em”. Theo Hồ Chí Minh, người
Việt Nam yêu Tổ quốc mình, trải qua hàng nghìn năm đấu tranh chống xâm
lược là để giành lại độc lập, tự do dân tộc, khẳng định chủ quyền lãnh thổ
quốc gia, mong muốn được sống trong hòa bình để cùng hợp tác và phát triển
với các quốc gia khác trên thế giới, mà không có tư tưởng hận thù dân tộc hay
kỳ thị chủng tộc, sẵn sàng bỏ qua quá khứ để cùng hướng tới tương lai. Người
Việt Nam biết phân biệt đâu là bạn, đâu là thù. Trong cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người Việt quan niệm rằng, chỉ chống thực dân
pháp và đế quốc Mỹ chứ không chống nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ cũng
như lực lượng yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên toàn thế giới. Người khẳng
định: “Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước
khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách
chiến tranh của đế quốc… giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của
nước ta… Đó là lập trường quốc tế cách mạng” [92, tr.272-273]; Việt Nam
sẵn sàng bạn với các nước trên thế giới trên nguyên tắc bình đẳng, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, các bên cùng có lợi.
Có thể nói, trong nhận thức của Hồ Chí Minh, đoàn kết là một trong
những giá trị tinh thần quý báu, được hình thành từ rất sớm trong lịch sử, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do dân tộc và thống
nhất đất nước, luôn được xếp ở vị trí cao trong bảng giá trị tinh thần của người
Việt Nam. Người luôn tin rằng, đoàn kết cũng như những giá trị tinh thần
62

truyền thống khác của nhân dân Việt Nam là vô địch. Về điều này, Báo
Granma (Cu Ba) đã từng viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn tin tưởng ở
sức mạnh phi thường của một dân tộc đoàn kết, đấu tranh cho sự nghiệp chính
nghĩa, tức là đấu tranh cho nền độc lập và sự sống còn của mình dù kẻ địch là
cường quốc lớn nhất, có tiềm lực kinh tế, kỹ thuật và quân sự mạnh nhất, hung
hãn nhất trong thời đại ngày nay” [44, tr.441].
2.3.1.3. Nhân ái
Nhân ái là một nét đẹp của người Việt Nam, được hình thành từ rất
sớm trong lịch sử dân tộc. Về vấn đề này, Trần Văn Giàu viết: Lòng nhân ái
“là sợi dây tinh thần góp sức muôn người riêng lẻ làm nên sức mạnh lớn của
dân tộc; lòng thương dân là động cơ tinh thần thúc đẩy các tù trưởng, tộc
trưởng hành động theo nguyện vọng chung của nhân dân” [ 44, tr.381]. Sau
này, lòng nhân ái của người Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “từ bi, bác
ái, cứu khổ cứu nạn” của Phật giáo và đạo “nhân” trong Nho giáo, trở thành
một giá trị tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Trong quan hệ ứng xử, người
Việt luôn coi trọng chữ “tình”, với quan niệm “một trăm cái lý không bằng
một tý cái tình”, chữ “tình” được thể hiện sinh động từ trong quan hệ gia
đình, họ hàng cho đến ngoài xã hội. Triết lý sống của người Việt Nam là
“thương người như thể thương thân”.
Kế thừa, phát triển giá trị truyền thống nhân ái của dân tộc, Hồ Chí
Minh khẳng định rằng “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác
ái” [88, tr.186], đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đã được hình thành
từ hàng nghìn năm lịch sử. Người giải thích, “bác ái” nghĩa là “thương yêu
nhau, kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng
ta và con cháu chúng ta” [88, tr.249]. Người Việt coi trọng đức “nhân”, cùng
với các phẩm chất khác như: trí, tín, dũng, liêm, trung… được coi là tiêu
chuẩn của đạo đức, nhất là người cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra điểm khác
biệt căn bản giữa lòng nhân ái của người Việt Nam với quan niệm của Phật
63

giáo và Nho giáo ở chỗ: Phật giáo nói đến tư tưởng từ, bi, bác ái, cứu khổ
cứu nạn, thương người như thể thương thân. Song tình thương nơi cửa Phật
là tình thương chung chung, trừu tượng, phi giai cấp; còn trong Nho giáo,
mặc dù chữ “nhân” có nhiều nghĩa khác nhau, song lại là phạm trù cơ bản, là
“gốc” của đạo đức con người. Hồ Chí Minh khẳng định, triết lý sống của
người Việt là ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương
những người khổ đau bị áp bức; là con người, trước hết phải có đức “nhân”,
đó là tiêu chuẩn của nhân cách. Chữ “nhân” ở đây theo Hồ Chí Minh vừa có
nghĩa là “người”, vừa có nghĩa là “yêu thương”: yêu thương đồng bào, đồng
chí của mình. Đó là một tình cảm đặc biệt, không phải sự thương hại, ban ơn
của “bề trên” nhìn xuống, cũng không phải do động lòng trắc ẩn của người
“đứng ngoài” trông vào, mà đó là sự cảm thông sâu sắc đối với thân phận con
người. Trong thời đại mới, tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng
những luồng tư tưởng nhân văn, tiến bộ của nhân loại, lòng nhân ái của người
Việt được nâng lên trở thành tình thương đẹp đẽ và hoàn chỉnh, đó là chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản. Đây là cơ sở quan trọng cho việc mở rộng quan hệ
hợp tác, đoàn kết quốc tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, lòng nhân ái của người Việt Nam biểu hiện trước
hết ở mối quan hệ giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Trong mối quan hệ
ấy, Đảng, Chính phủ luôn thương yêu, kính trọng, nhân dân, “lấy dân làm
gốc”; chăm lo đời sống cho nhân dân từ vật chất đến tinh thần, việc gì có lợi
cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Theo Hồ Chí
Minh, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử,
sáng tạo ra những giá trị vật chất, văn hóa, tinh thần. Do đó, lòng nhân ái
còn được thể hiện ở quan điểm coi “con người là quý nhất”. Mượn câu chuyện
về Tam tự kinh, Người nói:“Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân” [94, tr.453]; con người là nhân tố quyết định thành công
của sự nghiệp cách mạng. Xuất phát từ tình thương yêu con người, đề cao
64

vị trí, vai trò của con người, Hồ Chí Minh xác định rõ mục tiêu của cách
mạng và đó cũng là mong muốn tột bậc của mình là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Lòng nhân ái của người Việt Nam còn thể hiện ở chỗ luôn tin vào tính
bản thiện của con người, khi sinh ra đều mang trong mình mầm “thiện”. Việc
đánh giá người này “hiền”, người kia “dữ” chỉ có tính tương đối. Bởi lẽ, “hiền”
hay “dữ” không phải là phẩm chất đã quy định sẵn trong bản tính con người,
mà do tác động của môi trường xã hội và giáo dục tạo nên. Hồ Chí Minh quan
niệm rằng, người đời không phải là thần thánh, không ai tránh khỏi sai lầm,
khuyết điểm, ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, cũng có mặt tốt, mặt xấu, chỉ khác
nhau ở trạng thái biểu hiện ít hay nhiều, đã là con người thì đều “nhân vô thập
toàn”. Từ lòng nhân ái, yêu thương con người đã nảy sinh tư tưởng khoan dung
của người Việt. Hồ Chí Minh khẳng định: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu
nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn,
thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ” [90, tr.130]. Là con
người thì phải có lòng bao dung, độ lượng. Khi có được đức tính này, con
người ta sẽ biết tôn trọng, lắng nghe ý kiến của người khác, không lấy tư
tưởng, quan điểm của mình để áp đặt hoặc bác bỏ tư tưởng, ý kiến của người
khác.
Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam theo Hồ Chí Minh, còn được thể
hiện ở sự cảm thông, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn,
hoạn nạn. Năm 1945, để chống “giặc đói” Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể
đồng bào phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc, khi “nâng bát cơm mà
ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng” [88, tr.33]; cứ 10
ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ)
để cứu dân nghèo. Người tin rằng đồng bào ta ai cũng sẵn lòng cứu khổ cứu
nạn, hăng hái tham gia hưởng ứng. Lòng nhân ái của người Việt không chỉ
thể hiện với đồng bào, đồng chí của mình, mà còn thể hiện đối với những kẻ
65

lầm đường, lạc lối, khi đã biết ăn năn, hối lỗi, muốn quay về với chính nghĩa
dân tộc thì sẵn sàng “đánh kẻ chạy đi, chứ không đánh người chạy lại”, lấy
tình thân ái mà cảm hóa. Lòng nhân ái của người Việt xuất phát từ lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết, tin vào sức mạnh của chân lý và chính nghĩa, vào
sức mạnh của bản thân mình. Hồ Chí Minh khẳng định: “Năm ngón tay cũng
có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy
triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều
dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ” [88, tr.280]. Lòng
nhân ái còn thể hiện ở tư tưởng về giải phóng triệt để con người, để mỗi
người dân Việt Nam đều được hưởng quyền tự do, ấm no, hạnh phúc và các
quyền cá nhân khác; nhân ái còn thể hiện ở quan điểm về phát huy nhân tố
con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
tiến bộ xã hội.
2.3.1.4. Trung thực, trách nhiệm
Trung thực là giá trị quan trọng hàng đầu của nhân cách con người, tiêu
chuẩn cao nhất của đạo đức. Trung thực có nghĩa là sự thật, được biểu hiện ở
trong tư tưởng, lời nói và hành động, thành thực với chính mình, với người
khác, với tập thể và hơn thế là với Đảng, Tổ quốc, nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, đức tính trung thực là giá trị quan trọng làm nên nhân cách con người
Việt Nam; là phẩm chất tốt đẹp, tiêu chuẩn của đạo đức, từ đó khẳng định giá
trị cá nhân, tạo nên uy tín và sức mạnh của tập thể. Trung thực, theo Hồ Chí
Minh được biểu hiện qua ba mối quan hệ chủ yếu: với mình, với người, với
việc. Đối với mình, trung thực từ trong suy nghĩ, luôn sống bằng cái tâm trong
sáng, không tự cao, tự đại; luôn “khắc kỷ, chính tâm”, nhận thấy ưu điểm của
bản thân để phát huy, nhận thấy hạn chế của bản thân để khắc phục; trung
thực thể hiện ở sự chân thành từ tư tưởng, lời nói cho đến hành động. Đối với
người, trung thực thể hiện ở sự chân thành, thân ái, thẳng thắn, không dối trá,
lừa lọc; thấy việc tốt cần cổ vũ, biểu dương, khi thấy việc sai thì cần phê bình
66

thẳng thắn, trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị héo mòn đi.
Đối với công việc, có tinh thần trách nhiệm, tự giác, hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ được giao, thật thà nhúng tay vào việc, “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân
đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh
lệnh” [90, tr.233-234].
Trung thực, theo Hồ Chí Minh được thể hiện ở lời nói đi đôi với việc
làm; nói ít, làm nhiều, đã hứa là làm, lời nói chỉ có giá trị khi được thể hiện
bằng những việc làm cụ thể; trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân
dân; luôn giữ chủ nghĩa cho vững. Trung thực của con người thể hiện rõ
nhất ở sự thật thà trong tự phê bình và phê bình, “dựa vào sự thực, phải đào
tận gốc rễ những khuyết điểm. Không nên thoa vẽ, che giấu. Không nên “ít
thít ra nhiều”, càng không nên nói việc nhỏ bỏ việc lớn, nói việc cũ quên
việc mới” [91, tr.359]. Thái độ tự phê bình và phê bình là tiêu chí đánh giá
sự thật thà, thẳng thắn ở mỗi người, nhất là cán bộ đảng viên. Trong kinh
doanh, đức tính trung thực, thật thà của thương nhân là cơ sở của lòng tin
đối với người tiêu dùng, khẳng định uy tín, thương hiệu sản phẩm đối với xã
hội, những hành vi “buôn lậu, trốn thuế, tổn hại cho công quỹ của Chính phủ
và những bà con buôn bán thật thà” [ 93, tr.297].
Trung thực theo Hồ Chí Minh là cơ sở của lòng tin giữa con người đối
với nhau, tạo nên hình ảnh đẹp của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Rèn
luyện đức tính trung thực cho người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ được Người
đặc biệt coi trọng. Trong Thư gửi các cháu và các cán bộ các chiến trường
miền Nam, nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi (1/6/1955), Hồ Chí Minh viết:
“Yêu quý các em, chúng ta phải lấy tinh thần dân chủ mới mà giáo dục các
em “5 điều yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học,
yêu quý của công… giúp cho nhi đồng phát triển sức khỏe và trí óc, thành
những trẻ em có “4 tính tốt”: hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà” [ 94,
67

tr.337]. Hồ Chí Minh phê phán gay gắt thói “hữu danh, vô thực”, làm việc
không thiết thực, hiệu quả ở một số cơ quan, đơn vị, chỉ quen “làm láo,
báo cáo hay”, “thành công ít, thì suýt ra nhiều. Còn khuyết điểm thì giấu đi,
không nói đến” [89, tr.341]. Người nghiêm khắc chỉ ra những hành vi gian
dối, thiếu trung thực của một số tập thể, cá nhân đã lập “quỹ đen” gây nên
tình trạng thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Cùng với trung thực, người Việt Nam rất coi trọng tinh thần trách
nhiệm, là một trong những tiêu chuẩn của nhân cách. Về điều này, có học giả
cho rằng, người Việt Nam luôn nhìn nhận con người ở bổn phận, trách
nhiệm với gia đình, làng xóm, Tổ quốc, đồng bào của mình, “dù cho họ có bị
thực dân Pháp cai trị, họ vẫn không thấy nhân cách người Pháp hơn họ. Họ
phải chịu thua vì súng đạn chứ không chịu kém về giá trị con người . Dù cho
họ thấy người Mỹ giàu có, nhưng họ vẫn không thấy người Mỹ hơn họ về
nhân cách. Họ theo một nhân cách mới mà họ thấy rõ ràng là cao hơn, đó là
nhân cách của những người cách mạng” [112, tr.134]. Theo Hồ Chí Minh, trách
nhiệm là nhận thức rõ việc cần phải làm, phải gánh vác hoặc nhận lấy về
mình. Trong xã hội, ai cũng cần có tinh thần trách nhiệm, bởi mỗi người đều
có một vị trí nhất định trong các mối quan hệ xã hội như: gia đình, dòng họ,
địa phương, tập thể, tổ chức chính trị - xã hội, công dân của một nước, thành
viên của cộng đồng dân tộc và rộng hơn nữa là của nhân loại. Trong các mối
quan hệ đó, trách nhiệm được hình thành trên cơ sở những quy định của luật
pháp, quy chế, thỏa thuận của tập thể, tổ chức, địa phương… Trách nhiệm
còn được hình thành do dư luận xã hội và bị chi phối bởi dư luận xã hội. Tinh
thần trách nhiệm là kết quả nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của con
người, từ đó chi phối hành động tích cực, tự giác của họ. Những người có
nhận thức và hành động như thế được gọi là có tinh thần trách nhiệm cao.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, mỗi người dân Việt Nam, dù ở bất kỳ vị trí nào
trong xã hội đều phải ý thức về công việc của mình một cách tự giác. Đối
68

với cán bộ, đảng viên, tinh thần trách nhiệm cao nhất là hết lòng, hết sức
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao
cho việc gì dù to hay nhỏ, dễ hay khó cũng sẵn sàng nhận với tinh thần vượt
mọi khó khăn, gian khổ. Trong thực hiện nhiệm vụ được giao phải "có gan
phụ trách", dám nghĩ dám làm, chủ động, sáng tạo để có kết quả cao nhất.
Nêu cao tinh thần trách nhiệm là phải làm tròn trách nhiệm của mình một
cách tự giác, theo lương tâm, lương tri, làm việc với tinh thần tự giác. Làm
việc cẩu thả, làm cho xong, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm
vậy là không có tinh thần trách nhiệm. Cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần
trách nhiệm luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa địa vị,
“giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất
phục”; không mắc phải những căn “bệnh” như: chủ nghĩa cá nhân, tham ô,
lãng phí, quan liêu và những biểu hiện tiêu cực khác.
Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đấu tranh giành tự do độc lập, tinh
thần trách nhiệm của mỗi người dân thể hiện ở việc xác định rõ bổn phận của
mình đối với Tổ quốc, bởi nước mất thì nhà tan, nước không được độc lập thì
dân cũng chẳng có tự do. Vì thế, trách nhiệm của mỗi người dân là phải đặt
“Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết”, tích cực tham gia vào sự nghiệp đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trách nhiệm của mỗi người dân thể hiện ở nêu cao tinh thần làm
chủ tập thể, dân làm chủ, dân là chủ, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; chấp hành tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi người dân, dù ở vị trí nào trong xã hội đều
nêu cao tinh thần trách nhiệm. Một xã hội mà trong đó, mỗi tập thể hay cá
nhân biết sống, làm việc có tinh thần trách nhiệm là một xã hội lành mạnh,
văn minh.
2.3.1.5. Cần cù, sáng tạo
69

Bằng phương pháp duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định rằng lao động đã sáng tạo ra bản thân con người; giá
trị đầu tiên trong lịch sử phát triển của con người là giá trị lao động, thông qua
lao động làm cho con người thoát khỏi thế giới loài vật; lao động tạo nên “tính
loài” của con người, đó chính là “tính người”; lao động là “lực lượng bản chất”
của con người - giá trị gốc của con người và cả loài người.
Đối với dân tộc Việt Nam, cần cù, chịu đựng gian khổ đã sớm trở
thành một trong những giá trị truyền thống tiêu biểu. Là quốc gia có nền văn
minh lúa nước lâu đời, Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi, song cũng mang
đến cho sứ sở này những hậu quả thiên tai khốc liệt. Vì thế mà quanh năm
suốt tháng, người dân Việt Nam phải lo đắp đập, đào mương lấy nước tưới,
đắp đê để phòng chống bão lụt. Khi nói về đức tính cần cù của người Việt,
Trần Văn Giàu cho rằng, người nước ngoài đến Việt Nam đều ngạc nhiên
khi thấy “mọi cơ năng của con người Việt Nam đều được dùng để làm việc:
đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như
bay” [44, tr.243]. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam luôn phải chịu sự xâm lăng của
các thế lực bên ngoài, mà bất cứ cuộc xâm lăng nào, bên cạnh những lý do
khác nhau, cũng đều là sự cướp bóc của cải, phá hoại mùa màng và các công
trình xây dựng… Để khắc phục hậu quả, người dân Việt Nam phải lao động
cần cù, đó là một yêu cầu tất yếu để bảo đảm sự sinh tồn của dân tộc. Đức
tính cần cù được biểu hiện sinh động trong văn hóa dân gian, ông cha ta
thường phê phán thói lười biếng, chỉ biết “ăn không ngồi rồi”, “ngồi mát ăn
bát vàng”; đồng thời, khuyên răn các thế hệ con, cháu rằng hãy chăm chỉ lao
động “năng nhặt chặt bị”, “kiến tha lâu đầy tổ”.
Kế thừa và phát triển sáng tạo giá trị truyền thống của dân tộc, khi nói về
vai trò của lao động, Hồ Chí Minh khẳng định: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc,
nhà ở, là nhờ lao động. Xây nên giàu có, tự do, dân chủ cũng là nhờ lao động.
70

Trí thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí thức). Vì vậy lao động là
sức chính của sự tiến bộ loài người. Cũng là sức mạnh của sự giải phóng dân
tộc” [89, tr.514]. Theo Người, cần cù nghĩa là “siêng năng, chăm chỉ, cố gắng
dẻo dai”, “việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm được” [90, tr.118]. Đức tính cần
cù của người Việt thể hiện ở sự siêng năng, chăm chỉ lao động, hăng hái tăng
gia sản xuất; coi lao động là niềm vui, nguồn sống, nguồn hạnh phúc, tạo ra của
cải vật chất, sự giàu có của xã hội; trong học tập, đức tính cần cù thể hiện ở sự
siêng năng học tập để nâng cao hiểu biết, siêng năng nghĩ ngợi để phát huy
sáng kiến. Theo Người, cần cù có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của cá nhân, gia đình và xã hội, “Người siêng năng thì mau tiến bộ/ Cả nhà
siêng năng thì chắc chắn ấm no/ Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh/ Cả
nước siêng năng thì nước mạnh giàu” [90, tr.119]. Hồ Chí Minh phê phán quan
điểm của Nho giáo, phân biệt giữa lao động trí óc với lao động chân tay, coi
trọng cần học hơn cần lao “Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao” (mọi
việc đều hèn kém, chỉ có đọc sách là thanh cao); đồng thời khẳng định rằng,
trong chế độ mới không có nghề nào là hèn kém, bất cứ ai, dù ở cương vị nào,
dù lao động bằng cơ bắp hay lao động bằng trí óc, nếu tạo ra sản phẩm có ích
cho xã hội đều được trân trọng như nhau.
Theo Hồ Chí Minh, cần cù là giá trị quý báu của dân tộc, song không
phải người Việt Nam nào cũng cần cù và không phải lúc nào cũng cần cù.
Người chỉ rõ, cần cù chỉ trở thành giá trị khi gắn với tiết kiệm, không hoang
phí. Chăm chỉ lao động mà không tiết kiệm thì làm được đồng nào xào đồng
ấy; tiết kiệm mà không chuyên cần thì không tăng thêm, không phát triển
được. Tiết kiệm ở đây không phải với nghĩa bủn xỉn, keo kiệt “xem đồng tiền
to bằng cái nống”, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không
tiêu, nhịn ăn, nhịn mặc, mà đó là sự tiêu dùng hợp lý. Đức tính tiết kiệm thể
hiện ở sự tiết kiệm về thời gian, sức lao động; tiết kiệm tiền của của Nhà
71

nước, của nhân dân, của bản thân, không gây lãng phí, thất thoát tài sản của
Nhà nước và nhân dân.
Cần cù còn phải gắn với liêm khiết, trong sạch, không tham lam; không
ham địa vị, tiền tài mà chỉ có những thứ ham như: ham học, ham làm, ham
tiến bộ. Cần cù gắn với “chuyên”, nghĩa là luôn giữ cho sức khỏe dẻo dai, bền
bỉ, “nếu một ngày cần mà mười ngày không cần, thì cũng vô ích. Như thế
chẳng khác gì một tấm vải phơi một hôm mà ngâm nước mười hôm, thì hoàn
toàn ướt” [90, tr.119-120]. Theo Người, siêng năng, chăm chỉ lao động một
cách vô thức, không hiệu quả chưa phải là “cần”, mà “cần” phải đi đôi với
tính có kế hoạch trong lao động, phân công một cách hợp lý trên cơ sở năng
lực, sở trường của mỗi người để đạt năng xuất cao nhất; lao động có kế hoạch
giúp con người tiết kiệm được thời gian và sức lực của mình. Cần cù không
có nghĩa là “làm xổi”, mà đòi hỏi mỗi người biết nuôi dưỡng tinh thần và sức
lực của mình để có thể làm việc và cống hiến lâu dài. Xây dựng xã hội mới,
con người mới phải lấy “cần” làm gốc.
Cần cù còn gắn với “chính”, là gốc rễ của “chính”. “Chính” nghĩa là
không tà, thẳng thắn, đúng đắn. Chính phải được thể hiện thông qua mối quan
hệ đối với mình, với người, với việc: Đối với mình, không tự cao, tự đại, chịu
khó học tập cầu tiến bộ; luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi
điều dở của bản thân. Đối với người, không nịnh hót người trên, không xem
khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà,
không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, phải để việc công trên trên việc tư; người
“chính” thấy việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, thấy việc ác dù nhỏ mấy cũng
tránh. Bốn đức “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính” không thể thiếu trong nhân
cách con người, nhất là cán bộ đảng viên, cũng giống như bốn mùa của trời,
bốn phương của đất vậy.
72

Theo Hồ Chí Minh, cần cù lao động gắn liền với sự sáng tạo để đạt
năng suất cao, chứ không phải với nghĩa “cần cù bù thông minh”. Người chỉ
rõ, “lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao động bán thân bất
toại” [95, tr.400], cần cù, siêng năng là mảnh đất màu mỡ để sáng kiến, tài
năng trong mỗi người nảy nở; cần cù mà không sáng tạo, tính tốt thậm chí
trở thành có hại. Sự sáng tạo đòi hỏi mỗi người không chịu dừng bước trên
con đường cải tiến kỹ thuật; không giẫm chân một chỗ trong vũng lầy bảo
thủ, trì trệ mà phải luôn đổi mới. Theo Người, sáng kiến, kinh nghiệm trong
lao động sản xuất, chiến đấu là giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, cần
ra sức làm cho nó dồi dào và lan rộng mãi, “sáng kiến và kinh nghiệm cũng
như những con suối nhỏ chảy vào sông to, những con sông to chảy vào biển
cả. Không biết quý trọng sáng kiến và phổ biến kinh nghiệm là lãng phí của
dân tộc” [91, tr.404]. Sáng kiến không chỉ thể hiện ở những công trình phát
minh vĩ đại, mà có thể chỉ là những kết quả nghiên cứu, suy nghĩ trong
những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, rất bình thường nhưng tạo ra nhiều
sản phẩm có ích cho xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, con người muốn có tư duy sáng tạo cần có tri
thức. Tri thức nghĩa là sự hiểu biết, mà “trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu
biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra.
Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó
mà ra” [89, tr.275]. Tri thức có vai trò quan trọng tạo nên giá trị của mỗi con
người. Có tri thức, đầu óc con người ta luôn trong sáng, không mù quáng, dễ
hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, biết xét việc; tri thức giúp
con người thoát khỏi hành động bản năng, nâng cao bản chất người, giúp con
người có hành vi ứng xử đúng đắn đối với tự nhiên và trong các mối quan hệ
xã hội. Vì thế, Người yêu cầu mỗi người dân Việt Nam cần ra sức học tập,
nâng cao trình độ học vấn với tinh thần chăm chỉ, nghiêm túc, học ở mọi lúc,
73

mọi nơi, không tự kiêu, tự mãn; học ở trong sách vở, học ở nhân dân, học từ
trong thực tiễn cuộc sống; học để làm việc, làm người, làm cán bộ; học để
phụng sự Tổ quốc, dân tộc và nhân loại.
2.3.2. Phương pháp phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
2.3.2.1. Thông qua giáo dục và tự giáo dục giá trị
Để xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam, theo Hồ Chí
Minh, trước hết thông qua giáo dục. Theo Người, giáo dục là một trong ba lĩnh
vực chủ yếu của văn hóa có vai trò quan trọng quyết định sự phát triển xã hội nói
chung, nhân cách con người nói riêng. Đối với xã hội, giáo dục góp phần vào sự
nghiệp đấu tranh “phò chính trừ tà” và chấn hưng đất nước. Người cho rằng dốt
nát cũng là một kẻ địch, “địch dốt nát tấn công ta về mặt tinh thần, cũng như
địch ngoại xâm tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để
thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta
vào nơi mù quáng” [89, tr.469]. Đối với cá nhân, thông qua giáo dục mà tiếp
nhận tri thức của nhân loại để hình thành và phát triển nhân cách. Trong nhà tù
của Tưởng Giới Thạch, Người từng viết: “Lúc ngủ, mọi người đều có vẻ thuần
hậu/ Tỉnh dậy, mới phân biệt rõ người thiện kẻ ác/ Thiện, ác vốn chẳng phải là
bản tính cố hữu/ Phần lớn đều do giáo dục mà nên” [87, tr.413] (dịch ra có nghĩa
là: Ngủ thì ai cũng như lương thiện/ Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền/ Hiền, dữ phải
đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên).
Con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của giáo dục. Chỉ có ở con
người và trong xã hội loài người mới có hoạt động giáo dục. Con người sở dĩ
trở thành con người - xã hội, thoát khỏi thế giới bản năng của loài vật là nhờ
phần lớn ở giáo dục, là sản phẩm của giáo dục; đến lượt mình, con người lại
tác động tới quá trình giáo dục, làm cho hoạt động giáo dục của con người
càng trở nên có văn hóa. Vì thế, con người là chủ thể sáng tạo của giáo dục,
đồng thời cũng là sản phẩm của giáo dục, là đại biểu mang giá trị văn hóa do
chính con người sáng tạo ra. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của giáo dục là
74

nhằm đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng; giáo dục còn có nhiệm vụ phát huy những
giá trị của con người, để “mỗi người dân luôn luôn tự hỏi: Tôi phải làm gì để
thực hiện lòng yêu nước, ghét địch? Lúc đó mới là lúc tư tưởng yêu nước
thấm nhuần cả mọi người, và mọi người muốn hành động một cách thực tế”
[91, tr.188]. Hồ Chí Minh tin rằng, trong bản thân mỗi người dù tốt hay xấu,
dù cao cả hay thấp hèn thì đều có giá trị cốt lõi là nhân tính. Do đó, cần khơi
dậy nhân tính trong con người thông qua quá trình giáo dục.
Hồ Chí Minh coi trọng vai trò và mối quan hệ tương tác giữa giáo dục
gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, gia đình là nền móng của nhân cách,
là trường học đầu tiên để từ đó con người bước vào đời. Vì thế, phải “quan
tâm đến gia đình… nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình.
Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”
[96, tr.300]. Thông qua giáo dục của gia đình, hình thành ở trẻ lòng yêu Tổ
quốc trước hết từ tình yêu quê hương, gia đình, tình thương yêu những người
thân ruột thịt; có trách nhiệm với gia đình, đoàn kết, thật thà, dũng cảm, yêu
lao động. Cùng với gia đình, nhà trường có nhiệm vụ giáo dục, định hướng
giá trị cho thế hê ̣ trẻ, hình thành, phát triển những phẩm chất cần thiết như:
yêu nước, đoàn kết, hiếu học, cần cù, sáng tạo… Nội dung giáo dục con
người phải toàn diện bao gồm có cả đức, trí, thể, mỹ, nhằm hình thành ở thế
hệ trẻ một cấu trúc nhân cách bao gồm cả “đức” lẫn “tài”, trong đó lấy “đức”
làm gốc. Để giáo dục, định hướng giá trị của con người, Hồ Chí Minh coi
trọng vai trò của đội ngũ thầy cô giáo, coi họ là những người chiến sĩ trên mặt
trận tư tưởng văn hóa, không có thầy cô giáo thì không có giáo dục. Thầy cô
giáo có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ
thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ
những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và
75

tiến bộ của xã hội. Muốn vậy, thầy cô giáo trước hết phải được giáo dục, trở
thành những nhà giáo dục, là tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục gia đình và giáo dục ở nhà trường có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tác động trực tiếp đến sự hình thành, phát triển
nhân cách đứa trẻ. Người khẳng định: “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình
dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng
không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn
thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau” [96, tr.76-77]. Cùng
với đó, cần xây dựng môi trường xã hội ngày một văn minh, trong đó các
quan hệ xã hội phát triển lành mạnh; xây dựng lối sống mới, nếp sống mới bắt
đầu từ những điều cơ bản nhất nhưng cũng đơn giản nhất mà mọi người đều
phải thực hành đó là ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc, sinh hoạt văn hóa... Những
hành vi, thói quen lâu dần trở thành tập tục trong sinh hoạt văn hóa, nếu tiến
bộ sẽ có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển hệ giá trị của con người, trái
lại sẽ kìm hãm, thậm chí làm nảy sinh nhiều yếu tố phi giá trị.
Trong giáo dục giá trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến phương pháp nêu
gương đạo đức. Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam nói riêng,
phương Đông nói chung rất coi trọng phương pháp nêu gương trên tinh thần
“Dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” (nghĩa là, trước hết phải giáo dục bằng
tấm gương sống của mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói). Kế thừa, phát
triển sáng tạo tư tưởng đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, đặc điểm tâm lý của các dân
tộc phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng rất giàu tình cảm, “đối với
họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền” [85, tr.284]. Vì thế, giáo dục con người bằng phương pháp nêu gương
là rất cần thiết. Thực hành phương pháp nêu gương, Hồ Chí Minh yêu cầu ở
trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho con cái, anh chị là tấm gương đối với
các em; ở nhà trường, thầy cô giáo là tấm gương cho học trò; ở ngoài xã hội,
cấp trên là tấm gương cho cấp dưới; đảng viên là tấm gương cho quần chúng
76

nhân dân, biết “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”. Bởi vì theo Người, “Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước”. Muốn nêu gương, trước hết bản thân mỗi người phải
trở thành tấm gương sáng trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, trong lối sống
và cách ứng xử, từ lời nói đến việc làm. Thông qua những tấm gương đạo
đức sẽ góp phần lan tỏa sâu rộng, lôi cuốn mọi người tham gia, khơi dậy
những phẩm chất tốt đẹp trong con người Việt Nam mà bản thân Hồ Chí
Minh là một mẫu mực. Chính tấm gương đạo đức “trong như ngọc, sáng như
Sao Khuê” của Người đã có sức hấp dẫn, cảm hóa trong toàn xã hội, hình
thành nên những thế hệ cán bộ đảng viên mang trong mình phẩm chất tốt
đẹp của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới, con người mới.
Hồ Chí Minh rất coi trọng tự giáo dục giá trị. Tự giáo dục là quá trình
con người tự ý thức về sự cần thiết phải giáo dục, từ đó tự giác tiếp thu, lĩnh
hội tri thức nhân loại. Giáo dục là quá trình hai mặt: Một mặt đó là sự tác động
từ bên ngoài vào đối tượng; mặt khác, đó là đối tượng tự rèn luyện, tự hoàn
thiện bản thân mình. Lịch sử phát triển của nhân loại từng có nhiều tấm gương
lấy tự giáo dục mà thành nhân. Chẳng hạn như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
ông từng dạy các đệ tử rằng “hãy đốt đuốc lên mà đi”, hay những thành công
trong khoa học của Albert Einstein cũng là nhờ sự say mê tìm tòi và nghiên
cứu. Trong tiếp thu, lĩnh hội tri thức của nhân loại, yếu tố có ý nghĩa quyết định
thuộc về mỗi cá nhân. Chỉ khi nào con người tự ý thức được nhu cầu cần thiết
để hoàn thiện bản thân, mới biến thành những sở thích, niềm đam mê tìm tòi,
nghiên cứu, tự giáo dục, tự rèn luyện mà không cần đến sự tác động của các
nhân tố khách quan bên ngoài. Trong các phương thức giáo dục, tự giáo dục là
con đường ngắn nhất để hoàn thiện bản thân, cho phép khai thác tối đa tiềm
năng sáng tạo của con người.
77

Theo Hồ Chí Minh, muốn hoàn thiện nhân cách, đòi hỏi mỗi cá nhân
nhận thức về sự cần thiết của tự giáo dục, tự rèn luyện; phải nhận thấy “kẻ
địch trong mình ta nó mạnh lắm… nó vô hình, vô ảnh, không dàn ra thành
trận, luôn luôn lẩn lút trong mình ta. Nó khó thấy, khó biết, nên khó tránh.
Nhưng đã biết việc phải thì kiên quyết làm” [92, tr.99]; xác định rõ động cơ
học tập đúng đắn: học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách
mạng, học để làm người... Trong quá trình giáo dục phải coi trọng kết hợp
giữa giáo dục và tự giáo dục, trong đó “lấy tự học làm cốt”; nêu cao tác phong
độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng; thực hành tự giáo dục theo chuẩn mực xã
hội phải thường xuyên, liên tục, ở mọi nơi, mọi chỗ, học ở trường, học trong
sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân.
Từ triết lý “tu thân” của Nho giáo, Người cho rằng, muốn cải tạo xã hội,
trước hết bản thân phải tự cải tạo để sửa đổi nếp nghĩ, thói quen cũ, lạc hậu,
thay vào đó bằng những tư tưởng tiến bộ. Tuy nhiên, “tu thân” ở đây, không
phải với nghĩa “đóng cửa tu thân”, mà được thể hiện thông qua hoạt động
học tập, lao động sản xuất, chiến đấu... Tự giáo dục theo chuẩn mực xã hội
cũng như vậy, đòi hỏi mỗi người phải xem đó là cuộc cách mạng trong bản
thân mình, nhằm đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới;
phải có quyết tâm cao độ, sự khổ công rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển, củng cố cũng như “mài ngọc, luyện vàng” vậy.
Để phương pháp giáo dục và tự giáo dục trở nên có ý nghĩa, quyết định
sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai
trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực phát triển văn
hóa nói chung, văn hóa giáo dục nói riêng. Trong mọi thời kỳ của cách mạng,
con người phải luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển
văn hóa. Nhiệm vụ của văn hóa là phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng,
phù hoa, xa xỉ; văn hóa phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự do, độc lập.
Người coi xây dựng con người là một chiến lược lâu dài - chiến lược “trồng
người”; chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển con người như chăm sóc, vun trồng
78

cây cối quý báu. Xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người phải có bước
đi, biện pháp thích hợp, đỏi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhằm mục tiêu xây dựng con người Việt
Nam vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng.
2.3.2.2. Thông qua các cuộc vận động, phong trào xã hội
Theo Hồ Chí Minh, phát huy những giá trị truyền thống của con người Việt
Nam cần thông qua các cuộc vận động, phong trào xã hội có sức hấp dẫn và lan
tỏa sâu rộng. Các cuộc vận động, phong trào xã hội càng rộng lớn, thu hút nhiều
người tham gia bao nhiêu thì các giá trị truyền thống của dân tộc càng được bảo
tồn và phát huy mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước bấy nhiêu. Vì thế, sau khi Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ phát động phong
trào Sẻ cơm nhường áo, Hũ gạo tiết kiệm, Ngày đồng tâm… mà bản thân Hồ
Chí Minh là tấm gương mẫu mực trong thực hành. Theo Người, thông qua các
phong trào mang tính nhân văn này không chỉ góp phần giải quyết những khó
khăn trước mắt bởi nạn đói, mà điều quan trọng hơn là khơi dậy và phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp như: đoàn kết, tương thân, tương ái… vốn có
của dân tộc.
Nhằm phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, Hồ
Chí Minh phát động phong trào xây dựng Đời sống mới. Theo Người, “đời
sống mới” không phải là cái gì cao xa, mà đó là “sửa đổi những việc rất cần
thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn,
cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc” [89, tr.113]. Người đưa ra những
quan điểm chỉ đạo xây dựng đời sống mới trên bình diện cộng đồng (đời
sống chung) và đời sống mới ở phạm vi cá nhân (đời sống riêng). Đời sống
mới bao gồm: Đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba mặt đó có
quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức là “gốc”, là giá trị cốt lõi của
con người. Đạo đức phải được thể hiện trong lối sống và nếp sống; là cơ sở để
xây dựng lối sống và nếp sống mới lành mạnh hơn, hướng con người vươn tới
79

tầm cao văn hóa. Xây dựng đạo đức mới được tiến hành đồng thời với xây
dựng lối sống và nếp sống mới. Mỗi tập thể, cá nhân, tùy thuộc vào vị trí, vai
trò của mình trong xã hội mà thực hành đời sống mới cho hợp; thực hiện nếp
sống có văn hóa, từ bỏ những phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu. Xây
dựng nếp sống mới thông qua các cuộc vận động, phong trào xã hội phải
thường xuyên, liên tục, tránh kiểu “đầu voi, đuôi chuột”. Phong trào xây dựng
“Đời sống mới” đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần phát triển những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời khắc phục, tiến tới loại bỏ
những mặt hạn chế, tiêu cực trong con người Việt Nam.
Nhằm phát huy giá trị truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, ý thức
trách nhiệm… của mỗi người dân, Hồ Chí Minh phát động phong trào “Thi
đua yêu nước” vào giữa năm 1948. Người chỉ rõ: “Tư tưởng yêu nước phải tỏ
ra trong công việc thực tế… phải sửa đổi ít nhiều trong công việc thi đua, làm
cho phong trào thi đua sâu hơn và thiết thực hơn nữa” [91, tr.188]; thi đua ái
quốc phải có phương hướng đúng và vững, góp phần nâng cao lòng yêu nước
nồng nàn, sự giác ngộ chính trị của người dân. Đã là người Việt Nam yêu nước
thì phải hăng hái thi đua và những người hăng hái thi đua là những người yêu
nước nhất. Thi đua yêu nước không dừng lại ở trong tư tưởng, lời nói, ở những
khẩu hiệu hành chính, mà được thể hiện bằng những hành vi cụ thể, thiết thực.
Điều quan trọng là phải làm cho mỗi người dân hăng hái thi đua yêu nước, diễn
ra ở tất cả các ngành, các địa phương. Nông dân thi đua chăn nuôi, trồng trọt
tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội để nuôi sống bản thân, gia đình và đóng
góp nghĩa vụ cho Nhà nước. Công nhân hăng hái thi đua phát huy sáng kiến,
cải tiến sản xuất, tăng năng xuất lao động. Bộ đội hăng hái thi đua giết giặc lập
công. Giới văn nghệ sỹ thi đua sáng tác những tác phẩm hay, có tác dụng giáo
dục, cổ vũ tinh thần dân tộc, đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Cán bộ viên chức hăng hái thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính, ý thức,
tinh thần trách nhiệm trong công việc.
80

Hưởng ứng phong trào “Thi đua yêu nước” do Hồ Chí Minh và Đảng
ta phát động, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, cả nước dấy lên nhiều phong trào thi đua sôi nổi, diễn ra ở hầu khắp
các ngành, các địa phương, các tầng lớp nhân dân. Tiêu biểu trong phong
trào thi đua phải kể đến: “Đại phong” trong nông nghiệp, “Duyên Hải”
trong công nghiệp, “Thành công” trong thủ công nghiệp, “Hai tốt” trong
đội ngũ giáo viên và học sinh, “Ba nhất” trong quân đội, “Ba đảm đang” ở
tầng lớp phụ nữ, “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, “Nghìn việc tốt” trong
thiếu niên và nhi đồng… Qua các phong trào thi đua yêu nước đã xuất hiện
nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu đã được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu
“Anh hùng lao động”, “Chiến sỹ thi đua” như: 10 nữ thanh niên xung phong
hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh); 12 nữ chiến sĩ “Tiểu đội thép” anh
dũng hy sinh ở Truông Bồn (Nghệ An); Anh hùng Trịnh Tố Tâm với 53 lần
được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”; Anh hùng Lê Mã Lương với câu nói
nổi tiếng “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến diệt quân thù”; các anh hùng
liệt sĩ: Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Trỗi, Đặng Thùy Trâm; Anh hùng
Lao động Hồ Giáo và nhiều tấm gương sáng ngời khác. Phong trào “Thi đua
yêu nước” do Hồ Chí Minh và Đảng ta phát động đã góp phần phát huy
nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, được thể hiện sinh động ở
trong học tập, lao động sản xuất, chiến đấu; góp phần tích cực vào thắng
lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới xã
hội chủ nghĩa.
Cùng với phong trào thi đua yêu nước, Hồ Chí Minh phát động phong
trào “Người tốt, việc tốt”, nhằm phát hiện những tập thể, cá nhân tiêu biểu
trong học tập, lao động sản xuất và chiến đấu, tôn vinh những giá trị tích cực.
Người khẳng định: tấm gương “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có.
Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có” [99, tr.663]. Những
việc làm tưởng chừng như rất nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày nhưng vô
81

cùng ý nghĩa, đều nói lên tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, thuần phong
mỹ tục của nhân dân ta. Họ là những bông hoa đẹp trong vườn hoa chung của
dân tộc. Lấy những tấm gương người tốt, việc tốt để “hàng ngày giáo dục lẫn
nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức
cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” [99, tr.672]. Nhận thức
rõ điều đó, ngay từ năm 1959, Hồ Chí Minh đã yêu cầu báo của Đảng và của
các đoàn thể mở ra mục “Người mới, việc mới” để song hành cùng với các
phong trào thi đua yêu nước đang diễn ra sôi nổi ở các cấp, các ngành, các địa
phương. Sau này, Hồ Chí Minh chủ trương viết sách về người tốt, việc tốt cho
phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Qua các phương tiện thông tin
như báo, đài… Người phát hiện những tấm gương người tốt, việc tốt của tập
thể và các cá nhân để gửi thư hoặc tặng quà. Đã có gần 4.000 huy hiệu Bác
Hồ được Người trao tặng trong phong trào “Người tốt, việc tốt”; Người tập
hợp gương người tốt, việc tốt, yêu cầu cho in thành sách để tôn vinh và nhân
rộng những giá trị tốt đẹp trong xã hội.
Các cuộc vận động, phong trào thi đua do Hồ Chí Minh và Đảng ta
phát động có sức sống và lan tỏa sâu rộng những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc trong cộng đồng, góp phần hình thành nên phẩm chất tốt
đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa: Đó là những con người có lý
tưởng xã hội chủ nghĩa; có năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân;
biết đặt lợi ích của cá nhân trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích của tập
thể; không ngại khó, ngại khổ, không sợ hy sinh; không tranh giành địa vị,
không tự kiêu, tự mãn, tự tư tự lợi, luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”. Thông qua phong trào “Thi đua yêu nước”, mỗi người dân có cơ hội
thể hiện lòng yêu nước của mình bằng những cách khác nhau, bằng những
hành động cụ thể, thiết thực; đồng thời, khơi dậy và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn, góp phần
82

quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Để các cuộc vận động, phong trào thi đua có sức hấp dẫn và lan tỏa sâu
rộng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong nhiệm vụ xây dựng
con người, đó là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định. Việc xây dựng,
phát triển hệ giá trị của con người “cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến
trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre
gỗ... mà xây nên” [99, tr.665]; cần có hình thức, bước đi thích hợp; t ăng
cường tuyên truyền, giáo dục, vận động cán bộ đảng viên và quần chúng
nhân dân hăng hái tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua. Kịp
thời phát hiện những gương người tốt, việc tốt để nhân rộng trong toàn xã
hội. Những gương người tốt, việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để
xây dựng con người. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ
đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo
dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Cùng với đó, cần
coi trọng tổng kết, đánh giá quá kết quả của phong trào, từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm. Người chỉ rõ, “Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng
kết, phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những
người kém cỏi” [91, tr.146]. Trong một nước, việc thưởng, phạt nghiêm minh
thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành
công. Việc thưởng, phạt nghiêm minh, kịp thời sẽ có tác dụng khuyến khích
mọi người dân hăng hái tham gia phong trào thi đua, phấn đấu làm tròn nhiệm
vụ được giao. Ngoài việc biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các cá nhân
điển hình tiên tiến được xây dựng, bình chọn từ các cấp, các ngành, các địa
phương, còn phải biểu dương, khen thưởng kịp thời những gương người tốt,
việc tốt trong cuộc sống hằng ngày nhằm góp phần động viên, khích lệ hàng
nghìn gương người tốt, việc tốt khác.
83

2.3.2.3. Khắc phục, hạn chế sự phát triển các yếu tố phi giá trị của
con người Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, để góp phần phát những giá trị của con người Việt
Nam, cần phải khắc phục, hạn chế những yếu tố phi giá trị, những biểu hiện tiêu
cực, thói xấu trong nếp nghĩ, thói quen, phong cách, lối sống của người Việt,
nhất là những hành vi tiêu cực, thói xấu sau đây:
Một là, chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh được sinh ra từ một xã hội nông nghiệp, từ tính
tư hữu của những người nông dân cùng với chế độ thực dân, phong kiến làm
cho đặc tính ấy phát triển thành chủ nghĩa cá nhân. Người mang tư tưởng cá
nhân chủ nghĩa chỉ chăm lo cho lợi ích riêng của mình, gia đình mình mà
không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể, miễn là “mình béo, mặc thiên
hạ gầy”. Chủ nghĩa cá nhân được Người ví giống như “cỏ dại”, như một loại
“vi trùng” độc hại gây ra nhiều căn bệnh: lười biếng, kèn cựa, công thần địa
vị, hiếu danh và nhiều căn bệnh khác.
Chủ nghĩa cá nhân sinh ra tệ tham ô, lãng phí, quan liêu. Đó là hành
động trộm cắp của công, biến của công làm của tư, là hành vi xấu xa, đê tiện
nhất trong xã hội. Nó giống như cái “ung nhọt” trên cơ thể con người, là căn
bệnh nguy hiểm có sức phá hoại ghê gớm hoạt động của bộ máy nhà nước và
đạo đức xã hội, nhất là cán bộ đảng viên. Tham ô, lãng phí sinh ra từ thói
quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát thực tế cơ sở. Người mắc bệnh
quan liêu sẽ dẫn đến tình trạng có mắt mà không trông thấy, có tai mà không
nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Ở
đâu có bệnh quan liêu thì ở đó có tệ tham ô, lãng phí; bệnh quan liêu càng
nặng thì lãng phí, tham ô càng nhiều.
Hai là, tư tưởng hẹp hòi, bè phái, óc địa phương chủ nghĩa là một trong
những thói xấu của người Việt, có sức phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chính
quyền, đoàn thể: Ở trong Đảng, tư tưởng hẹp hỏi, bè phái thường dẫn đến tình
trạng “cánh hẩu” với nhau, “ai hợp tác với mình thì dù người xấu cũng cho là
tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai
84

không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở,
rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống” [89, tr.297],
gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Đảng và bộ máy chính quyền nhà
nước; ở ngoài xã hội, tư tưởng hẹp hòi, bè phái khiến con người ta chỉ nhìn
thấy cái lợi trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài, dẫn đến cục bộ địa
phương chủ nghĩa, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, mất đoàn kết
giữa cơ quan này với cơ quan khác, giữa địa phương này với địa phương
khác. Tư tưởng hẹp hòi, bè phái, óc địa phương chủ nghĩa ở phạm vi nhỏ thì
cản trở sự phát triển của cá nhân, cơ quan, đơn vị; ở phạm vi lớn hơn thì ảnh
hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Ba là, thói cào bằng, đố kỵ là thói xấu của người Việt được sinh ra từ
đặc trưng tính cộng đồng làng xã. Quan niệm của người Việt xưa là “xấu đều
hơn tốt lỏi”, “khôn độc không bằng sống đàn”, “con gà tức nhau tiếng gáy”…
vẫn còn tồn tại ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, được biểu hiện ở tư
tưởng bình quân chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cào bằng” khác với “công
bằng” ở chỗ, “cào bằng” là sự chia đều bằng nhau, ai cũng như ai, còn “công
bằng” là sự phù hợp giữa cống hiến với hưởng thụ. Người nêu ví dụ: “Bác
yếu chỉ ăn ba bát cơm, chú khỏe cần nhiều hơn mà cũng ăn ba bát, chú lùn
cũng đòi may áo dài, Bác cao hơn cũng mặc áo dài như chú” [92, tr.387]. Cào
bằng làm triệt tiêu tài năng, sức sáng tạo và cống hiến của con người, kìm
hãm sự phát triển xã hội. Người phê phán gay gắt thói đố kỵ (tỵ nạnh) của
người Việt, “Cái gì cũng muốn “bình đẳng”./Thí dụ: Cấp trên vì công việc
phải cưỡi ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe…/Phụ cấp cho
thương binh cũng muốn nhất luật, không kể thương nặng hay nhẹ./ Làm việc
gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu đều làm bằng nhau./ Có việc một người làm
cũng được, nhưng cũng chờ có đủ mọi người mới chịu làm./ Bệnh này sinh ra
vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng" [89, tr.300].
Bốn là, “bệnh” thành tích, ham chuộng hình thức. Theo Hồ Chí Minh,
đây là căn “bệnh” được sinh ra từ tính sĩ diện, háo danh, trong môi trường
cộng đồng cào bằng, không muốn cho ai ngoi lên. Bệnh thành tích thường
85

xuất hiện ở các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, “thành công ít thì suýt ra nhiều.
Còn khuyết điểm thì giấu đi không nói đến. Thành thử cấp trên không hiểu rõ
tình hình mà đặt chính sách cho đúng” [89, tr.341-342]. Bệnh thành tích, ham
chuộng hình thức sinh ra thói “hữu danh, vô thực”, làm việc không thiết thực,
hiệu quả. Người phê phán tình trạng một số cơ quan, đơn vị, địa phương “làm
láo, báo cáo hay”, nhưng “khi soạn lại cặn kẽ, hỏi lại rõ ràng, những nơi đó có
bao nhiêu người, những tổ chức đó đã làm việc gì, cán bộ đã đến đó mấy lần,
đã làm gì cho những tổ chức đó, thì chưa có gì thiết thực hết” [89, tr.297].
Để khắc phục, hạn chế sự phát triển của các yếu tố tiêu cực trong con
người Việt Nam, trước hết là chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí, quan liêu,
Hồ Chí Minh coi trọng tuyên truyền, giáo dục để mỗi người dân nêu cao tinh
thần tập thể, mình vì mọi người, mọi người vì mình, loại bỏ tư tưởng cá nhân
chủ nghĩa trong đầu óc mỗi người. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân chứ
không giày xéo lên lợi ích cá nhân, vì “mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những
lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu” [95,
tr.610]. Không những thế, cần tôn trọng và đề cao quyền của con người trên
cơ sở phát huy năng lực, sở trường của mỗi cá nhân vì sự phát triển chung của
xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể: đặt lợi ích cá nhân trong lợi ích tập thể, là bộ phận của lợi ích tập thể. Chỉ
khi nào lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích của cá nhân mới có
điều kiện được thỏa mãn. Người đặc biệt nhấn mạnh “xây” cần đi đôi với
“chống” trong xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người. Xây dựng những
phẩm chất tốt đẹp trong con người Việt Nam gắn liền với chống lại gì đã cũ kỹ,
hư hỏng, những thói hư, tật xấu. Bởi lẽ, mỗi con người đều có “thiện” và “ác”,
“tốt” và “xấu” trong lòng, điều quan trọng là phải làm cho cái “thiện”, cái “tốt”
trong mỗi con người nảy nở, phát triển để lấn át, đẩy lùi những cái “ác”, cái
“xấu”, chứ không phải đập cho tơi bời, không phải vùi dập con người, mà
hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ.
86

Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò điều chỉnh của pháp luật nhằm ngăn
ngừa sự phát triển của những yếu tố tiêu cực, phi giá trị trong con người Việt
Nam. Ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam
(Revendication du people Annamite) gửi đến Hội nghị Vecsai, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội
ở Đông Dương và đề nghị Chính phủ Pháp cần cải cách nền pháp lý ở Đông
Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo
về mặt pháp luật như người Âu châu và thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế
độ ra các đạo luật. Sau này, trong tài liệu viết tay với tựa đề Việt Nam yêu cầu
ca, Người khẳng định: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần
linh pháp quyền” [85, tr.473].
Quan điểm “thần linh pháp quyền” trong quản lý xã hội luôn nhất quán
trong tư duy Hồ Chí Minh. Ngay sau khi nước nhà độc lập, Người ký ban
hành Sắc lệnh thành lập Ủy ban thanh tra đặc biệt và Tòa án đặc biệt (Cụ Bùi
Bằng Đoàn là cựu Thượng thư Bộ hình thời chính quyền Nhà Nguyễn được
mời tham gia vào Ủy ban thanh tra đặc biệt. Còn Tòa án đặc biệt thì do Chủ
tịch nước trực tiếp làm Chánh án, Bộ trưởng nội vụ làm hội thẩm). Hai cơ
quan này thực hiện chức năng "thần linh pháp quyền" để kiểm soát bộ máy
hành chính, đảm bảo tính dân chủ và nghiêm minh. Trong Thư gửi Ủy ban
nhân dân các kỳ, tỉnh huyện và làng, tháng 10/1945, Hồ Chí Minh cảnh báo
sáu lỗi lầm rất nặng dễ xảy ra như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng - kéo bè
kéo cánh, chia rẽ, kiêu ngạo… và yêu cầu “ai không phạm những lầm lỗi trên
này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những
lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính
phủ sẽ không khoan dung” [88, tr.66]. Trong Quốc lệnh, viết vào đầu năm
1946, Người nêu ra mười điểm thưởng cho những gia đình, tập thể và cá nhân
có thành tích như: có 3 con tòng quân/ lập được quân công/ vì nước hy sinh/
ra trận can đảm phi thường/ làm việc công một cách trong sạch, ngay thẳng/
làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục/ bỏ tiền
ra xây đắp cầu cống, đê, đường/ bắt được những kẻ phản quốc/ liều mình về
87

việc công/ cứu được người bị nạn. Bên cạnh mười điểm thưởng, có mười
điểm phạt với cùng hình thức xử tử áp dụng cho các tội: thông với giặc, phản
quốc/ trái quân lệnh/ ra trận tự ý rút lui/ phá hoại giao thông/ phá hoại quân
khí/ để cho bộ đội hại dân/ vô cớ sát hại kiều dân ngoại quốc/ trộm cắp của
công/ hãm hiếp, cướp bóc/ can tội bắt cóc, ám sát [88, tr.189-190]. Là lãnh tụ
của dân tộc, trong thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh giàu
lòng nhân ái, vị tha, song cũng sẵn sàng xử lý rất nghiêm khắc những hành vi
xâm hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của tập thể và của nhân dân, nhất là hành
vi tham ô, lãng phí.
Theo Người, muốn khắc phục tư tưởng hẹp hòi, bè phái, óc địa phương
chủ nghĩa, cần phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, tôn trọng,
tin tưởng ở con người; giáo dục để mỗi người dân Việt Nam biết đặt lợi ích
tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Khắc phục thói cào bằng, đố kỵ bằng những
cơ chế, chính sách đúng đắn, nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi
với nghĩa vụ, trách nhiệm của người dân; thực hiện dân chủ, công bằng, bình
đẳng trong phân phối sản phẩm lao động và cơ hội phát triển, trên nguyên tắc
ai làm nhiều thì được hưởng nhiều, ai làm ít thì được hưởng ít, không làm thì
không hưởng, trừ những đối tượng ưu tiên thuộc diện chính sách xã hội.
Để chống bệnh thành tích, ham chuộng hình thức, Hồ Chí Minh yêu
cầu cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, khi xây dựng chương trình, kế
hoạch hoạt động cần hết sức cụ thể, thiết thực, trên tinh thần tiết kiệm; thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, bám sát cơ sở; chống bệnh quan liêu, thói “ba hoa”
chỉ quen “nói suông” ngồi nghe báo cáo, viết mệnh lệnh, mà phải thật thà
nhúng tay vào việc. Người chỉ rõ, đấu tranh chống đế quốc, phong kiến đã
khó, nhưng đấu tranh chống những thói hư, tật xấu trong mỗi con người còn
khó hơn nhiều, bởi lẽ “kẻ thù” trong mỗi con người luôn vô hình, vô ảnh, ăn
sâu vào nếp nghĩ, thói quen, dần trở thành phong cách, lối sống người Việt thì
không dễ dàng thay đổi, muốn thắng lợi rất cần sự nỗ lực và quyết tâm của cả
hệ thống chính trị, đặc biệt là ý thức tự giác của mỗi người dân.
88

Tiểu kết chương 2

Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam hình
thành là sản phẩm của sự tác động biện chứng giữa nhân tố khách quan với
nhân tố chủ quan; là kết quả sự kế thừa và phát triển sáng tạo giá trị truyền
thống dân tộc Việt Nam; tiếp thu tư tưởng về giá trị con người ở phương
Đông, phương Tây, trong đó chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan
trọng quyết định. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt
Nam được hình thành từ trải nghiệm, khảo sát thế giới; từ thực tiễn lãnh đạo
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như từ phẩm chất
cá Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử
đã hun đúc nên nhiều giá trị truyền thống quý báu, tiêu biểu là: Yêu nước,
tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù,
sáng tạo. Những giá trị đó tạo nên bản sắc văn hóa, con người Việt Nam, tạo
nên sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Để phát
triển giá trị của con người Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ ra các phương pháp
chủ yếu: Thông qua giáo dục và tự giáo dục giá trị; thông qua các cuộc vận
động, phong trào xã hội; khắc phục, hạn chế sự phát triển các yếu tố phi giá
trị của con người Việt Nam.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt
Nam có giá trị lý luận to lớn, phản ánh mối liên hệ biện chứng giữa truyền
thống với hiện đại, giữa quá khứ với hiện tại, hướng tới tương lai; là cơ sở
để Đảng và Nhà nước ta đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn
89

nhằm xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.

Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA CON
NGƯỜI VIỆT NAM
3.1.1. Nhân tố quốc tế
3.1.1.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, nhờ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Việt Nam có điều kiện
mở rộng quan hệ thương mại với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Toàn cầu hóa làm cho thế giới thu nhỏ lại như một “ngôi làng toàn cầu”; các
quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau, tiếp thu tư tưởng của nhau, làm cho
đời sống tinh thần của con người ngày càng trở nên đa dạng và phong phú.
Toàn cầu hóa mang đến tư tưởng tự do sáng tạo của mỗi cá nhân. Thông qua
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Việt Nam có cơ hội tiếp cận với những tinh
hoa văn hóa của nhân loại để không ngừng làm giàu thêm vốn giá trị văn hóa
của dân tộc. Nhờ toàn cầu hóa, nhiều giá trị phổ quát của nhân loại như: dân
chủ, nhân quyền, bình đẳng giới, trách nhiệm, hợp tác... đã thâm nhập vào
nước ta, giúp cho người Việt Nam nâng cao tầm hiểu biết, khắc phục lối tư
duy thiên về cảm tính, duy tình, tác phong của nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, nâng lên tầm tư duy lý tính và thao tác của nền sản xuất công nghiệp hiện
đại. Đây là cơ sở quan trọng để nâng trình độ sống của người dân Việt Nam
bắt nhịp với các nước tiến tiến trên thế giới.
90

Thứ hai, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam
mở rộng hợp tác với các nước phát triển trong việc giải quyết các vấn đề
mang tính toàn cầu như: đấu tranh phòng, chống tội phạm; môi trường sinh
thái, dịch bệnh; việc làm; nâng cao hiệu lực và kinh nghiệm quản lý văn hóa -
xã hội của Nhà nước... Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã làm
cho kinh tế - xã hội Việt Nam có sự thay đổi: Về kinh tế, đó là sự chuyển đổi
từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; về xã hội, đó là dịch chuyển
từ một xã hội nông nghiệp chiếm ưu thế sang xã hội công nghiệp. Sự biến đổi
về kinh tế - xã hội kéo theo sự biến đổi về giá trị của con người: từ “con
người xã hội” sang “con người cá nhân”, từ “con người tập thể” sang “con
người cá thể”, từ “con người đoàn thể” sang “con người gia đình”, từ “con
người phục vụ” sang “con người tồn tại”, từ “tồn tại bất ổn” sang “tồn tại an
sinh”. Đây là sự biến đổi hợp quy luật phát triển của lịch sử nhân loại, hướng
tới xây dựng xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo cơ hội và khả năng tiếp xúc, giao
lưu văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, tiếp thu tri thức của
nhân loại, góp phần nâng cao dân trí. Thông qua giao lưu văn hóa, thể thao,
Việt Nam có cơ hội quảng bá hình ảnh của mình ra thế giới, làm cho thế giới
biết đến Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử hàng nghìn năm văn hiến,
giàu truyền thống; một đất nước yêu chuộng tự do, hòa bình, tôn trọng công
lý, khoan dung; một dân tộc cần cù, thông minh, dũng cảm, năng động với
một kho tàng các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, mang bản
sắc độc đáo. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, các giá trị truyền thống con
người Việt Nam không còn bị “đóng khung” trong biên giới quốc gia - dân
tộc, mà đã vượt ra khỏi lãnh thổ, hòa nhập với thế giới, góp phần bổ sung, làm
phong phú thêm kho tàng giá trị chung của nhân loại. Như vậy, toàn cầu hóa
91

và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển văn hóa và con người, tự bản
thân nó đã chứa đựng những yếu tố tích cực.
Thứ ba, cùng với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ
của Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang có những tác động tích cực đến
giá trị của con người Việt Nam. Khái niệm Cách mạng công nghiệp 4.0 lần
đầu tiên được đề cập trong bản Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao
được Chính phủ Đức thông qua vào năm 2012. Cách mạng công nghiệp 4.0
đang phát triển với tốc độ chưa từng có, trọng tâm là các phát minh, phát kiến
và sự kết hợp của ba “đại xu hướng” đó là: vật lý, số hóa và sinh học; hay là
sự kết hợp của “ba thế giới” đó là: thế giới vật chất, thế giới ảo (thế giới số)
và thế giới sinh vật; đặc trưng là sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa
bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết
hợp giữa hệ thống ảo và thực tế.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi hầu hết các ngành công
nghiệp ở mọi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam, tác
động của Cách mạng 4.0 đang và sẽ làm chuyển đổi toàn bộ hệ thống sản
xuất, quản lý và quản trị doanh nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, giải phóng sức lao động cho con người, nhờ đó góp phần
nâng cao mức thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Cách
mạng công nghiệp 4.0 giúp con người nâng cao năng lực tư duy, phong cách
làm việc khoa học; mở rộng tầm giao lưu, giao tiếp giữa con người với con
người, xóa nhòa ranh giới giữa dân tộc về văn hóa, cho phép tiếp thu nhiều
giá trị của nhân loại. Cùng với đó, thành tựu khoa học công nghệ do Cách
mạng 4.0 mang lại có thể ứng dụng trong công tác giữ gìn an ninh trật tự, đấu
tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, ngăn ngừa, giảm thiểu
những tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường sinh thái, nâng cao chất
lượng cuộc sống của con người.
3.1.1.2. Tác động tiêu cực
92

Thứ nhất, thông qua toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, những ấn phẩm văn
hóa đồi trụy, phản động, làn sóng tội phạm, bạo lực từ nước ngoài xâm nhập
vào nước ta, làm gia tăng những hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội. Mặt trái
của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang làm mai một đi nhiều giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam, làm xuất hiện những thói xấu như: vụ lợi,
ích kỷ, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, tuyệt đối hóa các giá trị vật
chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần, coi giá trị vật chất là sự biểu hiện giá trị của
con người... Theo một số liệu điều tra xã hội học ở Thành phố Hồ Chí Minh, có
82% ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy lối sống coi trọng vật
chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần; 80% ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế
tạo điều kiện cho sự xâm nhập tràn lan các sản phẩm văn hóa có nội dung thiếu
lành mạnh; 70,6% ý kiến lo ngoại về trình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức,
lối sống; 57,5% cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy tâm lý hưởng lạc;
57% ý kiến hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy lối sống cá nhân, cực đoan, vị kỷ;
49,7% lo ngại về sự băng hoại đạo đức; 69,7% cho rằng, hội nhập kinh tế quốc
tế khiến tệ nạn xã hội gia tăng [14, tr.150].
Thứ hai, tác động mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế làm thay
đổi chiều sâu tâm thức và lối sống của người Việt. Từ khi nước ta mở cửa, hội
nhập quốc tế, tâm lý tiêu thụ dần trở thành ý thức, tư tưởng của nhiều người,
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ vật chất đến tinh thần, từ
kinh tế đến văn hóa, thậm chí cả trí tuệ lẫn tình cảm. Tư tưởng tiêu dùng đã
biến cả nghệ thuật - một loại giá trị tinh thần không thể trao đổi - theo quan hệ
kinh tế hàng hóa đơn thuần; giáo dục thành quan hệ đổi chác, mua bán; đời
sống tâm linh, sự thờ cúng vốn thiêng liêng nhiều khi cũng trở thành nơi thu
lợi nhuận. Lối sống duy kinh tế, duy phương tiện, tuyệt đối hóa giá trị vật chất
của người phương Tây, thông qua toàn cầu hóa đang tác động tiêu cực đến
nhận thức, hành vi, lối sống của người Việt Nam, với những biểu hiện cụ thể
như: Xu hướng chạy theo “mốt” gây nên sự lãng phí, không phù hợp với lối
93

sống giản dị, tiết kiệm vốn có của người Việt; lối sống tiêu thụ kiểu phương
Tây đã dẫn đến sự phân biệt giàu - nghèo qua cách chơi trội trong sử dụng
tiện nghi sinh hoạt.
Nhiều người Việt Nam hiện nay, nhất là một bộ phận giới trẻ đang có
xu hướng “sính” dùng hàng ngoại, những tiện nghi sinh hoạt đắt tiền mà
không tính đến hiệu quả và điều kiện kinh tế của bản thân, gia đình. Bộ phận
đó cho rằng, việc sử dụng những đồ dùng sinh hoạt đắt tiền là sự thể hiện
“đẳng cấp”, là sự biểu hiện giá trị con người. Mối quan hệ giữa con người với
người bị chi phối bởi đồng tiền, hoặc những quan hệ vật chất, trao đổi lợi ích
là chính; lòng nhân ái, bao dung dường như mờ nhạt; sự cưu mang, đùm bọc
ít diễn ra một cách tự nguyện từ đáy lòng mà phải thông qua kêu gọi, vận
động. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế dẫn đến sự chuyển hóa giữa những yếu
tố giá trị và phản giá trị trong đời sống xã hội; dẫn đến tình trạng “nhiễu loạn”
mất phương hướng trong việc lựa chọn, định hướng giá trị, nhất là ở thế hệ
trẻ. Do ảnh hưởng bởi phim ảnh có nội dung bạo lực, qua mạng internet và
các phương tiện truyền thông khác, khiến cho không ít thanh, thiếu niên lười
lao động, không có ý chí phấn đấu vươn lên; không chịu tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức, đã sa vào các tệ nạn xã hội như: trộm cắp tài sản, cờ bạc, mại dâm,
ma túy.
Thứ ba, cùng với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đang và sẽ tiếp tục có những tác động tiêu cực đến sự phát triển
giá trị của con người Việt Nam. Quá trình lao động của con người được thay
thế phương tiện kỹ thuật hiện đại dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, thiếu
việc làm, ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị cần cù của người Việt, dẫn đến nhiều
hiện tượng tiêu cực xã hội nảy sinh. Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi
sâu sắc nhiều giá trị thuộc về con người như: quyền tự do cá nhân, ý thức về
sự sở hữu, phương thức tiêu dùng, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, sức
khỏe, đạo đức và các quan hệ xã hội… Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra
94

những sản phẩm mới, hấp dẫn, lôi cuốn, làm xuất hiện tâm lý “sính” hàng
ngoại không chỉ ở phương diện văn minh, mà còn ở lĩnh vực văn hóa, lối
sống, cách giao tiếp, ứng xử. Thực tế ở nước ta cho thấy, tình trạng nhập
khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài
đã tác động tiêu cực đến đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ, dẫn đến tình trạng phai nhạt tinh thần dân tộc, thậm chí quay lưng lại giá
trị truyền thống dân tộc đã từng tồn tại hàng nghìn năm lịch sử một cách vô
cảm. Cách mạng công nghiệp 4.0 làm cho nhiều người dân Việt Nam, nhất là
thế hệ trẻ rơi vào thế giới “ảo”, lối sống “ảo”, không phân biệt được đâu là
đúng - sai, tốt - xấu, chân giá trị - giả giá trị, chính nghĩa - phi nghĩa.
Cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn đến tình trạng kết nối, mở rộng giao
lưu, giao tiếp ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khiến con người khó
làm chủ bản thân. Sự xuất hiện những hiện tượng như đồng tiền “ảo”; thanh
toán “ảo”; kinh doanh “ảo”, lối sống “ảo” trao đổi qua mạng làm cho quan hệ,
ứng xử có tính “thực” trong môi trường văn hóa cộng đồng xã hội bị ảnh
hưởng. Ngôn ngữ giao tiếp, tình cảm cá nhân không bị chi phối bởi cái “tinh
tế”, cái chuẩn mực văn hóa, đạo đức và làm cho tính tổng hòa các quan hệ xã
hội trong bản chất con người như C.Mác đã nói, có nguy cơ phai nhạt. Cách
mạng công nghiệp 4.0 làm cho các quan hệ, sự ứng xử văn hóa, đạo đức có xu
hướng xa cách dần với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Những chuẩn mực
giá trị văn hóa, đạo đức được hình thành, phát triển qua bao thế hệ có nguy cơ
mai một, xã hội dần mất đi nét đẹp trong văn hóa giao tiếp truyền thống, thay
vào đó là quan hệ công việc đơn thuần; sự giao tiếp tuy rộng, nhưng lại hạn
chế chiều sâu về tính hiện thực của bản chất con người.
3.1.2. Nhân tố trong nước
3.1.2.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn
nhằm xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh
95

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cùng với đường lối phát triển kinh tế - xã hội, Đảng, Nhà nước
ta đã đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn về phát triển văn hóa, con
người, nhằm phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp; đồng thời hạn chế tác động
tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường. Điều
đó được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng và các nghị quyết hội nghị
Trung ương, nhất là Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Nghị quyết Trung
ương 9, khóa XI. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII (1998) “Về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” đã xác định mô hình của con người Việt Nam trong giai đoạn mới gồm
năm đức tính: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; có ý thức tập thể, đoàn kết,
phấn đầu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần
kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của
cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; lao động chăm
chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích
của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao
hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Đảng ta coi xây
dựng, phát triển toàn diện con người là nhiệm trọng tâm trong xây dựng, phát
triển văn hóa, “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa,
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [34, tr.38]. Nhiệm vụ
trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
96

Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa
VIII, Hội nghị Trung ương 9, khóa XI năm 2014 tiếp tục xác định mục tiêu
hoàn thiện các chuẩn mực giá trị con người Việt Nam, tạo môi trường và điều
kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất,
tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề
cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người
đối với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Tuy chưa
sắp xếp thành hệ giá trị chuẩn, nhưng Hội nghị Trung ương 9, khóa XI đã xác
định những giá trị của con người Việt Nam mà chúng ta hướng tới đó là: Tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, có ý thức tự trọng, tự chủ, sống
và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; bảo vệ môi trường; đề cao trách
nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội; đấu tranh phê phán, đẩy
lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt
đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn, có thế
giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Có thể nói, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 9, khóa XI là sự tiếp nối, kế thừa Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5, khóa VIII nhưng ở tầm cao hơn, mang lại những nhận thức mới về
văn hóa, thể hiện quyết tâm của Đảng ta trong việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Triển khai thực hiện Hội nghị Trung ương 9, khóa XI, Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 102/NQ-CP, ngày 31/12/2014 về Chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết số 33 của Ban Chấp hành Trung ương, trong đó xác
định mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; phát triển
văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Từ mục tiêu chung, xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là
từng bước đưa vào cuộc sống các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người
Việt Nam; củng cố ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức, lương tâm,
97

trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội và đất
nước; ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức. Đến năm 2030, phải hoàn thiện và
phổ biến các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, đồng thời tạo
dựng những giá trị mới phù hợp để con người Việt Nam có nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân, kỹ năng hội nhập phù hợp với sự phát triển của đất nước; đẩy lùi sự
xuống cấp về đạo đức xã hội.
Thực hiện mục tiêu chiến lược xây dựng văn hóa, con người Việt Nam
phát triển toàn diện, Đại hội XII xác định phải “đúc kết và xây dựng… hệ giá
trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế” [38, tr.29], trên các vấn đề cốt lõi: nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Những phẩm đó vừa phản ánh sự kế thừa giá
trị truyền thống con người Việt Nam, bước đầu bổ sung, định hình và phát
triển một số giá trị theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, vừa là mục tiêu vươn
tới, phải không ngừng hoàn thiện, khẳng định sự phát triển bền vững của văn
hóa, con người Việt Nam. Đặc biệt, lần đầu tiên trong một văn kiện, Đảng ta
đã đúc rút và nêu ra bẩy đặc tính cơ bản của con người Việt Nam hiện nay đó
là: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Từ
những đặc tính chung đó, mỗi ngành, mỗi cơ quan, đơn vị xây dựng thành
những tiêu chí phẩm chất, năng lực của con người phù hợp.
Quan điểm chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về
xây dựng, phát triển con người đã tác động tích cực đến việc bảo tồn, gìn giữ
và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời khắc
phục những hạn chế, tiêu cực, tạo sức đề kháng trước tác động mặt trái của
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường. Đây là nhân tố chủ quan
có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
hiện nay.
98

Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi nếp tư duy cũ, lạc
hậu sang tư duy khoa học và tác phong công nghiệp cho người Việt Nam. Từ
khi nước ta thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần làm
dịch chuyển từ không gian nông thôn sang không gian đô thị. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, không gian nông thôn đang biến động theo xu hướng giảm
dần: năm 2008 (72%), năm 2014 (66,9%) thay vào đó là không gian đô thị có
chiều hướng tăng lên: năm 2008 (28 %), năm 2014 (33,1%); quá trình di dân từ
nông thôn ra thành thị và quá trình đô thị hóa khiến cho tỷ lệ gia tăng dân số
trung bình hằng năm ở thành phố lên đến 3,4%, trong khi ở nông thôn chỉ có
0,4%. Tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp giảm từ
49,5 % năm 2010 xuống còn 44,0% năm 2016, cùng với đó là sự tăng trưởng
rất nhanh của khu vực công nghiệp, xây dựng, từ 21,0% năm 2010 lên 22,8%
[157, tr.17].
Sự chuyển dịch từ một xã hội nông nghiệp chiếm ưu thế sang một xã
hội công nghiệp tất yếu kéo theo sự thay đổi hệ giá trị của con người. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần thay đổi nếp tư duy lạc hậu mang tính chất
tiểu nông, tạo ra những con người có tư duy khoa học, phong cách làm việc
công nghiệp. Nhờ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, người Việt Nam được thụ
hưởng nhiều giá trị như: việc làm, tăng thu nhập; đời sống vật chất, văn hóa
tinh thần của nhân dân không ngừng nâng lên; thu hẹp dần khoảng cách chênh
lệch về trình độ phát triển, khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, mức hưởng
thụ các giá trị văn hóa tinh thần giữa các cộng đồng người Việt Nam không
ngừng được nâng lên.
Thứ ba, kinh tế thị trường khắc phục lối tư duy thiên về cảm tính,
phương thức tư duy kiểu “ngoại suy", chủ quan của người Việt Nam, nâng
cao tư duy lý tính, nhận thức và hành động theo quy luật khách quan của thị
trường. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, phát triển tới
trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, song không phải là sản phẩm riêng của
99

chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản.
Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của các nước trên thế giới và
thực tiễn Việt Nam, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương này không phải là sự gán ghép chủ quan,
mang tính cơ học giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, mà là sự kết
tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước, là sự vận dụng sáng tạo xu thế khách quan của kinh tế thị trường trong
thời đại ngày nay.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội nước
ta ngày càng phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2014, thu
nhập bình quân đầu người một tháng chung cả nước đạt 2.367 nghìn đồng,
trong đó khu vực thành thị đạt 3.964 nghìn đồng; khu vực nông thôn đạt
2.038 nghìn đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 2014 của cả nước tăng
31,9% so với năm 2012, trong đó khu vực thành thị tăng 32,6%; khu vực
nông thôn tăng 29,1% [157, tr.735]. Kinh tế thị trường loại bỏ dần thói quen
dựa dẫm, ỷ lại, tác phong chậm chạp, thiếu năng động của người Việt Nam,
vốn được hình thành từ trong cơ cấu kinh tế - xã hội một quốc gia nông
nghiệp lạc hậu, sản xuất phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên, lại được “dung
dưỡng” trong thời kỳ bao cấp, để chuyển sang con người năng động, linh hoạt
của thời kinh tế thị trường. Đây là sự biến đổi phù hợp quy luật, mang tính
khách quan theo xu hướng tiến bộ, đã góp phần nâng cao giá trị con người
Việt Nam.
Kinh tế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân luôn đề cao tinh thần trách
nhiệm; gắn động cơ và hiệu quả như là một chuẩn mực giá trị trong hoạt động
của con người. Kinh tế thị trường đã góp phần khắc phục lối tư duy chủ quan,
cảm tính của người Việt, nâng cao năng lực tư duy lý tính, nhận thức và hành
động theo quy luật khách quan của thị trường; đồng thời, kích thích sự năng
100

động, sáng tạo, bản lĩnh, khả năng thích nghi của mỗi cá nhân nhằm tăng
năng xuất lao động. Quy luật khắt khe của kinh tế thị trường đào thải tư duy
bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của người Việt, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư
tưởng phong kiến, thay vào đó là tư duy chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong
hoạt động, nhất là hoạt động sản xuất, kinh doanh. Điều đó đã góp phần khắc
phục các sản phẩm yếu kém về nội dung và hình thức để tạo ra những sản
phẩm mới ngày càng phong phú, có chất lượng.
3.1.2.2. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường tạo nên
sự thay đổi trong đời sống tâm lý người Việt Nam, từ đề cao giá trị tinh thần
sang đề cao giá trị vật chất; từ đề cao giá trị cộng đồng, tập thể sang đề cao giá
trị cá nhân dẫn đến chủ nghĩa cá nhân; từ đề cao giá trị cống hiến sang đề cao
giá trị hưởng thụ. Kinh tế thị trường khiến cho thang giá trị xã hội bị xung đột,
đảo lộn, thậm chí khủng hoảng; giá trị cá nhân, gia đình, xã hội đang biến
động phức tạp. Biểu hiện rõ nhất ở giá trị đạo đức đang có chiều hướng xuống
cấp nghiêm trọng, nhất là ở thế hệ trẻ, với số vụ trọng án ngày càng gia tăng.
Kinh tế thị trường dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, coi thương trường là
“chiến trường”, dẫn đến tình trạng ganh đua, dẫm đạp, thậm chí thủ tiêu lẫn
nhau để tồn tại. Kinh tế thị trường làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo và bất
bình đẳng xã hội giữa miền xuôi với miền núi, giữa thành thị với nông thôn,
giữa các giai tầng xã hội. Kinh tế thị trường làm cho lý tưởng sống ở không ít
người, kể cả những người từng một thời sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc
lập, tự do cho dân tộc cũng đang bị lung lay. Nếu như trước đây, “lý tưởng”,
“khát vọng” được coi là thiêng liêng mà con người cần vươn tới, thì ngày nay
những khái niệm đó rất ít được đề cập đến, thậm chí bị coi là những điều không
tưởng. Lý tưởng, niềm tin là động lực khiến người ta hành động, thậm chí sẵn
sàng hy sinh; khi con người đã phai nhạt niềm tin, lý tưởng thì thường hướng
tới những dục vọng thấp hèn.
101

Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường dẫn đến
tư tưởng chạy theo lợi ích vật chất, tuyệt đối hóa giá trị đồng tiền trong một
bộ phận xã hội (kể cả người lao động vốn được coi là lực lượng chủ yếu tạo
ra của cải vật chất và tinh thần) dẫn đến hiện tượng “tha hóa” trong lao động
như C.Mác đã nói. Sản phẩm lao động trong một số trường hợp, không thể
hiện trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp; trái
lại, bị chi phối bởi những nhu cầu tầm thường trước mắt. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến “bệnh” giả dối của người Việt bộc lộ, thể hiện
rõ nhất ở tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng hóa độc hại lại lan
tràn trong xã hội. Theo thống kê của Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu,
gian lận thương mại và hàng giả (còn gọi là Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia)
trong năm 2014, các lực lượng chức năng đã bắt giữ hơn 21.645 vụ hàng giả,
tăng nhiều so với những năm trước. Do đó, mức độ tin tưởng của người dân
Việt Nam hiện nay vào chất lượng của điều kiện sống (an toàn thực phẩm,
giao thông, thân thể, chất lượng y tế, giáo dục) rất thấp, theo thống kê, chỉ
chiếm 16,4% [146, tr.306].
Mặt trái của kinh tế thị trường làm cho tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sự suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên trở thành vấn nạn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với
Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII về “Tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ” đã chỉ ra tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn
biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm
trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tại kỳ
họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV, báo cáo trước Quốc hội về tình hình kinh tế
- xã hội năm 2016 và nhiệm vụ năm 2017, Chính phủ cũng đã nhấn mạnh tình
102

trạng tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng đe dọa sự phát triển lành mạnh,
bền vững của đất nước.
Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường đang làm
suy thoái nhiều giá trị truyền thống, trong đó có giá trị gia đình, giá trị đạo
đức. Không ít gia đình tuy có cuộc sống đầy đủ về vật chất, song lại không
hạnh phúc vì con cái hư hỏng, sa vào các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy,
mại dâm, trộm cắp, rơi vào con đường tù tội. Kinh tế thị trường đang làm cho
đạo đức xã hội suy thoái, biểu hiện ở chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền có xu hướng gia tăng. Sự xuống cấp về đạo đức được thể
hiện ngay cả ở những ngành nghề vốn được xã hội tôn vinh như: Y tế, Giáo
dục… Lý tưởng cao đẹp “mình vì mọi người” đang bị coi là lỗi thời, lạc hậu
và thay vào đó là lối sống thực dụng, cơ hội, vụ lợi trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chức quyền, thể hiện ở
hành vi “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy luân chuyển”, “chạy thi
đua”… đã tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân vào bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa, vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tổng kết 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta chỉ rõ: “Lĩnh
vực xây dựng con người còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự xuống cấp về
văn hóa, đạo đức, đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức
tạp” [71, tr.163]. Thực tế ở Việt Nam, ngoài số người giàu có một cách hợp
pháp, còn có không ít kẻ giàu lên nhờ hành vi tham nhũng, buôn gian bán lận,
làm ăn theo kiểu chụp giật trong giai đoạn tranh tối, tranh sáng của cơ chế thị
trường, không chỉ làm suy yếu nền kinh tế mà còn làm đảo lộn các giá trị xã
hội. Tệ nạn tiêu cực có xu hướng tăng lên, biểu hiện ở những dạng thức khác
nhau, thậm chí ở những nơi tôn nghiêm, trong sạch như: Nơi nắm cán cân
công lý, bảo vệ pháp luật; nơi dạy người, cứu người; nơi truyền bá các giá trị
nhân văn; nơi tín ngưỡng, thờ tự.
103

Có thể nói, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại nhiều lợi ích to lớn, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân không ngừng nâng lên, tạo ra
nhiều giá trị vật chất cho con người và xã hội. Tuy nhiên, quá trình này cũng
đang có những tác động tiêu cực, làm biến đổi một số giá trị truyền thống của
con người Việt Nam.
3.2. SỰ PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc
Trước tác động của những nhân tố khách quan, chủ quan nhưng yêu
nước, tinh thần tự tôn dân tộc vẫn là giá trị cốt lõi, được các thế hệ người Việt
Nam trân trọng, gìn giữ và phát huy; vẫn được coi là giá trị thiêng liêng, được
xếp ở vị trí cao nhất trong thang giá trị tinh thần của người Việt. Theo kết quả
điều tra của Ngô Đức Thịnh, giá trị truyền thống yêu nước chiếm ở vị trí cao
nhất trong tổng số 19 giá trị được đưa ra khảo sát, chiếm 86,2%. Hiện nay, giá
trị này vẫn còn được lưu giữ với kết quả 85,5% [ 149, tr.110]. Kết quả khảo sát
của nhóm nghiên cứu do Nguyễn Ngọc Phú thực hiện cũng cho thấy, tuyệt đại
đa số người trả lời chọn “Có tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa” làm phẩm
chất đạo đức quan trọng nhất của người Việt Nam. Giá trị này được xếp ở vị trí
thứ nhất trong thang giá trị tinh thần, với điểm trung bình đạt tới 2,78/3. Phẩm
chất “Tự hào là người dân Việt Nam” cũng được xếp hạng cao: ở vị trí thứ tư
với điểm trung bình là 2,62/3 [163, tr.281], mặc dù vẫn còn một bộ phận thanh,
thiếu niên chưa có biểu hiện rõ ràng thái độ, tinh thần yêu nước, trước tương
lai, vận mệnh dân tộc. Theo kết quả cuộc điều tra giá trị châu Á, nhằm khảo sát
điều tra thái độ đối với giá trị xã hội của thanh niên cũng cho thấy, có 98,6%
thanh niên Việt Nam được hỏi có lòng tự hào dân tộc, trong khi đó ở Singapo:
90,7%, Trung Quốc: 88,3%, Nhật Bản: 87, 9%, Triều Tiên: 81%, Hồng Kông:
74,2%, Đài Loan: 64,4% [55, tr.148]. Số người Việt Nam được hỏi phần lớn
đều khẳng định có nhu cầu giáo dục tinh thần yêu nước, chiếm 82,7%, trong
104

khi đó Trung Quốc: 80,8%, Triều Tiên: 66%, Đài Loan 60,5%, Singapore:
46,4%, Hồng Kông: 46%, Nhật Bản: 36% [55, tr.222].
Thực tế cho thấy, người Việt Nam vẫn luôn đề cao giá trị truyền thống
yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, dù được biểu hiện dưới những dạng thức
mới, song không kém phần mãnh liệt so với trước đây. Chiến tranh đang lùi
dần về quá khứ, khiến cho nhiều người lo ngại rằng lòng yêu nước, tinh thần
tự tôn dân tộc của người Việt Nam liệu có lụi tàn? Song, điều đó là không thể.
Hằng năm, cứ đến dịp mùng 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người dân Việt
Nam trên khắp mọi miền Tổ quốc hành hương về Đền Hùng ở tỉnh Phú Thọ
như tìm về cội nguồn dân tộc với một tình cảm thiêng liêng. Từ lâu, câu thơ
"Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3" đã ăn sâu trong
tiềm thức mỗi người dân nước Việt, để ngày Quốc giỗ không chỉ là dịp mỗi
người dân Việt Nam thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu
sắc các Vua Hùng có công dựng nước và các bậc tiền nhân đã kiên cường, bất
khuất chống giặc ngoại xâm giữ nước, mà còn là ngày hội quần tụ của cả dân
tộc; là ngày để mỗi người dân Việt Nam khẳng định sức mạnh trường tồn,
mãnh liệt của văn hóa, con người Việt Nam. Ngày 6/12/2012, UNESCO đã
công nhận "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ" là di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại. Từ đây, ý nghĩa của giỗ Tổ Hùng Vương đã được cả
thế giới biết đến, góp phần khẳng định giá trị truyền thống yêu nước Việt
Nam trước bạn bè quốc tế.
Cùng với đó, nhiều hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” lôi cuốn đông đảo
thế hệ trẻ tham gia như: Viếng thăm Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn, Thành
cổ Quảng trị, Ngã ba Đồng Lộc; thăm và tặng quà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Hằng năm, có hàng chục nghìn thanh niên tình nguyện đến vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn, vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai để thực hiện các hoạt
động chia sẻ cộng đồng. Nhiều kiều bào Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở
nước ngoài vẫn thường xuyên hướng về quê hương, Tổ quốc, đóng góp cả vật
105

chất lẫn tinh thần cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Gần đây,
chúng ta đã chứng kiến hình ảnh hàng vạn cổ động viên Việt Nam mặc áo
màu cờ Tổ quốc, nhiệt huyết cổ vũ và ăn mừng chiến thắng của đội tuyển
bóng đá quốc gia trong các trận đấu tranh giải khu vực và châu Á… Những
hình ảnh đó cho thấy lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc vẫn luôn tồn tại
bền vững, thiêng liêng trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Chỉ có điều,
chúng ta phải làm thế nào để giá trị quý báu ấy tiếp tục được bồi đắp và phát
huy mạnh mẽ hơn nữa trong bối cảnh mới hiện nay.
Bên cạnh mặt tích cực nêu trên, tác động mặt trái của toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và kinh tế thị trường đã làm cho không ít người dân có tư tưởng
so sánh, rồi bi quan về tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nước ta so với các
nước khác trong khu vực và thế giới, dẫn đến phai nhạt lý tưởng, hoài nghi về
con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ lựa
chọn. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập, tự do dân tộc, nhiều người dân
Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hy sinh, xả thân vì Tổ quốc, thì giờ đây tinh
thần ấy đang có dấu hiệu giảm sút. Thời kinh tế thị trường, không ít người có
tư tưởng, lối sống thực dụng, chỉ nghĩ đến thu vén lợi ích cá nhân mà không
quan tâm đến lợi quốc gia, dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên.
Lòng yêu nước của người Việt hiện nay chưa gắn với lòng tự trọng,
danh dự, ý thức pháp luật. Lòng yêu nước chân chính không song hành cùng
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, không đồng nghĩa với hành động quá khích. Khi
lòng yêu nước được thể hiện một cách đúng đắn, tỉnh táo và sáng suốt sẽ làm
tăng thêm sức mạnh cho quốc gia, dân tộc; ngược lại, nếu bị kẻ xấu lợi dụng
thì từ một người dân yêu nước sẽ trở thành vi phạm pháp luật, thậm chí trở
thành kẻ chống lại Tổ quốc mình, dân tộc mình. Thực tế ở một số địa phương
thời gian qua cho thấy, các thế lực phản động thù địch đã lợi dụng sự yếu kém
trong quản lý kinh tế, xã hội của chính quyền địa phương; lợi dụng lòng yêu
106

nước nhiệt thành nhưng thiếu hiểu biết pháp luật của người dân để dụ dỗ, lôi
kéo tham gia hoạt động biểu tình, có những hành vi quá khích gây sức ép, yêu
sách về quyền lợi gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến
uy tín và lợi ích chung dân tộc. Dù rằng, mỗi một người dân Việt Nam đều có
cách thể hiện lòng yêu nước theo cách của riêng mình, nhưng phải trên cơ sở
có văn hóa, đúng pháp luật.
3.2.2. Đoàn kết
Đoàn kết là một trong những giá trị tiêu biểu, luôn được xếp ở vị trí cao
trong thang giá trị truyền thống của dân tộc, hiện vẫn được gìn giữ và phát
huy. Đảng ta coi đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn sức mạnh to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với
lợi ích chung của quốc gia; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và
ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tạo sinh
lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
coi đoàn kết là “then chốt” của thành công, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm tăng cường, củng cố khối đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế theo đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ; Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế.
107

Mặc dù tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường
và Cách mạng công nghiệp 4.0, song người Việt Nam vẫn giữ được tinh thần
đoàn kết. Theo kết quả thống kê của Ngô Đức Thịnh, trong tổng số 19 giá trị
được đưa ra khảo sát thì đoàn kết là giá trị đứng ở vị trí thứ hai sau giá trị
truyền thống yêu nước, chiếm 78,3%. Hiện nay, giá trị này vẫn còn được lưu
giữ, chiếm 74,7% [149, tr.110]. Kết quả khảo sát của Trần Ngọc Thêm cũng
cho thấy, có 68,3% số người được hỏi xếp tinh thần đoàn kết đứng ở vị trí thứ
hai trong tổng số 35 phẩm chất được đưa ra khảo sát. Phần lớn ý kiến được
hỏi (71,1%) cho rằng phẩm chất quan trọng cần được gìn giữ, phát huy, trong
đó có tình đoàn kết [146, tr.340]. Thực tế cho thấy, quan niệm truyền thống
“Một cây làm chẳng lên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “vắng anh
em xa có láng giềng gần” “lá lành đùm bọc lá rách”… hiện vẫn đang tồn tại
trong suy nghĩ, lối sống của người Việt. Đây đó, trong các thôn xóm, bản làng
từ miền xuôi cho đến miền núi, trong các khu phố nhỏ hay ở các thành phố
lớn, chúng ta vẫn thấy cảnh người dân thường xuyên quan tâm, giúp đỡ lẫn
nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống; họ tham gia vào các tổ chức
chính trị xã hội, nghề nghiệp, hội phường… để có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ, giúp
đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, trong công việc. Tinh thần đoàn kết của người
Việt hiện nay không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã vượt ra khỏi
biên giới quốc gia để đến với các nước trong khu vực và quốc tế, trên tinh
thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Tính đến nay,
Việt Nam đã quan hệ hợp tác với trên 168 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới, trong đó, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, quan hệ
đối tác toàn diện với 11 nước.
Bên cạnh mặt tích cực nêu trên, tinh thần đoàn kết của người Việt hiện
nay vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế. Biểu hiện trước hết ở chỗ, tư tưởng cục
bộ địa phương trước đây với quan niệm “trống làng nào làng ấy đánh/Thánh
108

làng nào làng ấy thờ” đang có xu hướng phát triển thành các “nhóm lợi ích”. Các
nhóm này vừa có lợi ích chung lại vừa có lợi ích riêng, vừa có lợi ích tích cực lại
vừa có lợi ích tiêu cực. Lợi ích nhóm tiêu cực có xu hướng phát triển lấn át các
nhóm lợi ích tích cực, được biểu hiện dưới những dạng thức khác nhau, gây khó
khăn trong quản lý xã hội và đấu tranh chống tham nhũng. Điều này đã được
Đảng ta tổng kết thành các hành vi “chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy tuổi,
chạy bằng cấp, chạy huân chương” [36, tr.262]. Không phải ngẫu nhiên mà dư
luận xã hội đã tổng kết: muốn có chức quyền, lợi ích phải có “tiền tệ, quan hệ,
hậu duệ, đồ đệ và cuối cùng mới là trí tuệ”. Ở một số nơi, người dân chưa
thực sự được là chủ, được làm chủ; trong sinh hoạt tập thể (sinh hoạt Đảng
hoặc chính quyền) thường có tư tưởng “đoàn kết xuôi chiều” đúng như lúc
sinh thời Hồ Chí Minh từng cảnh báo. Mọi người phụ họa theo ý kiến của
người đứng đầu, e ngại, không dám phát biểu chính kiến của mình với tâm lý
phổ biến “im lặng là vàng”, “thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý”. Tình trạng dân
chủ hình thức mà thực chất là mất dân chủ nhưng biểu hiện tinh vi, phức tạp
núp dưới vỏ bọc “đúng quy trình”, “đúng quy chế” trong công tác cán bộ gây
nên những hệ lụy, làm nảy sinh tình trạng mất đoàn kết nội bộ, hình thành các
“nhóm lợi ích” tiêu cực, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Quyền bình đẳng giữa các cộng đồng
dân tộc chưa thực hiện tốt, còn khoảng cách khác biệt về nhu cầu hưởng thụ
giá trị vật chất, văn hóa tinh thần giữa miền xuôi với miền núi, giữa thành thị
với nông thôn, cũng như giữa các cộng đồng dân cư. Tư tưởng bè phái, tình
trạng cục bộ địa phương chủ nghĩa vẫn tồn tại, để cùng nhau hưởng lợi, bất
chấp lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia.
Cùng với đó, tư tưởng “xấu đều hơn tốt lỏi”, “con gà tức nhau tiếng
gáy” vốn ăn sâu trong tiềm thức người Việt, lại được nuôi dưỡng trong thời
kỳ bao cấp với tư duy thiên kiến, lạc hậu, nhầm lẫn khái niệm giữa “công
bằng” với “cào bằng” đến nay vẫn tồn tại. Thói cào bằng, đố kỵ đang kìm
109

hãm sự nảy nở sáng kiến, tài năng của con người, nó buộc những người tốt
phải xấu theo cái xấu chung quanh. Bởi cái tốt chiếm số ít trong cái xấu phổ
biến sẽ trở nên “dị biệt” theo nghĩa xấu, khiến cho nhiều người khi thấy người
khác làm sai, thay vì góp ý phê bình, hoặc ít ra cũng tự mình kiên trì làm
đúng, thì dù không muốn nhưng họ vẫn buộc phải sai theo “cho khỏi lạc đàn”.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất đoàn kết; dẫn
đến tình trạng người Việt Nam dù có tư chất thông minh, khéo léo nhưng
không hợp tác được với nhau, khiến cho những phẩm chất tốt của từng
người, những mặt mạnh của từng địa phương không thể phát huy được, gây
trở ngại lớn cho phát triển kinh tế - xã hội. Theo kết quả khảo sát của Trần
Ngọc Thêm, bệnh bè phái chiếm 52,3% trên tổng số 5.589 người tham gia
thừa nhận, là tật xấu đứng ở vị trí thứ 10 trong số 34 tật xấu của người Việt
[146, tr.320]. Người Việt Nam có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái,
song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn, còn
trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
3.2.3. Nhân ái
Nhân ái là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được hình
thành từ rất sớm trong lịch sử, đến nay vẫn được coi là một giá trị tiêu biểu
trong thang giá trị tinh thần của người Việt. Những năm vừa qua, mặc dù
tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường
nhưng truyền thống nhân ái của người Việt Nam vẫn được gìn giữ và phát
huy. Theo kết quả khảo sát của Ngô Đức Thịnh, trong tổng số 19 giá trị nổi
bật của dân tộc Việt Nam thì thương người (nhân ái) đứng ở vị trí thứ bẩy,
chiếm 27,9%. Hiện nay giá trị này vẫn được nhiều người Việt Nam xem là giá
trị quan trọng cần tiếp tục phát huy hơn nữa, chiếm tỷ lệ 29,2% [149, tr.110].
Còn theo kết quả khảo sát của Trần Ngọc Thêm, trong số 35 phẩm chất được
đưa ra khảo sát thì lòng nhân ái, thương người đứng ở vị thứ thứ năm, chiếm
61,9% [146, tr.429]. Số liệu trên là một trong những minh chứng cho thấy
110

lòng nhân ái vẫn là một trong những giá trị truyền thống tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam.
Giá trị truyền thống nhân ái vẫn thấm sâu trong tâm thức người Việt,
bất chấp sự tác động tiêu cực của các nhân tố khách quan, thể hiện rõ trong
các mối quan hệ từ trong gia đình đến ngoài xã hội: Trong gia đình, lòng nhân
ái được thể hiện ở sự thương yêu, đùm bọc, xác định rõ trách nhiệm của
những người thân yêu ruột thịt đối với nhau; trong quan hệ làng xóm, láng
giềng, người Việt vẫn luôn quan niệm “chín bỏ làm mười”, động viên, giúp
đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn mỗi khi “tối lửa, tắt đèn”; ở ngoài xã hội,
người Việt xem xét, giải quyết mọi việc trên cơ sở tình cảm là chính, đặt chữ
“tình” cao hơn chữ “lý” với quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý
cái tình”, luôn quý trọng “tình nghĩa” hơn “lễ nghĩa”. Lòng nhân ái còn được
thể hiện ở sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn khó khăn.
Đã có không ít người với lòng hảo tâm đã dành dụm hàng tỉ đồng từ tiền
lương hưu cho các hoạt động nhân đạo, từ thiện như: “Uống nước nhớ
nguồn”, “Xây dựng nhà tình nghĩa”, “Phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng“,
“Vòng tay nhân ái”… Đến nay, 100% Mẹ Việt Nam Anh hùng đã được các
đơn vị, tổ chức và cá nhân nhận phụng dưỡng đến cuối đời; hàng chục vạn
thân nhân của các anh hùng liệt sĩ được đỡ đầu. Toàn dân góp hàng chục tỉ
đồng cùng với nhiều của cải vật chất, công sức để cứu trợ đồng bào vùng bị
thiên tai, giúp đỡ người già không nơi nương tựa, trẻ em gặp hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn… Những phong trào đó đã góp phần lan tỏa sâu rộng giá trị
nhân văn, nhân ái trong toàn xã hội, thậm chí tới cả những cộng đồng người
Việt đang sinh sống, định cư ở nước ngoài.
Lòng nhân ái của người Việt hiện nay không bó hẹp trong phạm vi
trong nước mà đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia để đến với các nước trong
khu vực và quốc tế, thể hiện ở sự quan tâm, giúp đỡ, cộng đồng trách nhiệm
đối với các quốc gia khác trên thế giới. Trong thời kỳ mở rộng quan hệ hợp
111

tác quốc tế, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nhiều hoạt động nhân đạo,
cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề toàn cầu như: phòng chống
dịch bệnh, bảo vệ môi trường thiên nhiên; phòng chống thiên tai; chống
khủng bố, bảo vệ hòa bình. Những nghĩa cử cao đẹp như ủng hộ người dân bị
thiên tai tàn phá trong vụ động đất, sóng thần ở Nhật Bản hay bão Katrina ở
Mỹ... đã góp phần khẳng định giá trị nhân ái của dân tộc Việt Nam trước bạn
bè quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực nêu trên, vẫn tồn tại những yếu tố phi
giá trị. Từ khi nước ta mở rộng hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và kinh tế thị trường, nền kinh tế - xã hội không ngừng phát
triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng nâng lên, nhưng
xã hội lại xuất hiện những hành vi bạo lực, hành xử, giải quyết những mâu
thuẫn, xung đột tàn độc, mất nhân tính. Biểu hiện ở chỗ, thời gian qua, tình
hình tội phạm, trong đó có tội phạm giết người ở trẻ vị thành niên ở nước ta
có chiều hướng gia tăng. Theo báo cáo của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
trong số 24.608 đối tượng phạm tội có 2.333 là học sinh, sinh viên, chiếm
9,48%, 2.904 đối tượng phạm tội dưới 18 tuổi, chiếm 11,8%. Còn theo báo
cáo của Bộ Công an, số vụ án do thanh niên gây ra chiếm khoảng 20% tổng
số vụ vi phạm hình sự. Tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%; cố ý gây thương
tích cho người khác chiếm 11%; giết người chiếm 1,4%. Trong đó, lứa tuổi
phạm tội cao nhất từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm khoảng 60%; từ 14 đến dưới
16 tuổi chiếm 32% và dưới 14 tuổi chiếm 8% [163, tr.218]. Cùng với đó là
tình trạng bạo lực học đường xuất hiện trước sự vô cảm của người xung
quanh thời gian gần đây đã khiến xã hội bức xúc. Đó là tiếng chuông cảnh
báo về sự xuống cấp đạo đức xã hội, sự suy đồi về lối sống ở một bộ phận thế
hệ trẻ.
Thời kinh tế thị trường, quan hệ giữa con người với con người bị chi
phối mạnh mẽ bởi đồng tiền, làm cho lòng nhân ái, vị tha, yêu thương đồng
112

loại vốn có của người Việt cũng bị mờ nhạt dần đi. Sự đùm bọc, cưu mang,
giúp đỡ người khó khăn ít được diễn ra từ tình cảm chân thật tự đáy lòng, mà
phải thông qua những cuộc vận động hành chính mới có được. Những quan
hệ mật thiết của văn hóa truyền thống xã hội nông nghiệp xưa kia không còn
đậm nét, thay vào đó là nếp sống công nghiệp hiện đại làm xơ cứng lối sống
tình cảm, mất đi những cảnh sinh hoạt thanh bình của làng quê. Thế giới tinh
thần, tình cảm ít được quan tâm, mà có xu hướng bị nghèo đi. Không ít người
dân Việt Nam hiện nay có lối sống ích kỷ, chỉ chăm lo vun vén lợi ích của cá
nhân, bất chấp lợi ích chung của cộng đồng, dân tộc. Lòng nhân ái, thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau đang dần trở nên xa lạ với nhiều người, thay vào đó là lối
sống thực dụng, các quan hệ xã hội bị chi phối bởi đồng tiền, làm cho tình cảm
hàng xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn có nhau” trước kia có xu hướng chuyển
dần sang “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Những hành vi tốt đẹp, nhân văn chưa tạo
được sức lan tỏa sâu rộng tới cộng đồng, nhằm đánh thức lương tâm, trách
nhiệm ở mỗi người. Xã hội ta đang tồn tại một hiện tượng nghịch lý đó là, đôi
khi những tấm gương người tốt, việc tốt diễn ra hằng ngày ở nơi này, nơi kia
lại bị coi là dị biệt, không bình thường, thậm chí bị đe dọa đến tính mạng, trong
khi đó cái sai, cái xấu khi đã dần trở nên phổ biến thì lại được coi là hợp lý, là
bình thường.
3.2.4. Trung thực, trách nhiệm
Trung thực, trách nhiệm là một phẩm chất đáng quý, là giá trị nhân cách
được thể hiện ở nhiều thế hệ người Việt Nam trước đây, nhất là trong thời kỳ
đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Hiện nay, đa số người
Việt Nam vẫn coi trung thực là tiêu chuẩn cao nhất của đạo đức, nhân cách con
người, để từ đó răn dạy con cháu phải rèn luyện đức tính trung thực, thật thà,
có trách nhiệm với gia đình và xã hội. Theo số liệu thống kê của Ngô Đức
Thịnh, giá trị trung thực chiếm 16,6% trên tổng số người được khảo sát, xếp ở
113

vị trí thứ 10/19 giá trị tiêu biểu của người Việt. Khá nhiều người Việt Nam cho
rằng, trung thực là giá trị vẫn còn được lưu giữ, chiếm 13,8% [149, tr.104].
Tuy nhiên, từ khi nước ta chuyển từ kinh tế tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tác động mặt trái của kinh tế thị
trường làm cho “bệnh” thiếu trung thực ở người Việt có xu hướng phát triển theo
chiều hướng tiêu cực. Theo số liệu điều tra của Trần Ngọc Thêm, có tới chiếm
81% số người được hỏi đánh giá “bệnh” thiếu trung thực, nói không đi đôi với
làm là một tật xấu điển hình nhất, đứng vị trí thứ nhất trong số 34 tật xấu trong
xã hội Việt Nam [146, tr.418-419]. Biểu hiện của sự thiếu trung thực ở người
Việt Nam hiện nay khá đa dạng, trước hết đó là sự thiếu nhất quán giữa tư tưởng
và hành động; nghĩ một đằng, làm một nẻo, nói không đi đôi với làm. Kết quả
điều tra cho thấy, trong những câu hỏi có liên quan đến cùng một chủ đề đều có
độ mâu thuẫn nhất định giữa nhận thức và hành động. Trong suy nghĩ, khi được
hỏi ý kiến cá nhân về “Những điều quan trọng nhất trong cuộc sống” có 35,4%
số người được hỏi đã lựa chọn “Sống có bản lĩnh, không chạy theo đám đông”,
tuy nhiên, trong số đó lại có 38,4% thường tìm người quen nhờ giúp đỡ trước khi
làm một việc quan trọng [146, tr.419]. Sự thiếu trung thực còn thể hiện ở chiêu
thức kiếm lợi trong giao dịch thương mại. Ở thành thị và khu vực đông dân
cư, khi đi chợ, người tiêu dùng đã quen và luôn phải đề phòng với tình trạng
“cân thiếu” trong buôn bán, kinh doanh của những thương nhân. Trong giáo
dục, thể hiện ở sự gian lận kết quả trong học tập, thi cử; ở tình trạng học giả,
bằng thật. Thống kê cho thấy, có tới 79,3% trên tổng số người được hỏi trả lời
đã từng có hành vi quay cóp bài trong thi cử, “Trong kỳ thi tốt nghiệp trung
học phổ thông hàng năm, ở nhiều địa phương sự gian lận đã trở thành hiện
tượng mang tính tập thể, có tổ chức” [146, tr.419].
Thiếu trung thực của người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ căn
“bệnh” thành tích. Hiện nay, bệnh thành tích vẫn đang tồn tại, phát triển, diễn
ra ở nhiều địa phương, cơ quan, trường học, doanh nghiệp nhà nước. Kết quả
114

điều tra cho thấy, bệnh thành tích chiếm 75,1%, được xếp vị trí thứ hai trong
tổng số 34 tật xấu của người Việt Nam [146, tr.326]. Bệnh thành tích biểu hiện
tập trung nhiều nhất ở trong các cơ quan nhà nước, trong ngành Giáo dục,
nhất là ở các cấp học phổ thông biểu hiện ở những điểm số mà giáo viên đánh
giá học cuối kỳ học, cuối năm học, dự giờ thi giáo viên giỏi… đến nỗi trong
năm học 2006 - 2007, ngành Giáo dục đã phát động phong trào “Nói không
với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, theo tinh thần
Chỉ thị số 33 ngày 8 tháng 9 năm 2006 về chống tiêu cực và khắc phục bệnh
thành tích trong giáo dục của Thủ tướng Chính phủ.
Bệnh thành tích còn thể hiện qua phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” với những số liệu “ấn tượng” về số lượng khu phố,
thôn/ấp đạt chuẩn “khu phố, thôn/ấp văn hóa”, trong khi ở chính nhưng nơi đó
vẫn tồn tại hoặc phát sinh những hiện tượng thiếu văn hóa như xả rác, nước
thải bừa bãi; các hộ kinh doanh lấn chiếm lòng lề đường để buôn bán; tệ nạn
xã hội tràn lan. Do nôn nóng chạy theo thành tích mà trong việc bình chọn các
danh hiệu văn hóa, có không ít địa phương thực hiện quy trình bình chọn một
cách qua loa chiếu lệ, chạy theo bệnh khoa trương hình thức mà không đi vào
thực chất. Trong phong trào xây dựng nông thôn mới, ở một số địa phương có
những xã tuy chưa đạt đủ 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn
mới, nhưng lãnh đạo xã và cấp trên vẫn cùng thỏa thuận cho “nợ tiêu chí” để
làm thủ tục công nhận và ra mắt xã nông thôn mới. Có xã nợ tiêu chí trường
học, nhà văn hóa; có xã có nhiều đường giao thông chưa được nhựa hóa hoặc
xuống cấp nghiêm trọng; có xã còn “cầu tiêu ao cá” chưa đảm bảo vệ sinh,
ngập úng, ô nhiễm môi trường từ các cơ sở sản xuất, trại chăn nuôi, hệ thống
cống rãnh thoát nước… nhưng vẫn làm lễ ra mắt xã nông thôn mới khiến cho
người dân trong xã cũng bất bình phản đối [146, tr.328].
Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm của không ít người dân đối với bản
thân và xã hội còn hạn chế, thể hiện ở việc tham gia giao thông phóng nhanh,
115

vượt ẩu, gây nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng. Theo kết quả điều tra của Trần
Ngọc Thêm, có 68,2% (3.809 trong số 5.589) người tham gia thừa nhận là tật
xấu đứng thứ 3 trong tổng số 34 tật xấu của người Việt Nam [ 146, tr.405]; còn
theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, năm tháng đầu năm
2015, trên toàn quốc xảy ra 9.318 vụ tai nạn giao thông, làm chết 3.735
người, bị thương 8.554 người [146, tr.404]. Riêng trong dịp Tết Nguyên đán
xuân Mậu Tuất 2018, theo thống kê, cả nước đã xảy ra trên 200 vụ tai nạn
giao thông, trong đó có gần 200 người bị chết và hàng trăm người khác bị
thương. Sự thiếu ý thức trách nhiệm còn thể hiện ở việc chấp hành nội quy,
quy định của xã hội của người dân còn rất hạn chế. Ở nhiều địa phương,
người dân ngang nhiên họp chợ, mua bán ngay trên vỉa hè, lòng đường, bất
chấp biển cấm, xả rác bừa bãi, vệ sinh công cộng không đúng nơi quy định
diễn ra thường xuyên.
Thiếu ý thức trách nhiệm thể hiện ở nhiều cán bộ công chức nhà nước
hiện nay “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”, làm việc không hiệu quả; thể hiện ở tệ
quan liêu, tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên. Theo kết quả điều tra của Trần Ngọc
Thêm, số người được hỏi cho rằng tham nhũng là căn "bệnh" trầm trọng, chiếm
tỷ lệ 66,6%; mức lương của cán bộ viên chức hiện nay “chỉ chiếm 30% thu
nhập nên để có được 70% còn lại, tình trạng thu nhập ngầm với đủ các căn
bệnh như ăn bớt giờ làm việc, tham nhũng, biếu xén, xin - cho, vòi vĩnh, nhũng
nhiễu, “đi đêm”, ăn chia, sân sau… ngày càng phình ra” [ 146, tr.502]. Xã hội ta
hiện nay đang tồn tại một thực tế đó là các kiểu "chạy": “chạy chức” trước
khi bầu cử; “chạy quyền” trước khi bổ nhiệm, thuyên chuyển cán bộ; “chạy
chỗ” nhằm tìm vị trí kiếm được nhiều lợi ích cho mình và cho người thân;
“chạy lợi” khi phân chia ngân sách, giao thầu, tính thuế, xét duyệt dự án đầu
tư, xét duyệt đề tài; “chạy tội” cho mình và cho người thân. Gần đây trong
các báo cáo về công tác xây dựng Đảng đã bổ sung thêm một số hình thức
116

"chạy" nữa như “chạy bằng cấp”, “chạy huân chương”, “chạy tuổi” gây bức
xúc trong nhân dân cần phải được giải quyết kịp thời.
Bệnh thiếu thiếu ý thức trách nhiệm xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân sâu xa từ cơ sở kinh tế - xã hội của một quốc gia
nông nghiệp đã hình thành nên lối sống, phong cách làm việc của người Việt
Nam mang tính tự nhiên, với quan niệm “phép vua thua lệ làng”. Cùng với
đó, hệ thống pháp luật trong những năm qua ở nước ta dù đã được bổ sung,
sửa đổi và ngày càng hoàn thiện song vẫn chưa đủ sức răn đe; quản lý xã hội
lỏng lẻo, chưa tạo môi trường xã hội thực sự trong sạch, lành mạnh, tạo điều
kiện cho sự nảy nở, lan tỏa những giá trị tích cực, để từng bước loại bỏ dần
những hành vi tiêu cực. Chính điều đó đã dẫn đến tình trạng không ít người,
trong đó có cả cán bộ đảng viên hiện nay thiếu ý thức trách nhiệm đối với
công việc, đối với bản thân, gia đình và xã hội, xuất hiện tư tưởng cá nhân ích
kỷ, vụ lợi và những hành vi tiêu cực khác.
3.2.5. Cần cù, sáng tạo
Hiện nay, cần cù, sáng tạo vẫn là một giá trị của người Việt Nam. Mặc
dù có ý kiến cho rằng người lao động, đặc biệt là lớp trẻ không còn cần cù
như thế hệ trước mà đang bị suy giảm, biểu hiện ở tình trạng thiếu hụt về lao
động có tay nghề cao; ít những người giỏi trong các nghề thủ công truyền
thống; tình trạng thanh niên nông thôn không muốn làm việc trong môi
trường sản xuất nông nghiệp; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông không
muốn vào học các trường dạy nghề. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, cần cù đã
trở thành “huyền thoại”, “không thể xem là một giá trị truyền thống điển hình
đã và đang có ở người Việt Nam. Người Việt Nam chỉ cần cù trong một số
điều kiện nhất định” [146, tr.274].
Tình trạng trên là có thật, song chưa phản ánh đầy đủ về sự suy giảm của
giá trị cần cù. Với tính cách là một giá trị của con người, cần cù được hiểu là
lòng yêu lao động, đức tính kiên nhẫn, chịu khó trong lao động, tinh thần trách
117

nhiệm đối với công việc nhằm đạt kết quả lao động tốt nhất. Quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang làm cho nhịp sống ở nông thôn lẫn thành thị
tăng lên. Theo kết quả điều tra của Ngô Đức Thịnh, giá trị cần cù đứng ở vị trí
thứ 3 trên tổng số 19 giá trị được khảo sát, chiếm 62,6 % [ 149, tr.104]. Số liệu
của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2015, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên của cả nước đạt 53,98 triệu người, tăng 236,2 nghìn người so với năm
2014. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị chiếm 31,3%, lực lượng lao
động ở nông thôn chiếm 68,7%. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động
trong độ tuổi là 2,33%, trong đó ở khu vực thành thị là 3,3%, khu vực nông
thôn là 1,82%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong đội tuổi lao
động là 1,89%, trong đó khu vực thành thị 0,84%, khu vực nông thôn 2,39%
[157, tr.83]. Đây được coi là một chỉ báo của giá trị cần cù - giá trị tiêu biểu
của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực nêu trên, vẫn còn không ít người
Việt Nam có biểu hiện ham chơi, lười lao động. Quan niệm của người Việt
xưa “Tháng giêng là tháng ăn chơi/ Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè” hiện
vẫn tồn tại trong suy nghĩ của rất nhiều người. Biểu hiện ở chỗ, sau dịp nghỉ
Tết Nguyên đán, không ít cán bộ công chức, viên chức và người lao động có
tâm lý ngại đến cơ quan, công sở, trường học để làm việc, thay vào đó là nhu
cầu, mong muốn đi lễ hội, đền, chùa, du xuân ở nhiều nơi trên cả nước để
cầu an, cầu may. Trong khi nước ta, theo thống kê có khoảng 8.000 lễ hội
lớn nhỏ với hình thức, cấp độ khác nhau như: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử,
lễ hội tôn giáo; lễ hội cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp tổng, cấp xã, cấp làng… Có
lễ hội diễn ra chỉ 1 đến 2 ngày, nhưng cũng có lễ hội kéo dài đến vài ba
tháng, làm tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền của, cho dù đó cũng là một nét
văn hóa truyền thống của dân tộc. Thực tế cho thấy, cùng với sự phát triển
kinh tế, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên thì
càng có nhiều người dân lãng phí thời gian cho việc uống cà phê buổi sáng,
118

uống bia buổi chiều, nhậu nhẹt lai rai hàng mấy tiếng đồng hồ trong các
quán xá. Nhiều người Việt Nam hiện nay vẫn quan niệm rằng về hưu đồng
nghĩa với sự nghỉ ngơi với “thú vui tuổi già”, "vui thú điền viên, sum vầy
bên con cháu", trong khi ở các nước phát triển, cán bộ công chức, viên chức
về hưu họ vẫn tiếp tục làm nhiều việc có ích cho gia đình và xã hội.
Đáng lo ngại hơn, có một bộ phận lớp trẻ thích ăn chơi, hưởng thụ xa
hoa, lười lao động, hay đòi hỏi mà quên mất nghĩa vụ, trách nhiệm của mình
đối với gia đình và xã hội; một bộ phận thế hệ trẻ không có chí tiến thủ, tự
thân lập nghiệp, lười học, hoặc học chỉ mang tính chất đối phó, có thể ngồi
hàng giờ trên mạng, nhưng không phải để cập nhật thông tin bổ ích, mà để
“chát” với bạn bè. Theo một nghiên cứu gần đây được tiến hành ở Đại học
Quốc gia Hà Nội cho thấy, ngoài giờ lên lớp, phần đông sinh viên (chiếm
54,2%) chỉ dành từ 1 đến 2 giờ cho việc đọc (bao gồm cả đọc tài liệu chuyên
môn, đọc sách, báo giải trí). Số sinh viên thậm chí hằng ngày chỉ dành dưới 1
giờ cho việc đọc chiếm tới 27,1%. Còn lại là thời gian danh cho “việc khác”
hoặc đơn giản là “không làm gì cả” [ 163, tr.345]. Đây là một cảnh báo cho sự
suy thoái của giá trị cần cù của người Việt Nam cần khắc phục, để giá trị quý
báu này luôn được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Cùng với đức tính cần cù, sáng tạo là một phẩm chất tiêu biểu của
người Việt Nam trước kia cũng như hiện nay. Kết quả điều tra của Ngô Đức
Thịnh cho thấy, sáng tạo là giá trị được xếp ở vị trí thứ 9/19 giá trị tiêu biểu,
chiếm 16,9%. Hiện nay, giá trị này còn được tiếp tục giữ, chiếm 29,4% [ 149,
tr.110]. Còn theo Báo cáo xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) năm 2017 (Global Innovation Index
2017, gọi tắt là GII 2017), Việt Nam được xếp hạng 47 trên 127 quốc gia,
tăng 12 bậc so với năm 2016. Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt
được từ trước tới nay và là cột mốc đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về các
hoạt động đổi mới sáng tạo.
119

Thực tiễn lịch sử cho thấy người Việt Nam rất sáng tạo, thể hiện ở
trong lao động sản xuất cũng như trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Nhờ
sự sáng tạo mà dân tộc Việt Nam có thể hạn chế sức tàn phá của thiên nhiên,
sống hòa thuận với thiên nhiên, buộc thiên nhiên phục vụ con người; nhờ óc
sáng tạo mà dân tộc Việt Nam giữ vững được chủ quyền lãnh thổ quốc gia
trước âm mưu và hành động xâm lược của kẻ thù để tồn tại và phát triển.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, đã có nhiều sáng chế, phát minh của
người Việt Nam cả ở trong và ngoài nước khiến thế giới khâm phục, nhất là
trên lĩnh vực khoa học công nghệ và y học. Có thể nêu lên một số trường hợp
điển hình như: Em Dương Kim Hảo, học sinh lớp 6, Trường Trung học cơ sở
Nguyễn Gia Thiều, thành phố Hồ Chí Minh đã sáng chế ra Bảng điều khiển
thông minh. Sáng chế này sau khi giành nhiều giải thưởng trong nước đã tiếp
tục ghi dấu ấn tại Triển lãm quốc tế về công nghệ, sáng kiến sáng chế năm
2013 (ITEX 2013); GS.TS Hùng Nguyễn - người gốc Việt làm việc tại Đại
học Sydney (Australia) cùng các cộng sự chế tạo thành công chiếc xe lăn
thông minh được điều khiển thông qua ý nghĩ của con người, mang lại cuộc
sống thuận tiện hơn cho người khuyết tật. Sáng chế này được xếp hạng ba
trong danh sách 100 phát minh hàng đầu tại Australia năm 2011; bác sĩ người
Mỹ gốc Việt Phạm Hoàng Tánh (tức Dr. Randal Pham) phát minh ra một loại
thủy tinh có khả năng điều chỉnh độ nhìn gần xa, rộng hẹp như một loại kính
đa tròng, giúp người già vĩnh viễn không cần đeo kính; ông Đỗ Đức Cường, ở
Quảng Ngãi phát minh ra máy ATM trong hệ thống ngân hàng; ông Đặng
Hoàng Sơn, ở thành phố Vĩnh Long phát minh ra bộ tiết kiệm nhiên liệu cho
xe máy rất hiệu quả, an toàn, đã được tổ chức Chứng nhận hệ thống quản lý
chất lượng quốc tế - Vương quốc Anh cấp giấy chứng nhận “Nhà cung cấp
đáng tin cậy”; ông Trần Quốc Hải, ở tỉnh Tây Ninh sáng chế chiếc máy bay
trực thăng mang thương hiệu “hai lúa”... Đó là những minh chứng sinh động
và chân thực cho tính sáng tạo của người Việt Nam.
120

Tuy nhiên, năng lực sáng tạo của người Việt nói chung mới chỉ dừng
lại ở tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, nên ít có những phát minh
khoa học mang tầm cỡ thế giới, thậm chí có ý kiến cho rằng người Việt thông
minh, nhưng theo kiểu “tinh vặt”. Về điều này, học giả Đào Duy Anh từng
nhận xét: “Về chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng
xưa nay ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà
giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giầu trực giác hơn luân lý. Phần nhiều
người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích
thành sao và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động [1, tr.22]. Trong thời đại
cuộc Cách mạng 4.0 hiện nay, chúng ta không thể thông mình theo kiểu “tinh
vặt”, chỉ giỏi “bắt chước”, làm theo người khác, mà điều quan trọng là cần
phát huy năng lực sáng tạo, nghĩa là phải có năng lực tạo ra cái mới, trên cơ
sở của những cái đã có. Sáng tạo là biểu hiện của sự thông mình, nhưng thông
minh, chưa hẳn đã sáng tạo. Vì thế, cần phát huy năng lực sáng tạo cho người
Việt Nam. Kết quả một cuộc khảo sát cho thấy, có 52,25% số người được hỏi
cho rằng cần coi trọng giáo dục óc sáng tạo, đứng ở vị trí thứ 11/15 phẩm chất
[55, tr.139] đã cho thấy rõ điều đó.
Một trong những nguyên nhân làm cho sự sáng tạo của người Việt còn
hạn chế là do nhiều năm trước đây, giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng lối
giáo dục phong kiến: thầy nói, trò nghe; người thầy được coi là trung tâm
của giáo dục chứ không phải là học trò, đã tạo ra những thế hệ học trò chỉ
quen thói ỷ lại, dựa dẫm vào kiến thức của thầy. Ảnh hưởng mặt trái của nền
giáo dục phong kiến đã tạo ra những sản phẩm chỉ giỏi bắt chước người khác,
thói quen “diễn” lại những gì thầy đã giảng, làm cho nhiều thế hệ người Việt
luôn có tính thụ động, mà ít có tính chủ động, sáng tạo; chưa có động cơ, thái
độ học tập đúng đắn, học không phải vì mục đích tự thân, mà chủ yếu học vì
sĩ diện, học để kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê. Nền giáo dục
mới hiện nay cũng chưa thực sự phát huy được tính sáng tạo của người Việt.
121

Nội dung, phương pháp giảng dạy còn mang tính hàn lâm, kinh viện, ít gắn
với thực tiễn, thiếu hơi thở cuộc sống. Cùng với đó, chúng ta chưa có cơ chế
chính sách đãi ngộ thỏa đáng, chưa tạo môi trường thuận lợi cho những tài
năng bộc lộ, cống hiến, đã dẫn tới hiện tượng “chảy máu chất xám”. Biểu
hiện ở chỗ khá nhiều sinh viên Việt Nam hiện nay được cử đi đào tạo ở nước
ngoài, sau khi tốt nghiệp không muốn trở về Việt Nam công tác, mà tìm cách
ở lại làm việc cho các công ty tư bản tại các nước phát triển.
3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ SỰ PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM
3.3.1. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu định hướng giá trị
với thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội, vấn đề xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người luôn được
Đảng và Nhà nước ta coi trọng, thể hiện trong nhiều Văn kiện Đại hội Đảng
và Hội nghị trung ương, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII
(1998) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc” và Hội nghị Trung ương 9, khóa XI “Về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”. Trong đó, Đảng ta xác định mục tiêu giáo dục, định hướng giá trị
cho con người Việt Nam là nhằm đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc; có đạo đức, có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo hiến pháp
và pháp luật; bảo vệ môi trường; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản
thân, gia đình và xã hội; biết khẳng định và tôn vinh những giá trị tích cực,
đấu tranh phê phán với những hành vi tiêu cực; có thế giới quan khoa học,
hướng tới chân, thiện, mỹ. Mục tiêu Đảng ta đề ra vừa mang tính tổng quát,
vừa mang tính cụ thể, nhằm từng bước hoàn thiện hệ giá trị của con người
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Thực trạng phát triển hệ giá trị con người Việt Nam thời gian qua cho
thấy, các giá trị: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn kết; nhân ái; trung
122

thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo vẫn được phần lớn người dân Việt Nam
trân trọng, gìn giữ và phát huy; vẫn được coi là giá trị tiêu biểu, cốt lõi, đặc
trưng cho cốt cách, bản sắc văn hóa, con người Việt Nam. Song bên cạnh đó,
mỗi giá trị trong hệ giá trị cũng đang xuất những biểu hiện tiêu cực, thậm chí
suy thoái ở những mức độ khác nhau, nhất là giá trị đạo đức. Biểu hiện tiêu
cực, suy thoái đó là do nhiều nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan).
Trong đó, nguyên nhân chủ quan là do: Công tác tuyên truyền, định hướng
giá trị vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cả về nội dung lẫn hình thức; mối liên hệ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục, định hướng giá trị cho
người Việt Nam chưa thường xuyên, chặt chẽ; hệ thống luật pháp dù đã được
bổ sung, sửa đổi và ban hành, song chưa đủ sức răn đe, cùng với sự quản lý
xã hội lỏng lẻo; chưa lường được hết những tác động mặt trái của toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường đến con người Việt Nam.
Mâu thuẫn giữa mục tiêu và hiện trạng trên đây phản ánh những mong
muốn của Đảng và nhân dân ta, hướng tới xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, những con người vừa mang trong mình giá trị truyền thống và giá trị
hiện đại, con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể mỹ, là động lực thúc đẩy
xã hội ngày càng phát triển; nó đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết, từ chủ
trương, chính sách đến biện pháp tổ chức thực hiện, từ nhận thức nhận thức cho
đến hành động của mỗi người. Mâu thuẫn này là hệ quả tác động hai chiều
mang tính tất yếu của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và kinh tế thị trường đến con người Việt Nam; là biểu hiện của quá trình
đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống với hiện đại, giữa bảo tồn
và phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần nhận thức và giải quyết tốt mối
quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong phát triển hệ giá trị của
con người Việt Nam. Nó đòi hỏi các chủ thể khi tham gia hoạch định đường
lối, chính sách phát triển hệ giá trị của con người cần xuất phát từ thực tiễn,
phù hợp với thực tiễn, có tác dụng cải tạo hiện thực khách quan. Nói cách
khác, phải xuất phát từ thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt
123

Nam để xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển hệ giá trị của
con người. Kết quả quá trình hiện thực hóa hệ giá trị của con người Việt
Nam là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá việc xác định mục tiêu ấy có phù
hợp hay không.
Trên cơ sở những mục tiêu phát triển văn hóa, con người đã được
Đảng ta nêu ra trong các văn kiện, nghị quyết, cần chỉ ra mục tiêu phát triển
hệ giá trị của con người ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, bao gồm cả ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn; cho từng đối tượng cụ thể trong xã hội, các tầng
lớp dân cư. Lựa chọn hệ giá trị định hướng phù hợp, phản ánh cốt cách, bản
sắc dân tộc, nhưng vẫn mang hơi thở thời đại, để hiện thực hóa vào trong đời
sống xã hội. Giáo dục, định hướng giá trị phải trở thành nhu cầu tự thân của
mỗi người, trở thành một phong trào có sức hấp dẫn, lôi cuốn và lan tỏa sâu
rộng trong toàn xã hội.
Một vấn đề nữa đặt ra đó là, quá trình triển khai thực hiện cần có lộ
trình và bước đi thích hợp, bằng nhiều biện pháp khác nhau, nhằm phát huy
những thành tựu đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế; coi trọng tổng
kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, làm cơ sở cho việc phát triển hệ giá trị của con
người Việt Nam ở những giai đoạn tiếp theo. Cần đánh giá một cách khách
quan và dự báo chính xác những tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường đến
sự phát triển giá trị của con người Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ra phương
hướng và những giải pháp hữu hiệu, nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị
tích cực, khắc phục những yếu tố phi giá trị, xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
3.3.2. Giải quyết mối quan hệ, tác động tích cực, tiêu cực của các nhân
tố khách quan, chủ quan đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của cách
mạng khoa học công nghệ và kinh tế thị trường đến con người Việt Nam rất
lớn, tự bản thân nó chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết. Toàn cầu hóa
124

và hội nhập quốc tế là xu thế không thể đảo ngược, nó luôn mang theo nhiều
giá trị, trong đó có hai loại giá trị chủ yếu: giá trị văn hóa và giá trị văn minh.
Giá trị văn minh là sản phẩm của sự tiến bộ về nhận thức, trình độ chiếm lĩnh
thế giới bằng những sáng tạo, phát minh về khoa học và công nghệ, tạo bước
nhảy vọt trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, không
phải giá trị văn minh nào cũng chứa đựng giá trị văn hóa, có những giá trị văn
minh mà không có giá trị văn hóa, thậm chí phản văn hóa. Toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế chứa đựng trong bản thân nó những mâu thuẫn nội tại: vừa mang
giá trị tích cực, vừa mang giá trị tiêu cực, tác động đến tất cả các quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là chấp nhận sự
tác động tích cực và tiêu cực của nó. Các giá trị tích cực là các giá trị mang
tính phổ quát, tiêu biểu cho trình độ sản xuất hiện đại; bên cạnh đó cũng chứa
đựng nhiều yếu tố tiêu cực, phản giá trị, ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa,
con người. Điều đó đã dẫn đến hiện tượng một số quốc gia trên thế giới đang
dấy lên phong trào “khuyến khích mở rộng”, “phản đối cảnh báo” xu thế toàn
cầu hóa. Vì thế, việc nhận thức rõ tác động hai chiều của toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, để chủ động tiếp thu những giá trị tiến bộ; đồng thời, tìm ra
những biện pháp, tạo sức đề kháng, nhằm hạn chế những tác động tiêu cực
của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đến con người Việt Nam là rất cần thiết.
Cùng với đó, nước ta hiện nay đang chịu tác động tích cực lẫn tiêu cực
của kinh tế thị trường đến sự phát triển giá trị của con người Việt Nam. Về
vấn đề này, từ lâu, C.Mác đã từng cảnh báo nhân loại về những gì mà kinh tế
thị trường đã và sẽ mang lại cho đời sống xã hội. Trong khi khẳng định những
mặt tích cực mà kinh tế thị trường mang lại, ông cũng phê phán mạnh mẽ mặt
trái của nó, đó là sự cạnh tranh hàng hóa, lợi nhuận, những cái mà C.Mác
miêu tả là đã dìm tất cả những gì tốt đẹp giữa con người với con người vào
lớp băng lạnh giá của sự tính toán vị kỷ, vào mối quan hệ trả tiền ngay không
cần tình nghĩa.
125

Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, nền kinh tế - xã hội
không ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân
không ngừng được nâng lên, đã tác động tích cực đến sự hình thành, phát
triển nhiều giá trị của con người. Song, tác động khách quan nền kinh tế thị
trường cũng tạo ra nhiều yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị của con
người Việt Nam, nhất là giá trị đạo đức. Thực tế đó buộc chúng ta phải nhận
thức rằng, chấp nhận kinh tế thị trường là chấp nhận cả sự tác động tiêu cực
đến sự phát triển giá trị truyền thống của con người Việt Nam; phát triển kinh
tế đi đôi với phát triển văn hóa, con người, bởi đây là mối quan hệ mật thiết
tác động quy định lẫn nhau: Phát triển kinh tế là nhằm mục tiêu phát triển văn
hóa, cho con người, vì con người; đến lượt mình, phát triển văn hóa, con
người lại có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế.
Để giải quyết vấn đề trên, cần chủ động tích cực tham gia vào quá trình
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, coi đó là xu thế tất yếu, khách quan, không thể
đảo ngược; kiên định đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạch định đường lối chủ
trương, chính sách đúng đắn, nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực trong nước và
ngoài nước, tiếp thu những thành tựu về khoa học công nghệ 4.0 của các nước
tiên tiến để phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, hạn chế những tác động mặt
trái của xu thế đó đến sự phát triển giá trị của con người Việt Nam. Trước hết,
cần tập trung đánh giá chính xác những tác động tích cực, tiêu cực của toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường
đến con người Việt Nam, từ đó tìm ra những giải pháp nhằm tiếp thu giá trị
tích cực, hạn chế tác động tiêu cực, không ngừng làm phong phú thêm giá trị
truyền thống của dân tộc; phát huy giá trị tích cực phải đi liền với việc khắc
phục những yếu tố phi giá trị, hạn chế, tiêu cực trong con người Việt Nam.
3.3.3. Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam
Trong mỗi quốc gia dân tộc, giá trị truyền thống có vai trò quan trọng,
làm nên “cốt cách”, “bản sắc” của dân tộc đó, tạo nên sự khác biệt giữa quốc
126

gia này với quốc gia khác. Truyền thống luôn chứa đựng cả những giá trị tích
cực lẫn tiêu cực, mang tính ổn định tương đối và tính lưu truyền, tồn tại lâu
dài trong nếp nghĩ, thói quen, khi đã ăn sâu vào trong máu thịt của con người
thì không dễ gì có thể loại bỏ trong một khoảng thời gian nhất định, ngay cả
khi những cơ sở của nó đã biển đổi.
Hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường
mang đến cho nước ta cả yếu tố giá trị xen lẫn yếu tố phi giá trị, thâm nhập
vào hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, dẫn đến sự xung đột giữa giá trị
truyền thống với giá trị hiện đại; giữa xu hướng hoài cổ, tuyệt đối hóa giá trị
truyền thống với xu hướng muốn xóa bỏ giá trị cũ để xây dựng giá trị mới,
trong quan hệ giữa cá nhân với xã hội hay giữa các nhóm xã hội với nhau.
Thể hiện những khác biệt trong nhận thức và lựa chọn giá trị định hướng của
các chủ thể, nhất là thế hệ trẻ. Bên cạnh số đông vẫn coi trọng những giá trị
truyền thống còn không ít người có xu hướng chạy theo lối sống hiện đại, phủ
nhận sạch trơn giá trị truyền thống. Có không ít người nhân danh “bảo vệ bản
sắc dân tộc” đã có thái độ đề cao quá khứ một cách thái quá, thậm chí chủ
trương phục cổ; một số khác nhân danh kế thừa, phát huy giá trị truyền thống
của dân tộc để khôi phục những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp với bối
cảnh hiện nay. Xung đột giữa giá trị truyền thống với giá trị hiện đại một mặt
tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển; mặt khác, xung đột đến mức các giá
trị mới, có xu hướng lấn át các giá trị truyền thống mà không được kiểm soát
tốt, sẽ mang lại những hậu quả xấu đến sự phát triển văn hóa, con người, thậm
chí gây mất ổn định xã hội.
Xung đột giữa truyền thống và hiện đại trong bảo tồn và phát huy giá
trị con người Việt Nam diễn ra ở phạm vi, cấp độ khác nhau. Ở phạm vi hẹp,
đó là quan hệ giữa các cá nhân với cá nhân; ở phạm vi rộng đó là quan hệ
giữa cá nhân với xã hội hay giữa các nhóm xã hội với nhau. Ở cấp độ thấp,
đó là những mâu thuẫn, khác biệt trong nhận thức, mất phương hướng trong
việc lựa chọn giá trị định hướng, không phân biệt rõ đâu là chân giá trị? đâu
là giả giá trị? Ở cấp độ cao hơn, đó là sự khủng hoảng niềm tin, lý tưởng,
127

ảnh hưởng xấu đến sự phát triển xã hội. Xung đột giữa truyền thống với hiện
đại, một mặt có tác dụng tích cực, góp phần làm cho xã hội không ngừng
phát triển; mặt khác, xung đột tới mức không thể kiểm soát sẽ mang đến hệ
quả xấu. Những xung đột đó dẫn đến hiện tượng mỗi giá trị trong tháng giá
trị như: Độc lập, tự do; yêu nước; đoàn kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm;
cần cù, sáng tạo đều tồn tại cả yếu tố tích cực lẫn hạn chế, biểu hiện thông
qua nhận thức và hành vi của con người.
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống với hiện đại trong phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam, vấn đề đặt ra là phải không ngừng
làm phong phú thêm giá trị truyền thống con người Việt Nam bằng việc bổ
sung vào đó những giá trị hiện đại. Giá trị truyền thống không thể tồn tại bền
vững nếu không được bổ sung những giá trị mới mang hơi thở thời đại, đúng
như George F.Mc Lean từng khẳng định: “Truyền thống là mảnh đất nuôi dưỡng
niềm hy vọng cho con người và khi được nuôi dưỡng trong mạch nguồn văn
hóa, văn minh, truyền thống mới đủ sức mạnh bảo vệ và thúc đẩy cuộc sống
cũng như củng cố mối liên hệ giữa các dân tộc” [18, tr.211]. Kế thừa và phát huy
giá trị truyền thống dân tộc trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân loại
trên tinh thần cởi mở. Cởi mở ở đây không có nghĩa là chấp nhận sự du nhập
những giá trị xa lạ từ bên ngoài, thậm chí có cả những yếu tố phản giá trị, mà
nhằm mục tiêu nâng cao giá trị truyền thống, đúng như Mahatma Găngđi từng
khẳng định: “Tôi không muốn ngôi nhà của tôi bị bao quanh bốn phía và các cửa
sổ bị đóng kín. Tôi muốn làn gió văn hóa của tất cả các xứ sở thổi quanh nhà tôi
một cách tự do đến mức có thể. Song tôi không cho phép bất kỳ điều gì làm
nghiêng ngả đôi chân của mình” [18, tr.169].
Tiếp thu giá trị hiện đại nhưng không làm mờ đi hoặc phủ nhận sạch
trơn giá trị truyền thống, nhất là những giá trị cốt lõi, tiêu biểu làm nên “cốt
cách”, “bản sắc” văn hóa, con người Việt Nam. Tiếp thu giá trị hiện đại dựa
trên nền tảng là giá trị truyền thống; đến lượt mình, giá trị truyền thống tác
động trở lại làm cho giá trị hiện đại trở nên gần gũi, phù hợp với văn hóa, con
người Việt Nam hơn. Tuyệt đối hóa giá trị truyền thống thường dẫn đến bảo
128

thủ, trì trệ, thậm chí cản trở sự phát triển xã hội; trái lại, thái độ kinh miệt
những di sản tiến bộ của nhân loại sẽ dẫn đến sự mất mát những thành tựu có
giá trị của loài người. Giá trị truyền thống chỉ có vai trò tích cực khi nó mang
trong mình tất cả những gì tinh túy nhất của quá khứ, hiện tại và định hướng
tương lai.
129

Tiểu kết chương 3

Bước sang thế kỷ XXI, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế thị trường đã và đang tác động
tích cực lẫn tiêu cực đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam, làm
cho hệ giá trị của con người Việt Nam: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc;
đoàn kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo đang có những
biến đổi theo xu hướng vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, được biểu
hiện ở những hình thức, mức độ khác nhau. Những yếu tố tích cực và tiêu cực
cùng tồn tại đan xen trong nhận thức, hành vi, lối sống của mỗi cá nhân và
cộng đồng xã hội. Điều đó đã dẫn đến sự nhiễu loạn, mất phương hướng,
thậm chí khủng hoảng trong việc lựa chọn và định hướng giá trị cho người
Việt Nam.
Thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam đang đặt ra
những vấn đề cần tiếp tục giải quyết đó là: Giải quyết mối quan hệ giữa mục
tiêu định hướng giá trị với thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam; giải quyết mối quan hệ, tác động tích cực, tiêu cực của các nhân tố khách
quan, chủ quan đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam; giải quyết
mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam. Để
giải quyết những mối quan hệ đó, đòi hỏi phải đưa ra được những quan điểm
và giải pháp đúng đắn, cả trên phương diện nhận thức đến hành động, cả giải
pháp trước mắt và lâu dài, nhằm tiếp tục phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
130

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4.1. QUAN ĐIỂM


4.1.1. Phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trên cơ sở vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt sâu sắc quan điểm,
chủ trương của Đảng về giá trị con người
Phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, phù
hợp với đặc điểm văn hóa, con người Việt Nam và xu thế phát triển chung của
thời đại. Đồng thời, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa, con người, trong đó có
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI và Văn kiện Đại hội lần thứ XII
của Đảng nhằm “xây dựng… con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học” [10, tr.57-58]; “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
phải trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng… hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế” [38, tr.126-127]… làm cho các quan điểm, chủ
trương đúng đắn của Đảng về phát triển văn hóa, con người thấm sâu vào
trong nhận thức của mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân, từ đó biến thành động
cơ, mục đích nhằm mục tiêu hiện thực hóa hệ giá trị của con người Việt Nam;
làm cho mỗi người Việt Nam hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về những giá trị
truyền thống quý báu của dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái tốt, cái cao
thượng; đấu tranh phê phán cái xấu, cái thấp hèn, làm lan tỏa sâu rộng các giá
trị nhân văn.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI của Đảng về hệ
giá trị của con người Việt Nam, với những đặc tính: yêu nước, nhân ái, nghĩa
131

tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, tiếp tục cụ thể hóa thành những
phẩm chất, chuẩn mực để mỗi cộng đồng, tập thể và cá nhân lựa chọn trên cơ
sở thái độ, niềm tin, sở thích và tâm thế, nhằm hình thành động cơ, xu hướng
hoạt động và ứng xử phù hợp. Xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam
đảm bảo mối quan hệ giữa tính thống nhất với tính đa dạng, tính phổ biến với
tính đặc thù; giữa giá trị chung của dân tộc với giá trị cộng đồng và giá trị cá
nhân; đảm bảo yêu cầu vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại,
phát triển hài hòa các yếu tố: đức, trí, thể, mỹ. Tiếp tục hoàn thiện giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp
luật; đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm
của mỗi người đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội; tôn vinh cái
tốt, cái cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái thấp hèn; chống
các hành vi sai trái, tiêu cực, sự xuống cấp về đạo đức, hình thành lối sống
cao đẹp “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
Nghiên cứu, đánh giá chính xác, khách quan những tác động tích cực
lẫn tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường và cuộc Cách mạng 4.0 đến sự
biến đổi hệ giá trị của con người Việt Nam; tiếp tục phát huy những thành tựu
đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác tuyên truyền,
giáo dục, định hướng giá trị cho con người Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất
hệ thống giải pháp có tính khả thi, nhằm phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
4.1.2. Phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trên cơ sở tiếp
thu có chọn lọc giá trị của nhân loại
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển hệ giá trị của
con người Việt Nam hiện nay, tiếp tục nắm vững quan điểm biện chứng của
132

sự phát triển trong việc giải quyết mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa
truyền thống với hiện đại. Trong mối liên hệ đó, cái cũ mất đi, nhường lại cho
cái mới ra đời, cái mới hình thành sẽ phủ định cái cũ, song giữa chúng lại có
mối liên hệ mật thiết với nhau, giá trị của kế thừa biện chứng được thể hiện
bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Trong dòng chảy bất tận của
thời gian, không có cái mới nào ra đời từ hư vô, không có cái quá khứ nào
mất đi mà không để lại dấu vết của nó trong hiện tại, mà chúng tham gia vào
việc tái tạo cái hiện tại trong mối liên hệ mật thiết với cái quá khứ. Kế thừa là
sự bảo tồn những đặc điểm, đặc tính của một sự vật, hiện tượng cũ trong quá
trình phát triển; trái lại, phát triển không chỉ là bảo tồn, mà còn bao hàm trong
đó sự bổ sung, hoàn thiện và nâng cao về chất những đặc tính vốn có của sự
vật, hiện tượng.
Phát triển hệ giá trị của con người trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của
các nước trên thế giới và khu vực trong việc lựa chọn giá trị định hướng.
Trước hết là học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc coi trọng kế thừa
giá trị truyền thống, nhưng vượt ra khỏi xã hội truyền thống để xây dựng một
xã hội hiện đại; tiếp thu đức tính quý báu của người Nhật như: Đức tính cần
cù, tiết kiệm, ham học hỏi để không ngừng cải tiến kỹ thuật, tăng năng xuất
lao động; đề cao tinh thần tập thể, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân;
hành động theo mục tiêu xác định; khiêm nhường, giữ chữ tín trong quan hệ
ứng xử; yêu thiên nhiên và có khiếu thẩm mỹ tinh tế.
Học tập kinh nghiệm lựa chọn giá trị định hướng của Trung Quốc, đó là
“năm chuẩn mực, bốn phẩm chất, ba tình yêu”. Năm chuẩn mực gồm: hành vi
tốt, phong thái tốt, kỷ luật tốt, vệ sinh tốt, đạo đức tốt; bốn phẩm chất gồm: tư
tưởng đúng, biểu đạt đúng, tác phong đúng, trang phục đúng; ba tình yêu gồm:
yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu Đảng Cộng sản. Học tập kinh nghiệm
của Singapore, vừa tranh thủ những thành tựu khoa học và công nghệ trên thế
133

giới để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vừa coi trọng kế thừa
và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: Ý thức, tinh
thần dân tộc; sự cần cù, sáng tạo; tính kỷ luật; đề cao giá trị truyền thống và
mối quan hệ gia đình. Nguyên Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong từng
khẳng định: “Cái đưa Singapore tiến lên không thể chỉ là chủ nghĩa vật chất
thuần túy và việc chạy theo lợi nhuận cá nhân. Điều quan trọng hơn là ý thức
về lý tưởng và sự phụng sự được sinh ra từ tình cảm đoàn kết xã hội và bản sắc
dân tộc” [74, tr.334]. Singapore chủ trương hướng đến năm giá trị: quốc gia,
gia đình, cá nhân, khoan dung, hài hòa.
Tiếp thu những giá trị tiến bộ của các nước phương Tây như: Dân chủ,
nhân quyền, ý thức thượng tôn luật pháp, tác phong làm việc đúng giờ, khoa
học; tinh thần hợp tác, làm việc nhóm… để bổ sung vào hệ giá trị định hướng
cho người Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tiếp thu giá
trị của thế giới trên tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh để có thể
hòa nhập mà không bị hòa tan, không làm mất đi bản sắc của mình; đồng thời,
đưa giá trị truyền thống con người Việt Nam ra thế giới, góp phần làm phong
phú thêm giá trị chung của nhân loại. Tránh rơi vào hai xu hướng, hoặc là bảo
thủ, không đổi mới, tuyệt đối hóa giá trị truyền thống, coi nhẹ giá trị của nhân
loại; hoặc là phủ nhận sạch trơn những giá trị truyền thống, muốn thay thế giá
trị truyền thống bằng giá mới của nhân loại, kể cả những giá trị không phù
hợp với văn hóa Việt Nam. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn với phát
triển giá trị truyền thống; kết hợp hài hòa giữa tính nguyên tắc với tính linh
hoạt trong kế thừa giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thu giá trị của nhân loại.
4.1.3. Phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam
phù hợp với điều kiện hiện nay
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời gian tới cần tiếp
tục phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt phù hợp với điều
kiện hiện nay. Cụ thể:
134

Phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc. Nếu như
trước đây, thời kỳ cả dân tộc Việt Nam còn chìm đắm trong vòng nô lệ, Hồ
Chí Minh đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc trong mỗi người
dân Việt Nam, không cam chịu làm nô lệ, quyết tâm đấu tranh giải phóng dân
tộc, thì trong bối cảnh hiện nay, lòng yêu nước được thể hiện ở những điều
bình dị hàng ngày mà ai cũng có thể làm được, thông qua những hành động
“sống đẹp, sống có ích” cho cộng đồng và xã hội; thể hiện ở ý thức về nỗi
nhục đói nghèo, nỗi đau lạc hậu, từ đó làm bừng lên khát vọng cống hiến sức
lực, trí tuệ của mình để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh;
thể hiện ở sự kiên định mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng
và Bác Hồ đã chọn, kiên quyết chống lại những quan điểm sai trái, xuyên tạc,
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; chấp hành nghiêm mọi đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ vững độc lập tự
chủ, tự cường. Quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và
các tệ nạn xã hội; có dũng khí bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải; thể hiện ở sự
trung thành với Tổ quốc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc
gia; giữ gìn hình ảnh đất nước trong con mắt bạn bè quốc tế, phát huy lòng tự
hào dân tộc; lấy tinh thần yêu nước là mẫu số chung để quy tụ sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, đó là “nghĩa lớn” để vượt qua các “lợi nhỏ” của cá nhân và
nhóm xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, lòng yêu nước cần được thể hiện một
cách tỉnh táo và bản lĩnh, bằng trái tim nóng để sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc
và cái đầu lạnh để biết quan sát đánh giá sự việc một cách bình tĩnh, khôn
khéo, không để kẻ thù lợi dụng.
Tiếp tục phát huy giá trị truyền thống đoàn kết trên cơ sở lấy mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng,
để khắc chế những dị biệt mâu thuẫn. Tôn trọng những điểm khác biệt không
trái với lợi ích chung của cộng đồng; khắc phục tư tưởng hẹp hòi, bè phái,
thái độ hận thù dân tộc. Không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo; không
phân biệt người Việt Nam ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài. Tiếp
135

tục đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau để tạo sự đồng thuận xã hội. Giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, để vừa tạo sự đồng thuận xã hội, vừa
tôn trọng cá nhân. Khắc phục tư tưởng hẹp hòi, bảo thủ khi rủ nhau “ta về ta
tắm ao ta/ dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”; đoàn kết người Việt Nam ở trong
nước với người Việt Nam ở nước ngoài, đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn
kết quốc tế.
Phát huy giá trị truyền thống nhân ái, thương người như thể thương
thân; quan tâm chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua hoạn nạn, khó khăn, cùng
vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc vì lợi
ích chung của cộng đồng. Đẩy mạnh giáo dục lối sống trọng nghĩa tình, đề
cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tương thân tương ái “lá lành đùm bọc lá
rách” trong hoạn nạn, khó khăn, “tối lửa tắt đèn” có nhau; lối sống khiêm
nhường, bao dung, nhân ái, vị tha, yêu thương đồng loại; giải quyết những
xung đột, mâu thuẫn xã hội bằng lý trí và tình cảm. Tích cực cùng cộng đồng
quốc tế giải quyết các vấn đề toàn cầu như: dịch bệnh, phòng chống thiên tai,
chống chủ nghĩa khủng bố, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
Coi trọng giáo dục đức tính trung thực và trách nhiệm cho người Việt
Nam, chống thói giả dối, thủ đoạn theo kiểu “tinh vặt”. Coi phẩm chất trung
thực là giá trị hàng đầu của nhân cách, là cơ sở của lòng tin đối với mọi người
xung quanh, với xã hội và bạn bè quốc tế. Giáo dục lối sống trung thực, bắt
đầu từ trau dồi tư tưởng, tình cảm đến rèn luyện trở thành hành vi đạo đức,
thể hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Hình thành trong mỗi
người dân Việt Nam ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội,
với Tổ quốc; thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân.
Phát huy đức tính cần cù, sáng tạo của người Việt Nam, để đức tính
quý báu này không rơi vào “huyền thoại”. Cần cù được thể hiện trên các lĩnh
vực hoạt động: lao động sản xuất, học tập, nghiên cứu khoa học… nhằm tạo
136

ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Giáo dục lối sống giản dị, tiết kiệm, chống thói
lười biếng, tiêu dùng xa xỉ, hoang phí. Kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, coi đó là “kẻ thù của nhân dân”, là “giặc nội xâm”
như Hồ Chí Minh đã dạy. Tạo môi trường thuận lợi và cơ chế, chính sách
nhằm phát huy năng lực sáng tạo của người Việt Nam trong thời đại kinh tế
tri thức và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Bổ sung, phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam
những nội dung mới mang hơi thở thời đại gắn với việc sàng lọc, tiến tới loại
trừ dần những yếu tố phi giá trị. Bởi lẽ, chìa khóa của việc xây dựng hệ giá trị
của con người không chỉ nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị cốt lõi, tiêu
biểu, mà còn ở việc xác định các tật xấu cơ bản cần được loại trừ. Trong thời
gian tới, bên cạnh việc phát huy các giá trị truyền thống tiêu biểu của người
Việt Nam, tiếp tục khắc phục, hạn chế những biểu hiện tiêu cực, phi giá trị
như: Chủ nghĩa cá nhân; tư tưởng cục bộ địa phương chủ nghĩa; thói cào
bằng, đố kỵ; giả dối, thiếu ý thức pháp luật; sự suy thoái về phẩm chất đạo
đức, lối sống… với lộ trình, bước đi thích hợp, bằng hệ thống giải pháp thiết
thực, hiệu quả.
4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.2.1. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng thực hiện chính sách
xây dựng, phát triển con người Việt Nam, coi đó là nhiệm vụ chiến lược lâu
dài của Đảng và của cách mạng. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam hiện nay, cần thực hiện tốt
một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần đánh giá chính xác những nhân tố tác động tích cực lẫn
tiêu cực đến con người Việt Nam, để từ đó xây dựng chính sách phát triển hệ
giá trị của con người cho phù hợp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trước
137

những thách thức của toàn cầu hóa, chính phủ của nhiều quốc gia đã xem xét
lại các vấn đề giữ gìn bản sắc của dân tộc mình. Chẳng hạn, nước Pháp kêu
gọi cấm tự do lưu thông các sản phẩm có lợi cho Mỹ, Trung Quốc hô hào
chống ô nhiễm tinh thần, Nhật bản tổ chức cuộc họp khu vực châu Á bàn về
văn hóa dân tộc, Singapore với mục đích cùng nhau làm việc vì lợi ích chung
của đất nước… Việc đánh giá chính xác những tác động của nhân tố khách
quan, chủ quan sẽ tạo cơ sở để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách xây dựng, phát triển văn hóa, con người phù hợp.
Đặt nhiệm vụ phát triển hệ giá trị con người Việt Nam trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội; gắn nhiệm vụ xây dựng, phát triển con người với xây
dựng, phát triển văn hóa. Trong chiến lược phát triển văn hóa, cần coi con
người là yếu tố cốt lõi, là giá trị cao nhất, quy tụ bản chất của văn hóa, bởi văn
hóa là phạm trù thuộc về con người, do con người sáng tạo ra vì sự phát triển,
hoàn thiện của chính mình. Nói đến văn hóa là nói đến con người, mọi hoạt
động văn hóa suy đến cùng đều hướng tới con người, vì con người; con người
vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa, vừa thẩm định và hưởng thụ các giá trị của văn
hóa. Xây dựng và phát triển văn hóa vì mục tiêu phát triển toàn diện con người,
với nhiệm vụ trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách và lối
sống cao đẹp. Sự phát triển văn hóa, con người lại góp phần củng cố hệ thống
chính trị, khắc phục khuyết tật, yếu kém, tạo nên sự phù hợp giữa hệ thống
chính trị với các yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội
trong thực hiện nhiệm vụ phát triển hệ giá trị của con người. Bởi lẽ, giữa hệ
thống chính trị với hệ giá trị định hướng được xem như là mối quan hệ hai
chiều, trong đó, hệ thống chính trị có vai trò chỉ đạo, định hướng cho việc
phát triển hệ giá trị; đến lượt mình, hệ giá trị của con người khi đã được hình
138

thành, phát triển lại góp phần củng cố hệ thống chính trị. Nếu tách ra khỏi các
mối quan hệ này, sẽ không thể có hệ giá trị của con người Việt Nam.
Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, cần tiếp tục nghiên cứu,
hoàn thiện hệ giá trị cốt lõi để định hướng, trên cơ sở kế thừa những giá trị
truyền thống của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc giá trị của nhân loại. Từ đặc
tính của con người Việt Nam được nêu trong Nghị quyết hội nghị Trung ương
9, khóa XI, tiếp tục cụ thể hóa thành những chuẩn mực phù hợp với từng giai
cấp, tầng lớp xã hội, các cộng đồng dân cư, để định hướng, nhằm hình thành
trong mỗi con người Việt Nam lối sống tôn trọng pháp luật, có ý thức bảo vệ
môi trường, biết kết hợp hài hòa giữa tính tích cực cá nhân với tính tích cực
xã hội; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn, ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống
cấp về đạo đức, lối sống. Tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức và
trong việc lựa chọn các giá trị để giáo dục, định hướng cho con người Việt
Nam, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục hoàn xây dựng, hoàn thiện cơ chế nhằm thúc
đẩy nhanh quá trình hiện thực hóa hệ giá trị của con người Việt Nam. Quy
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban,
ngành chức năng ở trung ương và địa phương trong hiện thực hóa hệ giá trị
của con người Việt Nam. Quán triệt tới toàn thể cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng, phát triển
hệ giá trị của con người Việt Nam, coi đó là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
và cả hệ thống chính trị.
Thứ ba, tiếp tục rà soát chính sách phát triển hệ giá trị của con người
theo hướng: Bổ sung, hoàn thiện những chính sách đúng đắn còn tác dụng;
đồng thời, loại bỏ những chính sách đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực
tiễn hiện nay. Chính sách phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam cần đặt
trong mối quan hệ mật thiết với chính sách phát triển kinh tế - xã hội và chính
sách phát triển văn hóa. Trước hết, cần xây dựng, hoàn thiện chính sách phát
triển văn hóa, con người Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng con người
139

Việt Nam phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, theo các giá trị chuẩn mực,
trên tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Thực hiện tốt
chính sách phát triển giáo dục, đào tạo, thực sự coi giáo dục, đào tạo là quốc
sách hàng đầu. Xác định rõ mục tiêu giáo dục nhằm phát triển con người Việt
Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, có
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và ý thức công dân toàn cầu; trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân; phát huy tiềm năng, khả năng sáng
tạo của mỗi cá nhân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở mục tiêu giáo dục, cần xây dựng nội
dung, phương pháp giáo dục, định hướng hệ giá trị con người Việt Nam phù
hợp với từng cấp học, bậc học và từng đối tượng cụ thể.
Tiếp tục coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giáo
dục, định hướng giá trị. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: cán bộ là
“gốc” của công việc, mọi việc thành hay bại, chủ yếu và trước hết là do cán
bộ tốt hay kém. Người phương Tây cũng có câu: “Giá trị của định chế không
phụ thuộc vào định chế nhưng phụ thuộc vào người áp dụng định chế đó”.
Điều đó có nghĩa là, giá trị của một tổ chức không phụ thuộc vào học thuyết
mà tổ chức ấy theo đuổi, nhưng phụ thuộc vào người quản lý hệ thống ấy.
Chính đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ sẽ quyết định sự phát triển hay làm
khủng hoảng, đảo lộn giá trị. Vì thế, Đảng, Nhà nước cần coi trọng công tác
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý văn
hóa, giáo dục để đội ngũ này am hiểu sâu sắc về giá trị văn hóa, con người;
cần có những yêu cầu cụ thể về phẩm chất, năng lực cần thiết để họ có thể
140

đảm đương nhiệm vụ, đi đôi với việc thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ một
cách hợp lý. Việc làm này hết sức có ý nghĩa, vừa tạo ra một thế hệ cán bộ có
phẩm chất, năng lực tốt, lại vừa góp phần nhân rộng, lan tỏa những giá trị tốt
đẹp tới cộng đồng thông qua vai trò của họ. Tiếp tục thực hiện cải cách mạnh
mẽ chính sách tiền lương đối với cán bộ công chức, viên chức đang hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, bảo đảm cho đội ngũ này có thể sống bằng
thu nhập chính đáng để yên tâm công tác, toàn tâm, toàn ý với nhiệm vụ được
giao. Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh
đạo, quản lý văn hóa, giáo dục; cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu
ngành, thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng, tạo môi trường thuận lợi để đội
ngũ này làm việc và sáng tạo khoa học. Trọng dụng người có đức, có tài;
đồng thời, có những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cụ thể đối với đội ngũ
này, để họ trở thành những cán bộ tốt, thực hiện trọng trách đi trao truyền giá
trị cho người khác.
Thực hiện tốt chính sách sách lao động, việc làm để mọi công dân đến
tuổi lao động đều có việc làm và thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam là quốc gia đang ở thời kỳ “dân số
vàng”, với lực lượng lao động dồi dào. Chính sách lao động, việc làm phù
hợp sẽ góp phần nâng cao giá trị sống của con người - cơ sở quan trọng để từ
đó phát triển các giá trị khác; trái lại, chính sách lao động, việc làm không
phù hợp sẽ làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Đây chính là
nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo, mại dâm…
và nhiều yếu tố phi giá trị khác. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện tốt các chính
sách về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân
dân… bởi đây là những chính sách rất quan trọng, trực tiếp thúc đẩy việc hình
thành và khẳng định giá trị của con người Việt Nam.
141

4.2.2. Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, định
hướng giá trị cho con người Việt Nam
Giá trị không có mục đích tự thân, giá trị muốn biến thành hiện thực
đòi hỏi phải được thâm nhập vào quần chúng thông qua tuyên truyền, giáo
dục định hướng giá trị. Vì thế, để phát triển giá trị của con người Việt Nam
hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, định hướng giá trị thông qua các phương tiện
truyền thông, cả truyền thống lẫn hiện đại. Tổ chức biên soạn tài liệu tuyên
truyền, định hướng giá trị với nội dung dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với trình độ
nhận thức, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, phù hợp với văn hóa vùng miền và triển
khai sâu rộng trong toàn xã hội. Tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, tinh
thần tự tôn dân tộc thông qua pa nô, băng rôn, khẩu hiệu nhân dịp các ngày tết
và ngày lễ như: Kỷ niệm Ngày thành lập Đảng (03/2), Ngày giỗ tổ Hùng
Vương (10/3), Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), Ngày
chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5)… Tiếp tục xuất bản ấn phẩm văn học tạo
cảm xúc mạnh mẽ, gây hiệu ứng tích cực tới độc giả như: Nhật ký “Mãi mãi
tuổi hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc (năm 2005), “Nhật ký Đặng
Thùy Trâm” (2007)... để tiếp tục thắp lên “ngọn lửa” tình yêu quê hương, đất
nước, lòng tự hào dân tộc. Tuyên truyền, giáo dục định hướng giá trị với
nhiều hình thức phong phú (tranh, ảnh, logo, khẩu hiệu…) khắc, in trên
nhiều chất liệu khác nhau (gỗ, giấy, vải…); bằng pano, áp phích ở các bến
tàu, bến xe, in trên trang phục của thanh, thiếu niên, trên các đồ lưu niệm…
với nội dung thích hợp. Tiếp tục xây dựng các trang chuyên mục về giáo dục,
định hướng giá trị trên các báo: Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng và trên các
tạp chí. Phát huy mạnh mẽ vai trò báo giấy, báo điện tử, trang mạng xã hội
trong tuyên truyền, định hướng giá trị cho người Việt Nam đi liền với việc
quản lý chặt chẽ thông tin, nhằm ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến con
người Việt Nam, nhất là đối với thế hệ trẻ. Thực tế cho thấy, nhiều thanh,
142

thiếu niên Việt Nam hiện nay vào mạng internet không phải để tìm kiếm
những thông tin bổ ích, phục vụ cho học tập nâng cao trình độ, mà để vùi đầu
vào thế giới ảo, game online, trò chơi bạo lực, phim ảnh có nội dung không
lành mạnh… mà xu hướng ở thế hệ trẻ thường rất nhạy cảm, dễ tin, dễ bắt
trước, làm theo những thông tin, hình ảnh xấu độc.
Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình phát trên sóng truyền hình như
“Việc tử tế”, “Lục lạc vàng”, “Cặp lá yêu thương”, “Xin chào hạnh phúc”,
Bổ sung thêm trang chuyên mục “người tốt, việc tốt” trên các tờ báo ở trung
ương và địa phương nhằm phát hiện, biểu dương và nhân rộng những tấm
gương điển hình; đồng thời, lên án, đấu tranh với những hành vi tiêu cực,
phản giá trị trong đời sống xã hội hiện nay. Tiếp tục phát động các quỹ từ
thiện như: quỹ ủng hộ người bị ung thư “Ngày mai tươi sáng”, quỹ ủng hộ
người nghèo, quỹ chất độc màu da cam… Xây dựng những bộ phim ngắn,
phát trên kênh truyền hình với nội dung hấp dẫn; tổ chức các cuộc thi sáng tác
thơ, văn, truyện, ký sự và các loại hình nghệ thuật phản ánh thực tiễn đời sống
xã hội, thông qua đó phê phán những biểu hiện phi giá trị, định hướng theo
những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Thứ hai, tiếp đẩy mạnh phong trào “Thi đua yêu nước” gắn với cuộc
vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong toàn xã hội. Thi đua là cách thể hiện lòng yêu nước có ý nghĩa thiết thực
nhất. Thông qua phong trào “Thi đua yêu nước”, những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc như: đoàn kết, nhân ái, cần cù, sáng tạo… tiếp tục được
phát huy. Tiếp tục tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước
diễn ra ở các cấp, các ngành, các địa phương như: Cuộc vận động “Học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; cuộc vận động
“Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong ngành Giáo dục; cuộc
vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ
Hồ” trong Quân đội; cuộc vận động “Công an nhân dân chấp hành nghiêm
143

điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hoá vì nhân dân phục vụ” trong ngành
Công an; phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc”… Triển khai các cuộc vận động, phong trào thi đua
yêu nước một cách thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức; làm cho mỗi người
dân tự giác, tích cực tham gia, trở thành một nhu cầu tự thân của mỗi người. Có
như vậy, các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước mới có sức sống, tác
dụng lan tỏa sâu rộng những giá trị tốt đẹp trong cộng đồng. Cùng với đó, cần
coi trọng công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm các cuộc vận động,
phong trào thi đua yêu nước; kịp thời biểu dương khen thưởng những tập thể và
cá nhân tiêu biểu nhằm tôn vinh những giá trị tích cực, từng bước đẩy lùi mặt
tiêu cực trong đời sống xã hội.
Thứ ba, quy định cụ thể hơn về chức năng, nhiệm vụ, mối liên hệ giữa
gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục, định hướng giá trị. Trước hết,
cần tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2
(2015-2020) tầm nhìn 2030; trong đó, triển khai thực hiện quy định mang tính
pháp lý, yêu cầu mỗi công dân trước khi kết hôn phải có sự hiểu biết nhất
định về giá trị gia đình, kỹ năng nuôi dạy con cái, tâm, sinh lý trẻ em và các
giá trị cần hình thành khác ở những lứa tuổi tương ứng. Gia đình có trách
nhiệm giáo dưỡng, hình thành ở trẻ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, thể hiện
trước hết ở tình yêu quê hương, gia đình; về truyền thống đoàn kết, nhân ái,
đức tính khiêm tốn, thật thà, dũng cảm; sống có trách nhiệm với bản thân, gia
đình và xã hội; biết phân biệt những hành vi tốt - xấu, đúng - sai, trân trọng và
hướng tới cái đẹp.
Nhà trường cần quán triệt rõ mục tiêu của giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân; phát
huy khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu hội nhập quốc tế. Xác định rõ mục đích của
144

giáo dục là “phát triển con người - dạy và học làm người” chứ không chỉ đơn
thuần cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Trên cơ sở đó, xây dựng nội dung, phương pháp giáo dục, định
hướng giá trị cho phù hợp ở từng cấp học, bậc học. Trước hết, đối với cấp học
mầm non, cần giáo dục cho trẻ ngay từ khi mới đến trường về lễ nghĩa “tiên
học lễ, hậu học văn”, biết chào hỏi lễ phép với thầy cô và bạn bè. Thông qua
hoạt động học tập và vui chơi hằng ngày của trẻ, lồng ghép trong đó những
bài học về cách ứng xử lịch thiệp, biết nói lời cảm ơn và xin lỗi trong các tình
huống phù hợp; biết chia sẻ trách nhiệm với tập thể, như: dọn dẹp đồ chơi để
đúng nơi quy định trước khi hết giờ; có khả năng tự lập, tự phục vụ bản thân.
Đối với cấp học giáo dục phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông), cần lấy việc phát triển nhân cách người học là mục tiêu cơ bản,
trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục
phù hợp. Lựa chọn, bổ sung nội dung môn học về đạo đức sao cho dễ hiểu, dễ
nhớ, gần gũi với cuộc sống hằng ngày, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa
tuổi. Giáo dục giá trị thông qua những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh và các anh hùng dân tộc trong lịch sử, được minh họa bằng những
hình ảnh sinh động, chân thực, tác động mạnh mẽ tới tâm hồn và tình cảm của
học sinh. Lồng ghép nội dung giáo dục giá trị truyền thống: yêu nước, nhân ái,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo… của dân tộc, trên cơ sở giảm bớt các nội dung kiến
thức trừu tượng khó hiểu. Tiếp tục củng cố đội ngũ giáo viên giảng dạy môn
Giáo dục công dân, đảm bảo tiêu chuẩn về số lượng, chất lượng, mẫu mực về
đạo đức, lối sống, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Ngoài giáo dục chính khóa,
cần tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho
học sinh; coi trọng giáo dục kiến thức với giáo dục kỹ năng sống, học đi đôi
với hành, gắn liền với lao động sản xuất.
Đối với giáo dục chuyên nghiệp, cần nghiên cứu, biên soạn và đưa vào
giảng dạy chính thức môn Giá trị học. Trước mắt, có thể tích hợp việc giáo dục
145

giá trị của con người Việt Nam thông qua các môn học về chính trị, lịch sử, văn
hóa, đạo đức. Xây dựng sách giáo khoa, sách tham khảo cho các môn học này
với nội dung dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Tiếp tục thực hiện chuyển
từ đào tạo theo hướng tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực, nhằm xây
dựng môi trường kích thích văn hóa sáng tạo, tự do tư tưởng, tự do học thuật.
Trân trọng và kịp thời biểu dương những sáng kiến, nhất là trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ, nhằm tôn vinh giá trị sáng tạo của mỗi người. Thực
hiện chiến lược phát triển toàn diện con người về đức, trí, thể, mỹ, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây
dựng lối sống cao đẹp “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; nâng cao nhận thức về giá trị
con người, khẳng định và tôn vinh cái đẹp, lên án thói hư, tật xấu.
Cùng với việc phát huy vai trò của gia đình và nhà trường, cần tiếp tục
xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, trong đó con người sống và hoạt
động. Thực tế cho thấy, con người luôn gắn bó và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi
môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội, mặc dù con người có khả năng cải
biến môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ông ta cha thường nói “gần
mực thì đen, gần đèn thì rạng” là như thế. Phẩm chất tốt đẹp của con người sẽ
hình thành, phát triển nếu được sống trong môi trường xã hội lành mạnh, trái
lại, sẽ bị suy thoái nếu môi trường xã hội bị “vẩn đục” bởi sự phát triển của
những yếu tố phi giá trị. Môi trường xã hội lành mạnh góp phần quan trọng
vào việc hình thành nên giá trị của con người; đến lượt mình, con người lại
góp phần làm cho xã hội ngày càng văn minh. Trong thời gian tới, cần xây
dựng môi trường sống có văn hóa, góp phần giáo dục, rèn luyện con người.
Quản lý chặt chẽ không để một số trào lưu tư tưởng, văn hóa, lối sống thực
dụng ngoại lai và những sản phẩm đồi trụy, độc hại từ nước ngoài xâm nhập
vào nước ta; cùng với đó, cần tiếp tục quản lý chặt chẽ hoạt động xuất bản,
báo chí, nhất là các trang mạng xã hội như Youtube, Facebook… nhằm ngăn
chặn tác động tiêu cực đến hệ giá trị của con người Việt Nam. Tăng cường
146

phối hợp giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể xã hội trong giáo
dục thế hệ trẻ. Lồng ghép nội dung giáo dục giá trị trong các hoạt động
phong trào xã hội; tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng
nếp sống văn minh; nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư.
Thứ tư, vận dụng sáng tạo phương pháp "nêu gương" của Hồ Chí Minh
trong giáo dục, định hướng giá trị cho con người Việt Nam, các cấp lãnh đạo từ
trung ương đến địa phương cần nêu tấm gương về đạo đức để người dân soi
chiếu và thực hành. Thực tế cho thấy, thời gian vừa qua, một số vụ án tham
nhũng xảy ra với số tiền thất thoát mỗi vụ lên tới hàng nghìn tỷ đồng, gây bức
xúc trong trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nếu
không giải quyết triệt để sẽ “cổ vũ” cho những “căn bệnh” như: tư tưởng cá
nhân chủ nghĩa, lợi ích nhóm, cơ hội… phát triển, thậm chí tiềm ẩn nhiều nguy
cơ khác. Vì thế, trong các cơ quan đảng, chính quyền, cấp trên nêu gương đối
với cấp dưới về phẩm chất đạo đức, năng lực, lối sống trong sạch, không ham
địa vị, tiền tài, không tham nhũng, quan liêu, gần gũi quần chúng, “nói đi đôi
với làm”. Có như vậy mới tạo sức lan tỏa, tác động tích cực để quản lý xã hội
một cách hiệu quả. Trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho con cái về cách
đối nhân xử thế, thể hiện trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc; xây dựng
gia đình ấm no, hạnh phúc. Trong nhà trường, mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương về đạo đức tự học và sáng tạo để học sinh noi theo; không ngừng học
tập nâng cao trình độ tri thức, năng lực chuyên môn, có sự hiểu biết nhất định
về các giá trị truyền thống dân tộc. Ngoài ra, cần tiếp tục giáo dục, định
hướng giá trị cho các thế hệ người Việt Nam bằng tấm gương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các anh hùng dân tộc, phát hiện và nhân rộng những tấm
gương “người tốt, việc tốt” trong thực tiễn cuộc sống để toàn xã hội học tập,
noi theo.
147

4.2.3. Phát huy năng lực tự giáo dục giá trị của mỗi người dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực về năng lực tự học, tự rèn
luyện mà thành tài. Nhờ phẩm chất đó, Người có thể tiếp thu nhiều giá trị của
dân tộc và nhân loại để làm giàu vốn tri thức của bản thân, để từ đó vận dụng
vào trong cuộc sống và hoạt động cách mạng. Quán triệt tư tưởng, tấm gương
Hồ Chí Minh về tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện, chúng ta cần coi trọng phát
huy năng lực tự giáo dục cho mỗi người dân để mỗi người dân tự hoàn thiện
bản thân, góp phần vào việc xây dựng, phát triển hệ giá trị xã hội. Muốn vậy,
chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục để mỗi người
dân nhận thức rõ sự cần thiết phải tự giáo dục theo giá trị định hướng. Bản
chất của giáo dục suy cho cùng là tự giáo dục, chỉ khi nào con người tự nhận
thức đúng đắn về sự cần thiết phải giáo dục mới có thể biến quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục. Giáo dục giá trị cũng như vậy. Chỉ khi nào mỗi cá
nhân tự ý thức về sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện để hướng tới cái đẹp,
cái cao cả, tránh xa cái xấu, cái thấp hèn, mong muốn phấn đấu để từng bước
hoàn thiện nhân cách thì khi ấy mới có thể biến thành động cơ thúc đẩy hành
vi tự giác ở mỗi người. Quá trình giáo dục, định hướng giá trị cho con người
Việt Nam sẽ không đạt kết quả nếu tách rời với quá trình tự giáo dục của mỗi
cá nhân.
Vì vậy, vấn đề quan trọng là ở chỗ, trước hết phải làm cho mỗi người
dân Việt Nam nhận thức đầy đủ, sâu sắc về những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và sự cần thiết phải tự giáo dục theo định hướng giá trị. Phải làm
cho mỗi người dân Việt Nam luôn trân trọng giá trị độc lập, tự do mà mình
đang có, từ đó nâng cao thêm lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tích cực đóng
góp công sức, trí tuệ của mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có tinh thần
gắn kết giữa cá nhân với cộng đồng xã hội, biết giải quyết hài hòa giữa lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể; có lòng nhân ái, khoan dung, biết yêu thương và
sẵn sàng chia sẻ với nỗi khổ đau của người khác; có đức tính trung thực, ý
148

thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội; cần cù, sáng tạo trong
học tập, lao động sản xuất và chiến đấu. Mỗi cá nhân phải trở thành một thành
tố trung tâm của giáo dục, không tiếp nhận giáo dục một cách thụ động, mà
phải thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ: vừa có trách nhiệm nâng cao giá trị
cho bản thân mình, lại vừa giáo dục giá trị cho người khác, góp phần làm cho
mỗi yếu tố trong hệ giá trị của con người ngày càng hoàn thiện hơn, được
cộng đồng xã hội tôn trọng và ghi nhận.
Điều cần lưu ý là, năng lực nhận thức của mỗi người trong xã hội khác
nhau, không phải ai cũng nhận thấy sự cần thiết phải tự giáo dục theo chuẩn
giá trị; mặt khác, nhận thức của con người là một quá trình đi từ không đến
có, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Vì thế, chúng ta cần
tác động vào nhu cầu nhận thức cho người dân, phù hợp với từng đối tượng
và hoàn cảnh cụ thể. Cần tác động bằng nhiều hình thức và biện pháp để mọi
người dân từng bước nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về sự cần thiết phải
tự giáo dục theo chuẩn giá trị; cần tạo dư luận xã hội, thông qua đó điều
chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của mỗi người. Phối hợp và sử dụng có
hiệu quả các hình thức tuyên truyền, kết hợp với công cụ luật pháp để định
hướng dư luận xã hội, điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi người theo mục
tiêu xác định.
Thứ hai, ngoài việc tác động vào nhu cầu nhận thức, cần hình thành
trong mỗi người dân năng lực đánh giá, thẩm định giá trị, để có thể phân biệt
được đúng - sai, tích cực - tiêu cực, cao cả - thấp hèn, hướng con người vươn
tới chân, thiện, mỹ. Thông qua tuyên truyền, giáo dục, trang bị cho người dân
những kỹ năng cần thiết để hoạt động một cách có hiệu quả và để sống tốt
hơn. Bởi giữa kỹ năng sống và giá trị con người (cá nhân) có mối quan hệ
tương tác với nhau, trong đó giá trị con người là cơ sở để hình thành kỹ năng
sống; ngược lại, kỹ năng sống làm cho giá trị con người hình thành và phát
triển đẩy đủ hơn. Theo các tổ chức giáo dục, kỹ năng sống gắn với bốn trụ
cột của giáo dục, đó là: 1) Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư
149

duy sáng tạo, ra quyết định giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả. 2)
Học để làm: gồm các kỹ năng thực hiện công việc như kỹ năng đặt mục tiêu,
đảm nhận trách nhiệm… 3) Học để cùng chung sống: gồm các kỹ năng giao
tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm… 4) Học để
làm người: gồm các kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự
nhận thức, tự tin... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng dạy: Học để
làm việc, học để làm người, học để phụng sự Tổ quốc, nhân dân và nhân
loại, đã tạo ra những thế hệ người Việt Nam mới, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, mỗi cá nhân, thông qua giáo dục và quá trình hoạt
động hãy tự trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng ứng xử trong các mối quan hệ xã hội… Khi có được những kỹ
năng ấy, mỗi cá nhân sẽ có cách ứng xử đúng đắn, biết bảo vệ và hướng tới
những gì tích cực và rời xa những gì tiêu cực. Điều này đặc biệt có ý nghĩa
trước sự biến đổi hệ giá trị của con người ở nước ta hiện nay, nhất là giá trị
đạo đức. Giá trị của cá nhân hình thành sẽ góp phần phát triển những giá trị
của cộng đồng và khi những giá trị của cộng đồng phát triển sẽ tác động trở
lại, nâng cao giá trị của cá nhân.
Thứ ba, mỗi cá nhân phải coi tự giáo dục là một quá trình tự thân và
được diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt cuộc đời mình. Tự giáo dục
luôn đòi hỏi ở mỗi người sự kiên trì, bền bỉ, không chủ quan, tự mãn. Điều
quan trọng là ở chỗ, tự giáo dục không chỉ thể hiện ở tư tưởng, lời nói, không
phải là “đóng cửa tu thân” kiểu Nho giáo, mà thể hiện thông qua hoạt động
thực tiễn; thông qua các mối quan hệ xã hội, từ hẹp nhất là mối quan hệ giữa
cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể và rộng hơn nữa là giữa cá nhân
với Tổ quốc. Tự giáo dục luôn đòi hỏi ở mỗi người tinh thần tự giác, “khắc
kỷ, chính tâm”, nhìn thấy rõ ưu điểm của bản thân để phát huy, những hạn
chế của bản thân để khắc phục. Chỉ khi nào con người tích cực, tự giác giáo
dục, rèn luyện theo chuẩn giá trị, mới có thể biến những giá trị xã hội thành
150

giá trị của cá nhân, từ đó lan tỏa trở thành giá trị của cộng đồng và giá trị
chung của dân tộc. Tự giáo dục là con đường ngắn nhất để có thể hiện thực
hóa hệ giá trị của con người Việt Nam.
4.2.4. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thực thi
trong thực tiễn nhằm phát huy yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực
của con người Việt Nam
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò rất quan trọng bảo đảm sự tồn
tại, vận hành bình thường của xã hội. Pháp luật là công cụ quản lý đất nước
hữu hiệu nhất, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát triển những giá trị
văn hóa, con người Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, góp phần bảo vệ các quyền
con người, tạo điều kiện cho con người phát huy năng lực sáng tạo. Việc xây
dựng và thực thi pháp luật là điều kiện quan trọng để gìn giữ, phát huy các giá
trị truyền thống, khắc phục những yếu tố phi giá trị. Pháp luật nghiêm minh
với chế tài đủ sức răn đe sẽ góp phần ngăn chặn những hành vi tiêu cực, hình
thành những hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam thể hiện ở chỗ, thông qua pháp luật, đường lối, chủ trương của Đảng về
phát triển con người được hiện thực hóa; đồng thời, xác lập cơ sở pháp lý cho
các chủ thể tham gia vào việc gìn giữ, phát huy các giá trị của con người.
Bằng việc ban hành các văn bản luật, Nhà nước ấn định những khuôn mẫu
hành vi ứng xử, gắn với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào việc
giữ gìn, phát huy giá trị con người. Pháp luật không chỉ là quy phạm hóa
chính sách của Nhà nước về văn hóa, con người mà còn tạo cơ sở pháp lý cho
các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân gìn giữ, phát huy giá trị
văn hóa, con người.
151

Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm “đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây
dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các
hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma túy, cờ bạc” [ 36, tr.223].
Năm 2013, Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi cùng với hệ thống văn bản pháp
quy đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, duy trì sự ổn định
trật tự xã hội. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển hệ
giá trị của con người Việt Nam hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt một số
nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến
phát triển văn hóa, con người, tạo cơ sở cho việc phát triển hệ giá trị của con
người Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phải trên cơ sở đặc
điểm phong tục, tập quán, có tác dụng thúc đẩy việc hình thành những giá trị
tốt đẹp, ngăn ngừa những yếu tố phi giá trị. Trong thời gian tới, cần tiếp tục
bổ sung, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật để giải quyết những vấn
đề nổi cộm hiện nay như: an toàn giao thông, phòng chống tham nhũng và các
tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường, chống hàng giả… nhằm duy trì sự ổn định
trật tự xã hội, phát huy những yếu tố tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu
cực của con người Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần
chú ý đến mối quan hệ với phong tục, tập quán của dân tộc. Bởi lẽ, phong tục
là toàn bộ những hoạt động sống của con người, được hình thành trong lịch
sử, đã ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận, tự giác thực hiện và
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Phong tục được tuân thủ theo quy
định của luật tục hay hương ước, nên ăn sâu bám rễ trong đời sống, sinh hoạt
của nhân dân. Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong
sản xuất và sinh hoạt hằng ngày, được mọi người công nhận và làm theo.
152

Là một bộ phận của văn hóa, phong tục, tập quán có vai trò nhất định
đến việc hình thành giá trị truyền thống của một dân tộc hoặc một địa
phương, nó ảnh hưởng, thậm chí chế định đến nhiều hành vi ứng xử của cá
nhân trong cộng đồng. Phong tục, tập quán của người Việt có những giá trị tốt
đẹp (mỹ tục) và những yếu tố phi giá trị (hủ tục). Phong tục, tập quán khi đã
trở thành nếp nghĩ, thói quen trong sinh hoạt, ứng xử cộng đồng thường rất
khó thay đổi, muốn cải tạo không thể một sớm một chiều. Vì thế, trong xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần khắc phục mặt tiêu cực, nhất là lối
ứng xử thiên về cảm tính, trọng tình trong quan hệ xã hội truyền thống của
người Việt. Mặt khác, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức, trong đó pháp luật là hệ thống các nguyên tắc xử sự mang tính chất bắt
buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do Nhà nước ban hành, để
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội; còn
đạo đức là hệ thống quy tắc, chuẩn mực, để nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Giữa
đạo đức và pháp luật có điểm chung ở chỗ, đều là hình thái ý thức xã hội, chịu
sự quy định của tồn tại xã hội; đều góp phần điều chỉnh hành vi của con người
cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội;
đều có quan hệ trách nhiệm đối với bản thân mình và đối với người khác.
Pháp luật với đạo đức có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau,
trong đó pháp luật giữ vai trò bảo vệ, củng cố và nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức, tạo hành lang pháp lý để định hướng hành vi con người. Pháp luật sẽ
bị vi phạm nếu đạo đức xã hội tha hóa; ngược lại, pháp luật không nghiêm sẽ
có tác động xấu đến đạo đức xã hội. Trong xã hội có giai cấp, pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp cầm quyền. Giai cấp cầm quyền tiến bộ thì luật pháp
đề ra cũng tiến bộ và phù hợp với xã hội; ngược lại, khi giai cấp cầm quyền
bảo thủ, lạc hậu thì pháp luật chỉ bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. Bên
153

cạnh mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, chúng ta cần coi trọng mối
quan hệ giữa pháp luật với văn hóa. Việc xây dựng pháp luật phải trên cơ sở
văn hóa, nghĩa là pháp luật phải có khả năng chuyển hóa thành văn hóa để
điều chỉnh hành vi của con người.
Thứ hai, phát huy vai trò “thần linh” pháp quyền, sớm đưa pháp luật
thâm nhập vào cuộc sống. Kinh nghiệm từ các nước: Singagore, Nhật Bản,
Pháp, Đức… cho thấy, không phải tự nhiên sinh ra là dân tộc họ đã văn minh,
lịch sự, mà ở đó họ rất coi trọng việc đưa pháp luật vào quản lý xã hội; họ
không chỉ kêu gọi, vận động ý thức tự giác của người dân, mà sử dụng chế tài
pháp luật để tạo nên ý thức tự giác cho người dân. Ở Singapore, ngay từ năm
1968, luật pháp quy định hành vi xả rác bừa bãi lần đầu tiên sẽ bị phạt tối đa
1.000 USD, tái phạm thì mức phạt sẽ tăng lên từ 2.000 - 5.000 USD và phải
lao động công ích (quét đường); ở Philipines, hành vi xả rác bừa bãi bị phạt tù
thời gian từ 5 ngày tới một năm; ở nước Mỹ có quy định chi tiết hình phạt cho
hành vi xả rác, tùy từng bang mà số tiền phạt có thể từ 20 đến 30.000 USD
(Bang Maryland), kèm theo hình phạt tù từ 10 ngày tới 6 năm.  Ở Việt Nam,
việc thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào trong cuộc sống nhằm giáo dục,
định hướng phát triển giá trị cho con người là rất cần thiết. Điều này đặc biệt
có ý nghĩa khi nước ta vốn là một quốc gia nông nghiệp, các cộng đồng dân
cư sớm hình thành thói quen ứng xử kiểu “phép vua thua lệ làng”, năng lực và
ý thức chấp hành pháp luật còn rất hạn chế. Để đưa pháp luật vào trong cuộc
sống, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức tự
giác chấp hành các quy định của pháp luật cho người dân bằng nhiều hình
thức, nhằm hình thành trong mỗi người dân tinh thần thượng tôn pháp luật,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Pháp luật được đưa vào cuộc sống sẽ tác động tích cực đến việc hình
thành một xã hội có trật tự, kỷ cương, góp phần bảo vệ và phát triển các giá
154

trị chân chính, đồng thời khắc phục, loại trừ những biểu hiện phi giá trị, gây
tổn hại đến lợi ích của cộng đồng. Trong thời gian tới, cần thực thi có hiệu
quả Luật phòng, chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
và một số văn bản luật và dưới luật khác, tránh tình trạng có luật rồi nhưng
thực hiện lại không nghiêm. Chẳng hạn, Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày
18/11/2016 của Chính phủ quy định rõ mức xử phạt với các hành vi vứt rác
thải bừa bãi tại khu chung cư, thương mại từ 3 đến 5 triệu đồng; vứt tàn, mẩu
thuốc lá không đúng nơi quy định có mức phạt từ 5 đến 7 triệu đồng, được áp
dụng từ tháng 2 năm 2017. Tuy nhiên, hành vi xả rác nơi công cộng vẫn
không giảm, mà nguyên nhân chủ yếu là do việc thực thi pháp luật của chúng
ta chưa nghiêm và thiếu lực lượng thực thi pháp luật.
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc tôn trọng, thực thi pháp luật,
đưa pháp luật vào trong cuộc sống, nhằm tạo cho người Việt Nam có nhận
thức, thái độ và hành vi đúng đắn trong quan hệ giữa con người với con
người, con người với thiên nhiên. Thực tế cho thấy, trước tình trạng tai nạn
giao thông xảy ra nghiêm trọng, Chính phủ đã ra Nghị định số 46/2016 thay
thế Nghị định số 171/2013 và Nghị định số 107/2014, trong đó, quy định
mức phạt cho tài xế ô tô vi phạm giao thông đã tăng lên. Người tham gia
giao thông có nồng độ cồn quá 80 miligam/100 ml máu hoặc quá 0,4
miligam/1 lít khí thở; không chấp hành yêu cầu kiểm tra nồng độ cồn, chất
ma túy bị xử phạt rất nặng từ 16 đến 18 triệu đồng và bị thu bằng lái từ 4
đến 6 tháng. Chủ trương, giải pháp đúng đắn đó đã góp phần làm giảm tỷ lệ
tai nạn giao thông, đồng thời hình thành nên ý thức chấp hành pháp luật về
trật tự an toàn giao thông của người Việt Nam. Ở một số địa phương, nhờ có
những quy định cụ thể và chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những hành
vi phá hoại, hoặc gây ô nhiễm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội đã
góp phần hình thành nên thái độ ứng xử với tự nhiên, với con người ngày
càng đúng đắn, có văn hóa, tạo nên hình ảnh đẹp trong con mắt của du khách
nước ngoài khi đến Việt Nam.
155

Thứ ba, trong thực thi pháp luật, điều quan trọng không chỉ là xử phạt,
mà cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức thượng tôn pháp
luật cho người dân, để họ tự giác chấp hành quy định của pháp luật trên tinh
thần bình đẳng, không có “vùng cấm”. Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý
nhà nước trong thực thi pháp luật, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm
pháp luật; khắc phục tâm lý chạy theo số đông cái xấu, cái sai phổ biến trở
thành “cái bình thường”; còn cái tốt, cái đúng nằm trong số ít lại trở thành cái
“dị biệt”, “không bình thường”. Trong một xã hội, khi những thói hư, tật xấu
có chỗ để sống thì đức tính tốt không thể phát huy được, đôi khi còn bị cho là
lạc hậu. Chẳng hạn, xã hội ta hiện nay có hiện tượng người chấp hành nghiêm
pháp luật về an toàn giao thông, dừng lại khi đèn đỏ và không có cảnh sát thì
bị coi là “hâm”. Trong thực thi pháp luật cần tránh tình trạng có luật rồi
nhưng thực thi pháp luật lại không nghiêm; pháp luật cần phải được áp dụng
thường xuyên, liên tục, tránh làm theo kiểu “phong trào”, chờ đến “Tháng an
toàn giao thông”, “Ngày pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam 09/11” thì mới kêu gọi, phát động mọi người thực hiện nghiêm túc. Vì
vậy, hệ thống pháp luật được xây dựng và thực thi trong cuộc sống phải góp
phần phát triển những giá trị tích cực, ngăn ngừa mặt tiêu cực, hạn chế của
người Việt Nam.
4.2.5. Thực hiện tổng kết, rút kinh nghiệm và điều chỉnh trong quá
trình hiện thực hóa hệ giá trị của con người Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng phát triển văn hóa, con người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng công tác tổng kết, đánh giá, rút
kinh nghiệm, như tổng kết phong trào xây dựng “Đời sống mới”, phong trào
“Thi đua yêu nước”… nhằm đánh giá kết quả đạt được cùng những tồn tại,
hạn chế, làm cơ sở cho việc thúc đẩy các cuộc vận động, các phong trào tiếp
theo. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển hệ giá trị của
con người Việt Nam hiện nay, cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:
156

Thứ nhất, coi trọng công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm ở từng
giai đoạn cụ thể. Từ nay đến năm 2020, tiếp tục hoàn thiện hệ giá trị của con
người Việt Nam phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế. Cụ thể hóa các đặc tính cơ bản như: yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo thành những giá trị chuẩn
mực cụ thể để định hướng cho con người Việt Nam. Thực hiện đồng bộ các
nhóm giải pháp, đặt trong mối liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau với quyết
tâm chính trị cao của toàn Đảng và toàn xã hội; coi trọng phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tính tích cực chủ động của các tổ chức
chính trị - xã hội cũng như ý thức tự giác của mỗi người dân. Đây là những
nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định sự phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay.
Tổng kết, đánh giá quá trình triển khai thực hiện xây dựng, phát triển
hệ giá trị của con người Việt Nam theo khoảng thời gian xác định. Trong
đánh giá, cần bảo đảm tính khách quan, trung thực, tránh xu hướng chỉ nhìn
thấy ưu điểm mà không nhận thấy hạn chế, hoặc ngược lại. Đánh giá thực
trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam phải đảm bảo khách quan
và khoa học, tránh rơi vào “bệnh” thành tích mà lâu nay chúng ta hay mắc
phải. Muốn vậy, cần sớm thống nhất xây dựng bộ tiêu chuẩn với những tiêu
chí xác định và thang đo phù hợp. Tiến hành điều tra, khảo sát với quy mô
hợp lý trên cả nước (vùng, miền, thành thị, nông thôn); triển khai đến các giai
cấp, tầng lớp xã hội, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau.
Tổng kết, đánh giá sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam cần
lưu ý đến mối quan hệ giữa yếu tố giá trị với yếu tố phi giá trị. Bởi lẽ, mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều chứa đựng những yếu tố tích
cực (có giá trị) xen lẫn yếu tố tiêu cực (phi giá trị). Tuy chứa đựng yếu tố giá
trị và phi giá trị, nhưng mỗi đối tượng vẫn có thể được đánh giá và kết luận là
có giá trị hay không có giá trị, tùy thuộc vào mối tương quan giữa hai mức độ
157

tích cực và tiêu cực của tính chất ở đối tượng đang xét trên thang độ đánh giá,
mức độ nào chiếm ưu thế. Khi đánh giá một giá trị nào đó trong hệ giá trị của
con người, được đa số chủ thể đánh giá tích cực, chiếm ưu thế nổi trội so với
thiểu số đánh giá là tiêu cực thì giá trị đó đang phát triển và ngược lại.
Để đánh giá mức độ phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam, cần
xây dựng thang đo giá trị phù hợp. Việc xác định cái gì là giá trị? Cái gì là
phi giá trị? Thế nào là chuẩn? Thế nào là lệch chuẩn? đều phải căn cứ vào
mức độ giá trị được thể hiện trên thang đo giá trị. Cần xây dựng bộ công cụ
khảo sát phù hợp trên cơ sở sử dụng các phương pháp anket, test, phỏng vấn
chuyên gia, tổng kết kinh nghiệm… Mỗi công cụ sẽ có khả năng, lĩnh vực và
điều kiện ứng dụng riêng, vì thế cần xem xét mục đích, nhiệm vụ, đối tượng
và quy mô cụ thể của đợt điều tra để chọn phương án tối ưu nhất. Cần chú ý
cả mặt định tính lẫn định lượng khi khảo sát. Định lượng cho biết quy mô
của sự kiện, định tính chỉ rõ bản chất và thuộc tính bên trong của nó. Vì vậy,
ngoài các anket, bộ công cụ cần có phiếu phỏng vấn, bảng tổng kết về những
nội dung cần điều tra. Khi tiến hành điều tra, khảo sát tại một địa bàn nào
đó, cần hướng dẫn để những người được hỏi trả lời các phiếu thăm dò theo
đúng yêu cầu đã định. Cần sử dụng linh hoạt phương pháp phỏng vấn, trao
đổi với các đối tượng có liên quan; đặc biệt lưu ý đến tính phổ biến và tính
đặc thù của văn hóa vùng, miền, làm cơ sở cho việc xây dựng, phát triển giá
trị chung trong mối liên hệ với những giá trị riêng của mỗi cộng đồng người
Việt Nam.
Thứ hai, đúc rút thành kinh nghiệm để tiếp tục nghiên cứu, phát triển hệ
giá trị của con người Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo. Đánh giá sự
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam chỉ thực sự có ý nghĩa khi đúc rút
thành những kinh nghiệm (cả kinh nghiệm thành công và chưa thành công).
Những kinh nghiệm rút ra phải trên cơ sở đánh giá khách quan, chính xác quá
trình hiện thực hóa hệ giá trị của con người ở Việt Nam và được khái quát trở
158

thành lý luận có ý nghĩa chỉ đạo hiện thực, đúng như Hồ Chí Minh đã dạy:
“Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực
hành” [91, tr.655].
Quán triệt sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần khắc
phục tư duy thiên về cảm tính, tuyệt đối hóa kinh nghiệm mà coi nhẹ lý luận;
tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu giá trị, nâng lên trở thành một khoa học, trong
đó đặc biệt ưu tiên việc nghiên cứu vấn đề phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh một cách căn bản và có hệ thống.
Muốn vậy, Đảng và Nhà nước cần có cơ chế, chính sách đầu tư nguồn nhân
lực, vật lực để thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, góp
phần quan trọng vào việc phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam ở
những giai đoạn tiếp theo.
Từ những kết quả nghiên cứu về hệ giá trị của con người Việt Nam,
cần tiếp tục điều chỉnh hệ giá trị, vị trí của các giá trị trong thang giá trị cũng
như nội dung của từng giá trị phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn khách
quan. Hệ giá trị của con người Việt Nam khi đã ăn sâu trong tiềm thức, trở
thành nét văn hóa ứng xử thường sẽ mang tính ổn định tương đối, song không
phải là cái gì đó nhất thành bất biến, nó sẽ thay đổi khi cơ sở kinh tế - xã hội
thay đổi. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng trở nên sâu rộng
đang đặt ra yêu cầu khách quan phải phát triển hệ giá trị của con người cho
phù hợp. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Hệ giá trị của con người Việt Nam nói chung và mỗi
giá trị trong hệ thống giá trị nói riêng cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
những nội dung mới phù hợp với sự biến đổi của lịch sử. Các giá trị truyền
thống như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, cần cù, sáng tạo… cần được tiếp tục
bổ sung, phát triển, không tạo ra lực cản hoặc xung đột với các giá trị mới;
đến lượt mình, các giá trị mới như: quyền cá nhân, bình đẳng giới… lại có tác
dụng làm phong phú, sâu sắc thêm các giá trị truyền thống, đưa vào giá trị
159

truyền thống hơi thở của thời đại. Giá trị truyền thống với giá trị hiện đại cùng
nhằm mục tiêu phát triển toàn diện con người, hướng con người vươn tới
chân, thiện, mỹ.
Cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm ra phương pháp
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam phù hợp; lưu ý đến tính phổ biến
và tính đặc thù, trong mối liên hệ giữa những giá trị chung của dân tộc với giá
trị cộng đồng và giá trị cá nhân, làm cho các giá trị đó cùng tồn tại, phát triển
theo quy luật vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Xác định rõ
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam là một quá trình lâu dài, khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi phải được tiến hành chủ động, sáng tạo, gắn liền với
sự phát triển của kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn cụ thể; đòi hỏi quyết tâm
chính trị rất cao của cả hệ thống chính trị cũng như toàn xã hội.
160

Tiểu kết chương 4

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam;
từ tác động của nhân tố khách quan, chủ quan đến sự phát triển hệ giá trị của
con người Việt Nam, quan điểm cơ bản nhằm phát triển hệ giá trị của con
người Việt Nam hiện nay là: Phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trên
cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt sâu sắc quan
điểm, chủ trương của Đảng về giá trị con người; phát triển hệ giá trị của con
người Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc giá trị của nhân loại; phát triển
hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện
hiện nay.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp chủ yếu: 1) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển hệ
giá trị của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay. 2) Đổi mới
nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, định hướng giá trị của con
người Việt Nam. 3) Phát huy năng lực tự giáo dục giá trị của mỗi người dân.
4) Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thực thi trong thực tiễn
nhằm phát huy yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực của con người Việt
Nam. 5) Thực hiện tổng kết, rút kinh nghiệm và điều chỉnh trong quá trình
hiện thực hóa hệ giá trị của con người Việt Nam. Theo tác giả, đó là những
giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Mỗi giải pháp trên đây có vai trò, vị trí, tác dụng riêng nhưng lại có
quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau, làm tiền đề của nhau, tạo nên một hệ
thống chỉnh thể từ trong nhận thức cho đến hành động. Vì thế, cần thực hiện
đồng thời các giải pháp trên tinh thần sáng tạo; đồng thời, cần tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với sự biến đổi không ngừng của
thực tiễn khách quan.
161

KẾT LUẬN

Vấn đề hệ giá trị của con người Việt Nam là một nội dung quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên cơ sở tiếp thu
những tư tưởng, văn hóa của dân tộc và nhân loại và từ phẩm chất cá nhân kiệt
xuất của Người. Theo Hồ Chí Minh, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc
Việt Nam đã hun đúc nên nhiều giá trị, tiêu biểu đó là: Yêu nước, tinh thần tự
tôn dân tộc; đoàn kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đó là
hệ thống giá trị phản ánh đặc trưng bản chất con người Việt Nam, tạo nên sức
mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
dựng xã hội mới. Để phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam, theo Hồ Chí
Minh, cần thực hiện tốt các phương pháp: Thông qua giáo dục và tự giáo dục
giá trị; thông qua các cuộc vận động, phong trào xã hội; phát huy giá trị đi đôi
với khắc phục các yếu tố phản giá trị. Những quan điểm của Người có giá trị lý
luận to lớn, là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta xây dựng, phát triển nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hiện nay, tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường và cuộc Cách mạng 4.0 đang tạo cơ hội
cho nước ta tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ của nhân loại; kinh tế - xã hội không
ngừng phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng nâng
lên. Song bên cạnh đó đã tác động tiêu cực làm biến đổi chiều sâu tâm thức
người Việt: Từ đề cao giá trị tinh thần sang đề cao giá trị vật chất; từ đề cao
giá trị cống hiến sang đề cao giá trị hưởng thụ, làm cho hệ giá trị truyền thống
tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam biến đổi theo xu hướng tích cực lẫn
tiêu cực, được biểu hiện ở những hình thức, mức độ khác nhau. Thực trạng đó
đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết đó là: Mối quan hệ giữa mục tiêu
định hướng giá trị với thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam;
mối quan hệ, tác động tích cực, tiêu cực của các nhân tố khách quan, chủ
162

quan đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam; mối quan hệ giữa
bảo tồn và phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển hệ giá trị của
con người Việt Nam, quan điểm cơ bản trong thời gian tới đó là: Phát triển hệ
giá trị của con người Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh và quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng về giá trị con
người; phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc giá trị của nhân loại; phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người
Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam đó là: 1) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế,
chính sách phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện
hiện nay. 2) Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, định
hướng giá trị của con người Việt Nam. 3) Phát huy năng lực tự giáo dục giá trị
của mỗi người dân. 4) Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thực
thi trong thực tiễn nhằm phát huy yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực của
con người Việt Nam. 5) Thực hiện tổng kết, rút kinh nghiệm và điều chỉnh
trong quá trình hiện thực hóa hệ giá trị của con người Việt Nam. Mỗi một giải
pháp đều có vai trò, tác dụng nhất định đến sự phát triển hệ giá trị của con
người Việt Nam. Vì vậy, cần được thực hiện đồng bộ trên tinh thần sáng tạo;
đồng thời, mỗi một giải pháp cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và điều chỉnh
cho phù hợp với sự biến đổi không ngừng của thực tiễn khách quan.
163

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Văn Tuyên (2015), “Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học và công
nghệ, Đại học Thái Nguyên, số 6, tập 136.
2. Nguyễn Văn Tuyên (2015), “Phát huy động lực con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Đặc san Hồ Chí Minh
học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng.
3. Nguyễn Văn Tuyên (2015), “Xây dựng và giáo dục hệ giá trị con người
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Thiết bị giáo dục, Số đặc biệt, tháng 9/2015.
4. Nguyễn Văn Tuyên (2017), “Một số vấn đề về hệ giá trị của con người
Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, Số
đặc biệt, tháng 6/2017.
5. Nguyễn Văn Tuyên (2018), “Những nhân tố tác động đến sự biến đổi giá
trị của con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, Số đặc
biệt, tháng 2/2018.
6. Nguyễn Văn Tuyên (2018), Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con
người Việt Nam, Nxb. Đại học Thái Nguyên.
7. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Phát huy giá trị truyền thống yêu nước của
dân tộc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
số 285, tháng 1/2019.
164

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb Đồng Tháp.
2. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Văn Thủy (2010), Phát triển văn
hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Hoàng Anh (2014), Xây dựng con người Việt Nam theo Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Lê Vân Anh (2007), "Vấn đề giáo dục định hướng giá trị trong bối cảnh
Việt Nam gia nhập WTO", Tạp chí Khoa học giáo dục (24), tr.7-10.
5. Phạm Ngọc Anh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Khánh Bật, Phạm Văn Bính (2005), Tư tưởng
Hồ Chí Minh về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Phạm Ngọc Anh (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Phạm Ngọc Anh (2013), “Quyền sống của con người - Từ quan niệm của Hồ
Chí Minh đến quy định của Hiến pháp”, Tạp chí Lý luận Chính trị (5).
9. Phạm Minh Anh (2016), Định hướng giá trị của thanh niên trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu nghiên cứu nghị quyết và
một số chủ trương của Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI (Dùng cho Báo cáo viên), Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
11. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
165

13. Đặng Quốc Bảo, Trương Thúy Hằng (2009), “Quán triệt quan điểm về
con người của Chủ tịch Hồ chí Minh vào nghiên cứu “phát triển con
người” và “chỉ số phát triển con người” trong hoàn cảnh nước ta hiện
nay”, Tạp chí Khoa học Giáo dục (44), tr.1-5.
14. Nguyễn Chí Bền (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
15. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
16. Bộ Tư pháp (2005), Việt Nam với vấn đề quyền con người, Hà Nội.
17. Doãn Thị Chín, Lê Thị Thảo (Đồng Chủ biên) (2016), Giáo dục lối sống
cho sinh viên Việt Nam hiện nay theo tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật Hà Nội.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống
trước những thách thức của Toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền
vững”, Tạp chí Triết học, (1).
20. Nguyễn Trọng Chuẩn (2009), ““Đầu tiên là công việc đối với con
người”: vì dân - Một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Triết học (9), tr.3-9.
21. Nguyễn Hữu Công (2003), Tư tưởng Hồ chí Minh về phát triển con
người toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Công - Lê Phạm Phương Lan, “Định hướng giá trị đạo đức
cách mạng - Giữ vững nền tảng nhân cách của thanh niên trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Phát triển nguồn nhân lực, tr.46-50.
23. Lương Minh Cừ, Nguyễn Trung Dũng (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và giải phóng con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Hoàng Đình Cúc (2006), “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay”, Lý luận Chính trị (11).
166

25. Mai Thị Dung (2014), Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
trong xây dựng lối sống cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
26. Nguyễn Trung Dũng (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
giải phóng con người, Luận án tiến sĩ Lịch sử Triết học, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
27. Nguyễn Văn Dương (2010), Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp
phần xây dựng con người mới Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin.
28. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Thành Duy (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách
xã hội đối với con người”, Tạp chí Lịch sử Đảng (12), tr.24-30.
30. Thành Duy (2008), Thế giới còn thay đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh
còn sống mãi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Thành Duy (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện (tái bản), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ năm, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 9 khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
39. Phạm Thị Đoạt (2014), Con người phát triển toàn diện: Từ học thuyết Mác
đến tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong công cuộc đổi mới, Luận án tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một
thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội.
41. Phạm Văn Đồng (1994), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con
đường dân giàu, nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Khoa Điềm, Phan Hữu Dật, (2003), Về phát triển văn hóa và
xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Trần Văn Giàu (2002), "Con người Việt Nam: một số vấn đề nghiên cứu",
Tạp chí Nghiên cứu con người, số 2.
44. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
45. Đỗ Ngọc Hà (2002), Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên hiện nay,
Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
46. Hoàng Phong Hà (2005), Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Hồng Hà (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và con
người”, Tạp chí Văn hóa, Nghệ thuật, số 5, tr.11-15.
48. Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với
việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
168

49. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển văn hóa và
xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
51. Phạm Minh Hạc (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân
cách con người Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người (3).
52. Phạm Minh Hạc (2007), "Nghiên cứu giá trị nhân cách trong thời đổi
mới (Toàn cầu hóa), Tạp chí Nghiên cứu con người (4), tr.3-6.
53. Phạm Minh Hạc (2008), "Giáo dục giá trị", Tạp chí Nghiên cứu con người
(4), tr.3-11.
54. Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị, Trịnh Thị Kim Ngọc (2010), Tư tưởng
Hồ Chí Minh - Phương pháp luận nghiên cứu con người, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
55. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học, Nxb Dân trí.
56. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (Chủ biên) (2015), Định hướng giá trị
con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
57. Lương Đình Hải (2009), "Những tiêu chí cơ bản của con người Việt
Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay", Tạp chí Thông tin Khoa học xã
hội (10 -11).
58. Võ Văn Hải (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với tư cách
vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu giải phóng, vừa là động lực của
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Triết học (5), tr.13-20.
59. Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người
với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
169

60. Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với sự
phát triển văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
61. Nguyễn Đình Hòa (2009), “Hồ Chí Minh với vấn đề dân sinh”, Tạp chí Triết
học, số 1, tr.16-22.
62. Trần Thị Thu Hoài (2009), "Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Một xã hội cho con người, vì con người", Tạp chí Cộng sản (803).
63. Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc
phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
64. Vũ Ngọc Hoàng (2015), "Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện nay",
Tạp chí Tuyên giáo.
65. Mai Xuân Hợi, (2006), "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời
sống xã hội", Tạp chí Triết học (9).
66. Đỗ Huy - Nguyễn Thu Nghĩa (2014), “Bảng giá trị của văn hóa Việt
Nam trong hành trình chuyển từ truyền thống sang hiện đại”, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11.
67. Đỗ Huy (2015), Các giá trị văn hóa Việt Nam chuyển từ truyền thống
đến hiện đại, Nxb Thông tin và truyền thông, HN.
68. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007), "Toàn cầu hóa và nguy cơ suy thoái
đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học (2),
tr.63-66.
69. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010), Quan niệm của Các Mác về tha hóa
và ý nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Trần Thị Huyền (2009), ““Công việc đối với con người” trong Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học (12), tr.58-61.
170

71. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền,
Nguyễn Viết Thông, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật.
72. Nguyễn Thừa Hỷ, (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn,
Nxb Thông tin và Truyền thông.
73. Nguyễn Công Khanh (2012), Phương pháp giáo dục giá trị sống, kỹ
năng sống, Nxb Đại học Sư phạm.
74. Vũ Khiêu (Chủ biên), (2000), Văn hóa việt Nam - xã hội và con người,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
75. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và
con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Thị Mai Lan (2009), "Định hướng giá trị nhân cách của học sinh
trung học phổ thông thể hiện trong quan hệ gia đình và quan hệ bạn bè",
Tạp chí Tâm lý học (8), tr.19-25.
77. Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (1996), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, (Đề tài KX-07-02).
78. Nghiêm Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ
trẻ ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
79. Bùi Bá Linh (2002), "Sự phê phán của C.Mác đối với quan điểm duy
tâm tư biện của Hêghen về tồn tại người và đời sống xã hội hiện thực của
con người", Tạp chí Triết học (7), tr.19-24.
80. Đặng Vũ Cảnh Linh (2008), "Một số chỉ báo về định hướng giá trị của
sinh viên các trường đại học hiện nay", Tạp chí Tâm lý học (1), tr. 42-46.
81. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Giáo dục giá trị sống và kỹ
năng sống cho học sinh THPT, Nxb Văn hóa Thông tin, 2014.
82. Trần Viết Lưu (2008), "Giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ",
Tạp chí Giáo dục (181), tr.4-6.
171

83. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội.
84. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2002), “Về chiến lược con người ở nước ta
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (9).
85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
172

104. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
107. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
108. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
109. Hồ Chí Minh (2016), Biên niên tiểu sử, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
110. Hoàng Thị Ngát (2009), Sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Luận văn thạc sĩ Triết học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
111. Hoàng Văn Nghĩa (2002), “Một số vấn đề về dân chủ và quyền con người”,
Tạp chí Triết học (11).
112. Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.
113. Nhiều tác giả (2008), Người Việt phẩm chất và thói hư - tật - xấu, Nxb Hồng Đức.
114. Nhiều tác giả (2013), Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong đổi mới hội nhập,
Nxb Văn hóa - Thông tin Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
115. Đào Thị Oanh (2005), "Nghiên cứu định hướng giá trị của học sinh trung
học trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Tâm lý học (8), tr.39-45.
116. Patti (1995), Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam? Lê Trọng Nghĩa dịch),
Nxb Đà Nẵng.
117. Đào Phan (1991), Hồ Chí Minh, Danh nhân văn hóa, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
118. Trần Sĩ Phán (2016), “Xung đột hệ giá trị tinh thần và xây dựng hệ giá trị
của con người Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1, tr.20-25.
173

119. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển
học, Hà Nội - Đà Nẵng 1997.
120. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Bùi Đình Phong (2009), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn
hóa”, Tạp chí Lý luận Chính trị (1).
122. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học,
Hà nội.
123. Trương Hoài Phương (2011) “Giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống
của con người Việt Nam - Một yêu cầu tất yếu khách quan trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Phát triển nhân lực, số
5, tr.63-67.
124. Lý Việt Quang (2013), "Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh
thần yêu nước cho thế hệ trẻ", Tạp chí Lịch sử Đảng (6), tr.38-42.
125. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay
- vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Hồ Sĩ Quý (2005), “Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát
triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản (17).
127. Hồ Sĩ Quý (2005), "Động thái của một số giá trị truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hóa", Xã hội học (2), tr.45-55.
128. Hồ Sĩ Quý (2006), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006.
129. Mai Thị Quý (2007), "Tác động của toàn cầu hóa đến truyền thống cần
cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Triết học (5), tr.20-25.
130. Mai Thị Quý (2009), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội Hà Nội.
131. Ragiô C.P. (1970), Hồ Chí Minh, Nxb Đại học, Paris, (Bản dịch của Thế Phong).
174

132. Trần Sâm, Cảnh Nguyên, Đào Tam Tỉnh (2010), Bác Hồ với sự nghiệp
trồng người, Nxb Dân trí, Hà Nội.
133. Nguyễn Văn Sơn (2013), Quan điểm của C.Mác về phát triển con người
và sự vận dụng ở việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học.
134. Nguyễn Văn Tài (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát
huy nhân tố con người”, Tạp chí Triết học (2).
135. Lương Thanh Tần (2010), Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối
sống văn hóa cho thanh niên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
136. Trần Hương Thanh (2006), "Biến đổi định hướng giá trị và một số vấn
đề đặt ra đối với công tác tư tưởng của Đảng ta hiện nay", Tạp chí Tâm
lý học (1), tr.41-44.
137. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
138. Song Thành (2006) (Chủ biên), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
139. Võ Văn Thắng (2006), "Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến việc
xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản (10), tr.47-50.
140. Võ Văn Thắng (2006), “Nhân ái - Một giá trị văn hóa truyền thống cần
kế thừa và phát huy trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam”, Tạp chí
Triết học, số 7.
141. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
142. Mạch Quang Thắng (2014), Hồ Chí Minh con người của sự sống, Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
143. Trịnh Xuân Thắng (2015), "Xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế: Quan điểm và
giải pháp hiện thực hóa", Bản tin Khoa học và Giáo dục, tr.28-31.
175

144. Trần Ngọc Thêm (2011), "Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam", Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật (319).
145. Trần Ngọc Thêm (2015), Một số vấn đề về Hệ giá trị Việt Nam trong
giai đoạn hiện tại, Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.
146. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
147. Ngô Đức Thịnh (2006), Những dạng thức của văn hóa Việt Nam. Trong
“Việt Nam, đất nước và con người”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148. Ngô Đức Thịnh (2006), Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu
văn hóa cho phát triển. Trong "Văn hóa, văn hóa tộc người, văn hóa
Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
149. Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia.
150. Nguyễn Văn Thọ (2005), "Vấn đề bản chất con người trong Nho giáo
Trung Quốc cổ đại", Tạp chí Triết học (1), tr.21-24.
151. Nguyễn Xuân Thông (2005), “Đưa tư tưởng yêu thương, quý trọng con
người, sống có tình có nghĩa của Hồ Chí Minh vào hiện thực cuộc sống”,
Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa (11), tr.15-17.
152. Bùi Thanh Thủy (2009), "Kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa", Tạp chí Lý luận Chính trị (8),
tr.49-53.
153. Trần Dân Tiên (2015), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
154. Phạm Đỗ Nhật Tiến (2014), “Giáo dục nhân cách con người Việt Nam
nhìn từ góc độ văn hóa”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, tr.13-22.
155. Đặng Hữu Toàn (2006), "Toàn cầu hóa, "Nguy cơ tha hóa" và vấn đề
định hướng giá trị văn hóa tinh thần", Tạp chí Triết học (5), tr.20-27.
156. Đặng Hữu Toàn (2009) "Quan điểm dân sinh và triết lý nhân sinh Hồ
Chí Minh", Tạp chí Triết học, số 3, tr.9-15.
176

157. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê năm 2015, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
158. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh nhân văn và phát triển, Nxb. Chính
trị quốc gia - Sự thật Hà nội.
159. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Ủy ban quốc gia
Unesco của Việt Nam (1995), Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
160. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam, Định hướng giá trị cho sinh viên
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh niên.
161. Trần Xuân Trường (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân.
162. Nguyễn Đình Trường (2006), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa”, Tạp chí Triết học,
số 5, tr.1-6.
163. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
164. Thái Duy Tuyên, Phan Minh Tiến (2008), "Định hướng giá trị con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa", Tạp chí
Giáo dục (189), tr.1-23.
165. Phạm Mậu Tuyển (2016), Con người mới trong quá trình định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
166. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang, Giá trị - định
hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị (Đề tài KX-07-04).
167. Nguyễn Thị Lương Uyên (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng
con người, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
168. Tôn Ngũ Viên (2003), Toàn cầu hóa, nghịch lý của thế giới tư bản chủ nghĩa,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
177

169. Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự (2006), Chuẩn mực đạo
đức con người Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
170. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề trong văn hóa đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
171. Lê Cao Vinh (2017), Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
172. Trần Quốc Vượng (2010), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

TIẾNG ANH
1. Lady Borton (2009), Ho Chi Minh, story told on the Trail, Thế giới
Publishers, Hà Nội, Việt Nam.
2. Lady Borton (2010), Ho Chi Minh, a journey, Thế giới Publishers, Hà Nội,
Việt Nam.
3. W.J.Duiker (2000), Ho Chi Minh a life, Hyperion, New York, America.
4. Jean Lacauture (1970), Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh), Paris Seuil.
5. Paul Mus (1971), Ho Chi Minh, Le Vietnam, L’Asie (Hồ Chí Minh, Việt
Nam và châu Á), Paris, Seuil.

You might also like