Professional Documents
Culture Documents
Snapple Case Study Tong Hop
Snapple Case Study Tong Hop
Snapple Case Study Tong Hop
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
SNAPPE:
GIỚI THIỆU
Trong thập niên 90, Snapple được định vị để có được những lợi thế từ sự
bùng nổ của một phân khúc thức uống “thế hệ mới”. Công ty là một trong
những thương hiệu thức uống thế hệ mới đi đầu khi chủng hàng này bắt đầu nở
rộ. Với sự kết hợp giữa một loại sản phẩm độc đáo, cách bao gói và cách quảng
cáo mới lạ, công ty đã từng bước phát triển từ một thương hiệu được ưa chuộng
ở địa phương thành một thương hiệu nổi tiếng khắp cả nước Mỹ. Sự phát triển
của Snapple trong ngành công nghiệp nước giải khát đạt tới đỉnh điểm năm 1994
khi công ty Quaker Oats mua lại Snapple với giá 1,7 tỷ USD. Quaker hy vọng
biến Snapple thành “người chơi chính” trong ngành nước giải khát như nó đã
từng làm với Gatorade. Tuy nhiên, công ty đã không thành công trong việc lợi
dụng sự thành công trong quá khứ của thương hiệu này. Snapple lay lắt khoảng
3 năm trong tay Quaker. Năm 1997, Quaker bán Snapple cho Triarc Bevarage
Group với giá 300 triệu USD. Triarc đã đối diện với rất nhiều thách thức, bao
gồm việc phải đảo ngược sự tuột dốc về doanh số, điều chỉnh lại hệ thống phân
phối và tạo ra những sản phẩm mới có tiềm năng tăng trưởng. Điều quan trọng
nhất là Triarc phải tìm ra cách để kết nối thương hiệu trở lại với người tiêu dùng.
Nguồn gốc của công ty Snapple bắt đầu từ năm 1972 ở khu Brooklyn ở
New York khi hai người anh em họ là Leonard Marsh và Hyman Golden từ bỏ
công việc lau cửa sổ, họ hợp sức với người bạn thời thơ ấu của Marsh và cũng
chủ cửa hàng thức ăn dinh dưỡng, Arnold Greenberg và bắt đầu bán một loại
nước trái cây tinh khiết dưới một công ty tên là “Unadulterated Food Products”.
Năm 1978, họ tạo ra một loại soda táo nhiều ga đến nỗi một số chai bị nổ, điều
1
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
này đã bắt nguồn cho chữ “snap” trong cái tên cuối cùng của loại thức uống này.
Họ mua quyền sử dụng cái tên này từ một người đàn ông ở Texas với giá 500
USD, một cái giá mà sau này được cho là quá đắt. Theo thời gian, họ thiết lập
hình ảnh như là công ty đầu tiên sản xuất dòng sản phẩm hoàn chỉnh thức uống
tự nhiên “được làm từ những thứ tốt nhất trên trái đất”.
Trong thập niên 80, Snapple tạo ra một phân khúc thức uống tiện lợi
không cacbonat vô cùng thiết yếu với sự giới thiệu một số loại nước trái cây và
trà tuyết. Snapple cũng là công ty đầu tiên bán những loại nước uống được đóng
trong chai thuỷ tinh với miệng rộng, khác với những loại lon nhôm có mặt ở
khắp nơi. Những cái chai được dãn nhãn rất tươi sáng và độc đáo. Công ty còn
giới thiệu một quy trình gọi là “đóng chai nóng” (đưa chất lỏng vào ở nhiệt độ
1800F để tiệt trùng) để loại bỏ nhu cầu bảo quản và cho phép mở rộng lời tuyên
bố “hoàn toàn tự nhiên” cho toàn bộ dòng sản phẩm của mình. Mục tiêu của họ
là “tạo ra một sản phẩm tự nhiên và làm cho nó thơm, ngon và đẹp mắt”. Mặc
dù Snapple vẫn là một thương hiệu điền khuyết thị trường trong nhiều năm
trong thập kỉ đó, chiến lược đó đã bắt đầu tỏ ra hiệu quả. Cuối thập niên 80, tỉ lệ
khách hàng quan tâm đến sức khoẻ gia tăng làm cho các sản phẩm của Snapple
được ưa chuộng hơn- xem đó như một sự thay thế cho soda. Đến năm 1991,
Snapple đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng trên khắp nước Mỹ.
Mùa xuân năm 1992, Snapple tăng vốn bằng cách bán một lượng cổ phiếu
trị giá 140 triệu USD cho Thomas H. Lee, một công ty đầu tư có trụ sở tại Boston.
Marsh, Golden và Greenberg vẫn duy trì quyền điều hành công ty và tiếp tục cải
thiện tình hình hoạt động. Vào tháng 12 năm đó, công ty lên sàn khi bán 4 triệu
cổ phiếu phổ thông với giá 20 USD mỗi cổ phiếu. Với mức giá này, số lượng đặt
mua đã vượt quá lượng chào sàn. Tính đến cuối ngày, giá đã tăng lên 45%. Đến
cuối tháng 2, cổ phiếu của Snapple được giao dịch ở mức giá 34 USD. Chỉ qua
2
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
một đêm, giá trị của công ty vượt qua cả những tập đoàn lớn như National
Semiconductor and Teledyne. Đến cuối năm 1993, doanh số của Snapple nhảy
vọt lên con số 516 triệu USD, hơn gấp đôi năm 1992. Giá cổ phiếu đã tăng lên gấp
năm lần so với mức giá chào bán ban đầu và Snapple trở thành một thương hiệu
nổi tiếng. Mặc dù vậy, chi phí hoạt động vẫn tăng lên. Chi phí bán hàng, chi phí
quản lý và chi phí chung đã tăng từ 22.7 triệu USD lên 59 triệu USD từ năm 1992
Trải qua hơn 2 thập kỉ trong ngành kinh doanh nước giải khát không cồn,
Marsh, Golden và Greenberg đã tạo ra một nhóm các chiến thuật mà họ tin rằng
sẽ thúc đẩy doanh số của Snapple. Đầu tiên, họ cố gắng khác biệt hoá Snapple
với các đối thủ cạnh tranh bằng cách liên tục tung ra những sản phẩm nước giải
khát tiện dụng mới và độc đáo. Chỉ riêng trong năm 1993 công ty đã sản xuất ra
52 loại hương vị khác nhau. Bên cạnh việc đưa ra nhiều loại hương vị khác nhau,
công ty còn chú trọng cải thiện chất lượng của từng loại hương vị trong các thức
uống của nó. Ví dụ, 95% các loại trà của Snapple xuất xứ từ Ấn Độ và một phần
nhỏ đến từ Sri Lanka. Việc tung ra những sản phẩm mới và độc đáo đã góp phần
kích thích sở thích của người tiêu dùng và làm tăng doanh số. Tuy nhiên, không
phải tất cả các sản phẩm của Snapple đều thành công. Ví dụ, trong phân khúc
trà, các sản phẩm trà không đường và không chứa chất kích thích liên tục không
thể hiện được như mong đợi của những nhà điều hành. Tuy nhiên xét cho cùng,
nhóm điều hành đã cho ra đời nhiều hương vị thành công hơn là những lần giới
Thứ hai là họ được bầu ra để tập trung những nỗ lực marketing đầu tiên ở
hai thị trường vùng duyên hải phía Đông và Tây, nơi mà nhu cầu cho những
thức uống “thế hệ mới” là cao nhất. Doanh số thời gian đầu ở những bang vùng
3
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Trung Tây không cao lắm dẫn đến việc một số người cho rằng những quảng cáo
kì lạ của Snapple làm cho khách hàng vùng Trung Mỹ xa lánh họ. Doanh số trên
toàn cầu chỉ đóng góp 1% vào tổng doanh số, và mặc dù biết việc tăng trưởng
nhanh hơn sẽ đòi hỏi nhiều vốn hơn, ban quản trị vẫn lên kế hoạch để đẩy mạnh
hoạt động sang thị trường Châu Âu, Trung và Nam Mỹ và Châu Á.
Thứ ba, công ty xây dựng hệ thống kênh phân phối riêng của nó, tránh sử
dụng kênh truyền thống là các siêu thị bán sĩ như các đối thủ cạnh tranh lớn hơn
của nó. Thay vào đó, công ty bán thông qua những kênh “đường phố”, tức là
qua những cửa hàng tiện lợi, cửa hàng sandwich, trạm xăng, các cửa hàng bán
thức ăn ngon lạ…, sử dụng một hệ thống các nhà phân phối độc lập.
Thứ tư, trên một thị trường thức uống tiện dụng đang tăng trưởng nhanh,
ban quản trị của Snapple nhận thấy rằng họ có thể định giá cao cho những sản
phẩm độc đáo của họ và định vị ở thị trường cao cấp. Năm 1993, Snapple bán với
giá từ 1 đến 1.25 USD cho một chai 16 ounce với mức lợi nhuận là 30% đến 38%.
Khi được hỏi về mức giá khá cao này, những nhà marketing của Snapple trả lời
rằng đó là một sản phẩm cao cấp dành cho tất cả mọi người, khác với những sản
phẩm xa xỉ truyền thống như xe hơi Porsche, vốn nằm ngoài tầm với của những
người tiêu dùng trung lưu. Nhưng liệu công ty có thể duy trì được mức giá cao
đó, đặc biệt là ở phân khúc trà lạnh hay không? Sau cùng, không giống như nước
cola hay các loại nước trái cây, những loại trà tự pha chế có thể được chuẩn bị
trong thời gian ngắn hơn, ít tốn kém hơn những loại trà tiện dụng tương đương
được bán ở các cửa hàng. Do đó, nhiều nhà phân tích cho rằng để có thể thành
công trong việc đưa hàng vào các siêu thị, Snapple phải tái định vị thương hiệu
và bán sản phẩm theo những cách đóng gói khác nhau, bán trong lon và với mức
4
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Cho đến năm 1994, Snapple đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ. Theo
Jude Hammerle, giám đốc quảng cáo và truyền thông cổ động của Snapple thì:
“tốc độ tăng trưởng của thương hiệu cho đến thời điểm hiện tại là khá phi
thường và bạn có thể chóng mặt khi nghĩ về điều đó”. Michael Bellas, giám đốc
marketing của mảng nước giải khát nói: “Snapple đã khiến tất cả chúng tôi tin
tưởng”.
Khách hàng yêu thích Snapple, họ nói đi nói lại như thế qua những fan
club và thông qua thư viết tay, một số coi đó như một sự sùng bái đối với
Snapple. Snapple xuất hiện trên biển số xe và thậm chí còn trở thành tên lót của
một đứa trẻ mới sinh ở New Jersey. Một số điều tra khách hàng cho rằng cái tên
Snapple là dễ nhớ và phổ biến. Do đó, nó đem lại những cảm nhận tích cực từ
phía khách hàng. Như Hammerle nói: “một cái tên thật sự thân thiện với người
tiêu dùng nhất mà bạn có thể tìm thấy”. Mặc dù lời phát ngôn của những đại
diện của Snapple thường xuyên được trích dẫn rằng thị trường mục tiêu của họ
là “any one with a mouth”- “bất kỳ ai”, nhưng những quảng cáo của công ty chỉ
tập trung vào lứa tuổi teen, những người từ 18 đến 30 tuổi và những khách hàng
Trong suốt những năm đầu thập niên 90, Snapple thực hiện một chuỗi
những chiến dịch quảng cáo rất thành công và có những mẫu quảng cáo rất hiệu
quả trên radio và truyền hình, sử dụng một lối hài hước kì lạ và những âm thanh
leng keng do người tiêu dùng sáng tác. Ví dụ, trong một mẫu quảng cáo, công ty
đã mời một nhà phê bình nghệ thuật để phân tích nhãn hiệu của Snapple.
Snapple cũng đạt được sự thu hút thông qua tài trợ nhằm lồng ghép sản phẩm
của mình vào các show phổ biến như Seinfeld, phim như “Sleepless in Seattle”
và những tài trợ chính thức cho một số nhân vật nổi tiếng như Rush Limbaugh,
Howard Stern và Jennifer Capriati. Những quảng cáo truyền hình thì có sự xuất
5
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
hiện của những người như phó thị trưởng của New York là Ed Koch bảo vệ cho
thành phố của ông ta và Snapple cho tới một nông dân khó tính Kentucky.
Snapple còn dựa vào quảng cáo truyền miệng và theo đuổi những sự kiện bất
Tuy nhiên, chiến dịch quảng cáo thành công nhất của công ty với diễn
viên chính là Wendy, quý bà Snapple. Wendy Kaufman, một phụ nữ với giọng
New York đặc sệt, vốn là một nhân viên của công ty ở bộ phận xử lý đơn hàng.
Cô ta nhận vị trí đó để hồi âm lại những lá thư của khách hàng với tư cách cá
nhân và trở thành người phát ngôn không chính thức của bộ phận nước giải
khát. Cô ta mau chóng trở thành một ngôi sao sau khi xuất hiện trong một quảng
cáo truyền hình với nhiệm vụ đọc những lá thư từ các fan của Snapple. Sử dụng
ưu thế của kiểu quảng cáo tri ân như thế này, những quảng cáo có mặt Wendy
đã tạo ra một hình ảnh về “người thật việc thật” ở trong những quảng cáo truyền
hình không có kịch bản trước và được thực hiện một cách tự phát đối với những
khách hàng thật của Snapple. Wendy đã đạt được sự nhận biết trên cả nước
thông qua việc xuất hiện ở những nơi như Oprah Winfrey show.
Snapple giờ đây trở thành một trong những thương hiệu hàng đầu trên
thị trường nước giải khát New Age đang bùng nổ, vốn đã qua thời kỳ trào lưu và
đang là một phân khúc chính thống trong ngành công nghiệp nước giải khát.
Trong gần hai thập niên, thị trường nước giải khát không cồn đã phát
triển mạnh và tăng trưởng liên tục. Khu vực nước ngọt vươn tới một con số cực
lớn là 47 tỷ USD doanh số bán lẻ năm 1993 mặc dù tăng trưởng trên thị trường
này được cho là sẽ chậm đi với tỉ lệ vào khoảng 2 đến 3% trong vài năm đến. Với
dự báo doanh số ít thay đổi cho phân khúc soda đang giữ vị trí cốt lõi, rất nhiều
6
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
công ty nước giải khát lớn tìm cách chuyển sang những chủng loại khác để cải
Mặc cho sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh mới trên thị trường
trà tiện dụng và sự sụt giảm đột ngột giá cổ phiếu vào cuối năm 1994, những nhà
quản trị cấp cao của Snapple vẫn rất lạc quan về tương lai. Tuy nhiên, những nhà
đầu tư lớn của công ty, Thomas H. Lee ít tin tưởng hơn về triển vọng của công ty
trong dài hạn và đã nhanh chóng chấp nhận lời đề nghị mua lại với mức giá 1.7
tỷ USD của Quaker Oats, làm tăng giá trị tài sản của công ty lên 1 tỷ USD trong
vòng 2 năm. Với những điều kể trên, 1.7 tỷ USD tương đương với 17 lần thu
nhập của Snapple, nó có ý nghĩa gấp hơn 10 đến 11 lần lợi nhuận từ những
thương vụ gần đây ở lĩnh vực nước giải khát hoặc trong so sánh với những công
ty khác đã được niêm yết trên sàn. Tuy nhiên, một số nhà phân tích tin rằng đó là
một thương vụ tốt. Michael Bellas, giám đốc tập đoàn marketing nước giải khát
ở New York nói rằng:” Hẳn họ phải rất chuyên nghiệp, một lực lượng hùng hậu
sắp xuất hiện. Tôi chắc rằng điều này đang được xem xét kỹ lưỡng bởi Atlanta
Đặt những đối thủ cạnh tranh mới sang một bên, cho đến năm 1995, nhiều
nhà phân tích cảm thấy thị trường nước giải khát “Thế Hệ Mới” đã thanh đổi to
lớn. Giới trẻ, nhóm khách hàng chạy theo xu thế, những người đã tạo ra thị
trường nước giải khát tiện lợi, dường như đã cảm thấy chán và bắt đầu trở lại
Quaker Oats đã nỗ lực để đáp ứng những xu hướng đó với những chiến
thuật quảng cáo và cổ động mới. Bởi vì Snapple được xem là một thương hiệu
mà sự phổ biến của nó chủ yếu được lan truyền qua hiệu ứng truyền miệng nên
7
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
công ty cố gắng để trở nên dễ dàng tiếp thu các ý tưởng của khách hàng. Ví dụ,
công ty giới thiệu một loại hương vị mới, Ralph’s Cantaloupe Cocktail, khi người
có cái tên giống nó, Ralph Orafino viết thư cho công ty và yêu cầu một loại thức
uống có hương vị dưa. Hơn nữa, tháng 8 năm 1995, công ty tài trợ cho “Hội nghị
Snapple thường niên lần thứ nhất” ở Hempstead, New York cho 3000 người hâm
mộ cuồng nhiệt nhất. Ý tưởng cho “Bài test về tình yêu với Snapple” đó xuất
phát từ một fan cuồng nhiệt nhất của thương hiệu, một bé gái 6 tuổi tên là
Snapple không nên có một ngày đặc biệt nào đó, một ngày nghỉ hay thậm chí là
một ngày lễ hội gì đó sao? Bởi vì, bạn có thể thấy trên tivi, ý tôi là giống như
người đàn ông đã không tin rằng Snapple được làm từ những thứ hoàn toàn tự
nhiên đấy! Tôi nghĩ nên có một ngày nghỉ hay một ngày lễ hội gì đấy. Hoặc là
Quaker đã gửi thông báo về hội nghị đó cho khoảng 250.000 người yêu
thích Snapple, những người có cảm xúc mãnh liệt về Snapple tới mức có thể viết
Mặc cho sự thành công bên ngoài của hội nghị, Quaker đã mắc một số sai
lầm nghiêm trọng trong mùa bán hàng đầu tiên sau khi mua lại Snapple. Để đổi
lấy 5 USD lệ phí gia nhập và 20 nhãn hiệu Snapple, Quaker cung cấp cho các fan
hâm mộ cơ hội ”thử nghiệm mùi vị 36000 feet vuông, tham gia cuộc thi giống
như show Wendy, xem quảng cáo truyền hình trên màn hình video, lướt web,
hay sự trỗ tài nấu ăn, những cuộc thảo luận đặc trưng bởi Wendy và những ngôi
sao đời thực của các spots quảng cáo truyền hình, hoạt động nghệ thuật và thời
trang, các trò chơi hoá trang, trúng thưởng xổ số được truyền cảm hứng bởi
8
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Snapple, ngoài ra người tham gia được nhận từ hai đến ba chai nước giải khát
Snapple”
Bên cạnh thành công của hội nghị, Quaker cũng mắc phải nhiều sai lầm
nghiêm trọng trong mùa vụ đầu tiên sau khi tiếp nhận Snapple. Trong một thế
giới mà các loại thức uống dinh dưỡng thường chỉ tồn tại trong mùa hè, Quaker
chưa bao giờ tuân theo một lịch trình quảng cáo đều đặn cho các sản phẩm của
Snapple, mà cũng không nhanh chân giới thiệu các sản phẩm. Và kết quả là
doanh số bán tại các siêu thị bị sụt giảm nhanh chóng. Doanh thu vào tháng 6
của trà lạnh Snapple đã sụt giảm 19%, với trái cây pha trộn giảm 25% và nước
Danh tiếng của Snapple cũng bắt đầu bị ảnh hưởng khi người ta bắt đầu
nghi ngờ việc liệu Snapple sản xuất những sản phẩm có lợi cho sức khoẻ không?
–trong khi lợi ích sức khỏe vốn được xem là tài sản quý báu của công ty. Jane
Hurley, người của Trung tâm Khoa học về sở thích công chúng, người đã vạch
trần sự dối trá về chất dinh dưỡng trong các loại bắp rang bơ và thức ăn Trung
Quốc, đã chỉ ra rằng phần lớn những sản phẩm của Snapple là nước đường và
chứa ít hơn 10% nước trái cây. Bà ấy nói: “Đó cũng giống như loại Hi-C, và
không ai gọi đó là thức uống dinh dưỡng. Chúng tôi không nói rằng điều đó
đang gây hại cho bạn. Nó giống như một thứ không đáng đồng tiền hơn là một
sự đe doạ về sức khoẻ”. Những người khác thì lại chỉ ra rằng một chai trà lạnh
Một số vấn đề phức tạp khác, Quaker mong muốn sử dụng mạng lưới
phân phối rộng rãi với hơn 300 nhà phân phối trên toàn quốc của Snapple để đẩy
nước tăng lực Gatorate vào các cửa hàng bán lẻ nhỏ hơn mà trước đây Quaker
không thường xuyên sử dụng. Điều không may là Quaker đã phát hiện ra quá
trễ rằng hệ thống phân phối của Snapple không tương thích với hệ thống hiện tại
9
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
của Gatorate. Quaker xử lý bằng cách cố gắng chuyển dịch những số sách kế
toán siêu thị lớn từ các nhà phân phối của Snapple sang cho kênh phân phối của
Gatorate, đồng thời kêu gọi những nhà phân phối của Snapple thúc đẩy các kênh
phối đường phố nỗ lực hơn nữa, tuy nhiên những nhà phân phối của Snapple đã
từ chối làm điều này. Tệ hơn là Quaker gặp phải những hạn chế không mong
Ban quản trị của Quaker đã phản ứng lại những khó khăn bằng những
thay đổi to lớn. Họ bổ nhiệm người mới vào các vị trí quản trị thương hiệu, giảm
số lượng các hương vị từ 50 xuống còn 35, giảm số lượng các sản xuất có hợp
đồng, tăng gấp ba lần ngân sách quảng cáo. Bên cạnh đó, Quaker cũng tạo ra
một số thay đổi ở các loại hương vị, bao gồm việc giới thiệu những thức uống
theo mùa, ví dụ như loại trà có mùi rượu táo trong dịp lễ Haloween. Đồng thời,
họ tiếp tục đẩy hàng hoá bao gói mới vào các siêu thị: lốc 12 chai, lốc 4 chai và
Bên cạnh đó, Quaker cho vận hành hệ thống để xử lý các đơn hàng nhanh
chóng hơn và làm cho các nhà máy đóng chai làm việc hiệu quả hơn. Những
chuyển biến đó làm giảm một nửa hàng tồn kho và cho phép giao hàng chỉ trong
vòng 2 ngày thay vì 21 ngày như trước đây. Thêm vào đó, Snapple còn dự định
sẽ đặt các tủ làm mát ở các vị trí dễ thấy trong siêu thị và giới thiệu một dòng
Tuy nhiên, rốt cuộc thì những nỗ lực ở mùa hè năm 1995 là quá nhỏ bé và
quá muộn màng trong khi Coke và Pepsi, những hãng đã rất xông xáo với các
chiến dịch cổ động cho sản phẩm trà lạnh và nước trái cây mới. Mặc dù đã chi ra
hơn 40 triệu USD cho chiến dịch phát hàng mẫu trên toàn quốc vào mùa hè,
10
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
doanh số của Snapple lại giảm thêm 20% trong quý đó, doanh số trà ở các siêu
thị giảm 14%, nước trái cây giảm 15%. Tất cả những điều đó đã đặt ra một câu
hỏi là “liệu việc Quaker mua lại Snapple có phải là một sai lầm hay không?”.
Tom Pirko, chủ tịch của hãng Bevmark bình luận rằng: “Họ mua lại thương hiệu
khi nó đã qua thời kì đỉnh cao”. Mặc cho kết quả đáng thất vọng trong mùa hè,
ban quản trị của Quaker vẫn tiếp tục nghĩ theo hướng ngược lại. “Snapple đang
tiến dần tới những chiến lược marketing năng động để có thể khác biệt nó với
các đối thủ cạnh tranh và lấy lại được sự quan tâm của khách hàng”.
Giữa nhiều luồng suy đoán, Weinstein, với sự hỗ trợ của Ken Gilbert,
ngay lập tức bắt đầu tiến trình xây dựng lại thương hiệu. Triarc đã sớm thông
báo là họ sẽ thực hiện cùng những nguyên tắc marketing cho Snapple như họ đã
làm với những sản phẩm nước uống Mistic thành công của họ: quảng cáo thú vị,
những mối quan hệ tốt với các nhà phân phối, nhãn hiệu nhiều màu sắc và chú
trọng vào bán hàng đường phố. Khi được hỏi liệu Triarc có nên sử dụng người
phát ngôn của Mistic là chàng cầu thủ bóng rổ kì lạ Dennis Rodman hay không,
Weinstein trả lời rằng: “Không nên. Dennis là anh chàng của Mistic”. Trong vòng
vài tuần sau, Weinstein đã gặp người phát ngôn trước đây của Snapple là Wendy
Kaufman. Weinstein nói: “Nếu chúng ta có thể chỉ đưa thương hiệu về lại với vị
trí cũ của nó, chúng ta đã làm được một điều tuyệt vời”. Weinstein thừa nhận
rằng việc đưa Wendy trở lại cũng không thể xoay chuyển tình thế, nhưng ông ta
cảm thấy điều đó có thể là dấu hiệu của sự trở lại của “tốc độ, sự vui tươi, sự đổi
mới và sự kì lạ thú vị”. Những chùm quảng cáo đầu tiên của Snapple dưới sự
điều hành của Triarc đã có sự xuất hiện trở lại của Wendy và nhãn của một số
sản phẩm Snapple nổi bật được dán lên trên gương mặt của Wendy tượng trưng
cho sự trở lại của những giá trị cốt lõi của Snapple. Steve Jarmon ở bộ phận
truyền thông đã nói rằng “trong năm nay, Wendy đã có kế hoạch để xuất hiện ở
11
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
rất nhiều nơi. Chúng tôi sẽ để cô ấy tham gia vào nhiều hoạt động chính. Cô ấy
Sự phát triển mạnh mẽ của những sản phẩm Snapple làm thu hút thị
trường giải khát với nhu cầu thay đổi thường xuyên là một trong những bước đi
lớn nhất của Triarc trong việc tái sinh thương hiệu.
Whipper Snapple. Có lẽ sự phát triển quan trọng và mang tính đổi mới
nhất nổi bật lên trong những nỗ lực cải tiến sản phẩm của Triarc chính là
Whipper Snapple, một loại nước trái cây xay mịn được giới thiệu vào mùa hè
năm 1998. Whipper Snapple nhằm vào việc lợi dụng sự phổ biến ngày càng tăng
của các quầy bar sinh tố để đưa ra một loại nước trái cây xay đóng chai đầu tiên
nhằm chinh phục thị trường nước giải khát. Whipper Snapple được trau chuốt
như là một sản phẩm đột phá của Snapple bởi vì thiết kế chai độc đáo, cách đóng
nhãn bắt mắt, cái tên sáng tạo, một loạt các hương vị mới và nhiều loại nguyên
liệu thảo mộc như phấn ong, gừng đặc biệt là lúa mạch để thu hút sự chú ý của
Sweet Tea. Triarc còn thực hiện nhiều nỗ lực để cải thiện doanh số trì trệ
của các loại nước trái cây đóng chai và trà, đồng thời nỗ lực khám phá những cơ
hội mới cho những chủng loại nước giải khát đóng chai này. Để tạo ra sức hấp
dẫn hơn cho Snapple ở thị trường phía Nam, Snapple đã tung ra dòng sản phẩm
Sweet Tea, có bổ sung các loại đường mía, và các thành phần làm ngọt khác vào
công thức trà Snapple truyền thống để tạo nên một phiên bản Snapple của loại
nuớc phổ biến tại miền Nam. Việc phát triển nhiều loại trà chanh để cạnh tranh
với những sản phẩm tương tự được tiếp thị bởi Nantucket Nectars đã thực sự
bắt đầu và kỳ vọng sẽ đến được với khách hàng vào năm 1999.
12
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Snapple Farms. Triarc giới thiệu Snapple Farms, một loại nước trái cây
tinh khiết 100% với tiềm năng sẽ thâm nhập vào thị trường thức ăn trưa tại các
trường học. Cách tiếp cận tươi mát và tự nhiên của dòng sản phẩm Snapple
Farms có mục tiêu thay đổi ấn tượng của khách hàng về Snapple như là một loại
Triarc vẫn tiếp tục quá trình đổi mới những sản phẩm của nó sau khi giới
Snapple Hydro. Snapple Hydro “dập tắt cơn khát” được giới thiệu lần
thứ hai vào tháng 4 năm 1999 sau thất bại đầu tiên vào năm 1998 dưới cái tên
Refresher. Dòng sản phẩm này bao gồm một vài loại nước trái cây và một số loại
trà mặt trời nguyên chất . Snapple Hydro có đầy đủ mọi tính chất của một loại
thức uống thể thao. Nó có chứa Natri điện phân có thể giúp cho cơ thể có thể bổ
sung những hoá chất mất đi trong khi tập thể dục và chứa ít đường hơn các loại
soda thông thường. Hydro không được định vị để tấn công vào phân khúc khách
hàng chơi thể thao của Gatorade. Tuy nhiên, chiến lược marketing hỗ trợ cho
thương hiệu mới này lại rất tham vọng: Snapple Hydro nhắm đến mục tiêu
chinh phục thị trường “vận động”, hay nói cách khác, nắm giữ được “một phần
trong bao tử” của một nhóm lớn các khách hàng năng động. Hydro được mong
muốn là trở thành một loại thức uống lý tưởng dành cho những khách hàng chú
trọng đến sức khoẻ, những người tìm kiếm các loại giải khát dễ uống trong suốt
thời gian hoạt động giải trí hay thường xuyên đi lại. Hydro dựa vào những chìa
khoá thành công của Snapple, đó là nó chứa đựng những thành phần nguyên
liệu hoàn toàn tự nhiên và đưa ra nhiều hương vị trái cây mạnh trong những loại
Elements là một dòng sản phẩm gồm các loại nước trái cây và trà với 6 hương vị
13
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
được tăng cường thành phần thảo dược. Dòng sản phẩm này được xếp vào
nhóm những thức uống bổ dưỡng cùng với loại nước Sobe. Những loại thức
uống chức năng này được đưa ra với ý đồ không chỉ đem lại sự sảng khoái cho
khách hàng. Ví dụ, Elements đưa ra cho những khách hàng chú trọng đến sức
khoẻ những lợi ích về bổ sung năng lượng và kích thích tiêu hoá, đồng thời cũng
mang lại cảm giác vui thích với những vị trái cây hoặc trà đặc biệt.
Với những cái tên sản phẩm như Fire, Moon, Sun hoặc Earth và một định
vị là “tái tạo những nguồn năng lượng tự nhiên của bạn”, dòng sản phẩm
Elements là một phương tiện để làm nổi bật hình ảnh sản phẩm tốt cho sức khoẻ
của thương hiệu Snapple. Elements được thiết kế để những giá trị cốt lõi của
Snapple: những cái tên gợi hương vị quyến rũ như là Dragonfruit hoặc Starfruit,
kiểu dáng chai gợi cảm giác sảng khoái và những hương vị tuyệt hảo. Ngoại trừ
việc trở thành một loại nước uống hoàn toàn tự nhiên, sự đảm bảo về sức khoẻ
của Elements được giới hạn ở việc đưa ra một danh sách về hàm lượng của các
loại thảo dược trên nhãn trong mối quan hệ cân đối với lợi ích về tính giải khát
Việc tiếp thị những cải tiến sản phẩm cũng như những sản phẩm hiện tại
của Snapple cũng là một trọng điểm khác trong nỗ lực tái sinh thương hiệu
Snapple của Triarc. Rất nhiều nỗ lực marketing của Triarc có mục tiêu giành lại
được cái “cảm giác Snapple” như trước khi nó được mua lại từ Quaker, ví dụ
như sử dụng những kỹ thuật marketing kỳ khôi như tổ chức những cuộc thi trên
toàn quốc, hay sử dụng những cách dán nhãn kì lạ. Công ty vẫn tiếp tục tài trợ
gây tranh cãi cho hai nhân vật nổi tiếng là Howard Stern, người dẫn chương
trình trên radio của Snapple và Rush Linbaugh, người dẫn chương trình có tính
14
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Bên cạnh việc tranh thủ sự trợ giúp của Wendy Kaufman, “quý bà
Snapple”, trong chương trình marketing này, Triarc cố gắng chiếm được sự chú
ý của khách hàng thông qua những chiến dịch truyền thông cổ động và những
cuộc thi trên toàn quốc. Cuộc thi “Win Nothing Instantly” là một chương trình
marketing phổ biến năm 1998. Trong đó những khách hàng của Snapple giành
được những giải thưởng tiền mặt hấp dẫn như “miễn phí chi phí thuê trong 1
năm” hay “miễn phí chi phí cho xe cộ trong 6 tháng”. Những chiến dịch truyền
thông sau đó chú trọng vào việc sử dụng cách đóng gói và nhãn mác để nhấn
mạnh vào sự kì lạ thú vị của thương hiệu đã được làm mới. Chiến dịch truyền
thông trị giá 1 triệu USD “The Joke’s On Us” đã sử dụng khuôn mặt của 23 nhân
viên Snapple, những khuôn mặt đã xuất hiện trên nhãn của rất nhiều các sản
phẩm Snapple trong suốt năm 1999 trong một nỗ lực nhằm truyền tải sự hấp dẫn
của Snapple đến với những người đánh giá cao “những thứ tốt nhất được làm
trên trái đất”. Biểu tượng thương hiệu Wendy Kaufman cũng tham gia vào tour
diễn hài trên toàn quốc như một người hỗ trợ. Khách hàng cũng có thể giữ lại
nhãn sản phẩm để được giảm giá thông qua trang web đã được nâng cấp của
Snapple, đây là một trong những nỗ lực xúc tiến bán hàng đầu tiên của thương
hiệu.
như vậy sẽ khôi phục lại “thái độ” trước đây của khách hàng đối với thương
hiệu và tạo ra một hiệu ứng truyền miệng sáng tạo như trước đây mà Snapple đã
thu được rất nhiều lợi ích, trong khi vẫn giữ vị trí dẫn đạo trong ngành vào
những năm đầu thập kỷ. Một nhà điều hành của Triarc giải thích: “Thương hiệu
này không chỉ nói về marketing, nó còn nói về việc tạo ra niềm vui, trở nên kì
lạ nhưng hấp dẫn, tạo ra những điều tốt nhất và chứa đựng trong đó những
con người thực sự”. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bao gói và nhãn
15
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
mác trong việc thu hút sự chú ý của khách hàng, những nhà lãnh đạo của
Snapple đã thiết kế lại nhãn mác để phản ánh mô tip nhấn mạnh vào tính tinh
khiết của Snapple. Triarc cũng bắt đầu khám phá những phương pháp dán nhãn
mới mà những cách này có thể tối đa hoá chất lượng của màu sắc và giảm thiểu
Những nỗ lực cải tiến của Triarc đã đem lại thành công. Mặc cho tình hình
cạnh tranh trên thị trường nước giải khát vẫn diễn ra khốc liệt, Triarc đã làm
chậm được quá trình tuột dốc của Snapple bằng cách thúc đẩy bán hàng mạnh
mẽ. Trong năm đầu tiên điều hành Snapple, Triarc đã bán được nhiều hơn mức
Quaker có thể sẽ đạt được 100 triệu chai nếu tốc độ sụt giảm 22% nửa đầu năm
1998 vẫn tiếp tục. Trong năm tài chính 1998, Triarc đã lần đầu tiên gia tăng được
doanh số kể từ năm 1995. Doanh số của Snapple tăng lên 8% trong năm 1998 và
đóng góp đầy ý nghĩa vào khoản tăng 50% trong phân khúc nước giải khát cao
cấp của Triarc. “Đó là một công việc kinh doanh theo trào lưu”, Havis Dawson
thuộc bộ phận nước giải khát trên toàn cầu đã bình luận như vậy. “Snapple đang
trở lại với trào lưu hiện thời bởi vì giờ đây nó đang đặt lại câu hỏi: Điều gì mới?”.
Với sự hồi sinh dần dần của thương hiệu Snapple, Triarc bây giờ cần thực
hiện những kế hoạch marketing mới để đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát
triển bền vững trong tương lai. Chương trình marketing của Snapple cho năm
1999 là một sự kết hợp giữa các yếu tố truyền thống với một số nhân tố mang
tính cách tân. Mục tiêu của Snapple là khẳng định lại những giá trị thương hiệu
đã từng mang lại thành công cho Snapple, cũng như duy trì trạng thái đón đầu
về sự đổi mới và đưa thương hiệu tiếp tục đi lên. Những chiến dịch marketing
trở về với các yếu tố nền tảng ban đầu và những chương trình tài trợ, kết hợp với
sự giới thiệu website của Snapple và một chiến dịch ngoài trời mang tính đổi
16
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
mới, tất cả đều là những điểm mấu chốt trong chương trình marketing của
Snapple.
Được sáng tạo bởi Deutsch N.Y. như là một phần trong một chiến dịch
quảng cáo trên tivi và radio trị giá 27 triệu USD, hai mẫu quảng cáo về các loại
nước trái cây và trà ướp lạnh chính của Snapple được phát sóng vào tháng 4 năm
1999. Cả hai quảng cáo đều nhấn mạnh vào thông điệp tập trung vào sản phẩm
với mục tiêu tăng cường những tài sản mang tính khác biệt để cạnh tranh với các
đối thủ nhắm vào phân khúc thấp. Những quảng cáo đó gắn chặt với định vị cao
cấp và hoàn toàn tự nhiên của thương hiệu và một cách cụ thể, nhấn mạnh vào
thực tế Snapple được làm từ những loại trái cây tự nhiên. Các quảng cáo thể hiện
một số nhân vật “Little Fruits”, những diễn viên hoá trang thành những trái
chuối, dâu tây, chanh và một số nguyên liệu khác mà Snapple sử dụng. Một mẫu
quảng cáo thể hiện ý tưởng về Snapple như là một “ngôi nhà an toàn” cho “các
loại trái cây nguy hiểm”. Như lời thuyết minh trong mẫu quảng cáo: “Ở Snapple
chúng tôi biết những áp lực mà các loại trái cây mới phải đối diện, và chúng dễ
dàng bị hỏng như thế nào”, mẫu quảng cáo trình chiếu một vài loại trái cây
“buộc tội” một số loại trái cây khác. Những cảnh đó trái ngược với cảnh những
loại trái cây đang chơi đàn và đang đùa nghịch trên bãi cỏ bên “ngôi nhà an
toàn” cùng với lời thoại: “Đó là lý do tại sao chúng tôi tạo ra một ngôi nhà nơi
mà những loại trái cây tốt có thể đến và trở nên tốt hơn”. Sự nhấn mạnh vào sản
phẩm đó được thể hiện một cách khá độc đáo, không theo thứ tự và không mang
giọng điệu quá thương mại như được tóm tắt trong câu khẩu hiệu “Những thứ
tốt nhất là ở đây”. Mẫu quảng cáo đó được tạp chí Adweek tôn vinh như là một
trong những quảng cáo truyền hình xuất sắc nhất trong năm 1999.
17
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Ngân sách truyền thông 30 triệu USD nhằm hỗ trợ cho chiến dịch mới bao
gồm quảng cáo truyền hình, radio và quảng cáo ngoài trời. Ngân sách này còn
bao gồm một phương tiện truyền thông mới và sáng tạo mà qua đó sản phẩm trà
ướp lạnh của Snapple được quảng cáo. Đó là hình thức quảng cáo trên các bãi
biển trên khắp nước Mỹ vào mùa hè năm 1999 thông qua một quá trình tạo dấu
Tài trợ
Năm 1999, trà ướp lạnh Snapple trở thành thức uống chính thức của
những người lính New York (Yankee), hoàn toàn phù hợp với những thương
hiệu Snapple vốn xuất xứ từ khu Brooklyn. Một chương trình marketing tích hợp
đã gia tăng ý nghĩa địa phương và ảnh hưởng lên chương trình này. Ngoài hình
thức bán hàng qua máy tự động truyền thống, sự giới thiệu của hai thương hiệu
mới là Sun-Tea và Diet Sun-Tea được cổ động một cách đặc biệt; những mẫu
quảng cáo được phát trong suốt những trò chơi và một chương trình quyên góp
vé chơi game gia đình được tổ chức thông qua các chương trình từ thiện. Triarc
cũng kí hợp đồng với Tara Lipinski để làm người phát ngôn cho Snapple, cổ
động cho việc tài trợ đó với một quảng cáo vui mô phỏng phóng đại mối quan
hệ.
Website
Snapple giới thiệu website của công ty vào tháng 5 năm 1999. Được thiết
kế bởi SF Interactive, trang web được dự tính sẽ là một phần năng động trong
chương trình marketing tích hợp của Snapple. Nó cung cấp một phương tiện
mang tính đổi mới để hỗ trợ cho những chương trình truyền thông đang được
thực hiện cũng như tái hiện lại những chiến dịch marketing của Snapple, hoặc để
tiết lộ những điều mới lạ của thương hiệu. Trang web được thiết kế phù hợp với
18
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
tính cách của thương hiệu, tăng cường tính cách vui vẻ trong hình ảnh thương
hiệu và làm đòn bẩy cho cảm giác và đồ hoạ của tài sản thương hiệu.
Theo cách thức marketing mới đó, doanh số của Snapple đã tăng lên 14%
trong quý II của năm 1999. Snapple lại tiếp tục trở thành thương hiệu hàng đầu
trong chủng loại nước giải khát “thế hệ mới”, lĩnh vực này đã tăng trưởng 15%
trong năm 1999 với mức sản lượng tăng 6%. Kết quả của Snapple trong năm 2000
đã vượt qua cả sự tăng trưởng mạnh mẽ của nó trong năm 1999. Cũng trong năm
đó, Snapple tiếp tục duy trì 40% thị phần trong các siêu thị.
Snapple bắt đầu mở rộng thương hiệu lần đầu tiên vào tháng 7 năm 2000,
với sự giới thiệu của 4 sản phẩm kẹo, đó là: kẹo cứng Snapplets, kẹo lạc Beans,
kẹo mút Fruits và kẹo dẻo Whirls. Tất cả 4 loại đều gắn nhãn Snapple nhưng
được sản xuất theo giấy phép của Cody-Kramer Imports. Trong suốt quá trình
phát triển của những chương trình cổ động và những sản phẩm mới này, kết quả
tài chính của Snapple tiếp tục được cải thiện. Trong sáu tháng đầu năm 2000,
doanh số của Snapple tăng 27% trong khi mức tăng trưởng chung của toàn
ngành chỉ khoảng 11%. Trong giai đoạn đó, lợi nhuận của Snapple là 349.4 triệu
Sau những thành công đã đạt được, Triarc Inc. đã sát nhập Snapple
Beverage Group trở thành một đơn vị kinh doanh của nó và tiến hành đưa
Snapple chào sàn (IPO) cổ phiếu mới với tổng trị giá 15 triệu USD. Lúc này,
ngoài Snapple, Snapple Beverage Group sở hữu và tiếp thị cho một số thương
hiệu khác của Triarc, bao gồm Mistic, Royal Crown, Diet Rite, Stewart’s và Nehi.
CEO của Triarc Beverage Group, Michael Weinstein trở thành CEO mới của
Snapple Beverage Group. Ngày 22 tháng 6 năm 2000, Triarc thông báo rằng ban
giám đốc công ty đã thông qua kế hoạch IPO và mong muốn sẽ hoàn thành việc
19
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
chào bán trong quý III của năm. Tuy nhiên, việc IPO đã không được tiến hành vì
Triarc sau đó đã quyết định bán Snapple cho Cadbury Schweppes PLC.
Ngày 18 tháng 9 năm 2000, Cadbury thông báo kế hoạch mua lại Snapple
Beverage Group với giá 1.45 tỷ USD. Triarc hy vọng sẽ thu được 700 triệu USD
tiền lãi trong vụ mua bán này. Rút kinh nghiệm từ sai lầm của Quaker, Cadbury
giữ nguyên bộ máy lãnh đạo của Snapple; duy trì trụ sở chính của công ty tại
Long Island, New York và duy trì hệ thống phân phối hiện tại. Weinstein vẫn
tiếp tục là CEO của Snapple Beverage Group và Cadbury đã giữ Snapple
Beverage Group tách biệt với đơn vị Dr. Pepper và Seven Up của họ. Việc mua
lại Snapple đã làm cho thị phần của Cadbury trên toàn thị trường nước giải khát
Mua lại Snapple còn giúp Cadbury trở thành người dẫn đạo trên thị
trường nước giải khát không có ga cao cấp “thế hệ mới” mà theo COO (giám đốc
điều hành) của Cadbury, John Brock là “đặt Cadbury vào một vị trí vượt trội để
cạnh tranh”. Khi xem xét việc Triarc mua lại Snapple từ Quaker năm 1997 với giá
300 triệu USD, việc Snapple được bán lại cho Cadbury cho thấy thành công cuối
Quảng cáo Snapple ít nhiều trở nên sắc bén hơn vào năm 2001. Công ty
vẫn giữ lại những nhân vật “Little Fruits” và đưa chúng vào những mẫu quảng
cáo với chủ đề sinh sản và nhà tù. Một mẫu quảng cáo chiếu cảnh một loại trái
cây tham gia vào một buổi hội thảo chuyên đề về giáo dục giới tính. Tại hội thảo,
người diễn giả đã đọc trích đoạn quyển “The Joys of Ripening”. Một mẫu quảng
cáo khác lại có cảnh một nhà tù với tiêu đề “Nơi mà các loại trái cây xấu sẽ đến”.
Cũng trong năm 2001, Snapple giới thiệu một quảng cáo có nội dung mang hơi
hướng của bài hát “The wind in the willows” cho dòng sản phẩm Elements của
20
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
họ. Bốn đoạn quảng cáo truyền hình khá kì lạ với thời lượng 30 giây thể hiện
hình ảnh 4 nhân vật Grumpy Gopher, Sinister Rabbit, Mr. Weasel và Happy
Squirrel sống với nhau trong căn hộ chung của họ. Trong một mẫu quảng cáo có
cảnh 4 nhân vật đó trốn người chủ nhà trong ngày trả tiền nhà bằng cách lẻn qua
Mùa hè năm 2001, Snapple giới thiệu một loại nước tăng lực mới có tên là
Venom. Sản phẩm mới này được tạo ra để cạnh tranh với các thương hiệu như
Red Bull, KMX của Coke, và 180 của Anheuser-Busch. Venom chứa một lượng
cafein tương đương với một tách café và có hương vị pha trộn giữa quýt và trái
của cây bách. Cũng giống như các loại nước tăng lực khác, Venom được định giá
trên 2 dollar cho một lon nhỏ 8 ounce. Ban đầu, Venom không được cổ động
Năm 2002, Cadbury phát triển một chiến dịch quảng cáo mới để thay thế
những mẫu quảng cáo “Little Fruits” đã được thực hiện từ năm 1998. Chiến dịch
quảng cáo mới nhắm vào lứa tuổi 18 tới 24, thể hiện một chai Snapple được nhân
cách hoá trong một số tình huống thực tế. Chiến dịch này cũng có một chương
trình cổ động tên là “What’s your story?” trong đó kêu gọi khách hàng chia sẻ
những mẫu chuyện thường nhật trong cuộc sống của họ. Câu chuyện giành
chiến thắng sau đó sẽ được diễn bởi những nhân vật hoạt hình là những chai
Snapple trên những quảng cáo truyền hình được phát khắp cả nước. Những
quảng cáo này bao gồm màn trình diễn của một ban nhạc nam làm từ những
chai Snapple được hoá trang và cảnh một bữa tiệc tại nhà cuồng nhiệt đầy ắp
những chú Snapple “teen” phải dừng lại bởi những chai Snapple “bố mẹ” đã về
nhà.
21
Tình huống SNAPPLE Brand
PGS.TS. Phạm Thị Lan Hương, Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1. Bạn hiểu hình ảnh thương hiệu Snapple như thế nào và đâu là những
nguồn tài sản thương hiệu? Đâu là những điểm mạnh và điểm yếu của
2. Quaker đã mắc sai lầm ở chỗ nào? Họ có thể làm gì và họ có nên làm khác
đi không?
3. Bạn nghĩ chương trình marketing của Triarc thích hợp và hiệu quả như
thế nào? Bạn có gợi ý gì cho Cadbury nên thay đổi những gì khi làm
4. Việc Snapple được bán cho Cadbury đã ảnh hưởng đến tài sản thương
hiệu của nó (Snapple) như thế nào? Đâu là những mối đe doạ của các liên
5. Bạn nghĩ Cadbury nên làm gì tiếp theo với Snapple? Cadbury có nên mở
……………………………
22