Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 144

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM THỊ KIM PHƢƠNG

XÁC ĐỊNH HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU


CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành : Luật Dân sự

Mã số : 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh

HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

PHẠM THỊ KIM PHƢƠNG


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục biểu đồ

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ
HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP 9
1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp và quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp 9
1.1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp và phân biệt kiểu dáng công nghiệp
với một số đối tượng khác 9
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp 19
1.2. Khái niệm hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp 27
1.3. Ý nghĩa của việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với kiểu dáng công nghiệp 33
1.3.1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp để giải quyết các vụ việc cụ thể trong công tác thực thi
quyền sở hữu công nghiệp 33
1.3.2. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp để phục vụ yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp 35
1.3.3. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thu hút đầu tư
nước ngoài 37
1.3.4. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp để bảo vệ các quyền dân sự cơ bản của con người 38
1.3.5. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng 39
1.3.6. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp sẽ góp phần vào việc khuyến khích các hoạt động sáng tạo
40
1.3.7. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người dân
41
CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÁC
ĐỊNH HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP 42
2.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp 42
2.1.1. Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn hiệu
lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu. 45
2.1.2. Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với
kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn hiệu lực của văn bằng
bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu. 49
2.1.3. Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp mà không trả tiền đền bù theo
quy định về quyền tạm thời 54
2.2. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp 60
2.2.1. Đối tượng bị xâm phạm 62
2.2.2. Yếu tố xâm phạm 64
2.2.3. Chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm 67
2.2.4. Địa điểm thực hiện hành vi xâm phạm 69
2.3. Xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp gây ra 70
2.3.1. Khái niệm thiệt hại 72
2.3.2. Nguyên tắc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra 73
2.3.3. Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra 80
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG
XÂM PHẠM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÁC ĐỊNH HÀNH
VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP 87
3.1. Thực trạng xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp 87
3.1.1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp 87
3.1.2. Thực trạng xác định và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp 92
3.2. Nguyên nhân tình trạng gia tăng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp 101
3.3. Một số giải pháp hạn chế tình trạng xâm phạm và nâng cao hiệu quả xác
định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp ở nước ta hiện nay 111
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật 112
3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động ngăn ngừa, hạn chế và
xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp 120
KẾT LUẬN 126
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

SHCN: Sở hữu công nghiệp

SHTT: Sở hữu trí tuệ


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang


bảng

3.1 Đơn khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiêp so 89
với nhãn hiệu, sáng chế và giải pháp hữu ích từ năm
1998-2010 tại Cục SHTT

3.2 Số liệu các vụ án tranh chấp về quyền SHTT được giải 95


quyết tại các Tòa Dân sự từ năm 2007-2011

3.3 Số liệu các vụ án SHTT được giải quyết tại Tòa án nhân 96
dân từ năm 2005-2009
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu Tên biểu đồ Trang


biểu đồ

3.1 Đơn khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp so với 90
đơn khiếu nại về xâm phạm nhãn hiệu, sáng chế và giải
pháp hữu ích từ 1998-2010 tại Cục SHTT
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Ngày nay, vấn đề sở hữu trí tuệ là vấn đề quan tâm hàng đầu của các
quốc gia khi tham gia hội nhập quốc tế. Một quốc gia thực thi tốt việc bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư, khuyến khích chuyển
giao công nghệ và tạo môi trường thuận lợi hơn cho những cải tiến trong
thương mại và công nghiệp. Việt Nam trở thành thành viên của WTO đã mở
ra nhiều cơ hội cho Việt Nam nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức
hơn nhất là đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật cho phù hợp với
các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Sở hữu trí tuệ (SHTT) là một
lĩnh vực còn tương đối mới ở Việt Nam. Hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ
trong những năm gần đây cũng ngày càng được hoàn thiện. Với việc ban hành
Luật Sở hữu trí tuệ- luật chuyên biệt đầu tiên trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã
đánh dấu một mốc quan trọng đối với pháp luật Việt Nam. Luật Sở hữu trí tuệ
cùng với các văn bản liên quan đã tạo ra một hành lang pháp lý an toàn, thuận
lợi, đã tương thích hơn với các quy định của pháp luật thế giới về Sở hữu trí
tuệ và đã khuyến khích các hoạt động lao động sáng tạo.

Vấn đề quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng được quan tâm hơn. Tuy
nhiên, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiện nay cũng ngày càng đa
dạng và phổ biến hơn, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ diễn ra trên
hầu hết các lĩnh vực, ở khắp nơi và với hầu hết các đối tượng của quyền sở
hữu trí tuệ như: xâm phạm các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
(SHCN), xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, xâm phạm quyền đối với
giống cây trồng. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được thực
hiện bằng nhiều phương pháp, thủ đoạn mới như sử dụng công nghệ cao, sử
dụng các thiết bị hiện đại… làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý khó
phát hiện. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói chung và các

1
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng ngày càng nguy hiểm
hơn về tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ, không chỉ diễn ra trong phạm
vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng cả đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Kiểu dáng công nghiệp là một đối tượng quan trọng trong các đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Kiểu dáng công nghiệp liên quan đến
khía cạnh mỹ thuật, hình dáng bên ngoài của sản phẩm. Chính hình dáng bên
ngoài đó làm cho sản phẩm thu hút và hấp dẫn đối với người tiêu dùng và sự
hấp dẫn trực quan là yếu tố chính mà người tiêu dùng cân nhắc trong việc lựa
chọn sản phẩm khi mua sắm hàng hóa. Kiểu dáng công nghiệp cũng giúp cho
các công ty phân biệt sản phẩm của các đối tượng cạnh tranh trên thị trường
và cải thiện, nâng cao hình ảnh sản phẩm của họ. Cũng trong tình trạng như
đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp cũng ngày càng phức tạp và phổ
biến hơn. Việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Mục đích của việc xác
định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp là để giải quyết hiệu quả các vụ việc cụ thể trong công tác thực thi
quyền sở hữu trí tuệ.

Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng trước hết phải xác định
đúng hành vi xâm phạm. Chỉ khi xác định đúng hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp thì người có thẩm quyền xử
lý mới xử lý đúng và hiệu quả các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp, thông qua đó sẽ góp phần vào công tác
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Việc tìm hiểu các quy định về xác định hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp cũng như việc xác định hành

2
vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp, đánh
giá thực trạng xâm phạm và thực trạng xác định hành vi xâm phạm và đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Nó không
chỉ góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong việc bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp của các doanh nghiệp cũng như ý thức
pháp luật của người tiêu dùng mà nó còn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả của cán bộ, cơ quan có
thẩm quyền trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với kiểu dáng công nghiệp.

Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xác định hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp” làm đề tài
nghiên cứu của mình với mong muốn có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu những
quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những
kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong nước về xác định
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng
ở nước ta hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Nhằm hạn chế tình trạng
này, pháp luật đã có nhiều quy định liên quan đến việc xác định cũng như xử
lý đối với hành vi xâm phạm quyền ở hữu trí tuệ. Các công trình nghiên cứu
về kiểu dáng công nghiệp nói chung cũng như về việc xác định hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng chưa
nhiều. Thời gian qua đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền sở
hữu trí tuệ cũng như về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như: đề tài
nghiên cứu phó tiến sĩ luật học về “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu

3
trí tuệ” của tác giả Lê Xuân Thảo năm 2005; đề tài “Nâng cao vai trò và năng
lực của Tòa án trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam- những
vấn đề lý luận và thực tiễn” đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Tòa án nhân dân tối
cao năm 2008; “Nâng cao vai trò của Tòa án trong việc giải quyết các tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân trong tình hình mới” đề tài
nghiên cứu cấp cơ sở của Tòa án nhân dân tối cao năm 2009. Ngoài ra còn có
một số cuốn sách, bài viết trên các tạp chí với nội dung liên quan đến kiểu
dáng công nghiệp và hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp, đó là: cuốn sách “Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở
Việt Nam- Pháp luật và thực tiễn”, của tác giả Ths. Nguyễn Bá Bình, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, năm 2005; “Xử lý vi phạm kiểu dáng công nghiệp những vấn
đề còn bỏ ngỏ”, của tác giả Vũ Yến, Trọng Yến, Văn Hải, đăng trên website:
www.investip.vn năm 2010; “Xâm phạm sở hữu trí tuệ, thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp” của tác giả Ths. Lê Việt Long, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 127/2008;… Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận,
giải quyết vấn đề xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp ở một góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chưa
có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về vấn đề này. Nhận
diện được vấn đề này, luận văn đề cập đến việc nghiên cứu về một số vấn đề
lý luận về việc xác định hành vi xâm phạm đối với kiểu dáng công nghiêp
cũng như tình trạng xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, thực trạng xác định và
thực trạng xử lý đối với hành vi xâm phạm này, đồng thời luận văn cũng đưa
ra một số giải pháp nhằm hạn chế thực trạng này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình
khoa học đã công bố, luận văn xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ
thể như sau:

4
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một dạng hành vi vi phạm
pháp luật, cụ thể là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ
2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2009 và các
văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là:

Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung vào
việc giải quyết nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến việc xác định hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp, cụ thể
là:

- Nghiên cứu về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu trên cơ sở tập trung phân tích khái
niệm, bản chất pháp lý của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương
quan với các nội dung liên quan của các Điều ước quốc tế và pháp luật một số
nước.

- Nghiên cứu thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam hiện nay, thực trạng xác định hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam
hiện nay, phát hiện những bất cập đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm
hạn chế tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp và nâng cao hiệu quả xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Nhận diện và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kiểu dáng công
nghiệp và xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu

5
dáng công nghiệp, thông qua đó thấy được vai trò quan trọng của việc xác
định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp.

- Phân tích những quy định của pháp luật điều chỉnh việc xác định
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
cùng với việc nêu lên thực trạng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với kiểu dáng công nghiệp và thực trạng xác định hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

- Kiến nghị một số giải pháp hạn chế tình trạng xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp cũng như nâng cao hiệu quả
việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:

Khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu, luận văn dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới,
xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và vấn đề cải cách tư pháp, xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều
dựa trên các quan điểm chỉ đạo nêu trên.

- Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn,
dùng thực tiễn kiểm chứng lý luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng
hợp và phương pháp thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn.

6
Phương pháp phân tích được sử dụng làm rõ những vấn đề về lý luận
và thực tiễn về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp nói
riêng.

Phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng nhằm nghiên cứu rõ
hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật trước đây.

Phương pháp so sánh được sử dụng đối chiếu, so sánh với pháp luật
của một số nước trên thế giới, với các điều ước quốc tế nhằm tham khảo và
làm rõ bản chất của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp.

Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu
về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp; về số liệu các vụ án về sở hữu trí tuệ được giải quyết tại Tòa dân sự
các cấp và về đơn khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu,
sáng chế và giải pháp hữu ích.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề
đã nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và kết luận.

6. Ý nghĩa của Luận văn

Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên cứu riêng của bản thân về
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
để hoàn thành chương trình học tập và báo cáo tốt nghiệp lớp Cao học Luật
Dân sự khóa XIV của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn có một
số điểm mới sau:

7
- Luận văn đã phân tích một cách có hệ thống khái niệm hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

- Luận văn đã so sánh những quy định trong các Điều ước quốc tế và
pháp luật của các nước nhằm mục đích làm rõ bản chất pháp lý của hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

- Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp
luật hiện hành về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp và hiện trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với kiểu dáng công nghiệp.

- Luận văn đã đưa ra một số nguyên nhân của tình trạng gia tăng hành
vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp; trên
cơ sở đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận;
Luận văn được bố cục làm ba chương:

Chương 1: Lý luận chung về kiểu dáng công nghiệp và hành vi xâm


phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

Chương 2: Những quy định của pháp luật Việt Nam về xác định hành
vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

Chương 3: Thực trạng và giải pháp hạn chế tình trạng xâm phạm và
nâng cao hiệu quả xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp.

8
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ HÀNH VI
XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp và quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
1.1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp và phân biệt kiểu dáng
công nghiệp với một số đối tượng khác
1.1.1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Một sản phẩm để dễ được người tiêu dùng chú ý đến không chỉ bởi
chất lượng, tính năng của nó mà còn phụ thuộc phần lớn vào kiểu dáng bên
ngoài của sản phẩm. Kiểu dáng công nghiệp là một trong các đối tượng của
quyền SHCN. Vì thế, kiểu dáng công nghiệp cũng có những đặc tính chung
của tài sản trí tuệ như: tính sáng tạo, tính chất vô hình, tính dễ phổ biến, lan
truyền. Tuy nhiên về nội hàm kiểu dáng công nghiệp hiện nay vẫn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau với các tiêu chí khác nhau. Có thể dẫn ra một số ví
dụ như sau:
Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) định nghĩa: “Kiểu dáng công nghiệp
mang tính chất trang trí hay thẩm mỹ của sản phẩm. Kiểu dáng có thể bao
hàm các khía cạnh 3 chiều, ví dụ như hình dáng hoặc bề mặt của sản phẩm,
hoặc các khía cạnh 2 chiều, ví dụ như mẫu hoa văn, đường nét hoặc màu
sắc”[62]. Như vậy, kiểu dáng công nghiệp được xác định là biểu hiện bên
ngoài của sản phẩm và biểu hiện đó có thể là trên mặt phẳng (hai chiều) hoặc
ở không gian 3 chiều. Kiểu dáng công nghiệp được xác định bởi tính chất
trang trí hay thẩm mỹ của nó. Đây là một định nghĩa mở, định nghĩa này cho
phép hiểu về kiểu dáng công nghiệp rất rộng.

9
Từ điển Wikipedia định nghĩa về kiểu dáng công nghiệp như sau:
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm,
được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp
những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế
tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.[70]
Theo định nghĩa này, từ điển Wikipedia cũng đã phân tích các yếu tố
của kiểu dáng công nghiệp như sau: Thứ nhất, hình dáng bên ngoài của sản
phẩm là phần sản phẩm có thể nhận biết được bằng các giác quan (chủ yếu là
mắt) trước khi kiểm nghiệm sản phẩm; Thứ hai, tính mới; Thứ ba, kiểu dáng
công nghiệp phải có tính khả thi trong việc làm mẫu để chế tạo hàng loạt bằng
công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Theo pháp luật Mỹ, kiểu dáng công nghiệp được định nghĩa:
Kiểu dáng bao gồm các đặc tính trang trí được thể hiện hay áp dụng
trong một sản phẩm. Vì kiểu dáng được thể hiện ở hình dáng bên ngoài nên
đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là hình dạng của một sản phẩm, là trang
trí mặt ngoài của một sản phẩm, hay là sự kết hợp giữa hình dáng và trang trí
bề ngoài. Một kiểu dáng trang trí bề ngoài không thể tách rời sản phẩm mà
nó trang trí và do vậy không thể tự thân tồn tại một mình được. [62, tr.5]
Theo đó, đặc tính trang trí của kiểu dáng công nghiệp được nhấn
mạnh ngay từ đầu, định nghĩa này cũng đặt ra yêu cầu kiểu dáng công nghiệp
phải luôn gắn liền với sản phẩm.
Liên Minh châu Âu định nghĩa về kiểu dáng công nghiệp như sau:
“Kiểu dáng là hình dạng bên ngoài của một sản phẩm hay một số bộ phận
của sản phẩm. Kiểu dáng có thể được cấu thành từ các đường nét, màu, hình,
bố cục hay trang trí”[63]. Theo đó, kiểu dáng công nghiệp chỉ là biểu hiện
bên ngoài của sản phẩm và liệt kê cụ thể các yếu tố hợp thành kiểu dáng công
nghiệp đó là đường nét, màu sắc, hình khối, hình, bố cục hay trang trí. Qua

10
định nghĩa này, có thể hiểu gián tiếp kiểu dáng công nghiệp có thể thể hiện ở
trên mặt phẳng (hai chiều) hoặc ở dạng không gian ba chiều.
Pháp luật Nhật Bản định nghĩa kiểu dáng công nghiệp như sau: “Kiểu
dáng là hình dáng, kiểu mẫu, hay màu sắc, hay sự kết hợp của các nhân tố đó
của một sản phẩm, là cái thông qua thị giác gợi lên một cảm xúc mỹ học. Do
vậy, kiểu dáng phải có sức hấp dẫn đối với thị giác”. [64, tr.5] Theo định nghĩa
này đã đưa ra các dạng yếu tố thể hiện cơ bản của một kiểu dáng công nghiệp,
kiểu dáng công nghiệp phải gắn liền với sản phẩm, phải đáp ứng yêu cầu về
tính thẩm mỹ và kiểu dáng công nghiệp phải cảm nhận được bởi thị giác.
Pháp luật Việt Nam quy định về kiểu dáng công nghiệp cũng có sự
khác nhau qua các thời kỳ. Khoản 3, Điều 4, Pháp lệnh về Bảo hộ quyền
SHCN 1989 quy định về kiểu dáng công nghiệp “là hình dáng bên ngoài của
sản phẩm được thể hiện bằng đường nét, hình khối, mầu sắc hoặc sự kết hợp
những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản
phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp” [30]. Bộ luật Dân sự 1995, kiểu
dáng công nghiệp tiếp tục được định nghĩa như Pháp lệnh 1989. Tiếp đến,
Khoản 13, Điều 4, Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật SHTT quy
định: “Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể
hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố
này”[41]. Kiểu dáng công nghiệp liên quan đến các loại sản phẩm từ đồ vật
hàng ngày ít giá trị cho đến những sản phẩm có giá trị cao. Kiểu dáng công
nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm bao gồm tập hợp các đặc điểm
liên quan đến khía cạnh thẩm mỹ, trang trí cho sản phẩm. Nó có thể bao gồm sự
kết hợp theo không gia ba chiều như hình khối hoặc hai chiều như họa tiết,
đường nét, màu sắc. “Kiểu dáng công nghiệp được coi là giải pháp mang tính
chất mỹ thuật” [37]. Đối tượng của kiểu dáng công nghiệp bao gồm những yếu
tố thể hiện ở bên ngoài của sản phẩm mà có thể cảm nhận được bằng mắt thường
khi quan sát sản phẩm để phân biệt được sự giống nhau và khác nhau giữa các

11
sản phẩm đó. Vì kiểu dáng công nghiệp bắt buộc là hình dáng bên ngoài của
sản phẩm và mang đặc tính mỹ thuật, vì vậy, hình dáng của sản phẩm không
nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sẽ không được bảo hộ. Hình dáng bên
trong của sản phẩm là phần không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sẽ
không được bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.
Tuy định nghĩa về Kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật mỗi nước
còn một vài chỗ chưa thực sự đồng nhất, nhưng về cơ bản các định nghĩa
được viện dẫn đều đã thống nhất được với nhau như thế nào là một kiểu dáng
công nghiệp. Định nghĩa về kiểu dáng công nghiệp của Việt Nam là khá
tương đồng với pháp luật một số nước trên thế giới.
Từ các khái niệm trên, tác giả đưa ra khái niệm kiểu dáng công nghiệp
như sau: kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được
thể hiện trên không gian hai chiều hoặc ba chiều và được thể hiện bằng hình
khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. Trong đó dấu
hiệu là hình dáng bên ngoài của sản phẩm là yếu tố giúp phân biệt kiểu dáng
công nghiệp với các đối tượng SHCN khác.
Một số hình ảnh ví dụ về kiểu dáng công nghiệp [34]:

Kiểu dáng công nghiệp của chiếc Kiểu dáng công nghiệp khác nhau
ghế và bình đựng chất lỏng của ô tô
12
1.1.1.2. Đặc điểm kiểu dáng công nghiệp

Ngoài các đặc điểm chung như các đối tượng SHCN khác như tính
sáng tạo, là tài sản vô hình thì kiểu dáng công nghiệp còn có một số đặc điểm
riêng. Đặc điểm bản chất của một kiểu dáng công nghiệp được xác định dựa
vào hai yếu tố: kiểu dáng công nghiệp phải là biểu hiện bên ngoài của một sản
phẩm và kiểu dáng công nghiệp phải có khả năng áp dụng vào lĩnh vực sản
xuất công nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Cụ thể:
- Kiểu dáng công nghiệp là một loại tài sản vô hình
Kiểu dáng công nghiệp cũng như các đối tượng khác của quyền sở
hữu trí tuệ là một loại tài sản vô hình. Kiểu dáng công nghiệp không có cấu
tạo vật chất mà nó tạo ra những quyền và ưu thế đối với người sở hữu và
thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng. Kiểu dáng công nghiệp là
một tài sản trí tuệ, do đó nó không bị tiêu hao trong quá trình sử dụng. Là sản
phẩm của sáng tạo trí tuệ, nên kiểu dáng công nghiệp phải được vật chất hóa
và được thể hiện trên các vật mang tin cụ thể. Tài sản trí tuệ vô hình phải
được phản ánh, thể hiện thông qua những vật thể hữu hình.
- Kiểu dáng công nghiệp phải có tính sáng tạo
Kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính sáng tạo nếu không thể
được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh
vực tương ứng. Kiểu dáng công nghiệp phải là kết quả của sự sáng tạo, không
phải là sự sao chép, bắt chước các kiểu dáng đã có. Những kiểu dáng chỉ là sự
kết hợp đơn thuần của các đặc điểm tạo dáng đã biết, chỉ sắp đặt lại, thay đổi
vị trí… không được coi là có tính sáng tạo. Những kiểu dáng mô phỏng hay
sao chép toàn bộ hoặc một phần các đối tượng sẵn có trong tự nhiên như con
vật, cây cối…; các hình học đơn giản như hình vuông, hình tròn, tam giác…;

13
hoặc hình dáng các sản phẩm, công trình đã nổi tiếng hoặc được biết đến rộng
rãi ở Việt Nam và thế giới, không có sự cách điệu đủ mức cũng không được
coi là có tính sáng tạo.
- Kiểu dáng công nghiệp là biểu hiện bên ngoài của một sản phẩm
Kiểu dáng công nghiệp phải là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm bao
gồm đặc điểm liên quan đến khía cạnh thẩm mỹ, trang trí cho sản phẩm. Biểu
hiện bên ngoài này có thể là đường nét, hình khối, màu sắc, hoặc sự kết hợp
những yếu tố đó. Cách thức biểu hiện có thể trên mặt phẳng (hai chiều) hoặc
ở dạng không gian ba chiều. Đối tượng của kiểu dáng công nghiệp chỉ bao
gồm những yếu tố thể hiện ở bên ngoài của sản phẩm mà có thể cảm nhận
được bằng mắt thường khi quan sát sản phẩm để phân biệt được sự giống và
khác nhau giữa các sản phẩm đó. Những gì thuộc về bên trong sản phẩm -
phần không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng (ví dụ động cơ bên trong
của xe máy) thì không thể được coi là kiểu dáng công nghiệp.
- Kiểu dáng công nghiệp có sự kết hợp giữa yếu tố thẩm mỹ và yếu tố
chức năng
Để được bảo hộ là kiểu dáng công nghiệp thì đòi hỏi phải có sự kết
hợp cả yếu tố thẩm mỹ và yếu tố chức năng. Kiểu dáng công nghiệp liên quan
đến khía cạnh thẩm mỹ của sản phẩm. Do đó, những đặc điểm tạo dáng chỉ
mang tính kỹ thuật, chức năng mà không liên quan đến thẩm mỹ (hình xoắn
trôn ốc của chiếc đinh vít), hoặc những dấu hiệu được gắn trên sản phẩm chỉ
để thực hiện chức năng thông tin, hướng dẫn về nguồn gốc, đặc điểm cấu tạo,
kích cỡ…, hoặc hình dáng bên ngoài do đặc tính kỹ thuật bắt buộc phải có
hoặc chỉ mang tính kỹ thuật... của sản phẩm không được coi là kiểu dáng
công nghiệp. Kiểu dáng công nghiệp ngoài yếu tố thẩm mỹ còn phải liên quan
đến yếu tố chức năng của sản phẩm. Những đặc điểm tạo dáng chỉ mang tính
thẩm mỹ mà không mang tính kỹ thuật, không thực hiện chức năng nhất định

14
thì cũng không được coi là kiểu dáng công nghiệp. Như vậy, nếu hình dáng
bên ngoài của sản phẩm chỉ thiếu một trong hai yếu tố là tính thẩm mỹ hay
tính kỹ thuật đều không được coi là kiểu dáng công nghiệp và không được
bảo hộ.
- Kiểu dáng công nghiệp phải có khả năng dùng làm mẫu để sản xuất
ra sản phẩm bằng phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp
Khả năng áp dụng vào công nghiệp chính là một trong những đặc
điểm mang tính bản chất của kiểu dáng công nghiệp. Theo đó, kiểu dáng công
nghiệp phải là hình dáng bên ngoài của sản phẩm có thể làm mẫu để sản xuất
hàng loạt bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp hoặc hình
dáng bên ngoài của sản phẩm được sản xuất công nghiệp. Theo pháp luật một
số nước như Hoa Kỳ, Inđônêsia, Malaysia, Philippines, EU… cũng quy định
hình dáng bên ngoài của sản phẩm được sản xuất bằng phương pháp công
nghiệp hoặc thủ công nghiệp thì mới được coi là kiểu dáng công nghiệp; Theo
quy định của pháp luật Hàn Quốc, Nhật Bản… hình dáng bên ngoài của sản
phẩm phải được sản xuất công nghiệp mới được coi là kiểu dáng công nghiệp.
Luật SHTT Việt Nam cũng đưa ra tiêu chí này trong định nghĩa về kiểu dáng
công nghiệp. Đặc điểm này nhấn mạnh tính khả thi của kiểu dáng công
nghiệp, chứng tỏ kiểu dáng công nghiệp theo sự mô tả trong đơn đăng ký phải
được triển khai thực hiện trong điều kiện thực tế và có thể cho ra các thành
phẩm cụ thể như kết quả đã nêu trong đơn yêu cầu.
- Kiểu dáng công nghiệp phải có tính mới
Ngoài các đặc điểm trên, kiểu dáng công nghiệp có đặc điểm là tính
mới. Kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính mới nếu kiểu dáng công
nghiệp đó khác biệt đáng kể với những kiểu dáng công nghiệp đã bị bộc lộ
công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức
nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước

15
ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được hưởng quyền ưu
tiên. Hai kiểu dáng công nghiệp không được coi là khác biệt đáng kể với
nhau nếu chỉ khác biệt về những đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết,
ghi nhớ và không thể dùng để phân biệt tổng thể hai kiểu dáng công nghiệp
đó. Kiểu dáng công nghiệp được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có
một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về kiểu dáng công
nghiệp đó. Kiểu dáng công nghiệp không bị coi là mất tính mới nếu được
công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký kiểu dáng
công nghiệp được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
- Kiểu dáng công nghiệp bị người khác công bố nhưng
không được phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86
của Luật SHTT;
- Kiểu dáng công nghiệp được người có quyền đăng ký quy
định tại Điều 86 của Luật SHTT công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
- Kiểu dáng công nghiệp được người có quyền đăng ký quy
định tại Điều 86 của Luật SHTT trưng bày tại cuộc triển lãm quốc
gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc
được thừa nhận là chính thức.[40]
Tính mới của kiểu dáng công nghiệp được đặt ra không những trong
phạm vi quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới.
Ngoài ra, kiểu dáng công nghiệp còn có một số đặc điểm khác như:
tính khác biệt, phải được nhận biết bằng mắt thường.
1.1.1.3. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với một số đối tượng khác
Kiểu dáng công nghiệp với đặc điểm là tính sáng tạo, khả năng áp
dụng vào công nghiệp và chức năng phân biệt với các sản phẩm cùng loại,
còn có một số đặc điểm tương đồng với một số đối tượng khác của quyền

16
SHTT. Dưới đây tác giả sẽ tập trung phân tích kiểu dáng công nghiệp với một
số đối tượng có nhiều điểm chung nhất với kiểu dáng công nghiệp là sáng
chế; nhãn hiệu và tác phẩm tạo hình, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là đối
tượng của quyền tác giả.
Thứ nhất, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu
Khoản 16, Điều 4, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT
quy định: “nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các
tổ chức, cá nhân khác nhau”[41]. Đặc điểm tương đồng giữa hai đối tượng này
là một dấu hiệu ba chiều có thể dùng để đăng ký làm nhãn hiệu hoặc kiểu dáng
công nghiệp. Ví dụ, bao bì của Mì ăn liền VIFON có thể được đăng ký với tư
cách là nhãn hiệu nhưng có thể đăng ký là kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên,
giữa hai đối tượng này cũng có sự khác biệt rõ rệt. Về tiêu chuẩn bảo hộ, dấu
hiệu là nhãn hiệu phải thể hiện được tính chất phân biệt cho hàng hóa, dịch vụ
của các chủ thể khác nhau, còn dấu hiệu là kiểu dáng công nghiệp phải thể hiện
tính chất phân biệt cho hàng hóa mang nó và phải thể hiện được tính mới, tính
sáng tạo của nó so với các kiểu dáng công nghiệp cùng loại khác của chủ thể
quyền hoặc của các chủ thể khác và có khả năng áp dụng công nghiệp. Về tính
chất bảo hộ, nhãn hiệu bảo hộ cho uy tín, tên tuổi của hàng hóa mang nhãn hiệu
còn kiểu dáng công nghiệp bảo hộ hình dáng bên ngoài của sản phẩm, không
bảo hộ cho nội dung bên trong của hàng hóa.
Thứ hai, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế
Khoản 12, Điều 4, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT
quy định: “sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình
nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự
nhiên”[41]. Điểm tương đồng giữa hai đối tượng này đều là những sản phẩm
sáng tạo của hoạt động sáng tạo do con người thực hiện. Tuy nhiên, trong khi
sáng chế là những ý tưởng kỹ thuật được tạo ra bằng cách sử dụng quy luật tự

17
nhiên và được bảo hộ theo quan điểm kỹ thuật thì kiểu dáng công nghiệp là
những sáng tạo về thẩm mỹ, là nghệ thuật trang trí. Kiểu dáng công nghiệp
phải liên quan đến hình dạng của đối tượng và không chỉ được quyết định bởi
các yêu cầu bắt buộc về mặt kỹ thuật hoặc chức năng mà còn được quyết định
cả yêu cầu về tính thẩm mỹ. Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật tồn tại thông
qua hai dạng chủ yếu là sản phẩm hoặc quy trình. Giải pháp kỹ thuật được coi
là sáng chế phải giải quyết được một vấn kỹ thuật cụ thể bằng việc áp dụng
các quy luật tự nhiên.
Thứ ba, kiểu dáng công nghiệp và tác phẩm tạo hình, tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng là đối tượng của quyền tác giả
Kiểu dáng công nghiệp có mối liên hệ mật thiết với các tác phẩm tạo
hình, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là đối tượng của quyền tác giả. Điểm tương
đồng giữa hai đối tượng này là trong một số trường hợp một đối tượng vừa
đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ của một kiểu dáng công nghiệp, vừa đáp ứng
được tiêu chuẩn bảo hộ về quyền tác giả. Ví dụ, ông B sáng tạo ra một bức
tượng. Trường hợp bình thường nó sẽ được bảo hộ theo pháp luật về quyền
tác giả, tuy nhiên nếu sử dụng kiểu dáng bức tượng này vào việc tạo ra sản
phẩm một loại đồng hồ trang trí thì kiểu dáng bức tượng sẽ được bảo hộ với
tính chất là kiểu dáng công nghiệp, bởi vì lúc này sản phẩm không chỉ mang
giá trị thẩm mỹ mà còn mang giá trị sử dụng và nó được áp dụng vào sản xuất
công nghiệp.

Điểm khác biệt giữa hai đối tượng này là trong khi tác phẩm tạo hình,
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là đối tượng của quyền tác giả phát sinh quyền
tác giả ngay từ khi nó được sáng tạo ra kể cả trong trường hợp nó được đăng
ký hay không đăng ký, còn khi muốn được bảo hộ là kiểu dáng công nghiệp
thì bắt buộc phải đăng ký và phải đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ kiểu
dáng công nghiệp. Về nội dung bảo hộ, trong khi tác phẩm tạo hình, tác phẩm

18
mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ theo quy định về quyền tác giả bao gồm
quyền về nhân thân được quy định tại Điều 18 và quyền tài sản được quy định
tại Điều 19 Luật SHTT, thì nội dung bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo quy
định về nội dung quyền SHCN được quy định tại Điều 122 và Điều 123, Luật
SHTT. Về thời hạn bảo hộ, trong khi kiểu dáng công nghiệp chỉ được bảo hộ
trong khoảng một thời gian nhất định được ghi trong văn bằng bảo hộ, cụ thể
theo quy định của Luật SHTT năm 2005, kiểu dáng công nghiệp có thời hạn
bảo hộ là 5 năm, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm; trong khi đó,
tác phẩm tạo hình, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là đối tượng của quyền tác
giả được thì các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn là: đặt tên cho tác
phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của
tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm
dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả;
ngoài ra, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm; các quyền tài sản được quy định tại Điều 20, Luật SHTT có thời hạn
bảo hộ là 50 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp

1.1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp

Quyền SHCN là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tài sản
vô hình – kết quả của các hoạt động tư duy, sáng tạo của con người như sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại và kinh mật kinh doanh, bao gồm các quy định của luật dân sự và
một số ngành luật khác cũng như các quy định trong các điều ước quốc tế

19
song phương và đa phương về các đối tượng đó. Điều 1, Công ước Paris về
bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được ký kết ngày 20-3-1883 và được sửa đổi
vào năm 1967 không đưa ra định nghĩa cụ thể về quyền SHCN mà chỉ quy
định về các đối tượng SHCN được bảo hộ bao gồm: “Sáng chế, mẫu hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương
mại, chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh”. Đến nay, danh sách các đối tượng SHCN được
bổ sung thêm một số đối tượng mới là: bí mật kinh doanh; thiết kế bố trí mạch
tích hợp.

Quyền SHCN nói chung và quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp nói riêng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.

Thứ nhất, hiểu theo nghĩa khách quan, quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình sáng tạo, sử dụng, định đoạt và bảo vệ kiểu
dáng công nghiệp- một đối tượng SHCN.

Với nghĩa này, quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là quyền
sở hữu đối với tài sản vô hình, mặt khác quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp còn bao gồm các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Các quy phạm pháp luật về quyền sở công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp có thể gồm các nhóm sau: nhóm các quy định liên quan đến
việc xác định tiêu chuẩn để kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ; nhóm các
quy định liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp; nhóm các quy phạm liên quan đến nội dung quyền
của chủ sở hữu, quyền tác giả, các chủ thể khác đối với kiểu dáng công
nghiệp; nhóm các quy phạm liên quan đến việc chuyển giao quyền SHCN đối

20
với kiểu dáng công nghiệp; nhóm các quy phạm liên quan đến việc bảo vệ
quyền của các chủ thể đối với kiểu dáng công nghiệp.

Với nghĩa này, quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp không
chỉ là các quy định của luật dân sự mà thuộc rất nhiều các văn bản pháp luật
khác nhau, thuộc nhiều ngành luật khác nhau tạo thành thể thống nhất điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến kiểu dáng công nghiệp. Quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp không những được các quy phạm pháp luật của
quốc gia điều chỉnh mà còn được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế đa
phương và song phương.
Thứ hai, hiểu theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với kiểu dáng công
nghiệp. Điều 780, Bộ luật Dân sự 1995 quy định “Quyền SHCN là quyền sở
hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng
hóa và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định” [44].
Bộ luật Dân sự 1995 ngoài việc liệt kê các đối tượng SHCN cụ thể còn quy
định quyền SHCN đối với các “đối tượng khác”. Định nghĩa mở này về
quyền SHCN tạo điều kiện để dần dần cập nhật những đối tượng khác sẽ được
bảo hộ là đối tượng của quyền SHTT trong tương lai. Luật SHTT 2005 đã bổ
sung thêm các đối tượng SHCN sau: bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Theo quy định tại khoản 4, Điều 4, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT 2005 thì “Quyền SHCN là quyền
của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh
doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh”. [41]

21
Theo nghĩa này, quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc sử dụng, chuyển giao kiểu
dáng công nghiệp. Các quyền chủ quan này phải phù hợp với pháp luật nói
chung và pháp luật về SHCN nói riêng, bao gồm quyền nhân thân và quyền
tài sản của các chủ thể trong lĩnh vực SHCN, quyền ngăn chặn những hành vi
xâm phạm hoặc cạnh tranh không lành mạnh đối với các quyền của người
sáng tạo và người sử dụng hợp pháp các đối tượng đó.
Ngoài ra, quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp còn được hiểu
theo nghĩa là một hệ pháp luật, bao gồm cả chủ thể, khách thể và nội dung. Chủ
thể của quyền SHCN là tổ chức, cá nhân là tác giả hay chủ sở hữu kiểu dáng
công nghiệp hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền SHCN.
Khách thể của quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là kiểu dáng công
nghiệp, là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ được áp dụng trong các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Nội dung của quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
Tóm lại, quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với kiểu dáng công nghiệp do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.2.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp
Thứ nhất, tính vô hình của quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp
Quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là một quyền tài sản và
đối tượng của nó mang tính phi vật chất. Quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp là quyền sở hữu đối với tài sản vô hình.

22
Kiểu dáng công nghiệp là một đối tượng của quyền SHCN, vì vậy nó
cũng mang đặc trưng của các đối tượng quyền SHCN là đặc tính vô hình. Đặc
điểm này hoàn toàn khác biệt với đặc tính hữu hình của sở hữu tài sản vật
chất. Là sản phẩm của sáng tạo trí tuệ, mang đặc tính vô hình nên đối tượng
quyền SHTT nói chung và kiểu dáng công nghiệp nói riêng phải được vật
chất hóa và được thể hiện trên các vật mang tin cụ thể. Tài sản trí tuệ vô hình
phải được phản ánh, thể hiện thông qua những vật thể hữu hình.
Bản thân quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp không thể tự nó
đem lại các tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ quyền mà nó chỉ đem lại các
lợi ích vật chất và tinh thần cũng như các lợi thế cho chủ sở hữu, người sử dụng
khi các đối tượng SHCN được áp dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, tính hạn chế của quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp
Tính hạn chế của quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là một
đặc trưng cơ bản của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng. Đây
chính là sự khác biệt giữa quyền sở hữu các đối tượng là tài sản vật chất hữu
hình với các đối tượng là tài sản vật chất vô hình.
Tính hạn chế của quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp được thể
hiện ở nhiều khía cạnh như hạn chế về không gian, hạn chế về thời gian, hạn
chế quyền của chủ sở hữu (quyền của người sử dụng trước đối với kiểu dáng
công nghiệp), việc sử dụng các đối tượng SHCN không thuộc quyền sở hữu
của mình phải được sự cho phép của chủ sở hữu đối với quyền SHCN đó,...
Dưới đây tác giả sẽ đề cập tới tính hạn chế của quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp về không gian và tính hạn chế về thời gian.
Về không gian
Quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt
đối. Khác với quyền sở hữu tài sản vật chất, chỉ một số loại tài sản nhất định

23
mới phải đăng ký quyền sở hữu, quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp
chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận hoặc cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia
nhất định đã được công nhận hoặc cấp văn bằng đó. Việc bảo hộ quyền
SHCN trên thế giới đều tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc pháp luật quốc gia.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp mang tính không
gian và lãnh thổ tuyệt đối do đặc điểm của quyền SHCN xuất phát từ đặc
trưng của đối tượng SHCN, một loại tài sản vô hình nên rất dễ bị xâm phạm,
khó kiểm soát; việc áp dụng các đối tượng SHCN chủ yếu gắn với quá trình
sản xuất công nghiệp, với mục đích thương mại và thỏa mãn nhu cầu vật chất
của con người nên thường mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng tới sự phát triển
của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội.
Về thời gian
Quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp bị hạn chế về mặt thời
gian. Nhìn chung, quyền SHCN chỉ được bảo hộ trong khoảng một thời gian
nhất định được ghi trong văn bằng bảo hộ và chủ sở hữu các quyền SHCN
phải nộp lệ phí cho sự bảo hộ đó. Khoảng thời gian nhất định để bảo hộ là
khoảng thời gian hợp lý để chủ sở hữu các quyền SHCN khai thác các đối
tượng SHCN của mình để bù đắp những chi phí vật chất và tinh thần khi tạo
ra đối tượng đó. Khi kết thúc thời hạn bảo hộ (kể cả thời gian gia hạn), quyền
SHCN của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng
cũng chấm dứt, ngoại trừ một số đối tượng SHCN như tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý... được bảo hộ vô thời hạn nhưng các đối tượng đó cũng như chủ sở
hữu các đối tượng đó phải đảm bảo một số điều kiện do pháp luật quy định.
Quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp có thời hạn bảo hộ là 5 năm, có
thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm.

24
Sự giới hạn thời hạn bảo hộ quyền SHCN xuất phát từ sự phát triển
của khoa học công nghệ, kinh tế xã hội vì các đối tượng của quyền SHCN là
những sản phẩm trí tuệ có ích cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khoa
học kỹ thuật, công nghệ. Nếu kiểu dáng công nghiệp cũng như các đối tượng
quyền SHCN được bảo hộ vĩnh viễn thì sẽ kìm hãm sự sáng tạo, dẫn đến tình
trạng bưng bít tin tức. Sau khi hết thời hạn bảo hộ, các đối tượng SHCN này
sẽ trở thành tài sản chung của nhân loại.

Thứ ba, quyền sử dụng là quyền năng cơ bản nhất của quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
Quyền SHCN là một quyền dân sự theo nghĩa rộng. Đây không phải
là một quyền dân sự “tuyệt đối” theo cách hiểu truyền thống về quyền dân sự.
Trong khi đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu
(chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu là quyền cơ bản và quan
trọng nhất thì đối với quyền SHCN, quyền sử dụng lại được coi là quyền năng
cơ bản nhất. Với tài sản là kiểu dáng công nghiệp được thể hiện thông qua
quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm người khác sử dụng
và định đoạt kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu không được chủ sở hữu
cho phép. Điều này xuất phát từ tính vô hình của các đối tượng SHCN, do đó,
chủ sở hữu không thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản. Bản thân kiểu dáng
công nghiệp không tạo ra giá trị mà chúng phải được ứng dụng vào những
loại vật chất hữu hình cụ thể và phát sinh giá trị trong quá trình sử dụng, khai
thác kiểu dáng công nghiệp.
Đặc tính không hữu hình của sản phẩm sáng tạo trí tuệ nói chung của
kiểu dáng công nghiệp nói riêng sau khi bộc lộ có thể lan truyền vô hạn,
không thể kiểm soát được. Do vậy, để chiếm giữ, hoặc là không công bố, giữ
bí mật về sản phẩm, không đưa vào sử dụng, khai thác hoặc có khai thác
nhưng phải giữ không cho người khác biết bản chất của đối tượng đó. Tuy

25
nhiên, điều này không thể thực hiện được trên thực tế hoặc nếu có thực hiện
được thì không có ý nghĩa. Vì vậy, quyền năng quan trọng nhất trong nội
dung quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là quyền sử dụng các đối
tượng SHCN.
Quyền SHCN là một quyền đặc biệt thể hiện khả năng độc quyền khai
thác, sử dụng của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ. Việc bảo hộ
quyền SHCN nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, của tác giả bằng cách
tạo điều kiện cho họ thu lợi, bù đắp những chi phí mà họ đã bỏ ra. Do đó, chỉ
chủ sở hữu mới có quyền sử dụng và chuyển giao cho người khác sử dụng đối
với kiểu dáng công nghiệp.
Thứ tư, quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ thông qua thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Đăng ký văn bằng bảo hộ là cách thức để công khai hóa tình trạng của
loại tài sản vô hình này đối với các chủ thể khác, là cách thức để thông báo
công khai tài sản này đã thuộc về chủ thể xác định. Từ đó, chủ sở hữu có căn
cứ để chứng minh tài sản đó thuộc về mình. Khác với quyền tác giả là mặc
nhiên phát sinh ngay sau khi tác phẩm được tác giả sáng tạo ra và thể hiện
dưới một hình thức nhất định, do đó, việc đăng ký chỉ mang tính khuyến
khích thì quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng và quyền
SHCN nói chung thì việc đăng ký mang tính bắt buộc, muốn được bảo hộ
phải có đơn yêu cầu bảo hộ hoặc công nhận và sẽ được bảo hộ từ thời điểm
được cấp văn bằng bảo hộ hoặc quyết định công nhận (trừ tên thương mại, bí
mật kinh doanh).
Thông qua thủ tục đăng ký kiểu dáng công nghiệp, Nhà nước còn
nhằm mục đích khuyến khích các hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và thương mại. Việc đăng tải trên công báo các thông tin về các
đối tượng sẽ được cấp văn bằng bảo hộ tạo điều kiện cho các chủ thể khác

26
trong xã hội tiếp cận được các tri thức hiện đại và tiên tiến nhất để làm căn cứ
cho các nghiên cứu, phát minh tiếp theo.
Thứ năm, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp luôn gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh
Một trong những tiêu chí để phân chia kết quả của hoạt động sáng tạo
trí tuệ thành quyền tác giả và quyền SHCN chính là căn cứ vào tính hữu ích
hay khả năng ứng dụng của chúng. Trong khi đối tượng của quyền tác giả chủ
yếu được áp dụng trong các hoạt động giải trí tinh thần thì các các đối tượng
của quyền SHCN lại được ứng dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Mục đích của các quan hệ dân sự về quyền SHCN không phải là để thỏa mãn
những mục đích tiêu dùng dân sự thường ngày của các chủ thể mà chính là các
lợi ích kinh tế thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh có được do sử dụng
kiểu dáng công nghiệp nói riêng và các đối tượng SHCN khác nói chung.
Tại Điều 1, Công ước Paris về bảo hộ SHCN đã quy định: “SHCN
phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp dụng cho công
nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các ngành sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm công nghiệp
và sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, thuốc lá, hoa quả, gia súc, khoáng
sản, nước khoáng, bia và bột” [57]. Vì vậy, một trong những điều kiện để
được bảo hộ kiểu dáng công nghiệp là phải được sản xuất hàng loạt bằng
phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp tức là phải có khả năng áp
dụng trong các lĩnh vực sản xuất, khoa học, công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm
có giá trị cho đời sống con người.
1.2. Khái niệm hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp
Tổ chức cảnh sát quốc tế Interpol coi xâm phạm quyền SHTT là “tội
phạm nghiêm trọng”. Phạm vi các hành vi phạm tội về SHTT rất rộng, chủ

27
yếu là các hành vi liên quan đến hàng giả và hàng nhái nhãn hiệu, kiểu dáng
công nghiệp. Hành vi xâm phạm SHTT nói chung cũng như xâm phạm quyền
SHCN nói riêng gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, làm thiệt hại hàng tỷ
đồng của các nhà sản xuất và người tiêu dùng mỗi năm. Hàng giả và hàng
xâm phạm quyền SHTT không chỉ hạn chế ở hàng hóa cao cấp như trước mà
mở rộng sang cả hàng hóa tiêu dùng bao gồm các hàng hóa thông thường như
thức ăn cho trẻ em, dược phẩm, mỹ phẩm, máy móc và các phụ tùng thiết bị
khác. Các hành vi xâm phạm quyền SHCN ngày càng đa dạng và phổ biến
hơn. Tình trạng xâm phạm quyền SHTT đặt ra một yêu cầu là phải bảo vệ
hiệu quả quyền SHTT cho các chủ thể.

Liên quan đến khái niệm hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp có nhiều định nghĩa khác nhau.
Hiệp định TRIPS quy định về thực thi quyền SHTT và hành vi xâm
phạm quyền SHTT thông qua việc sử dụng các thuật ngữ “xâm phạm quyền
SHTT” và các quy định về thực thi quyền SHTT tại các Điều từ Điều 41 đến
Điều 61, Phần III của Hiệp định.
Điều 71, phần 2, chương 6, Đạo luật về kiểu dáng công nghiệp 2003
được sửa đổi, bổ sung năm 2010 của Ôxtrâylia quy định về hành vi xâm phạm
kiểu dáng công nghiệp như sau:
Một người bị coi là xâm phạm kiểu dáng đã đăng ký nếu
trong thời gian kiểu dáng được bảo hộ và không được phép của chủ
sở hữu kiểu dáng mà thực hiện các hành vi sau:
a). Sản xuất hoặc đưa ra bán sản phẩm liên quan đến kiểu dáng đã
đăng ký, trong đó thể hiện một kiểu dáng giống hoặc tương tự với
kiểu dáng đã đăng ký;
b). Nhập khẩu để bán hoặc sử dụng nhằm mục đích kinh doanh,
thương mại;

28
c). Bán, cho thuê hoặc phục vụ cho mục đích khác, hoặc cung cấp
để bán, cho thuê hoặc nhằm mục đích khác như một sản phẩm;
d). Sử dụng như một sản phẩm bằng bất kỳ cách nào nhằm mục
đích kinh doanh, thương mại;
e). Giữ lại như là một sản phẩm với mục đích thực hiện bất kỳ hoạt
động nào nhằm mục đích kinh doanh, thương mại.[60]
Pháp luật về SHTT của Ôxtrâylia cũng đã quy định các hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp dưới dạng liệt kê, với mức
tương đối đầy đủ. Cũng như Ôxtrâylia, pháp luật về SHTT của Malaysia cũng
quy định hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp dưới dạng liệt kê. Theo
quy định tại mục 32, Phần VI, Đạo luật thiết kế kiểu dáng công nghiệp 1996
của Malaysia quy định về hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp như sau:
1. Theo quy định của Đạo luật này, chủ sở hữu một kiểu
dáng công nghiệp có quyền độc quyền thực hiện hoặc nhập khẩu để
bán hoặc cho thuê, hoặc để sử dụng nhằm mục đích thương mại,
kinh doanh hoặc bán, thuê hoặc tặng cho hoặc trưng bày để bán
hoặc cho thuê kiểu dáng công nghiệp đã được đăng ký.
2. Theo quy định tại mục 30 của Đạo luật này, một người bị
coi là có hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký trong
thời gian có hiệu lực của văn bằng bảo hộ nếu sử dụng kiểu dáng
công nghiệp mà không có giấy phép hoặc sự đồng ý của chủ sở hữu
kiểu dáng công nghiệp trong những trường hợp sau:
a) Sử dụng kiểu dáng công nghiệp hoặc bắt chước bắt kỳ bộ
phận nào của kiểu dáng công nghiệp, hoặc bắt chước hiển nhiên
kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký.
b) Nhập khẩu vào Malaysia để bán hoặc để sử dụng nhằm
mục đích thương mại hoặc kinh doanh bất kỳ bộ phận nào của kiểu

29
dáng công nghiệp hoặc bắt chước hiển nhiên hoặc rõ ràng kiểu
dáng công nghiệp được áp dụng bên ngoài Malaysia mà không có
giấy phép hoặc không được sự đồng ý của chủ sở hữu; hoặc
c) Bán hoặc tặng cho hoặc giữ để bán, hoặc thuê, hoặc
cung cấp hoặc giữ để cho thuê, bất kỳ bộ phận nào kiểu dáng công
nghiệp được mô tả mục a và b [67].
Khoản 1, Điều 14, Nghị định 85/HĐBT ngày 13-5-1988 của Hội
đồng Bộ trưởng về Điều lệ kiểu dáng công nghiệp và Khoản 1, Điều 12, Pháp
lệnh Bảo hộ quyền SHCN 1989 quy định về hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp như sau: sản xuất, sử dụng, nhập khẩu, quảng
cáo và lưu thông các sản phẩm được sản xuất theo kiểu dáng công nghiệp đã
được bảo hộ mà không được phép của chủ Văn bằng bảo hộ; Việc chủ sở hữu
đối tượng SHCN không thực hiện nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả và việc
không bảo đảm các quyền tinh thần của tác giả bị coi là xâm phạm quyền của
tác giả kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, các quy định này quy định hành vi
xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp còn đơn giản.
Bộ luật Dân sự 1995 quy định về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp là một dạng hành vi của hành vi xâm phạm quyền
SHTT được quy định tại Mục 5, Chương II, Phần VI về Bảo hộ quyền SHCN.
Khoản 1, Điều 804 đã đưa ra khái niệm về hành vi xâm phạm quyền SHCN
“Người nào sử dụng các đối tượng SHCN của người khác trong thời hạn bảo
hộ mà không xin phép chủ sở hữu đối tượng SHCN, thì bị coi là xâm phạm
quyền SHCN...[44]. Khoản 3, Điều 805 đã liệt kê các hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp gồm:
- Sản xuất sản phẩm theo kiểu dáng công nghiệp được bảo
hộ tại Việt Nam;

30
- Nhập khẩu, bán, quảng cáo hoặc sử dụng các sản phẩm
chế tạo theo kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam nhằm
mục đích kinh doanh [44].
Tiếp đó, Nghị định 63/1996-CP quy định chi tiết về quyền SHCN thì
hành vi xâm phạm quyền SHCN được định nghĩa như sau:
Việc một người không phải là chủ sở hữu đối tượng SHCN
thực hiện một trong các hành vi sử dụng đối tượng SHCN đang
trong thời hạn bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu đối
tượng SHCN, đồng thời người thực hiện hành vi đó không phải là
người có quyền sử dụng trước quy định tại Điều 50 Nghị định này
và các hành vi sử dụng nói trên không thuộc trường hợp quy định
tại các Điều 51 và Điều 52 Nghị định này thì bị coi là hành vi xâm
phạm quyền SHCN [8].
Như vậy, Bộ luật Dân sự 1995 và các văn bản liên quan đã bước đầu
có những quy định đầy đủ hơn về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, các quy định này còn nằm rải rác và chưa
đầy đủ về hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp. Đến Luật SHTT 2005 và
các văn bản hướng dẫn thi hành đã xây dựng được một hệ thống pháp luật
thống nhất về SHTT nói chung cũng như về hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng. Khoản 1 và Khoản 2, Điều 126, Luật
SHTT 2005 đã liệt kê các dạng hành vi được coi là xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp, bao gồm các hành vi sau:
- Sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu
dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó trong
thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ
sở hữu;

31
- Sử dụng kiểu dáng công nghiệp mà không trả tiền đền bù
theo quy định về quyền tạm thời quy định tại Điều 131 của Luật
SHTT [40].
Sau đó, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT và
Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30-12-2010 sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 105/2006/NĐ-CP đã xác định các yếu tố cấu thành hành vi xâm phạm
quyền SHTT. Các quy định này đã có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp cá
nhân, cơ quan thực thi quyền SHTT xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT
chính xác, nhanh chóng và thống nhất. Tuy nhiên, Luật SHTT 2005 cũng
không đưa ra định nghĩa về hành vi xâm phạm quyền SHCN mà chỉ liệt kê
các dạng hành vi xâm phạm đối với từng đối tượng quyền SHCN và việc liệt
kê như vậy sẽ không bao hàm hết được các hành vi xâm phạm ở trên thực tế.
TS. Lê Nết đã đưa ra khái niệm về hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp như sau:“xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp là việc sử dụng kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và
thời hạn bảo hộ mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu kiểu dáng công
nghiệp trừ các trường hợp được pháp luật cho phép”[36].
Từ các khái niệm về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp được đưa ra ở trên và dưới góc độ nghiên cứu, tác giả đưa
ra khái niệm về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp như sau: hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp là hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và thời gian
bảo hộ mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp và
không thuộc các trường hợp ngoại lệ được pháp luật cho phép sử dụng.

32
1.3. Ý nghĩa của việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

Hành vi xâm phạm SHTT nói chung và hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng đang ngày càng gia tăng mạnh
mẽ về số lượng, về tính chất và mức độ xâm phạm. Hành vi xâm phạm quyến
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội, ảnh hưởng từ các doanh nghiệp cho đến từng cá nhân công
dân, từ môi trường đầu tư, kinh doanh, đến môi trường cạnh tranh lành mạnh
cho đến việc ảnh hưởng đến thái độ tôn trọng pháp luật của người dân. Vì
vậy, xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung và hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng có ý nghĩa hết
sức quan trọng:

1.3.1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp để giải quyết các vụ việc cụ thể trong công tác
thực thi quyền sở hữu công nghiệp

Xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp phục vụ mục đích giải quyết các tranh chấp về quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp. Khi nhận được đơn yêu cầu xử lý các hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành xác minh hành vi xâm
phạm. Trong trường hợp có sự xâm phạm kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ
thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật trừ trường hợp doanh nghiệp chứng
minh được mình có quyền sử dụng trước và không vi phạm số lượng và phạm
vi sử dụng thì sẽ không bị xử lý. Chỉ khi xác định chắc chắn có hay không
hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp, người có
thẩm quyền mới được xử lý hành vi xâm phạm đó hoặc quyết định ngừng xử
lý, không xử lý.

33
Khi có tranh chấp về quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp
được yêu cầu giải quyết tại Tòa án hoặc Trọng tài thì việc xác định hành vi
xâm phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp. Việc xác
định có hay không có hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp sẽ ảnh hưởng đến phán quyết cụ thể của Tòa án và của Trọng tài. Việc
kết luận một hành vi có xâm phạm hay không xâm phạm quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp liên quan mật thiết đến quyền lợi của chủ sở hữu
kiểu dáng công nghiệp và chủ sở hữu hàng hóa bị nghi ngờ là xâm phạm
quyền của chủ SHCN. Vì vậy, để giải quyết được khách quan, đúng quy định,
người có thẩm quyền xử lý xâm phạm, cần phải xem xét các yếu tố xâm phạm
trên cơ sở của pháp luật; việc xác định đúng, nhanh chóng một hành vi xâm
phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp liên quan
đến quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp và xử lý các xâm phạm đối
với kiểu dáng công nghiệp.

Ngoài ra, ở góc độ các nhà lập pháp, xác định các hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là căn cứ quan trọng giúp cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan tài phán có thể áp dụng có
hiệu quả các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể quyền, lợi ích của nhà nước và của toàn xã hội.

Như vậy, việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp sẽ góp phần quyết định vào việc giải quyết các vụ việc cụ
thể về quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp, xử lý các hành vi xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp nói riêng và góp phần vào công tác bảo vệ
quyền SHTT nói chung.

34
1.3.2. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp để phục vụ yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp

Xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp để phục vụ cho yêu cầu bắt buộc trong kinh doanh. Yếu tố cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp là điều không tranh khỏi trong kinh doanh nhất là
trong xã hội ngày nay, khi một sản phẩm vừa mới ra đời thì ngay lập tức đã có
những doanh nghiệp sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ để sản xuất,
kinh doanh các sản phẩm có kiểu dáng tương tự như vậy để kiếm lời nhanh
chóng. Ngày nay, các doanh nghiệp ngoài việc chú ý đến việc cải tiến kiểu
dáng công nghiệp cũng ngày càng chú ý đến các biện pháp bảo vệ kiểu dáng
công nghiệp đó nhưng việc xâm phạm kiểu dáng công nghiệp vẫn diễn ra
thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng và phức tạp hơn. Trong hoạt động
kinh doanh, nhiều khi vì mục đích lợi nhuận, vì lợi ích kinh doanh, các nhà
kinh doanh bất chấp thủ đoạn kể cả xâm phạm lợi ích của doanh nghiệp khác
để đạt được lợi ích của mình. Đối với kiểu dáng công nghiệp, luôn phải đối
mặt với sự xâm phạm, sự bắt trước và cả sự làm giả. Khi có sự xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp thì không chỉ lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ bị giảm sút mà uy tín của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng.
Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp gây cho
doanh nghiệp nhiều tổn thất như mất doanh thu; mất lợi thế cạnh tranh từ
những nỗ lực và chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm cũng như nỗ lực tiếp
thị bị lạm dụng; gia tăng chi phí giám sát thị trường và thực hiện các biện
pháp chống hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp. Ngoài ra, hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp khiến các doanh nghiệp sản xuất chân chính không chỉ bị thiệt hại về
kinh tế vì mất thị trường tiêu thụ mà uy tín bị giảm sút, mà môi trường kinh
doanh cũng bị xâm phạm. Ví dụ, hàng năm Công ty Honda Motor Ltd. (Nhật
Bản) đã bị thất thu một khoản doanh thu lớn từ các hành vi sản xuất, lắp ráp,

35
buôn bán các loại xe máy có kiểu dáng tương tự kiểu dáng xe máy của Honda
mang các nhãn hiệu khác như Starmax, Neva, Ashita, Maxima, Piogo, SH-
LX, Asrtrea, skygo, New VMC, New Wait, Vivio... Công ty này cũng đã phải
bỏ ra một lượng chi phí lớn để thực hiện các biện pháp chống hàng xâm phạm
kiểu dáng công nghiệp xe máy của Honda diễn ra trên khắp các tỉnh của Việt
Nam đặc biệt là ở các tỉnh Đà Lạt, Bắc Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Bến
Tre, Vĩnh Long, Đắk Nông... Công ty Võng xếp Duy Lợi cũng ở trong tình
trạng tương tự như Công ty Honda. Duy Lợi cũng đã phải đau đầu và tốn kém
để đối phó với tình trạng xâm phạm kiểu dáng võng xếp của các doanh nghiệp
trên thị trường Việt Nam. Năm 2005, Duy Lợi tuyên bố có tất cả 16 cơ sở,
doanh nghiệp sản xuất võng xếp xâm phạm kiểu dáng độc quyền võng xếp
của mình. Pháp luật quy định về những hành vi xâm phạm quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp là một biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền cho
các chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp. Để việc quy định các hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp thực sự có ý nghĩa thì việc
xác định hành vi xâm phạm là yếu tố quyết định.

Ngoài ra, ở góc độ chủ thể quyền, xác định hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp còn có ý nghĩa hướng dẫn chủ thể
quyền trong việc tìm kiếm cách thức và biện pháp để bảo vệ kiểu dáng công
nghiệp. Như vậy, khi có sự xâm phạm hoặc có tranh chấp về quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp thì việc xác định hành vi xâm phạm một cách
nhanh chóng, chính xác sẽ góp phần phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp.

36
1.3.3. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thu
hút đầu tư nước ngoài

Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế như: giảm thu ngân sách; giảm chất lượng
sản phẩm; doanh nghiệp không dám đầu tư công nghệ, cải tiến chất lượng sản
phẩm; giảm đầu tư nước ngoài.

Do ảnh hưởng bởi các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp nên các cá nhân, tổ chức làm ăn chân chính bị mất thu nhập
và nhà nước mất hàng nghìn tỷ đồng do thất thu các loại thuế dẫn đến giảm
thu ngân sách. Ngoài ra, các hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp còn
ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc xác định hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp sẽ là yếu tố quyết định hình thức
và các biện pháp xử lý các hành vi này. Cũng qua việc xử lý đó sẽ bảo vệ lợi
ích cho các tổ chức, cá nhân bị xâm phạm và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Điều đó cũng có nghĩa là một nền kinh tế phát triển, pháp luật nghiêm minh,
mọi hành vi xâm phạm và vi phạm pháp luật đều bị phát hiện và xử lý nghiêm
minh, nhanh chóng và chính xác sẽ là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài.

Tác giả Nguyễn Văn Bảy, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu đào
tạo Cục SHTT đã có ý kiến nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền
SHTT nói chung và việc xử lý các hành vi xâm phạm SHTT nói riêng đối với
việc thu hút đầu tư trong nước cũng như nước ngoài như sau:

Một chế độ bảo hộ quyền SHCN có hiệu quả sẽ thúc đẩy


đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, đặc biệt thu hút các
công nghệ mới, tiên tiến phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước.

37
Chỉ có xây dựng và thực thi một chế độ bảo hộ có hiệu quả quyền
SHCN thì các nhà đầu tư nước ngoài mới tin tưởng các thành quả
đầu tư của họ sẽ không bị đánh cắp ở Việt Nam và từ đó họ mới có
thể sẵn sàng chuyển giao cho các doanh nghiệp Việt Nam hoặc trực
tiếp đầu tư vào các doanh nghiệp do họ sở hữu ở Việt Nam [53].

Ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng thương mại Châu Âu tại Việt Nam
trong Hội thảo về Quyền SHTT vào năm 2006 tại Hà Nội đã cho rằng:

Nếu các bạn muốn chúng tôi chuyển giao công nghệ và đầu
tư, các bạn cần thực hiện tốt quyền SHTT. Khi đó, chúng tôi mới
yên tâm vì các sản phẩm, công nghệ của chúng tôi được bảo vệ. Và:
Thực thi quyền SHTT không chỉ nhằm đáp ứng các chuẩn mực quốc
tế mà còn giúp Việt Nam thúc đẩy sự phát triển của khoa học-công
nghệ trong nước, tạo môi trường thuận lợi hơn để thu hút thêm
nhiều nhà đầu tư [50].

Như vậy, việc xác định đúng, nhanh và chính xác các hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng và đối với quyền
SHTT nói chung sẽ góp phần vào việc bảo vệ quyền SHTT ở Việt Nam và là
yếu tố quan trọng để xử lý các hành vi xâm phạm và từ đó thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, thu hút các nguồn vốn và nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

1.3.4. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp để bảo vệ các quyền dân sự cơ bản của con người

Xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền dân sự cơ bản của
con người. Quyền được bảo vệ các tài sản sáng tạo của con người là một
quyền cơ bản không chỉ được pháp luật Việt Nam mà còn được pháp luật
quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Bất kỳ ai cũng có quyền sở hữu đối với thành

38
quả lao động do mình làm ra hoặc do mình đầu tư công sức, tài sản, trí tuệ mà
có. Đây chính là quyền dân sự cơ bản của con người. Ban đầu, người ta chỉ
công nhận quyền sở hữu là quyền đối với tài sản hữu hình còn các thành quả
lao động từ hoạt động trí tuệ thì mãi sau này cùng với sự phát triển của xã hội
và khoa học- công nghệ mới được coi là một loại tài sản mà con người có thể
sở hữu chúng. Khoản 1, Điều 27, Hiến chương Liên Hiệp quốc về nhân quyền
năm 1948 đã quy định về quyền con người như sau: “Mọi người có quyền lao
động, sáng tạo và được hưởng những lợi ích vật chất từ thành quả lao động
sáng tạo của mình” [22]. Pháp luật Việt Nam cũng đã ghi nhận quyền SHTT
là một loại quyền dân sự thể hiện ở các quy định trong Bộ luật Dân sự. Bộ
luật dân sự 1995 trong đó có Chương II, Phần VI, với 26 điều khoản quy định
về quyền SHCN là một bước tiến quan trọng nhằm giải quyết những đòi hỏi
của thực tiễn,“Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, quyền SHTT được Nhà nước thừa nhận là một loại
quyền dân sự” [47]. Tiếp đến, Luật SHTT 2005 đã được ban hành, theo đó
SHTT không chỉ tiếp cận dưới góc độ quyền dân sự mà còn chủ động nhấn
mạnh góc độ thương mại và các khía cạnh khác của SHTT, như khía cạnh
hành chính, hình sự.

Như vậy, việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp là để bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu kiểu dáng công
nghiệp, tức là bảo vệ quyền dân sự cơ bản của con người. Chủ sở hữu có đủ
các quyền về tài sản đối với kiểu dáng công nghiệp của mình.

1.3.5. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp gây
ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với người tiêu dùng như: không
bảo đảm chất lượng sản phẩm; người tiêu dùng bị đánh lừa về chất lượng, ảnh
hưởng đến sức khỏe và an toàn khi sử dụng hàng hóa xâm phạm quyền SHCN

39
đối với kiểu dáng công nghiệp; không có dịch vụ sau bán hàng hoặc không có
quyền khiếu nại trong trường hợp sản phẩm có lỗi; hoặc trong trường hợp sản
phẩm gây ra tai nạn hoặc thương tích cho người sử dụng. Hàng hóa xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp trên thị trường đã ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích
người tiêu dùng, đặc biệt ở Việt Nam khi việc mua sắm thường chạy theo số
đông và thích hàng giá rẻ.

Khoản 6, Điều 8, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy
định người tiêu dùng có quyền “yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch
vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng,
công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết”. [46]

Như vậy, việc xác định và xử lý nhanh, chính xác các hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng và đối với các
hành vi xâm phạm SHTT nói chung sẽ là yếu tố quan trọng bảo vệ người tiêu
dùng, qua đó góp phần thực hiện có hiệu quả Luật bảo vệ người tiêu dùng.

1.3.6. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp sẽ góp phần vào việc khuyến khích các hoạt
động sáng tạo
Xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp góp phần quan trọng vào việc bảo hộ, thực thi quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp, từ đó sẽ khuyến khích các chủ thể sáng tạo, nghiên
cứu để tìm ra những kiểu dáng công nghiệp mới. Ngoài ra, nó còn giúp cho
các chủ thể yên tâm đầu tư công sức, thời gian và tiền bạc đề nghiên cứu,
sáng tạo. Việc xác định các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp nhanh, chính xác sẽ là biện pháp quan trọng để bảo hộ
quyền SHTT, đảm bảo độc quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp trong một
khoảng thời gian nhất định để chủ sở hữu thu lợi từ kiểu dáng công nghiệp mà
mình tạo ra. Qua đó sẽ khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiên cứu tạo ra

40
và áp dụng nhanh chóng các công nghệ tiến bộ nhằm tạo ra những sản phẩm
mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Như vậy, xác định hành vi
xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp hiệu quả sẽ góp phần
quan trọng vào việc bảo hộ quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp có
hiệu quả trên thực tế, từ đó khuyến khích các hoạt động sáng tạo của các tổ
chức, cá nhân.

1.3.7. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với kiểu dáng công nghiệp góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật
của người dân

Xâm phạm kiểu dáng công nghiệp đang dần dần hình thành thái độ coi
thường pháp luật, ngang nhiên vi phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân
kinh doanh và người dân. Số lượng, tính chất, mức độ xâm phạm ngày càng
gia tăng. Do đó, việc xác định nhanh và chính xác các hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp để từ đó cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ có các biện pháp xử lý phù hợp và nghiêm minh sẽ góp phần
đối với việc răn đe, giáo dục đối với các chủ thể vi phạm. Việc xử lý các hành
vi xâm phạm đối với kiểu dáng công nghiệp sẽ khôi phục những lợi ích cho
các chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp và qua đó trừng phạt các chủ thể vi
phạm và có ý nghĩa giáo dục quan trọng đối với các chủ thể khác. Như vậy,
thông qua các chế tài được áp dụng đối với chủ thể có hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp sẽ góp phần nâng cao ý thức tôn
trọng pháp luật của người dân.

41
Chƣơng 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÁC ĐỊNH
HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hành vi xâm phạm và
xác định hành vi xâm phạm đối với kiểu dáng công nghiệp có ý nghĩa quan
trọng bởi vì trên cơ sở nghiên cứu các quy định này sẽ là cơ sở để đánh giá
thực trạng xâm phạm; đưa ra các giải pháp hạn chế xâm phạm và nâng cao
hiệu quả xác định, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp cũng như đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành
về hành vi và xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp. Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của Luận văn, Chương 2
sẽ tập trung vào việc nghiên cứu và đánh giá thực trạng các quy định pháp
luật về các dạng hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp; căn cứ xác định hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp; căn cứ và nguyên tắc xác định thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp.

2.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp

Cũng giống như các đối tượng SHCN khác, tình trạng xâm phạm
kiểu dáng công nghiệp cũng ngày càng gia tăng và ngày càng phức tạp với
nhiều dạng xâm phạm khác nhau. Theo quy định tại Điều 126, Luật SHTT,
các hành vi sau đây bị coi là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu kiểu
dáng công nghiệp:

42
1. Sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn hiệu
lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu;

2. Sử dụng kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu
dáng đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của
chủ sở hữu;

3. Sử dụng kiểu dáng công nghiệp mà không trả tiền đền bù theo quy
định về quyền tạm thời.

Quy định trên đã đưa ra các dạng cơ bản của hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp. Đây là sự định nghĩa trên cơ sở liệt kê,
vì vậy sẽ khó khái quát và tiên liệu hết được các dạng hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp sẽ phát sinh trong tương lai.

Để xác định đúng hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp cần hiểu rõ hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp. Theo quy
định tại Khoản 2, Điều 124, Luật SHTT, sử dụng kiểu dáng công nghiệp là
việc thực hiện các hành vi sau đây:

- Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ hoặc kiểu dáng không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công
nghiệp được bảo hộ;

- Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm có
hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc không khác
biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;

- Nhập khẩu sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công
nghiệp được bảo hộ hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ.

43
Cá nhân, tổ chức không phải là chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp
thực hiện một trong các hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp đang trong
thời hạn bảo hộ quy định tại Điều 124, Luật SHTT mà không được phép của
chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp, đồng thời người thực hiện hành vi đó
không phải là người có quyền sử dụng trước quy định tại Điều 134, Luật
SHTT và hành vi đó không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều
125, Luật SHTT thì bị coi là hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp. Khi xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp cần chú ý các hành vi không bị coi là xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp quy định tại Khoản 2, Điều 125, Luật
SHTT. Cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi quy định tại Khoản
2, Điều 125, Luật SHTT thì không bị coi là xâm phạm quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp. Khi có đơn khởi kiện đối với hành vi xâm phạm
quyền SHCN, cần xem xét kỹ xem trường hợp đó có thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều 125, Luật SHTT hay không, nếu có thì
Tòa án phải giải thích cho người khởi kiện biết, trả lại đơn và không thụ lý
giải quyết. Trường hợp thụ lý xong mới phát hiện thấy đây không phải là
hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp thì Tòa án
phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, Luật SHTT Việt Nam mới quy định về các hành vi xâm
phạm mang tính trực tiếp mà chưa quy định hành vi gián tiếp xâm phạm đến
quyền SHTT gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu quyền là hành vi vi phạm pháp
luật. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay đã và đang tồn tại nhiều hành vi gián tiếp
xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại cho chủ sở hữu quyền như, hành vi xúi
giục vi phạm; gián tiếp tham gia vào hành vi xâm phạm (hành vi chào hàng,
bán, nhập khẩu các phương tiện...). Pháp luật một số nước tiên tiến như Pháp,
Mỹ, Nhật,... quy định hành vi xâm phạm quyền SHTT bao gồm cả hành vi

44
trực tiếp xâm phạm quyền SHTT và hành vi gián tiếp xâm phạm quyền
SHTT. Pháp luật các nước này còn có sự phân biệt rõ ràng cũng như quy định
các biện pháp xử lý tương xứng với hành vi trực tiếp và hành vi gián tiếp xâm
phạm quyền SHTT. Các nhà làm luật Việt Nam cũng nên nghiên cứu, bổ sung
thêm quy định về một số hành vi gián tiếp xâm phạm quyền SHTT để hoàn
thiện pháp luật về SHTT.

Dưới đây tác giả sẽ phân tích các dạng hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp theo quy định của Luật SHTT:

2.1.1. Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trong thời
hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu.

Đây là hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, sử dụng
dấu hiệu giống hệt với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, có thể cho cùng
loại hàng hóa hoặc khác loại hàng hóa. Trong trường hợp này bản thân sản
phẩm mang kiểu dáng công nghiệp vi phạm có thể trùng lặp hoặc cùng loại
với sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ; kiểu dáng công
nghiệp bị xâm phạm được coi là bản sao của kiểu dáng công nghiệp được bảo
hộ. Hàng hóa trong trường hợp này là hàng hóa giả mạo kiểu dáng công
nghiệp, điểm 2.3, mục 2, khoản 2, phần III Thông tư liên tịch số
10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ
Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học, Công nghệ và môi
trường về hướng dẫn Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999 của Thủ
tướng Chính phủ về đấu tranh sản xuất và buôn bán hàng giả quy định về
hàng hóa giả mạo kiểu dáng công nghiệp là“Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa
có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ
mà không được phép của chủ kiểu dáng công nghiệp” [1]. Trường hợp xâm
phạm này hàng hóa xâm phạm có khả năng gây nhầm lẫn cao nên khách hàng

45
khó nhận biết, phân biệt. Có thể nói rằng đây là hành vi xâm phạm kiểu dáng
công nghiệp ở mức độ nghiêm trọng nhất. Trường hợp này có thể chia làm 2
dạng xâm phạm: (1) kiểu dáng công nghiệp xâm phạm trùng lặp với kiểu
dáng công nghiệp được bảo hộ và bản thân sản phẩm mang kiểu dáng công
nghiệp xâm phạm cũng trùng lặp với sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ; (2) kiểu dáng công nghiệp vi phạm giống hệt với kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ, tuy nhiên, sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp
không trùng lặp với sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ
mà chỉ là cùng loại sản phẩm.

Ví dụ 1, hành vi xâm phạm kiểu dáng “Bao gói băng vệ sinh” của
Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Hàn:

Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ: Kiểu dáng công nghiệp xâm phạm:

46
Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Ý đã được Cục SHTT cấp Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 68590 bảo hộ nhãn hiệu “Việt –
Ý” và bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 288 ngày 17-5-2005 bảo hộ
kiểu dáng “Bao gói băng vệ sinh”. Tuy nhiên, Công ty trách nhiệm hữu hạn
Việt Hàn đã có hành vi sản xuất băng vệ sinh có kiểu dáng công nghiệp giống
với kiểu dáng công nghiệp “bao gói băng vệ sinh” đang bảo hộ cho Công ty
trách nhiệm hữu hạn Việt Ý. Về mặt dấu hiệu xâm phạm, công ty trách nhiệm
hữu hạn Việt Hàn đã sản xuất sản phẩm “bao gói băng vệ sinh” có cách trình
bày, sắp xếp hình ba bông hoa hồng, hình cô gái giống như sản phẩm “băng
gói vệ sinh” của Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Ý. Trường hợp xâm phạm
này rất dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, bởi vì nếu chỉ quan sát qua thì
thấy hai sản phẩm của hai công ty này có kiểu dáng giống hệt nhau và nhãn
hiệu cũng tương tự nhau tới mức gây nhầm lẫn.

Ví dụ 2, hành vi của Công ty liên doanh Nhã Quán xâm phạm kiểu
dáng áo quan (Bình Dương, 2008)

Nhã Quán là công ty liên doanh được thành lập theo hợp đồng liên
doanh giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Trường Sanh và đối tác nước ngoài.
Công ty Nhã Quán không đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với kiểu
dáng áo quan nhưng Công ty này vẫn sản xuất các mẫu áo quan, tiêu thụ rộng
rãi ở thị trường trong và ngoài nước. Tháng 8-2007, Công ty Ý Thiên (đã
được Công ty Trường Sanh chuyển nhượng kiểu dáng áo quan năm 2007) đã
gửi thông báo yêu cầu Công ty Nhã Quán không được sản xuất, kinh doanh
33 kiểu áo quan mà Công ty Ý Thiên đã nhận chuyển nhượng từ Công ty
Trường Sanh. Tuy nhiên, tháng 6-2008, Công ty Nhã Quán đã khởi kiện yêu
cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương công nhận quyền sở hữu kiểu dáng áo
quan của mình, buộc Công ty Ý Thiên chấm dứt hành vi xâm phạm. Ngược
lại, Công ty Ý Thiên phản tố, nói rằng Công ty Nhã Quán biết rõ quyền sở

47
hữu các kiểu dáng áo quan thuộc về Công ty Trường Sanh và cả việc Công ty
Trường Sanh chuyển nhượng hợp pháp cho Công ty Ý Thiên. Với tư cách là
chủ sở hữu mới, Ý Thiên từng yêu cầu Nhã Quán không sản xuất các kiểu
dáng áo quan này để bán ra thị trường nhưng Nhã Quán không thực hiện nên
đã nhiều lần bị cơ quan chức năng xử phạt hành chính. Kết quả xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm đã bác đơn khởi kiện của Công ty Nhã Quán và buộc bồi
thường 440 triệu đồng cho Công ty Ư Thiên do khởi kiện không có căn cứ,
xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của Công ty Ý Thiên. Như vậy, Công ty Ý
Thiên là chủ sở hữu các kiểu dáng áo quan thông qua hợp đồng chuyển
nhượng hợp pháp với Công ty Trường Sanh, khi Công ty Ý Thiên yêu cầu
Công ty Nhã Quán ngưng sản xuất các kiểu dáng mà Ý Thiên sở hữu, Nhã
Quán không thực hiện mà vẫn tiếp tục sản xuất hàng loạt, bị cơ quan quản lý
thị trường nhiều lần xử phạt, thu giữ hàng hóa. Như vậy, trường hợp này,
Công ty Nhã Quán đã sử dụng kiểu dáng “áo quan” được bảo hộ cho Công ty
Ý Thiên và đây là hành vi xâm phạm chính kiểu dáng công nghiệp đang được
bảo hộ của chủ sở hữu.

Ví dụ 3, hành vi của Công ty trách nhiệm hữu hạn Lý Hồng King xâm
phạm kiểu dáng xe máy (Quảng Nam, 2005).

Công ty HONDA GIKEN KOGYO KABUSHIKI KAISHA đã được


Cục SHTT (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Bằng bảo hộ độc quyền kiểu dáng
công nghiệp số 7388 bảo hộ kiểu dáng xe máy. Xem xét kiểu dáng xe máy do
Công ty trách nhiệm hữu hạn Lý Hồng King sản xuất, lắp ráp thấy rằng:

Xe máy mang nhãn hiệu “POWER 125” có kiểu dáng không khác biệt
cơ bản với kiểu dáng của các chi tiết tương ứng của xe máy đang được bảo hộ
theo Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 7388 của Công ty HONDA
GIKEN KOGYO KABUSHIKI KAISHA. Việc sử dụng kiểu dáng xe máy

48
nêu trên, được thực hiện từ ngày cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
số 7388 mà không được phép của Chủ văn bằng và không có quyền của người
sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp là hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp. Xe máy mang nhãn hiệu “POWER
125” (không bao gồm đầu xe) có kiểu dáng không biệt cơ bản với kiểu dáng
của các chi tiết tương ứng của xe máy đang được bảo hộ theo Bằng độc quyền
kiểu dáng công nghiệp số 7388 của Công ty HONDA GIKEN KOGYO
KABUSHIKI KAISHA. Ngày 12/5/2005, Chánh Thanh tra Sở Khoa học và
Công nghệ tỉnh Quảng Nam đã có Quyết định số 27/QĐ-TTr xử phạt cảnh
cáo đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Lý Hồng King và đình chỉ việc sản
xuất và lắp ráp xe máy mang nhãn hiệu “POWER 125” có kiểu dáng xâm
phạm quyền SHCN của Công ty HONDA GIKEN KOGYO KABUSHIKI
KAISHA. Như vậy, Công ty trách nhiệm hữu hạn Lý Hồng King đã có hành
vi sản xuất, lắp ráp kiểu dáng xe máy mang nhãn hiệu “POWER 125” có kiểu
dáng giống với kiểu dáng xe máy của Công ty HONDA GIKEN KOGYO
KABUSHIKI KAISHA và đây chính là trường hợp xâm phạm sử dụng chính
kiểu dáng xe máy đang được bảo hộ của chủ sở hữu.

2.1.2. Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng
kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn hiệu lực của văn
bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu.

Trong trường hợp này, kiểu dáng công nghiệp xâm phạm thuộc dạng
không khác biệt cơ bản- tương tự tới mức có thể gây nhầm lẫn và sản phẩm
mang kiểu dáng công nghiệp xâm phạm có thể trùng lặp hoặc cùng loại với
sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Đây là dạng xâm phạm
phổ biến và diễn ra nhiều nhất trong số các hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp.

49
Thuộc trường hợp này có thể chia làm 03 dạng hành vi xâm phạm như
sau: (1) sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp xâm phạm không trùng lặp mà
chỉ là cùng loại với sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ và
kiểu dáng xâm phạm cũng không trùng lặp hoàn toàn mà là không khác biệt
cơ bản với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ; (2) sản phẩm mang kiểu dáng
công nghiệp xâm phạm trùng lặp với sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp
đã được bảo hộ nhưng kiểu dáng xâm phạm không trùng lặp với kiểu dáng
công nghiệp đã được bảo hộ mà chỉ thuộc dạng không khác biệt cơ bản
(tương tự tới mức có thể gây nhầm lẫn); (3) kiểu dáng công nghiệp xâm phạm
là kiểu dáng công nghiệp của một sản phẩm trong đó có bộ phận mang kiểu
dáng công nghiệp giống hệt hoặc không khác biệt cơ bản với kiểu dáng công
nghiệp được bảo hộ.

Ví dụ 1, Hành vi của công ty Thanh Long Hải Dương Việt Nam xâm
phạm kiểu dáng bát

Hành vi của công ty Thanh Long Hải Dương Việt Nam xâm phạm
kiểu dáng bát của Công ty gốm sứ Hải Dương Việt Nam: sản phẩm đĩa của
công ty Thanh Long Hải Dương Việt Nam có một số họa tiết, đường nét hoa
văn giống với sản phẩm bát của Công ty gốm sứ Hải Dương Việt Nam. Về
mặt hàng hóa, sản phẩm bát và đĩa là hai sản phẩm cùng loại. Về dấu hiệu,
kiểu dáng của hai sản phẩm này khác nhau, nhưng đường nét, hoa văn trên bát
và đĩa không khác biệt cơ bản, tương tự tới mức người tiêu dùng nhầm sản
phẩm đĩa cũng do Công ty gốm sứ Hải Dương Việt Nam sản xuất.

Ví dụ 2, Hành vi của Công ty cổ phần xe máy, điện máy Phương Đông


xâm phạm kiểu dáng xe máy

Công ty cổ phần xe máy, điện máy Phương Đông đã có hành vi lắp


ráp các chi tiết nhựa tạo ra kiểu dáng về tổng thể không khác biệt đáng kể với

50
kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ theo Bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp số 4306 cho xe máy do Công ty Honda sản xuất. Các chi tiết nhựa tạo
ra kiểu dáng xe máy do Công ty cổ phần điện máy Phương Đông lắp ráp có
các bộ chi tiết, chi tiết nhựa có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành kiểu
dáng xe máy về tổng thể xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp của
xe máy, bộ phận sản phẩm của xe máy đang được bảo hộ tại Việt Nam cho
Công ty Honda Motor (Nhật Bản) theo bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp số 4306, 8924, 9658, 9032, 9189. Việc lắp ráp các chi tiết nhựa tạo
kiểu dáng công nghiệp xe máy này không do chủ Bằng độc quyền kiểu dáng
công nghiệp hoặc người được chủ Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp cho
phép, sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và là hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp. Như vậy, về mặt sản phẩm, đây là
những hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp thuộc dạng sản phẩm cùng
loại; về mặt dấu hiệu, kiểu dáng xe máy có sử dụng một số chi tiết giống kiểu
dáng công nghiệp xe máy của Công ty Honda.

Ví dụ 3, Hành vi của Công ty trách nhiệm hữu hạn Quân Sơn xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp “Dép mát – xa” (Hà Nội, 2009)

Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ: Kiểu dáng công nghiệp xâm phạm:

51
Công ty trách nhiệm hữu hạn Quân Sơn đã sản xuất, buôn bán dép mát
– xa có dấu hiệu xâm phạm quyền kiểu dáng công nghiệp “Dép mát – xa”
đang được bảo hộ cho Công ty Long Anh (Việt Nam). Kiểu dáng công nghiệp
“Dép mát-xa” được bảo hộ theo Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số
12020 (cấp ngày 1-7-2008) và 13101 (cấp ngày 31-3-2009). So sánh các đặc
điểm tạo dáng trên sản phẩm dép nhựa mát –xa do Công ty trách nhiệm hữu
hạn Quân Sơn với kiểu dáng công nghiệp dép mát –xa đang được bảo hộ cho
Công ty Long Anh, thấy rằng: sản phẩm dép nhựa do Công ty Quân Sơn sản
xuất, đế dép có mặt trên được tạo bởi các nút có dạng mặt cầu rỗng, sắp theo
các hàng ngang dọc và tạo thành bề mặt hở thoáng khí, một đường gờ bao
quanh mặt trên, mặt dưới của đế dép có các đường gân thẳng bố trí theo các
hàng ngang dọc và liên kết với mặt dưới của các nút có dạng mặt cầu rỗng;
quai dép làm bằng nhựa trong, có đường gân bao quanh đường bao và có một
lỗ thủng hình ôvan ở mặt trên của quai dép, tuy có khác biệt ở đường gân bao
quanh đường bao sau, lỗ thủng hình ôvan ở mặt trên và có độ khoét sâu ở quai
dép, nhưng khác biệt nói trên là không đủ để tạo ra ít nhất một đặc điểm tạo
dáng dễ nhận biết và ghi nhớ. Như vậy, về mặt dấu hiệu, kiểu dáng công
nghiệp xâm phạm và kiểu dáng công nghiệp “Dép mát –xa” tuy có khác biệt ở
đường gân bao quanh đường bao sau, lỗ thủng hình ôvan ở mặt trên và có độ
khoét sâu ở quai dép so với kiểu dáng dép được bảo hộ, nhưng khác biệt nói
trên là không đủ để tạo ra ít nhất một đặc điểm tạo dáng dễ nhận biết và ghi
nhớ. Về sản phẩm, sản phẩm mang kiểu dáng xâm phạm và sản phẩm mang
kiểu dáng “Dép mát-xa” là cùng loại. Do đó, Công ty trách nhiệm hữu hạn
Quân Sơn đã sản xuất, buôn bán dép mát-xa sử dụng kiểu dáng không khác
biệt với kiểu dáng “Dép mát-xa” của Công ty Long Anh.

Ví dụ 4, hành vi của Công ty Bánh kẹo Hải Châu xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng “bao gói kẹo” (Hà Nội, 2006).

52
Kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm kẹo khoai môn đã được Cục
SHTT cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp bao gói kẹo số 7680 (có
hiệu lực từ ngày 02-06-2003) cho Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà. Tuy
nhiên, Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu, Hai Bà Trưng, Hà Nội đã sản
xuất, buôn bán, lưu thông sản phẩm khoai môn với thiết kế bao gói kẹo không
khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ cho Công ty
bánh kẹo Hải Hà. Mẫu bao gói kẹo của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Châu
gồm mặt trước và mặt sau được thể hiện với các hình chữ “Chew”, “Taro” và
“Khoai môn”, hình cây khoai môn với hai củ khoai thái lát, hình hai viên kẹo
và lá khoai môn, có các đặc điểm tạo dáng về tổng thể không khác biệt đáng
kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ theo bằng độc quyền kiểu dáng
công nghiệp số 7680. Về trường hợp này, Cục SHTT đã có Công văn số
2031/SHTT-TTKN ngày 14-8-2006 khẳng định: “việc sử dụng, sản xuất và
buôn bán bao gói kẹo có kiểu dáng nêu trên mà không được phép của chủ
kiểu dáng công nghiệp- Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà và không có quyền
sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp là hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ”. Như vậy, về mặt
sản phẩm, đây là những sản phẩm cùng loại, cùng là mặt hàng bánh kẹo; về
dấu hiệu, kiểu dáng xâm phạm của Công ty bánh kẹo Hải Châu đã sử dụng
các dấu hiệu về tổng thể không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ cho Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà. Do đó, Công ty bánh kẹo
Hải Châu đã xâm phạm kiểu dáng bao gói kẹo của Công ty Cổ phần bánh kẹo
Hải Hà và đây là trường hợp sử dụng kiểu dáng công nghiệp không khác biệt
với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ và sản phẩm mang kiểu dáng xâm
phạm và sản phẩm mang kiểu dáng được bảo hộ là cùng loại.

53
2.1.3. Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp mà không trả tiền
đền bù theo quy định về quyền tạm thời

Pháp luật SHTT bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp ngay từ khi Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp chưa
được cấp bằng việc quy định về quyền tạm thời. Ngoài ra, để bảo vệ các thành
quả sáng tạo lao động trí tuệ của những người sáng tạo độc lập, pháp luật
SHTT cũng đã quy định về quyền sử dụng trước đối với kiểu dáng công
nghiệp, sáng chế. Để phân tích rõ hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp mà
không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời, dưới đây tác giả sẽ
phân tích làm rõ các quy định của pháp luật SHTT về quyền tạm thời và
quyền sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp.

Quyền tạm thời đối với kiểu dáng công nghiệp

Quyền tạm thời đối với kiểu dáng công nghiệp là quyền của người
đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đó được phát sinh từ ngày đơn đăng ký
bảo hộ được nộp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được công bố
công khai đến ngày được cấp bằng độc quyền đối với kiểu dáng công nghiệp
đó. Quyền tạm thời chỉ được quy định đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp và thiết kế bố trí. Kiểu dáng công nghiệp cũng như những đối tượng
này do có đặc điểm về tính sáng tạo, chúng không nảy sinh một cách hiển
nhiên và cũng không dễ dàng có được; ngoài ra do quy định của pháp luật về
trình tự xác lập quyền sở hữu đối với chúng đòi hỏi các nội dung trong đơn
đăng ký (bản mô tả về đối tượng SHCN trong mỗi đơn đó) phải cụ thể, rõ
ràng đến mức một người có trình độ trung bình trong lĩnh vực tương ứng có
thể áp dụng kiểu dáng công nghiệp đó thành công trong thực tế. Do đó, sau
khi đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được nộp tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc đã được công khai trên Công báo thì lập tức có rất nhiều

54
người đã bắt tay vào sử dụng kiểu dáng công nghiệp đó mà không xin phép
hay trả thù lao cho người được công nhận là chủ sở hữu kiểu dáng công
nghiệp. Điều 131, Luật SHTT quy định về quyền tạm thời đối với kiểu dáng
công nghiệp như sau:

Trường hợp người nộp đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp
biết rằng kiểu dáng công nghiệp đang được người khác sử dụng
nhằm mục đích thương mại và người đó không có quyền sử dụng
trước thì người nộp đơn có quyền thông báo bằng văn bản cho người
sử dụng về việc mình đã nộp đơn đăng ký, trong đó chỉ rõ ngày nộp
đơn và ngày công bố đơn trên Công báo SHCN để người đó chấm
dứt việc sử dụng hoặc tiếp tục sử dụng. Trong trường hợp đã được
thông báo mà người được thông báo vẫn tiếp tục sử dụng kiểu dáng
công nghiệp thì khi Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp được cấp,
chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp có quyền yêu cầu người đã sử
dụng kiểu dáng công nghiệp phải trả một khoản tiền đền bù tương
đương với giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp
trong phạm vi và thời hạn sử dụng tương ứng [40].

Pháp luật quy định về quyền tạm thời nhằm bảo vệ triệt để quyền của
chủ sở hữu đối với kiểu dáng công nghiệp. Quyền tạm thời đối với kiểu dáng
công nghiệp được phát sinh trên các điều kiện sau: - Có việc sử dụng kiểu
dáng công nghiệp nêu trong đơn đăng ký đã nộp tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Việc sử dụng các đối tượng này được tiến hành sau thời điểm
đơn đăng ký bảo hộ được công khai trên Công báo đối tượng SHCN. Nếu
việc sử dụng được tiến hành trước thời điểm này thì người sử dụng sẽ được
hưởng các quyền của người sử dụng trước các đối tượng SHCN. Việc sử dụng
này nhằm mục đích khai thác giá trị thương mại của các đối tượng đang được
yêu cầu bảo hộ. Người sử dụng trước sẽ có quyền tiếp tục sử dụng kiểu dáng

55
công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử
dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ. Nếu vượt quá phạm vi đó, thì sau ngày công bố
đơn, Chủ văn bằng bảo hộ vẫn áp dụng quyền tạm thời trong phạm vi vượt
quá giới hạn sử dụng trước; - Có thông báo bằng văn bản của người nộp đơn
cho người sử dụng biết về việc nộp đơn và về việc đơn đã được công bố công
khai đối với kiểu dáng công nghiệp; - Quyền tạm thời này chỉ thực sự phát
sinh khi người nộp đơn đã được cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp.
Do vậy, trong trường hợp đã nhận được thông báo bằng văn bản, người được
thông báo vẫn tiếp tục sử dụng kiểu dáng công nghiệp thì sau khi kiểu dáng
công nghiệp được cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, chủ sở hữu có
quyền yêu cầu người đã sử dụng phải trả một khoản tiền đền bù tương đương
với giá chuyển giao kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và thời hạn sử dụng
tương ứng.

Quyền sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp

Để hiểu rõ về quyền tạm thời đối với kiểu dáng công nghiệp, dưới đây
tác giả sẽ phân tích thêm các quy định pháp luật SHTT về quyền của người sử
dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp.

Quyền sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp được đặt ra để
giải quyết tình huống trong thực tế, là có nhiều người cùng bắt tay vào nghiên
cứu và cùng tìm ra các giải pháp kỹ thuật để giải quyết một vấn đề nhưng
không phải bất kỳ ai cũng nộp đơn đăng ký yêu cầu bảo hộ tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, trong khi đó lại có người nộp đơn đăng ký bảo hộ cho
cùng một kiểu dáng công nghiệp của họ và được ghi nhận là chủ sở hữu. Vì
vậy, pháp luật SHTT quy định về quyền của người sử dụng trước đối với kiểu
dáng công nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người này. Điều 134,

56
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT 2005 quy định về quyền sử
dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp như sau:

Trường hợp trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên (nếu có) của
đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để sử dụng kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với
kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc
lập thì sau khi Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp được cấp, người đó
có quyền tiếp tục sử dụng kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối
lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép
hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ.
Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp
không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp.

Người có quyền sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp không được
phép chuyển giao quyền đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao
quyền đó kèm theo việc chuyển giao cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử
dụng hoặc chuẩn bị sử dụng kiểu dáng công nghiệp. Người có quyền sử
dụng trước không được mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng nếu không
được chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp cho phép. [41]

Quyền sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp được áp dụng khi có các
điều kiện sau: - Phải có hành vi sử dụng của người sử dụng trước diễn ra trên
thực tế, có nghĩa là họ đã trực tiếp khai thác kiểu dáng công nghiệp hoặc đã
chuẩn bị các điều kiện để khai thác kiểu dáng công nghiệp đó như xây nhà
xưởng, mua sắm thiết bị, máy móc, vật tư, thuê lao động...- Việc sử dụng hoặc
chuẩn bị các điều kiện sử dụng kiểu dáng công nghiệp phải diễn ra trước ngày nộp
đơn hoặc ngày ưu tiên (nếu có) của đơn đăng ký yêu cầu bảo hộ; - Kiểu dáng
công nghiệp mà người sử dụng trước đưa vào khai thác được tạo ra một cách độc
lập với kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu được bảo hộ.

57
Để làm rõ trường hợp về hành vi xâm phạm này dưới đây tác giả sẽ
phân tích một ví dụ cụ thể sau:

Ví dụ, hành vi sử dụng quyền tạm thời của Công ty Cổ phần Thương
mại Long Anh (Công ty Long Anh), hành vi xâm phạm của Công ty Quân Sơn
và hành vi sử dụng quyền sử dụng trước của Công ty Cổ phần Sản xuất
Thương mại và Xuất nhập khẩu Tuấn Việt (Công ty Tuấn Việt) đối với kiểu
dáng công nghiệp “Dép mát –xa”.

Theo hồ sơ, ngày 25-12-2007, Công ty Long Anh đã nộp đơn đăng
ký kiểu dáng công nghiệp “Dép mát –xa” tại Cục SHTT. Trong thời gian
Công ty Long Anh nộp đơn đăng ký Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
“Dép mát –xa”, Công ty Tuấn Việt và Công ty Quân Sơn đã có hành vi sản
xuất, buôn bán dép mát - xa có dấu hiệu xâm phạm quyền đối với kiểu dáng
công nghiệp “Dép mát -xa”. Công ty Long Anh đã có thông báo bằng văn
bản đối với Công ty Tuấn Việt và Công ty Quân Sơn về việc nộp đơn và đơn
đã được công bố công khai trên công báo. Tuy nhiên, hai Công ty này vẫn
tiếp tục có hành vi sản xuất, buôn bán dép mát-xa có dấu hiệu xâm phạm
quyền đối với kiểu dáng công nghiệp. Vì vậy, Công ty Long Anh đã có đơn
gửi Công an thành phố Hà Nội xử lý. Ngày 10/3/2009, Thanh tra Bộ Khoa
học và Công nghệ nhận được Công văn số 200/CV/CAHN-PC15(Đ8) của
Công an thành phố Hà Nội gửi Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đề
nghị xác minh và xử lý vi phạm đối với Công ty Cổ phần Tuấn Việt và
Công ty Quân Sơn vì đã có hành vi sản xuất, buôn bán dép mát xa có dấu
hiệu xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp “Dép mát xa” đang
được bảo hộ cho Công ty Long Anh. Đoàn thanh tra đã phát hiện hai Công
ty đang sản xuất, tàng trữ để bán Dép mát - xa có đặc điểm kiểu dáng như
mô tả trong Đơn yêu cầu xử lý xâm phạm của Công ty Cổ phần Thương mại
Long Anh và văn bản đề nghị xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN của

58
Công an thành phố Hà Nội. So sánh các đặc điểm tạo dáng trên sản phẩm
dép nhựa mát xa do Công ty Tuấn Việt và Công ty Quân Sơn sản xuất với
kiểu dáng công nghiệp dép mát xa đang được bảo hộ cho Công ty Long Anh,
Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ thấy rằng:

Sản phẩm dép nhựa do Công ty Tuấn Việt và Công ty Quân Sơn sản
xuất, bao gồm: đế dép có mặt trên được tạo bởi các nút có dạng mặt cầu rỗng,
sắp theo các hàng ngang dọc và tạo thành bề mặt hở thoáng khí, một đường
gờ bao quanh mặt trên, mặt dưới của đế dép có các đường gân thẳng bố trí
theo các hàng ngang dọc và liên kết với mặt dưới của các nút có dạng mặt cầu
rỗng; quai dép làm bằng nhựa trong, có đường gân bao quanh đường bao và
có một lỗ thủng hình ôvan ở mặt trên của quai dép, tuy có khác biệt ở đường
gân bao quanh đường bao sau, lỗ thủng hình ôvan ở mặt trên và có độ khoét
sâu ở quai dép, nhưng khác biệt nói trên là không đủ để tạo ra ít nhất một đặc
điểm tạo dáng dễ nhận biết và ghi nhớ.

Tuy nhiên, tại thời điểm thanh tra, Công ty Tuấn Việt đã cung cấp các
tài liệu, chứng cứ chứng minh Công ty bắt đầu sản xuất dép nhựa massage
chân đi trong nhà tắm gắn dấu hiệu “OLYMPIC” từ tháng 07/2007, trước thời
điểm Công ty Long Anh nộp đơn đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp “Dép
mát xa” (ngày 25/12/2007), cụ thể: Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày
25/7/2007, 30/7/2007, 06/8/2007…; Hoá đơn GTGT kèm theo Hợp đồng…
Công ty Tuấn Việt vẫn tiếp tục sử dụng kiểu dáng công nghiệp nêu trên trong
phạm vi và khối lượng đã sử dụng (4.142 đôi/01 tháng). Như vậy, Công ty
Tuấn Việt có quyền sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp “Dép mát-
xa” và tiếp tục sử dụng trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng. Vì vậy,
Công ty Tuấn Việt không bị xử lý vi phạm. Do đó, ngày 14/4/2009, Thanh tra
Bộ Khoa học và Công nghệ đã có Công văn số 81/TTr thông báo: Công ty
Tuấn Việt đã cung cấp chứng cứ chứng minh quyền sử dụng trước kiểu dáng

59
công nghiệp “Dép mát-xa theo quy định tại Điều 134, Luật SHTT. Việc Công
ty Tuấn Việt thực hiện quyền của người sử dụng trước không bị coi là hành vi
xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp của Công ty Long Anh.

Đối với trường hợp xâm phạm của Công ty Quân Sơn do không cung
cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền sử dụng trước của mình
nên đây là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp. Tuy nhiên, Công ty Long Anh và Công ty Quân Sơn đã đạt được
thoả thuận, thống nhất tự giải quyết. Theo thông thường Công ty Quân Sơn sẽ
trả một khoản tiền đền bù tương đương với giá chuyển giao quyền sử dụng
kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và thời hạn sử dụng theo sự thỏa thuận
của hai bên.

Ví dụ trên đã chứng minh Công ty Long Anh đã sử dụng quyền tạm


thời đối với kiểu dáng công nghiệp theo đúng thủ tục do pháp luật quy định
và khi được cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp thì Công ty này đã có
đơn yêu cầu xử lý vi phạm đối với Công ty Tuấn Việt và Công ty Quân Sơn.
Công ty Tuấn Việt do đã sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp “Dép mát-xa”
trước thời điểm Công ty Long Anh nộp đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiếp tục sử dụng trong phạm vi và
khối lượng đã sử dụng nên Công ty Tuấn Việt không vi phạm quyền của
người sử dụng trước. Công ty Quân Sơn do không có quyền sử dụng trước đối
với kiểu dáng công nghiệp “Dép mát-xa” nên đã xâm phạm quyền SHCN
“Dép mát –xa” của Công ty Long Anh.

2.2. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với kiểu dáng công nghiệp

Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp cũng
giống như các hành vi vi phạm pháp luật khác, hành vi này cũng có các mặt

60
chủ quan, khách quan, chủ thể và khách thể. Tuy nhiên, với mục đích là đưa
ra các căn cứ để xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp, tác giả sẽ đi sâu phân tích các yếu tố xác định một hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí đã được đưa ra theo quy định tại Điều 5, Nghị định
105/2006/NĐ-CP.

Điều 5, Nghị định 105/2006/NĐ-CP và Nghị định 119/2010/NĐ-CP


sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT quy định 4 căn
cứ để xác định một hành vi xâm phạm quyền SHTT như sau:
1- Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo
hộ quyền SHTT. Việc xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng
cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập
quyền theo quy định tại Điều 6 của Luật SHTT ví dụ như văn bằng bảo hộ,
giấy chứng nhận, bằng độc quyền.
2- Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét. Yếu tố xâm phạm
là yếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm. Yếu tố xâm phạm là sản phẩm,
quy trình hoặc một phần, bộ phận cấu thành sản phẩm hoặc quy trình được
tạo ra từ hành vi xâm phạm.
3- Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền
SHTT và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền
cho phép theo quy định của pháp luật. Trường hợp người không phải là chủ
thể quyền SHTT vẫn có quyền sử dụng mà không vi phạm, đó là các trường
hợp các chủ thể mặc dù không phải là chủ thể quyền SHTT nhưng có quyền
sử dụng các đối tượng của quyền SHTT phù hợp với quy định của pháp luật,
như trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không

61
phải trả tiền nhuận bút thù lao quy định tại Điều 25 hoặc quyền của người sử
dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp tại Điều 134, Luật SHTT.
4- Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng bị
coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng Internet nhưng
nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.
Như vậy Điều 5, Nghị định 105/NĐ-CP đã khái quát các căn cứ để
xác định một hành vi xâm phạm quyền SHTT. Việc quy định như vậy rất
thuận lợi cho việc bảo vệ hiệu quả quyền SHTT, là cơ sở để cho các chủ thể
quyền SHTT cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp bảo vệ quyền SHTT bởi vì trên thực tế hành vi xâm phạm quyền SHTT
rất đa dạng, trong nhiều trường hợp các văn bản pháp luật không thể liệt kê
hết được cũng như dự liệu các hành vi xâm phạm trong tương lai. Đây cũng là
bước tiến quan trọng so với quy định trước, góp phần quan trọng vào việc xác
định một hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng như xác định hành
vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng.
Trên cơ sở căn cứ xác định một hành vi xâm phạm quyền SHTT nêu
trên có thể phân tích từng căn cứ để xác định một hành vi bị xem xét là hành
vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp như sau:
2.2.1. Đối tượng bị xâm phạm
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 5, Nghị định 105/2006/NĐ-CP thì
đối tượng bị xâm phạm là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ (kiểu dáng
công nghiệp do chủ sở hữu đăng ký hoặc được chuyển giao quyền) . Khoản 1
và Khoản 2, Điều 5, Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định “việc xác định đối
tượng bảo hộ được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng
minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo quy định tại Điều 6 của Luật
SHTT. Đối với các loại quyền SHTT đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền, đối tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký,

62
văn bằng bảo hộ và các tài liệu kèm theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng
bảo hộ đó” [5]. Theo quy định này thì kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ
được xác định theo Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp có thể xâm phạm một phần
hoặc toàn bộ các quyền đối với kiểu dáng công nghiệp được xác định trên một
phần hoặc toàn bộ Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Ví dụ, trường hợp
xâm phạm kiểu dáng “Bao gói băng vệ sinh” của Công ty trách nhiệm hữu
hạn Việt Ý ví dụ 1, phần 2.1.1 đối tượng bị xâm phạm trong trường hợp này
là kiểu dáng công nghiệp “bao gói băng vệ sinh” được bảo hộ theo bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp số 288 cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt
Ý. Trường hợp xâm phạm kiểu dáng xe máy Honda của Công ty trách nhiệm
hữu hạn Lý Hồng King tại ví dụ 2, phần 2.1.1, đối tượng bị xâm phạm trong
trường hợp này là kiểu dáng xe máy được bảo hộ theo Bằng độc quyền kiểu
dáng công nghiệp số 7388 cho Công ty HONDA GIKEN KOGYO
KABUSHIKI KAISHA. Trường hợp xâm phạm kiểu dáng “bao gói kẹo” của
Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà đã phân tích tại ví dụ 4, phần 2.1.2, đối
tượng bị xâm phạm trong trường hợp này là kiểu dáng “bao gói kẹo” được
bảo hộ theo Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 7680 cho Công ty Cổ
phần bánh kẹo Hải Hà.
Như vậy, các quy định về đối tượng bị xâm phạm và đối tượng bảo hộ
quy định trong pháp luật SHTT Việt Nam phù hợp với các quy định pháp luật
quốc tế và tương đối dễ xác định, bước đầu đã tạo cơ sở thuận lợi cho việc
xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp được
nhanh chóng, chính xác.

63
2.2.2. Yếu tố xâm phạm

Khi xác định một hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp phải chứng minh có yếu tố xâm phạm quyền trong đối tượng bị
xem xét.

Theo từ điển tiếng Việt thì yếu tố được định nghĩa như sau: “Yếu tố là bộ
phận cấu thành sự vật, sự việc hoặc hiện tượng”[54]. Khoản 4, Điều 3, Nghị định
105/2006/NĐ-CP thì “Yếu tố là sản phẩm, quy trình hoặc là một phần, bộ phận
cấu thành sản phẩm hoặc quy trình” và yếu tố xâm phạm được định nghĩa như
sau “Yếu tố xâm phạm là yếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm” [5, Khoản 4,
Điều 3]. Tiếp theo việc đưa ra định nghĩa chung nhất về yếu tố xâm phạm quyền
SHCN, Nghị định 105/2006/NĐ-CP cũng đã đưa ra định nghĩa về yếu tố xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp tại Khoản 1, Điều 10 như sau:
“Yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm hoặc phần
của sản phẩm mà hình dáng bên ngoài không khác biệt đáng kể với kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ” [5, Khoản 1, Điều 10].

Yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp có thể thuộc
một trong các dạng sau đây:

- Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét, kể cả trường hợp đã
được cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, có tập hợp các đặc điểm tạo
dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao (gần như
không phân biệt được sự khác biệt) kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu
khác đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý của người đó.

Theo quy định tại Thông tư số 37/2011/TT- BKHCN của Bộ Khoa


học và Công nghệ Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực SHCN thì việc xác định yếu tố xâm phạm quyền

64
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp thì: sản phẩm/phần sản phẩm bị xem
xét được coi là bản sao với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu sản
phẩm/phần sản phẩm đó có tập hợp các đặc điểm tạo dáng (hình dáng) bên
ngoài chứa tất cả các đặc điểm tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ. Đặc điểm tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp được bảo
hộ được hiểu là đặc điểm tạo dáng dễ dàng nhận biết, ghi nhớ, được dùng để
phân biệt tổng thể kiểu dáng công nghiệp này với kiểu dáng công nghiệp
khác. Tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản có thể là hình khối, đường nét,
tương quan giữa các đặc điểm hình khối và/hoặc đường nét, các đặc điểm
màu sắc được xác định trên cơ sở bộ ảnh chụp/bản vẽ, phần mô tả kiểu dáng
công nghiệp kèm theo Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Ví dụ, Công ty
trách nhiệm hữu hạn Việt Hàn đã sản xuất sản phẩm “bao gói băng vệ sinh”
có cách trình bày, sắp xếp hình ba bông hoa hồng, hình cô gái tương tự như
sản phẩm “bao gói băng vệ sinh” của Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Ý đã
được trình bày tại ví dụ 1, phần 2.1.1. Sản phẩm “bao gói băng vệ sinh” của
Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Hàn có tập hợp các đặc điểm tạo dáng bên
ngoài chứa các đặc điểm tạo dáng cơ bản và có thể được coi là bản sao của
kiểu dáng công nghiệp “bao gói băng vệ sinh” của Công ty trách nhiệm hữu
hạn Việt Ý.

- Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét có tập hợp các đặc
điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao
của kiểu dáng công nghiệp của ít nhất một sản phẩm trong bộ sản phẩm được
bảo hộ của người khác.

Sản phẩm/phần sản phẩm bị xem xét được coi bản chất là bản sao của
kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu sản phẩm/phần sản phẩm đó có tập
hợp các đặc điểm tạo dáng bên ngoài gần như chứa tất cả các đặc điểm tạo
dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, chỉ khác biệt về những

65
đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết, ghi nhớ được. Ví dụ, yếu tố xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp “Dép mát –xa” được bảo hộ cho Công ty Long
Anh đã được phân tích tại ví dụ 3, phần 2.1.2 và phần 2.1.3 là trên sản phẩm
dép nhựa do Công ty Quân Sơn sản xuất, đế dép có mặt trên được tạo bởi các
nút có dạng mặt cầu rỗng, sắp theo các hàng ngang dọc và tạo thành bề mặt
hở thoáng khí, một đường gờ bao quanh mặt trên, mặt dưới của đế dép có các
đường gân thẳng bố trí theo các hàng ngang dọc và liên kết với mặt dưới của
các nút có dạng mặt cầu rỗng; quai dép làm bằng nhựa trong, có đường gân
bao quanh đường bao và có một lỗ thủng hình ôvan ở mặt trên của quai dép.
Đây được coi là những đặc điểm tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp
“Dép mát –xa”. Tuy nhiên, kiểu dáng “Dép mát –xa” của Công ty trách nhiệm
hữu hạn Quân Sơn có khác biệt ở đường gân bao quanh đường bao sau, lỗ
thủng hình ôvan ở mặt trên và có độ khoét sâu ở quai dép so với kiểu dáng
công nghiệp “Dép mát –xa” của Công ty Long Anh nhưng đây không phải là
đặc điểm tạo dáng cơ bản, dễ nhận biết và ghi nhớ. Như vậy, sản phẩm “Dép
mát –xa” của Công ty trách nhiệm hữu hạn Quân Sơn được coi là bản chất là
bản sao của kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ cho kiểu dáng “Dép mát –xa”
của Công ty Long Anh.

Trường hợp tổng thể các đặc điểm tạo dáng bên ngoài của một sản
phẩm/phần sản phẩm bị coi là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của tập hợp
các đặc điểm tạo dáng bên ngoài của ít nhất một sản phẩm trong bộ sản phẩm
thuộc kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ thì cũng bị coi là xâm phạm quyền
đối với kiểu dáng công nghiệp đó. Ví dụ, sản phẩm xe máy của Công ty cổ
phần xe máy, điện máy Phương Đông đã phân tích tại ví dụ 2, phần 2.1.2 có
các bộ phận, chi tiết nhựa có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành kiểu
dáng xe máy về tổng thể xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp của
xe máy, bộ phận sản phẩm của xe máy đang được bảo hộ tại Việt Nam cho

66
Công ty Honda (Nhật Bản) theo bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số
4306, 8924, 9658, 9032, 9189.

Như vậy, yếu tố xâm phạm đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm
mà hình dáng bên ngoài của nó hoặc hình dáng bên ngoài của một bộ phận
trùng với một kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ hoặc trùng với thành
phần tạo dáng cơ bản của kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ. Căn cứ
để xác định yếu tố xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là
phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được xác định theo Bằng độc quyền
kiểu dáng công nghiệp. Để khẳng định một sản phẩm có yếu tố xâm phạm đối
với kiểu dáng công nghiệp hay không, cần phải so sánh tất cả các đặc điểm
tạo dáng (đường nét, hình khối, màu sắc) của sản phẩm, bộ sản phẩm với các
đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng công nghiệp được xác định tại Bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp. Chỉ khi nào tất cả các đặc điểm của toàn bộ sản
phẩm hoặc phần của sản phẩm đều trùng với các đặc điểm tạo dáng cơ bản
nêu trong Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp thì mới khẳng định sản
phẩm đó có yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp.

2.2.3. Chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm

Vì quyền đối với kiểu dáng công nghiệp chỉ phát sinh trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên chủ sở
hữu đối với kiểu dáng công nghiệp là người được cấp văn bằng bảo hộ hoặc
được chuyển nhượng văn bằng hoặc được chuyển giao quyền sử dụng nếu bên
nhận chuyển giao được phép tiến hành các thủ tục bảo vệ quyền theo sự cho
phép của chủ sở hữu.

Khoản 3, Điều 5, Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chủ thể thực
hiện hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là người
không phải là chủ thể quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp hoặc người

67
được pháp luật cho phép thực hiện hành vi. Chủ thể quyền nêu trên là chủ sở
hữu kiểu dáng công nghiệp (chủ sở hữu trong Bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp hoặc là Bên được chuyển nhượng trong phần thông tin sửa đổi của các
văn bằng bảo hộ trên và trong Quyết định đăng ký hợp đồng chuyển nhượng
kiểu dáng công nghiệp) hoặc là người được chuyển giao kiểu dáng công
nghiệp (Bên được chuyển quyền trong phần thông tin sửa đổi trong văn bằng
bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và trong Quyết định đăng ký hợp đồng chuyển
giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp). Người được pháp luật cho phép
thực hiện hành vi là các trường hợp thuộc được quy định tại Khoản 2, Điều
125, Luật SHTT là: (1) sử dụng kiểu dáng công nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu
cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân
tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin
để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm; (2) sử
dụng kiểu dáng công nghiệp chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các
phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong
lãnh thổ Việt Nam; (3) sử dụng kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử
dụng trước. Những người thuộc các trường hợp này thì khi sử dụng kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ cũng không bị coi là xâm phạm quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp.

Chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Với tổ chức, cơ sở chứng minh sự hình thành là quyết định thành lập đối với
cơ quan hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp. Với
cá nhân, cá nhân thực hiện hành vi phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự đầy đủ.

68
2.2.4. Địa điểm thực hiện hành vi xâm phạm

Quyền SHTT nói chung và quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp nói riêng mang tính lãnh thổ. Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
do Cục SHTT cấp chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, một hành vi
chỉ bị coi là xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp nếu xảy ra trên
lãnh thổ Việt Nam. Một hành vi cũng có thể bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu
hành vi đó xảy ra trên mạng Internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc
người dùng tin tại Việt Nam. Ở đây khái niệm “xảy ra tại Việt Nam” là rất
rộng. Đó là lãnh thổ theo đường biên giới, trên các phương tiện vận tải quốc
tế mang quốc tịch Việt Nam và lãnh thổ trên Internet (nhằm vào người tiêu
dùng hoặc người tin dùng tại Việt Nam). Đây là quy định phù hợp với xu thế
phát triển của công nghệ thông tin, xóa bỏ khoảng cách biên giới lãnh thổ
truyền thống. Tuy nhiên, việc xác định địa điểm thực hiện hành vi theo tiêu
chí trên là rất phức tạp và khó khăn vì nó xác định dựa trên cơ sở mục đích
của hành vi đòi hỏi phải có phương tiện kỹ thuật cao để xác định và hiện nay
cũng chưa có quy định cụ thể nào hướng dẫn cách xác định địa điểm thực
hiện hành vi trong trường hợp này.

Có thể xác định địa điểm thực hiện hành vi trong trường hợp này dựa
vào các cơ sở sau:

- Về hình thức và nội dung các phương tiện trên internet như: sự gần
gũi, hấp dẫn với nhóm người tiêu dùng hoặc tin dùng tại Việt Nam (ví dụ nếu
nhằm vào người tiêu dùng là những phụ nữ thì website, forum đó ... mà hành
vi sử dụng để quảng cáo, mua bán sản phẩm bắt mắt, màu sắc, hiện đại, trẻ
trung, nội dung đánh vào giá cả, chạy theo mốt.

69
- Thông qua số lượng khách hàng truy cập vào các phương tiện trên
internet, trong đó thống kê số lượng khách hàng; doanh thu từ việc bán hàng,
phạm vi quảng cáo.

2.3. Xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra

Theo quy định tại Điều 124, Luật SHTT 2005, thiệt hại do xâm phạm
quyền SHTT là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm
phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền SHTT. Trên cơ sở các quy định của
Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn về xác định thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền SHTT để xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp.

Cũng như tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp thì mức độ và tính chất thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền sở hữu đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra cũng có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định hình thức, biện pháp xử lý hành vi xâm phạm.
Việc xác định thiệt hại, tính chất và mức độ thiệt hại là rất phức tạp, đòi hỏi
nhiều bằng chứng. Pháp luật quốc tế quy định về thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền SHTT như sau:

Điều 45, Hiệp định TRIPS quy định:

Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc người xâm


phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thỏa đáng để bồi
thường thiệt hại mà chủ thể quyền SHTT đã phải gánh chịu do hành
vi xâm phạm của người thực hiện hành vi xâm phạm quyền khi đã
biết hoặc có cơ sở để biết điều đó.

Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc người xâm


phạm phải trả cho chủ thể quyền các phí tổn, trong đó có thể bao gồm

70
cả phí đại diện thích hợp. Trong những trường hợp thích hợp, các
Thành viên có thể cho các cơ quan xét xử được quyền ra lệnh thu hồi
các khoản lợi nhuận và/hoặc trả các khoản đền bù thiệt hại đã ấn
định trước, kể cả trường hợp người xâm phạm đã thực hiện hành vi
xâm phạm khi không biết hoặc không có căn cứ để biết điều đó [58].

Không có sự trợ giúp nào trong Điều 45, Hiệp định TRIPS giải quyết
vấn đề phức tạp về tính toán mức thiệt hại do hậu quả của việc xâm phạm
quyền SHTT. Khi nguyên đơn và bị đơn là đối thủ cạnh tranh, biện pháp về
tiền bồi thường giống như việc bị đơn trả cho việc đăng ký nếu việc đó được
yêu cầu. Tòa án có thể xem xét thiệt hại mà nguyên đơn phải chịu, thiệt hại
này có thể được đánh giá trên lợi nhuận mà bị đơn được hưởng.

Như vậy Hiệp định TRIPS đã quy định cho phép các cơ quan xét xử
“ra lệnh buộc người xâm phạm quyền trả cho chủ sở hữu quyền phí tổn bao
gồm cả chi phí thuê luật sư thỏa đáng” [58]. Những chi phí này có thể bao
gồm chi phí nộp đơn tại tòa, phí cho nhân chứng và loại chi phí bất kỳ liên
quan đến việc chuẩn bị chứng cứ.

Khoản 2, Điều 12, Chương II, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ quy định như sau:

Người có quyền có thể yêu cầu người thực hiện hành vi xâm
phạm bồi thường khoản bồi thường thiệt hại thỏa đáng do hành vi xâm
phạm gây ra, những lợi nhuận mà người xâm phạm thu được từ hành
vi xâm phạm nhưng không được tính trong thiệt hại thực tế và các chi
phí của người có quyền (bao gồm cả chi phí thuê luật sư) [28].

Theo Chương V, Bộ luật Dân sự 1995, bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm kiểu dáng công nghiệp gây ra là một loại bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Điều 612, Bộ luật Dân sự 1995 quy định thiệt hại do hành vi xâm

71
phạm kiểu dáng công nghiệp gây ra là thiệt hại vật chất bao gồm tài sản bị
mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn với việc sử dụng, khai thác tài
sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

Tại Điều 204 và 205, Luật SHTT 2005 đã quy định về nguyên tắc
xác định thiệt hại và căn cứ xác định mức bồi thường thiệt do hành vi xâm
phạm quyền SHTT nói chung và kiểu dáng công nghiệp nói riêng. Các quy
định này phù hợp với quy định của Hiệp định TRIPS và Hiệp định thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ và quy định rõ ràng hơn so với quy định tại Bộ luật
Dân sự 1995.

2.3.1. Khái niệm thiệt hại

Khoản 1, Điều 204, Luật SHTT và Điều 16, Nghị định số


105/2006/NĐ-CP quy định về thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với kiểu dáng công nghiệp như sau:

Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm
quyền đối với kiểu dáng công nghiệp trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền SHCN.
Trong phạm vi nghiên cứu Luận văn, tác giả chỉ đề cập đến thiệt hại vật chất do
hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra. Được
coi là có tổn thất thực tế nếu có đủ các căn cứ sau đây: i) lợi ích vật chất hoặc
tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại; ii) người bị thiệt hại có khả
năng đạt được lợi ích nói trên; iii) có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị
thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm
phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất
lợi ích đó. Mức độ thiệt hại được xác định theo yếu tố xâm phạm quyền SHTT.
Thẩm phán sẽ xác định mức độ thiệt hại dựa trên chứng cứ về thiệt hại do các

72
bên cung cấp, gồm cả kết quả trưng cầu giám định và bản kê khai thiệt hại và
làm rõ các căn cứ để xác định và tính toán mức thiệt hại.

Thiệt hại có thể chia thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
Thiệt hại trực tiếp (gồm tổn thất về tài sản và mức giảm sút về thu nhập và lợi
nhuận) và thiệt hại gián tiếp (gồm tổn thất về cơ hội kinh doanh và chi phí
hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại). Có thể đưa ra khái niệm thiệt hại do
hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là những tổn
thất trực tiếp và gián tiếp về vật chất của chủ thể quyền do hành vi xâm phạm
kiểu dáng công nghiệp gây ra.

2.3.2. Nguyên tắc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra

Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ
đúng trình tự nhằm đạt mục đích đề ra một cách tối ưu. Nguyên tắc xác định
thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng như xâm phạm đối với
kiểu dáng công nghiệp nói riêng được quy định tại Điều 204, Luật SHTT như
sau: thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại về tinh thần. Trong phạm vi nghiên
cứu của Luận văn là chỉ đề cập đến các quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công
nghiệp, vì vậy trong phần này tác giả chỉ đề cập đến các thiệt hại về vật chất.

Khoản 1, Điều 204, Luật SHTT 2005, dựa trên tiêu chí tính chất của
thiệt hại vật chất, thiệt hại được chia làm 04 loại: (i) các tổn thất về tài sản;
(ii) mức giảm sút thu nhập và lợi nhuận; (iii) tổn thất về cơ hội kinh doanh;
(iv) chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại. Ngoài ra, căn cứ vào
mối quan hệ giữa thiệt hại và hành vi xâm phạm, thiệt hại được chia làm 2
nhóm: (i) thiệt hại trực tiếp (gồm tổn thất về tài sản và chi phí hợp lý để ngăn

73
chặn, khắc phục thiệt hại); (ii) thiệt hại gián tiếp (gồm mức giảm sút về thu
nhập, lợi nhuận và tổn thất về cơ hội kinh doanh).

Về mức độ thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp gây ra:

Điều 204, Luật SHTT về nguyên tắc xác định thiệt hại, ngoài việc quy
định về các loại thiệt hại còn quy định về mức độ thiệt hại. Thông thường các
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: yếu tố lỗi của chủ
thể hành vi, hành vi xâm phạm, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi xâm phạm và thiệt hại đó. Trách nhiệm bồi thường và mức bồi
thường có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý hành vi xâm phạm kiểu dáng
công nghiệp, nó quyết định việc bảo vệ của pháp luật đối với đối tượng là
kiểu dáng công nghiệp có triệt để hay không.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 204, Luật SHTT thì mức độ thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp được xác
định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp phải chịu do hành vi xâm phạm quyền đối với kiểu dáng
công nghiệp gây ra. Mức độ thiệt hại được xác định phù hợp với yếu tố xâm
phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp. Việc xác định thiệt hại dựa trên
chứng cứ về thiệt hại do các bên cung cấp, kể cả kết quả trưng cầu giám định
và bản kê khai thiệt hại (Khoản 3, Điều 16, Nghị định 105/2006/NĐ-CP).
Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế về vật chất do
hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp. Mức độ bồi thường thiệt hại sẽ được xác định trên cơ sở
mức độ thiệt hại.

Dưới đây tác giả sẽ phân tích cụ thể từng loại thiệt hại vật chất do
hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra:

74
2.3.2.1. Về tổn thất về tài sản

Tổn thất về tài sản được xác định theo mức độ giảm sút hoặc bị mất về
giá trị tính được thành tiền của kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Giá trị
tính được thành tiền của kiểu dáng công nghiệp được xác định theo một hoặc
các căn cứ sau đây: i) Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao
quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp; ii) Giá trị góp vốn kinh doanh bằng
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp; iii) Giá trị quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp trong tổng số tài sản của doanh nghiệp; iv) Giá trị đầu
tư cho việc tạo ra và phát triển kiểu dáng công nghiệp, bao gồm chi phí tiếp
thị, nghiên cứu, quảng cáo, lao động, thuế và các chi phí khác.

Dưới đây tác giả sẽ phân tích cụ thể các quy định của pháp luật đối
với từng loại tổn thất về tài sản:

i). Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao quyền sử
dụng kiểu dáng công nghiệp. Dựa trên cơ sở định giá theo thị trường, giá kiểu
dáng công nghiệp được xác định trên cơ sở giá chuyển nhượng hoặc chuyển
giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp tương tự giao dịch trên thị trường
vào thời điểm định giá. Tuy nhiên việc định giá dựa trên cơ sở này không
chuẩn xác vì thị trường chuyển giao kiểu dáng công nghiệp với số lượng chưa
đủ lớn, đa dạng. Ngoài ra, thực tế hiện nay là khi chuyển giao kiểu dáng công
nghiệp được đăng ký tại Cục SHTT với mức giá thấp hơn giá thực thế rất
nhiều nhằm mục đích trốn thuế. Do đó, việc định giá trên cơ sở này không
được chuẩn xác.

ii). Giá trị góp vốn kinh doanh bằng kiểu dáng công nghiệp. Theo
phương thức này, giá trị kiểu dáng công nghiệp là giá được ghi vào trong các
văn bản, giấy tờ của doanh nghiệp và được đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh
doanh. So với việc định giá trên cơ sở giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc

75
giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp thì thì việc định giá
trên cơ sở này chính xác hơn.

iii). Giá trị kiểu dáng công nghiệp trong tổng số tài sản của doanh
nghiệp. Giá trị kiểu dáng công nghiệp và tài sản của doanh nghiệp cũng phải
xác định trên cơ sở thị trường và trên cơ sở sổ sách kế toán. Quyền SHCN đối
với kiểu dáng công nghiệp vừa là một tài sản cố định vô hình được định giá
vào sổ sách kế toán vừa là một tài sản được lưu thông trên thị trường nên nó
tuân theo quy luật thị trường; tương quan giữa giá trị sổ sách và giá trị thị
trưởng của tài sản ngày càng chênh lệch, trong khi đó giá trị tài sản vô hình
lại không ngừng tăng lên.

iv). Giá trị đầu tư cho việc tạo ra và phát triển kiểu dáng công nghiệp,
bao gồm các chi phí tiếp thị, nghiên cứu, quảng cáo, lao động, thuế và các chi
phí khác. Đây là phương thức định giá kiểu dáng công nghiệp theo chi phí v́
nó dựa trên tổng chi phí quá khứ đã phát sinh trong quá trình sáng tạo ra kiểu
dáng công nhiệp. Tuy nhiên, tiêu chí này có một số hạn chế như: kiểu dáng
công nghiệp được xây dựng thành công có giá trị lớn hơn nhiều lần so với chi
phí để sáng tạo ra một kiểu dáng công nghiệp.

2.3.2.2. Về mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận

Theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 204, Luật SHTT mức giảm
sút về thu nhập, lợi nhuận bao gồm: i) thu nhập, lợi nhuận được tạo ra do sử
dụng, khai thác trực tiếp kiểu dáng công nghiệp; ii) thu nhập, lợi nhuận thu
được do cho thuê kiểu dáng công nghiệp; iii) thu nhập, lợi nhuận thu được do
chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp. Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác định theo một hoặc các
căn cứ sau đây: i) so sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và
sau khi xảy ra hành vi xâm phạm, tương ứng với từng loại thu nhập; ii) so

76
sánh sản lượng, số lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thực tế tiêu thụ hoặc
cung ứng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm; iii) so sánh giá bán thực
tế trên thị trường của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trước và sau khi xảy ra
hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, khi xác định về mức giảm sút về thu nhập, lợi
nhuận cần lưu ý đến các yếu tố khách quan tác động đến việc tăng hoặc giảm
thu nhập, lợi nhuận thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; đối với trường
hợp có hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp nhưng khi xác định thiệt hại
tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm so với thời điểm trước khi xảy ra hành
vi xâm phạm, thu nhập, lợi nhuận của bên bị xâm phạm tuy không giảm sút,
nhưng so với thu nhập, lợi nhuận thực tế đáng lẽ được nhận nếu không có
hành vi xâm phạm vẫn bị giảm đi thì trường hợp này cũng bị coi là thu nhập,
lợi nhuận bị giảm sút (Điều 18, Nghị định 105/2006/NĐ-CP và mục B.I.1.5,
Thông tư 02/2008/TTLT).
Việc xác định thu nhập, lợi nhuận bị mất do hành vi xâm phạm quyền
SHTT gây ra là hết sức khó khăn và trong hầu hết các trường hợp đều chỉ
mang tính tương đối. Trong một số trường hợp việc xác định thu nhập, lợi
nhuận bị mất dựa trên việc so sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế
trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm không đơn giản và khó chính xác.
Giả sử trong trường hợp mà trong khoảng thời gian xảy ra hành vi xâm phạm,
doanh số và lợi nhuận của nguyên đơn không có sự giảm sút so với thời gian
trước, thậm chí số lượng bán hàng hay giá bán trên sản phẩm bị xâm phạm
cũng không giảm (tức là mọi phép so sánh đều cho kết quả bằng 0, thậm chí
là âm) thì điều này cũng không đủ căn cứ để khẳng định nguyên đơn không bị
mất thu nhập, lợi nhuận trên thực tế. Trong một số trường hợp mặc dù doanh
thu và lợi nhuận của người bị thiệt hại thực tế có sự giảm sút so với thu nhập
trước khi có hành vi xâm phạm xảy ra nhưng sự giảm sút đó hoàn toàn không
phải do hành vi xâm phạm mà do ảnh hưởng của các yếu tố trên thị trường

77
hoặc do sự kém hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của người đó thì việc
xác định thu nhập, lợi nhuận bị mất do hành vi xâm phạm SHTT dựa trên sự
so sánh trên khó có thể đảm bảo khách quan và toàn diện.
2.3.2.3. Về tổn thất về cơ hội kinh doanh
Cơ hội kinh doanh được hiểu là hoàn cảnh thuận lợi, khả năng thực tế
để chủ thể quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp sử dụng, khai thác
trực tiếp, cho người khác thuê, chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền
SHTT, chuyển nhượng quyền SHTT cho người khác theo quy định của pháp
luật... để thu lợi nhuận. Điểm a, Khoản 1, Điều 204, Luật SHTT; Điều 19,
Nghị định 105/2006/NĐ-CP và Mục B.I.1.6, Thông tư số 02/2008/TTLT quy
định cơ hội kinh doanh bao gồm một trong các trường hợp sau: i) khả năng
thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp kiểu dáng công nghiệp trong kinh doanh;
ii) khả năng thực tế cho người khác thuê kiểu dáng công nghiệp; iii) khả năng
trực tiếp chuyển giao, chuyển nhượng quyền sử dụng quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp cho người khác; iv) cơ hội kinh doanh khác bị mất do
hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra. Trong các tổn thất về vật chất thì tổn thất
về cơ hội kinh doanh là tổn thất khó chứng minh nhất, nhóm này có sự liên hệ
với hành vi xâm phạm thấp nhất.
Theo học thuyết về bồi thường thiệt hại cho phép những thiệt hại tuy
chưa xảy ra nhưng nếu chắc chắn xảy ra thì cũng có thể được xem xét bồi
thường nếu như sự chắc chắn đó là thực tế. Trong đó, cơ hội kinh doanh cũng
có thể coi là một thiệt hại. Tuy nhiên, có thể thấy, đây là một sự bồi thường
trùng bởi vì xuất phát từ một thực tế là khi giá trị của tài sản SHTT bị mất hay
bị giảm sút vì bất cứ nguyên nhân gì thì đương nhiên các cơ hội kinh doanh
cũng bị giảm sút ở mức độ tương ứng hay nói đúng hơn, giá trị của một tài
sản trí tuệ thường được phản ánh và định lượng dựa trên những cơ hội kinh
doanh mà nó mang lại hay khả năng sinh lợi của tài sản này trong tương lai.

78
Có thể thấy, cơ hội kinh doanh cũng như những lợi nhuận trong tương lai mà
một tài sản trí tuệ có thể mang lại và giá trị thành tiền của tài sản này chẳng
qua là sự phản ánh khác nhau về cùng một vấn đề và không phải là các giá trị
độc lập. Vì vậy, nếu giá trị bị giảm sút hoặc mất đi của một tài sản SHTT đã
được xác định là thiệt hại cần được bồi thường trong trách nhiệm bồi thường
do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra thì không thể yêu cầu bồi thường
đối với những tổn thất về cơ hội kinh doanh nữa và ngược lại. Nghiên cứu
pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy không có sự phản ánh
trực tiếp về trách nhiệm bồi thường đối với “tổn thất về tài sản” hay “cơ hội
kinh doanh” trong những vụ xâm phạm quyền SHTT. Thường thì những yếu
tố này sẽ được cân nhắc như một khía cạnh trong quá trình xác định các thiệt
hại trực tiếp khác như chi phí quảng cáo cải chính nhằm khôi phục danh tiếng
và uy tín của chủ sở hữu quyền trong luật của Mỹ hay khoản tiền bồi thường
về uy tín, danh dự và tinh thần trong pháp luật của Nhật Bản.
2.3.2.4. Về chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại
Theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 204, Luật SHTT và Điều 20,
Nghị định 105/2006/NĐ-CP thì chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt
hại gồm chi phí cho việc tạm giữ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối với hàng hóa
xâm phạm, chi phí thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chi phí hợp lý
để thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm và chi
phí cho việc thông báo, cải chính trên phương tiện thông tin đại chúng liên
quan đến hành vi xâm phạm. Đây là những chi phí thực tế, cần thiết, hợp lý
mà chủ thể quyền đã dùng để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do hành vi xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp gây ra.

79
2.3.3. Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra
Điều 205, Luật SHTT quy định về căn cứ xác định thiệt hại do hành
vi xâm phạm quyền SHTT như sau:
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi
xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có
quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường theo một trong
các căn cứ sau:
- Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tính bằng tiền cộng với
khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm
phạm, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được
tính vào tổng thiệt hại;
- Giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp với
giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng theo
hợp đồng sử dụng kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi tương ứng
với hành vi xâm phạm;
- Mức bồi thường thiệt hại do Tòa án ấn định tùy thuộc vào
mức độ thiệt hại nhưng không quá 500 triệu đồng.
Ngoài ra, nguyên đơn còn có thể yêu cầu Tòa án buộc tổ chức,
cá nhân xâm phạm thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.[40]
Trên cơ sở các căn cứ này, dưới đây sẽ phân tích từng căn cứ để xác
định thiệt hại hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp:
Thứ nhất, xác định thiệt hại căn cứ vào tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền
cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm
Thiệt hại vật chất thực tế ở đây bao gồm: tổn thất về tài sản, giảm sút về thu
nhập, lợi nhuận; tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc
phục thiệt hại nêu trên. Cơ sở xác định thiệt hại là dựa trên việc xác định thu nhập,

80
lợi nhuận bị mất từ việc sử dụng, khai thác trực tiếp kiểu dáng công nghiệp và xác
định thu nhập, lợi nhuận bị mất từ việc chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng
công công nghiệp. Lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm của bị đơn là khoản
tương đương với lợi nhuận bị giảm sút (khai thác và sử dụng kiểu dáng công
nghiệp) của nguyên đơn. Đây là căn cứ quan trọng nhất để tính toán thiệt hại, thiệt
hại được xác định theo căn cứ này là thiệt hại lớn nhất của nguyên đơn và việc
chứng minh được thiệt hại này là cơ sở nguyên đơn được bồi thường nhiều nhất.
Tại Việt Nam, Tòa án xác định lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm
của bị đơn theo hướng dẫn tại Mục B.I.2, Thông tư 02/2008/TTLT của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch và Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 03-4-2008 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT tại
Tòa án nhân dân quy định như sau: “Tòa án xác định lợi nhuận của bị đơn sau
khi khấu trừ toàn bộ các chi phí khỏi tổng doanh thu của bị đơn. Trong đó, tổng
doanh thu của bị đơn được tính trên cơ sở toàn bộ các hóa đơn, chứng từ bán
sản phẩm hoặc sử dụng tác phẩm vi phạm quyền SHTT của nguyên đơn mà bị
đơn đã thực hiện”. [59]
Tuy nhiên, khi xác định lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm của bị
đơn cần có sự hỗ trợ của Tòa án thông qua quyết định bắt buộc bị đơn cung cấp
chứng cứ về lợi nhuận từ hành vi xâm phạm tại các báo cáo tài chính. Để được
sự hỗ trợ từ phía Tòa án, nguyên đơn phải chứng minh được việc do bị đơn kiểm
soát chứng cứ nên không thể tiếp cận được nên họ có quyền yêu cầu Tòa án
buộc bị đơn phải đưa ra chứng cứ đó (Điều 43, Hiệp định TRIPS, Điều 12 của
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Điều 203, Luật SHTT 2005; Điều
6, 59, 79 và 85 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Tuy nhiên, pháp luật Việt
Nam chưa quy định về việc cho phép tòa án có quyền ra bản án mà không cần
đầy đủ chứng cứ nếu bị đơn cố tình không cung cấp chứng cứ.

81
Thứ hai, xác định thiệt hại căn cứ trên cơ sở giá chuyển giao quyền sử
dụng kiểu dáng công nghiệp
Giá chuyền giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp được xác định
theo một trong các căn cứ được quy định tại Mục B.2.1.b, Thông tư
02/2008/TTLT như sau:
i). Khoản tiền phải trả nếu người có quyền và người xâm
phạm tự do thỏa thuận, ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng
kiểu dáng công nghiệp đó;
ii). Giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp
giả định được xác định theo phương pháp xác định số tiền mà bên
có quyền (nguyên đơn) và bên được chuyển giao (bị đơn) có thể đã
thỏa thuận vào thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, nếu các bên tự
nguyện thỏa thuận với nhau về khoản tiền đó;
iii). Dựa trên giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng
công nghiệp được áp dụng trong lĩnh vực tương ứng được nêu
trong các thông lệ chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công
nghiệp đó.[59]
Xác định thiệt hại dựa trên căn cứ này là sự giả định bị đơn được
nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp theo hợp đồng
sử dụng đối tượng SHTT trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã
thực hiện. Tuy nhiên việc xác định mức giá chuyển nhượng chỉ là giả định và
thông thường mức giá trước thời điểm diễn ra hành vi xâm phạm thường cao
hơn và điều kiện thỏa thuận cũng nhiều hơn so với thời điểm sau khi xảy ra
hành vi xâm phạm. Trong trường hợp không thể xác định được giá sử dụng
kiểu dáng công nghiệp theo các căn cứ trên thì phải sử dụng giá trung gian là
giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp được áp dụng trong
lĩnh vực tương ứng. Đây là mức giá khách quan và hợp lý hơn.

82
Trong trường xác định thiệt hại theo căn cứ này, một vấn đề được đặt
ra là các thiệt hại thực tế khác như chí phí cần thiết để ngăn chặn, khắc phục
thiệt hại hay tổn thất về cơ hội kinh doanh có được xác định để bồi thường
bên cạnh giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp hợp lý hay
không. Hiện tại theo quy định tại Điều 205, Luật SHTT thì các thiệt hại vật
chất này đương nhiên không được xác định để bồi thường trong trường hợp
thiệt hại được tính trên cơ sở giá chuyển giao kiểu dáng công nghiệp. Điều
này là không hợp lý và không đảm bảo quyền lợi của người bị xâm phạm theo
đúng nguyên tắc bồi thường toàn bộ. Nghiên cứu pháp luật các nước về
nguyên tắc và căn cứ xác định thiệt hại trong lĩnh vực SHTT cho thấy, thông
thường thiệt hại sẽ được xác định dựa trên: hoặc lợi nhuận bị mất của chủ sở
hữu quyền hoặc lợi nhuận bất hợp pháp thu được của người vi phạm hoặc giá
chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp hợp lý. Bên cạnh những
thiệt hại này, người thắng kiện còn được bồi thường các thiệt hại thực tế khác
như: chi phí tố tụng, chi phí đăng cải chính, phí luật sư (nếu có)... Điều đó có
nghĩa giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp thông thường
được áp dụng để xác định thiệt hại chỉ để thay thế cho những lợi nhuận, thu
nhập bị mất của nguyên đơn trong trường hợp những thiệt hại này rất khó để
xác định. Giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp không thể
thay thế toàn bộ các thiệt hại thực tế của nguyên đơn, đồng thời, cũng không
thể loại trừ trách nhiệm bồi thường của người xâm phạm đối với các thiệt hại
thực tế phát sinh đối với người bị xâm phạm như chi phí tố tụng, chi phí luật
sư, chi phí để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại và tổn thất về tài sản. Vì vậy,
Luật SHTT cũng cần bổ sung việc tính các thiệt hại vật chất của người bị xâm
phạm cộng với giá chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp vào căn
cứ xác định thiệt hại thứ hai này để đảm bảo quyền lợi cho người bị xâm
phạm.

83
Tóm lại, căn cứ xác định thiệt hại trên cơ sở giá chuyển giao quyền sử
dụng kiểu dáng công nghiệp là khả thi hơn so với căn cứ thứ nhất vì nó thực
tế, khách quan và dễ xác định.
Thứ ba, xác định thiệt hại căn cứ theo luật định
Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp không thể xác định được
mức bồi thường thiệt hại vật chất theo các căn cứ trên. Mức bồi thường sẽ do
Tòa án quyết định tùy thuộc vào tính chất, mức độ thiệt hại với mức bồi
thường tối thiểu là 5 triệu đồng và tối đa là 500 triệu đồng (Mục B.1.2.1c2
Thông tư số 02/2008/TTLT). Quy định này về cơ bản phù hợp với thông lệ
chung của quốc tế và quy định của hầu hết các nước. Quy định này phù hợp
với nguyên tắc nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh và cũng khuyến
khích nguyên đơn tích cực chứng minh để đạt được mức bồi thường thiệt hại
cao hơn. Việc xác định thiệt hại theo căn cứ này phụ thuộc nhiều vào trình
độ, kinh nghiệm, sự nhạy cảm nghề nghiệp và niềm tin nội tâm của Hội
đồng xét xử. Để tránh sự tùy tiện của thẩm phán, pháp luật cũng đã quy định
mức bồi thường tối thiểu và tối đa.

Chi phí hợp lý để thuê luật sư được quy định là một khoản bồi thường
thiệt hại. Ngoài các khoản bồi thường được xác định theo một trong ba căn cứ
nêu trên, chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân
có hành vi xâm phạm phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Quy định
này phù hợp với quy định trong Hiệp định TRIPS tại Điều 45 “Cơ quan xét
xử phải có quyền ra lệnh buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền
các phí tổn, trong đó có thể bao gồm cả phí đại diện thích hợp” [58]. Tuy
nhiên, pháp luật một số nước không chấp nhận khoản chi phí này là một
khoản bồi thường thiệt hại. Ví dụ, pháp luật Trung Quốc không quy định rõ
ràng về loại phí này, chỉ cho rằng các chi phí hợp lý phát sinh trong quá trình
ngăn chặn hành vi xâm phạm gồm chi phí hợp lý phát sinh trong quá trình

84
khởi kiện hoặc quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành điều tra
và thu thập chứng cứ để chứng minh bất kỳ hành vi xâm phạm nào có thể tính
gộp vào khoản tiền bồi thường. Thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư:
trong tố tụng dân sự, theo quy định tại khoản 3, Điều 144, Bộ luật Tố tụng
dân sự thì chi phí cho luật sư do người yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên
đương sự có thỏa thuận khác; tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3, Điều 205,
Luật SHTT, thì chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức,
cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để
thuê luật sư. Chi phí hợp lý để thuê luật sư là chi phí thực tế cần thiết, phù
hợp với tính chất, mức độ phức tạp của vụ việc; kỹ năng, trình độ của luật sư
và lượng thời gian cần thiết để nghiên cứu vụ việc. Mức chi phí bao gồm mức
thù lao luật sư và chi phí đi lại, lưu trú cho luật sư. Mức thù lao do luật sư
thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa trên các căn
cứ và phương thức tính thù lao quy định tại Điều 55, Luật Luật sư.

Tuy nhiên, trên thực tế, các vụ giải quyết tranh chấp quyền SHTT tại
Việt Nam, số lượng Tòa án ra phán quyết buộc bên có hành vi xâm phạm
quyền SHTT phải bồi thường cả chi phí thuê luật sư là không nhiều và mức
phí luật sư được Tòa án ấn định lại quá thấp và không phù hợp với chi phí
thuê luật sư thực tế mà bên bị thiệt hại đã bỏ ra để thuê luật sư.

Như vậy, trước khi Luật SHTT được ban hành hầu như không có văn
bản pháp luật nào quy định về căn cứ pháp lý để xác định mức bồi thường
thiệt do hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng như do hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng. Vì vậy, nhiều
trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại của mình hoặc xác
định không chính xác mức bồi thường thiệt hại và không được Tòa án chấp
nhận. Luật SHTT được ban hành đã bổ sung các quy định quan trọng về
nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm SHTT (Điều 204) và các căn cứ

85
xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT (Điều 205), tuy
nhiên, do tính chất đặc thù của loại tài sản “quyền SHTT” nên nhiều trường
hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại hoặc xác định không đầy
đủ về những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế. Việc xác định các thiệt hại của
hành vi xâm phạm quyền SHTT trên thực tế là rất khó để xác định một cách
chính xác và đầy đủ.

86
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG
XÂM PHẠM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÁC ĐỊNH HÀNH
VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

3.1. Thực trạng xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
3.1.1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp
Cho đến nay chưa có một cuộc điều tra tổng hợp nào về tình hình xâm
phạm SHTT nói chung và xâm phạm kiểu dáng công nghiệp nói riêng tại Việt
Nam. Các tài liệu tổng kết về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp ở Việt Nam không nhiều. Hiện nay có nhiều cơ quan hoạt
động trong lĩnh vực SHTT như: Toà án, Quản lý thị trường, Thanh tra (Khoa
học và Công nghệ, Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn), Công an, Hải quan và Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy nhiên, mỗi
cơ quan thực thi lại hoạt động độc lập và đưa ra những con số khác nhau về
hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng như đối với kiểu dáng công
nghiệp nói riêng.
Trong thời gian qua, tình trạng xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu
dáng công nghiệp ở Việt Nam có tính phức tạp và có dấu hiệu phổ biến. Theo
số liệu thống kê thì hành vi xâm phạm quyền sở công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp là một trong những hành vi xâm phạm quyền SHTT nhiều
nhất chỉ xếp sau hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu, thậm chí
có những giai đoạn còn cao hơn cả hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
nhãn hiệu.

87
Về số lượng, theo thống kê sơ bộ, số vụ vi phạm về SHTT vào đầu
những năm 90 thế kỷ XX chỉ có vài chục vụ, thì cho đến nay đã tăng đáng kể.
Năm 1994 chỉ có 48 vụ (trong đó, 01 vụ xâm phạm sáng chế, 6 vụ xâm phạm
kiểu dáng công nghiệp và 41 vụ xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa), đến năm
2003 là 326 vụ (trong đó, 23 vụ xâm phạm sáng chế, 34 vụ xâm phạm kiểu
dáng công nghiệp và 260 vụ xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa), đến năm 2006
đã tăng lên gần 500 vụ (trong đó, 60 vụ xâm phạm sáng chế, 152 vụ xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp và 288 vụ xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa), đến
năm 2010, số vụ xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp đã
tăng lên con số là 215 vụ. Cũng theo báo cáo sơ kết công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm SHTT của Bộ Công
an, trong 5 năm (2002-2007), lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế của
các địa phương đã phát hiện 1092 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng xâm
phạm quyền SHTT. Ngoài ra mỗi năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện
hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm quyền SHTT. Theo
thống kê, mỗi năm Cục quản lý Thị trường (Bộ Công thương) phát hiện và xử
lý hàng nghìn vụ việc liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có kiểu
dáng “cải tiến” của kiểu dáng được đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.
Ngoài ra, theo thống kê của Chi cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội cho
thấy trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong những năm gần đây số lượng các
vụ vi phạm quyền SHTT chiếm 70% trên tổng số các vụ vi phạm mà cơ quan
này đã xử lý. Nếu như năm 1997 mới phát hiện 15 vụ vi phạm quyền SHTT,
thì tới năm 2000 đã lên tới 101 vụ, trong đó có 02 vụ chuyển sang xử lý hình
sự; đến năm 2001, số vụ vi phạm bị phát hiện là 144; năm 2002 là 145 vụ;
trong năm 2005 có trên 3000 vụ bị xử vi phạm hành chính, hơn 100 vụ bị xử
lý hình sự. Điều đó cho thấy các xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp ngày càng xảy ra nhiều. Hiện nay nhiều hàng giả kiểu dáng công
nghiệp rất khó phân biệt với hàng chính hiệu và không chỉ xảy ra với các sản

88
phẩm tiêu dùng thông thường mà đã xảy ra với những sản phẩm có công dụng
và chức năng đặc biệt như thuốc chữa bệnh, sắt thép xây dựng....
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, các khiếu nại về việc vi phạm
Quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp cũng không ngừng gia tăng. Chỉ
tính riêng các khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp được gửi tới Cục
SHTT trong những năm gần đây đã tăng nhanh. Qua số liệu tại bảng 3.1 và
biểu đồ 3.1 dưới đây cho thấy đơn khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công
nghiệp chiếm tỷ lệ cao và không ngừng gia tăng. Số lượng đơn khiếu nại về
xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp từ chỗ chiếm vị trí
thứ hai trong các khiếu nại về xâm phạm quyền SHCN, sau khiếu nại về xâm
phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu (từ năm 1998 đến 2006) đã chiếm vị trí
cao nhất trong số các khiếu nại xâm phạm (từ năm 2007-2010 đều cao hơn
khiếu nại xâm phạm về nhãn hiệu). Đặc biệt từ năm 2005 đến nay đơn khiếu
nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp có sự gia tăng đột biến, số lượng đơn
năm 2005 tăng gấp 3,2 lần năm 2004 và các năm tiếp theo từ 2006 và 2008
tiếp tục tăng cao. Từ năm 2009 và 2010 mặc dù đơn khiếu nại có giảm nhưng
vẫn cao hơn và còn cao hơn đơn khiếu nại về nhãn hiệu, sáng chế và giải pháp
hữu ích.
Bảng 3.1 Đơn khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp so với nhãn
hiệu, sáng chế và giải pháp hữu ích từ năm 1998-2010 tại Cục SHTT
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
KDCN 20 41 60 93 108 53 65 210 264 92 244 99 90
NH 219 110 119 198 282 278 306 324 320 67 84 82 89
SC, GPHI 1 1 1 2 9 23 33 41 17 7 5 7 4
Tổng 240 152 180 293 399 354 404 575 601 166 333 188 183

KDCN: Kiểu dáng công nghiệp


NH: Nhãn hiệu
SC, GPHI: Sáng chế, giải pháp hữu ích
Nguồn: Cục SHTT

89
Biểu đồ 3.1: Đơn khiếu nại về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp so với
đơn khiếu nại về xâm phạm nhãn hiệu, sáng chế và giải pháp hữu ích
từ 1998-2010 tại Cục Sở hữu trí tuệ

350
300
250
200 KDCN
Số lượng
150 NH
SC,GPHI
100
50
0
Năm

Về tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp:
Tính chất xâm phạm quyền SHTT nói chung, xâm phạm quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp ngày càng diễn ra nghiêm trọng và phức tạp. Trước
đây, hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp chỉ dừng lại ở tính chất nhỏ lẻ,
manh mún thì nay các hành vi xâm phạm quyền SHTT đồng thời diễn ra ở tất
cả các lĩnh vực do tất cả các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
như sản xuất, chế biến, lưu thông, xuất nhập khẩu và liên quan tới nhiều thành
phần kinh tế như tư nhân, nhà nước, liên doanh và cả 100% vốn đầu tư nước
ngoài. Bên cạnh đó, các hành vi xâm phạm quyền SHTT còn diễn ra ở hầu hết
các đối tượng SHTT, trên thị trường, hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHTT
ngày càng khó phân biệt, nhiều mặt hàng rơi vào “tình trạng thật-giả lẫn lộn,
rất khó nhận biết”. Đặc biệt, việc xâm phạm quyền SHTT đã xuất hiện ở
nhóm hàng hóa có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng đối với người tiêu

90
dùng và xã hội như thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật.... Theo thống kê
của Chi cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội cho thấy trên địa bàn thành
phố Hà Nội, trong những năm gần đây số lượng các vụ vi phạm quyền SHTT
chiếm 70% trên tổng số các vụ vi phạm mà cơ quan này đã xử lý.

Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp có
tính phức tạp và phổ biến với mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Hiện
nay nhiều hàng giả kiểu dáng công nghiệp rất khó phân biệt với hàng chính
hiệu. Nhiều người thực hiện hành vi xâm phạm tái phạm sau khi bị xử lý xâm
phạm. Tốc độ sản xuất các sản phẩm hiện nay cũng diễn ra nhanh hơn. Hiện
nay sau khi doanh nghiệp đưa ra kiểu dáng công nghiệp mới thì chỉ trong
vòng một tháng trở lại trên thị trường đã xuất hiện kiểu dáng nhái kiểu dáng
được bảo hộ so với khoảng thời gian từ vài tháng đến cả năm như trước kia.
Ví dụ, mẫu xe WAVE 125 cuả Công ty Honda Motor Ltd. (Nhật Bản) còn
đang chuẩn bị tung ra thị trường cung cấp cho người tiêu dùng thì trên thị
trường đã có những đối tượng lắp ráp và bán những loại xe có kiểu dáng
không khác biệt với kiểu dáng xe máy WAVE 125.

Về hàng hóa xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, hàng hóa xâm phạm
không chỉ dừng lại ở hàng hóa tiêu dùng mà ở tất cả các mặt hàng và thậm chí
những nhóm hàng hóa có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng cho người tiêu
dùng và xã hội và không chỉ xảy ra với các sản phẩm tiêu dùng thông thường
mà đã xảy ra với những sản phẩm có công dụng và chức năng đặc biệt như
thuốc chữa bệnh, sắt thép xây dựng....

Qua việc phân tích các số liệu về hành vi xâm phạm kiểu dáng công
nghiệp cho thấy việc xâm phạm kiểu dáng công nghiệp diễn biến phức tạp,
kéo dài, với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng và khá phổ biến
trong nhiều lĩnh vực, gây thiệt hại cho chủ sở hữu và người tiêu dùng.

91
3.1.2. Thực trạng xác định và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

Việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp hết sức phức tạp và khó khăn. Trong nhiều trường hợp có sự đan xen
giữa các hành vi xâm phạm cũng như sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cơ
quan dẫn đến việc xác định một hành vi xâm phạm SHTT nói chung và hành
vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp là hết sức khó và
phức tạp.

Việc xác định đúng hành vi xâm phạm quyền SHTT có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định những biện pháp xử lý hợp pháp và hiệu quả. Tuy
nhiên việc xác định hành vi xâm phạm là việc làm không dễ và có những
trường hợp xác định không đúng hành vi xâm phạm còn dẫn đến tình trạng xử
lý sai hay khởi kiện không đúng, gây ra những hậu quả đáng tiếc làm thiệt hại
không nhỏ đến những doanh nghiệp làm ăn chân chính là làm mất niềm tin
vào hệ thống thực thi quyền SHTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng như hiện nay.

Để thực thi (bảo vệ) quyền SHTT nói chung và quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp nói riêng có hiệu quả, điều trước tiên là phải xác định
đúng các hành vi bị coi là xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế không phải trong trường hợp nào việc xác
định hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng như hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp cũng thuận lợi, dễ dàng, có
những trường hợp việc xác định một hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp hết sức phức tạp do sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa
các cơ quan quản lý về SHTT.

92
Một câu chuyện tốn nhiều giấy mực của báo chí đó là trường hợp xác
định có sự vi phạm hay không có sự vi phạm của Công ty Quang Minh và
Trường Sơn. Sự việc như sau: Công ty dược phẩm Quang Minh và Công ty
Đông Nam dược Trường Sơn tranh chấp với nhau kiểu dáng bao bì và cách
thể hiện nhãn mác kem xoa bóp gấu Misa. Công ty Quang Minh đăng ký bảo
hộ quyền tác giả mỹ thuật ứng dụng tại Cục Bản quyền tác giả và được cơ
quan này bảo vệ trong khi đó Công ty Trường Sơn đăng ký bảo hộ tại Cục
SHTT-Bộ Khoa học và Công nghệ về nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Vì
vậy, trong trường hợp này khó xác định được công ty nào có sự vi phạm bởi
vì trước những giấy tờ của cả hai Công ty không thể xác định được chứng
nhận của đơn vị nào có giá trị và hợp pháp hơn. Luật sư Trần Hữu Nam,
trưởng văn phòng luật sư Trần H.N. & Associates cho rằng:

Trong trường hợp này nếu đi vào tranh cãi đâu là tác phẩm
mang tính mỹ thuật –nghệ thuật và đâu là tác phẩm mang tính mỹ
thuật-công nghiệp thì.... bế tắc, bởi có những sáng tạo mang cả hai
đặc điểm ấy. Luật Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng hình
thức thể hiện trên bao bì sản phẩm phải được bảo hộ như thế nào.
Không có quy định nào đối tượng đó chỉ được một trong hai phạm
vi bảo hộ, tức là phải chọn hoặc bản quyền tác giả hoặc kiểu dáng
công nghiệp, nên có thể xảy ra chuyện bảo hộ song trùng. [32]

Bên cạnh việc xác định hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp còn
nhiều khó khăn thì việc xử lý hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp thực
tế hiện nay cũng còn nhiều bất cập.

Theo quy định của Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật SHTT 2009 đã có đủ các biện pháp chế tài xử lý các hành vi
xâm phạm về SHTT, tuy nhiên, hầu như mới chỉ xử lý các hành vi xâm phạm

93
SHTT bằng biện pháp hành chính vì quy trình giải quyết là đơn giản và kịp
thời nhất. Các biện pháp xử lý dân sự còn rất phức tạp, tốn kém và chủ thể
quyền thường gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện việc bảo vệ quyền
SHTT nói chung và kiểu dáng công nghiệp nói riêng bằng biện pháp này.

Thông thường, trong trường hợp xảy ra vi phạm kiểu dáng công
nghiệp, bên bị vi phạm có thể giải quyết theo những bước sau: - Điều tra thu
thập chứng cứ vi phạm; Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thẩm định, đánh giá
chứng cứ vi phạm; Soạn thảo thư cảnh báo bên vi phạm, đàm phán với bên vi
phạm để yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm; Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết vi phạm khi không đạt được mục đích thông qua thương lượng,
đàm phán. Theo quy định Luật SHTT trước đây, chủ thể quyền SHTT phải
gửi thông báo bằng văn bản yêu cầu bên vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
và cơ quan thực thi chỉ vào cuộc nếu hành vi vi phạm của bên xâm phạm vẫn
tiếp diễn sau khi đã được cảnh báo. Tuy nhiên, việc yêu cầu bên bị xâm phạm
phải viết thư cảnh báo như vậy là không cần thiết, đôi khi còn “đánh động”
bên xâm phạm, dẫn đến những hành động tẩu tán và phi tang. Sự không phù
hợp này đã được loại bỏ khi Luật SHTT được sửa đổi, bổ sung và được áp
dụng năm 2010. Theo đó, doanh nghiệp bị xâm phạm về SHTT chỉ cần chứng
minh được hành vi cố ý xâm phạm quyền SHTT của bên xâm phạm là sẽ
được thụ lý giải quyết theo trình tự hành chính (thay vì phải tự gửi thông báo
tới đối tượng vi phạm và chờ đợi một khoảng thời gian để đối tượng “khắc
phục khuyết điểm” như quy định trước đây).

Việc xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp nói chung cũng như việc xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT nói
chung còn kéo dài, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của doanh nghiệp và
thậm chí có những trường hợp còn qua nhiều cấp xét xử và mỗi cấp xét xử lại
có những quyết định khác nhau thậm chí là trái ngược nhau gây tâm lý lo

94
ngại, hoang mang cho các doanh nghiệp. Việc xử lý các hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng cũng như đối với hành
vi xâm phạm quyền SHTT nói chung chủ yếu được giải quyết bằng biện pháp
hành chính, biện pháp xử lý dân sự rất ít và hầu như không đáng kể. Theo
đánh giá tại Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia về SHTT do
Đại học quốc gia Hà Nội thực hiện (năm 2005) có đến 90% số vụ việc vi
phạm được giải quyết theo biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Cũng theo
thống kê của Chi cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội cho thấy trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay số lượng các vụ vi phạm quyền SHTT chiếm
70% tổng số các vụ vi phạm mà cơ quan này đã xử lý và trong số đó thì hơn
90% số vụ về SHTT bị xử lý bằng biện pháp hành chính.

Về số vụ xâm phạm về SHTT nói chung và xâm phạm quyền SHCN


đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng được xét xử tại Tòa án Dân sự và Tòa
án nói chung rất ít và hầu hết không đáng kể so với số lượng xâm phạm về
kiểu dáng công nghiệp. Số liệu thống kê dưới đây sẽ chứng minh cụ thể hơn
nhận định này:

Bảng 3.2: Số liệu các vụ án tranh chấp về quyền SHTT được giải quyết tại
các Tòa Dân sự từ năm 2007-2011
Năm Năm Năm Năm Năm
2007 2008 2009 2010 2011
1. Tranh chấp về quyền 13 3 38 18 12
tác giả
2. Tranh chấp về hợp đồng 1 0 0 1 1
sử dụng tác phẩm
3. Tranh chấp về SHCN 0 0 0 0 1
4. Tranh chấp về hợp đồng 1 0 2 6 0
chuyển giao công nghệ
Tổng 15 3 40 25 14

95
Bảng 3.3: Số liệu các vụ án SHTT được giải quyết tại Tòa án nhân dân
từ năm 2005-2009
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009

Thụ Giải Thụ Giải Thụ Giải Thụ Giải Thụ Giải
lý quyết lý quyết lý quyết lý quyết lý quyết

Sơ thẩm 16 11 5 4 16 15 8 3 50 40

Phúc thẩm 5 3 4 3 2 1 3 2

Giám đốc 0 0 2 2 0 0 0 0
thẩm

Tổng 16 11 10 7 22 20 10 4 53 42

Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao

Theo số liệu thống kê trên thì từ năm 2007 đến năm 2011 các tranh
chấp về SHCN nói riêng cũng như các tranh chấp về SHTT nói chung được
đưa ra giải quyết theo các vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân không đáng kể.
Các tranh chấp về SHCN được giải quyết tại Tòa án chỉ đếm trên đầu ngón
tay và hầu như không có vụ việc về kiểu dáng công nghiệp được giải quyết tại
Tòa án về dân sự. Qua thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, việc giải quyết
tranh chấp về quyền SHTT từ năm 2000 đến năm 2005 của toàn ngành Tòa án
nhân dân như sau: thụ lý 93 vụ, đã giải quyết 61 vụ, trong đó tạm đình chỉ,
đình chỉ, rút đơn khởi kiện là 16 vụ, hòa giải thành 12 vụ, đưa ra xét xử 33 vụ
(bao gồm 11 vụ tranh chấp về quyền tác giả và quyền liên quan, 22 vụ tranh
chấp về quyền SHCN). Từ năm 2005-2009, sau khi Luật SHTT 2005 có hiệu
lực, số lượng các vụ án về SHTT được giải quyết tại Tòa án nhân dân có tăng
lên, nhưng số lượng vẫn không đáng kể so với số lượng hành vi xâm phạm

96
SHTT bị xử lý. Trong thời gian này, toàn ngành Tòa án nhân dân đã thụ lý
111 vụ và đã giải quyết 84 vụ.

Nguyên nhân các vụ việc về xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng
như về xâm phạm kiểu dáng công nghiệp nói riêng chủ yếu được giải quyết
bằng thủ tục hành chính mà ít được giải quyết tại Tòa án nhân dân

Việc các vụ việc về SHTT nói chung cũng như về kiểu dáng công
nghiệp nói riêng ít được giải quyết tại Tòa án với nhiều lý do:

- Thứ nhất, thời gian giải quyết tại Tòa án nhân dân kéo dài, phức tạp

Thời gian giải quyết tại Tòa án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, nhiều
cấp, gây tốn kém thời gian và tiền bạc: Theo quy định tại Điều 179 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với vụ án dân sự là
4 tháng, đối với các vụ án kinh doanh - thương mại là 2 tháng, kể từ ngày Tòa
án thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách
quan có thể gia hạn nhưng không quá 2 tháng đối với vụ án dân sự và 1 tháng
đối với vụ án kinh doanh thương mại. Trên thực tế, cho thấy đa số các vụ án
giải quyết tranh chấp về quyền SHTT tại Tòa án thường bị kéo dài. Điều này
xuất phát từ tính đặc thù của các tranh chấp về quyền SHTT là loại việc tương
đối phức tạp, đòi hỏi trong quá trình giải quyết vụ án, các Tòa án thường phải
trưng cầu ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT và các cơ quan
chức năng có liên quan để có kết luận đối với hành vi xâm phạm nên trong
nhiều trường hợp Tòa án phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Thậm chí có
trường hợp Tòa án còn phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự với lý do cần chờ kết quả trả lời của các cơ quan quản lý nhà nước về
SHTT và các cơ quan chuyên môn. Có thể nói, thời gian giải quyết kéo dài là
một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các chủ thể quyền SHTT e
ngại trong việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình

97
trước các hành vi xâm phạm. Thay vào đó, họ yêu cầu các cơ quan có thẩm
quyển xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm để đảm bảo việc chấm
dứt kịp thời, nhanh chóng các hành vi xâm phạm đó.

Ngoài ra, việc thi hành các bản án dân sự là rất khó khăn và việc các
bản án có hiệu lực pháp luật chưa được thực thi trong thực tế đã làm giảm
hiệu lực của việc thực thi quyền bằng trình tự dân sự. Thêm vào đó, việc xác
định thiệt hại của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn
bởi nguyên tắc nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa án về
mức độ thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp gây ra.
Tuy nhiên trên thực tế, chủ sở hữu thường không đưa ra được chứng cứ chứng
minh hành vi xâm phạm của bị đơn hoặc không chứng minh được mức độ
thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Nguyên nhân của tình trạng này là do
nguyên đơn không có đủ sổ sách, chứng từ liên quan để chứng minh hoặc sổ
sách kế toán không phản ánh đúng số liệu thực... Do vậy, yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại thường ít khi được Tòa án chấp nhận toàn bộ. Ngoài ra, nhiều
chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp cho rằng Tòa án nhân dân các cấp còn
thiếu các Thẩm phán có trình độ chuyên môn vững vàng trong lĩnh vực
SHTT. Bản án, quyết định của Tòa án chưa mang tính thuyết phục cao, chưa
tạo được lòng tin đối với các chủ thể bị vi phạm. Có thể nói, thời gian giải
quyết kéo dài là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các chủ
thể quyền SHTT e ngại trong việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích của mình trước các hành vi xâm phạm. Thay vào việc yêu cầu giải
quyết tại Tòa án, các chủ thể quyền SHTT yêu cầu các cơ quan có thẩm quyển
xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm để đảm bảo việc chấm dứt kịp
thời, nhanh chóng các hành vi xâm phạm đó.

-Thứ hai, thiếu các biện pháp khẩn cấp tạm thời hữu hiệu

98
Hiện nay, các biện pháp khẩn cấp tạm thời hữu hiệu đối với các hành
vi xâm phạm quyền SHTT nói chung và xâm phạm kiểu dáng công nghiệp nói
riêng còn thiếu. Giống như Quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo
vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc
phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án của chủ thể quyền SHTT là một
trong những ưu điểm của biện pháp dân sự so với các biện pháp hình sự và
hành chính. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT còn chưa thực
sự hữu hiệu. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 102 của
Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong số 12 biện pháp nêu trên thì trong quan hệ
tranh chấp về quyền SHTT, chủ thể quyền SHTT chỉ có thể yêu cầu Tòa án áp
dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây: kê biên tài sản đang tranh
chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; Cấm
thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; Phong toả tài khoản tại ngân hàng,
tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ;
Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ; Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện
hành vi nhất định.
Điều 207, Luật Sở hữu quy định bổ sung một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT,
nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó, bao gồm:
- Thu giữ;
- Kê biên;
- Niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển;
- Cấm chuyển dịch quyền sở hữu.

Như vậy có thể thấy các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
của pháp luật hiện hành có thể áp dụng trong các vụ án tranh chấp về quyền

99
SHTT là tương đối ít, đặc biệt là các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được cụ thể hóa đối với các tranh chấp về
quyền SHTT và còn mang tính chung chung. Điều này đã gây không ít khó
khăn cho chủ thể quyền SHTT trong việc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Các quy định
của pháp luật hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa góp
phần ngăn chặn một cách nhanh chóng, kịp thời các hành vi xâm phạm quyền
SHTT. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ưu thế về quyền yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời của biện pháp dân sự chưa được phát huy trên
thực tiễn. “Thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền SHTT trong
những năm qua rất ít trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời nào từ phía các chủ thể quyền SHTT”.[53]

-Thứ ba, năng lực của cán bộ làm công tác thực thi sở hữu trí tuệ
chưa đáp ứng được yêu cầu

Năng lực giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền SHTT của cán bộ
làm công tác thực thi SHTT chưa đáp ứng được yêu cầu. Pháp luật về bảo hộ
quyền SHTT là lĩnh vực pháp luật còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù
trong thời gian qua ngành Tòa án cũng đã có sự quan tâm đúng mức đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật SHTT cho đội ngũ cán bộ
Thẩm phán, song do tính phức tạp và đa dạng của các tranh chấp về quyền
SHTT nên một số Thẩm phán vẫn gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết
các vụ án tranh chấp về quyền SHTT (đặc biệt là các vụ án tranh chấp về
quyền tác giả, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp …) vì chưa đủ trình độ
chuyên sâu về SHTT. Vì vậy, trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về
quyền SHTT thì kết quả trưng cầu giám định hoặc kết luận các yếu tố vi phạm
của cơ quan có thẩm quyền về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền
quyền SHTT nói chung cũng như đối với quyền SHCN đối với kiểu dáng

100
công nghiệp nói riêng có giá trị quan trọng để Tòa án dùng làm căn cứ giải
quyết các vụ án về SHTT được chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi
hợp pháp của các bên đương sự.

Bên cạnh đó, việc nhìn nhận, đánh giá về các hành vi xâm phạm
quyền SHTT của các cơ quan chức năng nhiều khi không thống nhất được
quan điểm. Một bất cập rất lớn trong khâu thực thi quyền SHTT hiện nay là
thiếu sự phối hợp xử lý một cách khoa học của các cơ quan chuyên trách.
Hiện nay, Việt Nam có tới 6 cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi
về SHTT là Tòa án; Quản lý thị trường; thanh tra (Khoa học và Công nghệ,
Văn hóa –Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn); công
an; hải quan; Uỷ ban nhân dân các cấp. Mặc dù thẩm quyền của mỗi cơ quan
đã được quy định trong Nghị định 106/NĐ-CP nhưng vẫn có hiện tượng
chồng chéo, “điều này không chỉ khiến các chủ thể quyền SHTT lúng túng khi
muốn liên lạc mà còn làm chính những cơ quan thực thi này nảy sinh tâm lý
đùn đẩy, chờ đợi, giẫm chân lên nhau hoặc mạnh ai nấy làm” [31]. Việc có
quá nhiều cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lý trong khi sự phối hợp giữa
các cơ quan này còn chưa hợp lý khiến hiệu lực thi hành bị phân tán và trở lên
phức tạp, gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi. Vì vậy, cùng với việc còn hạn
chế về năng lực của cán bộ làm công tác SHTT đã gây ảnh hưởng không nhỏ
đến niềm tin của các chủ thể quyền SHTT trong việc yêu cầu Tòa án giải
quyết khi có sự xâm phạm.

3.2. Nguyên nhân tình trạng gia tăng hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

Thứ nhất, một số quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ còn chưa phù hợp

Quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa thực sự hữu hiệu, như
đã phân tích tại nguyên nhân thứ hai các tranh chấp về xâm phạm quyền đối

101
với kiểu dáng công nghiệp ít được giải quyết tại tòa án ở mục 3.1.2 . Đặc biệt,
việc áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị
nghi ngờ xâm phạm kiểu dáng công nghiệp được quy định từ Điều 216 đến
Điều 219, Luật Sở hữu trí tuệ còn một số điểm chưa phù hợp. Để có thể được
áp dụng biện pháp này, chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp phải có yêu cầu áp
dụng và phải nộp kèm theo một khoản bảo đảm cho việc thực hiện yêu cầu
của mình bằng một trong các hình thức: 1) khoản tiền bằng 20% giá trị lô
hàng cần áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan; 2) tối thiểu 20
triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị lô hàng đó; hoặc 3) chứng từ
bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, để yêu
cầu áp dụng biện pháp này, chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp sẽ gặp khó khăn
trong việc biết các thông tin về lô hàng có dấu hiệu xâm phạm kiểu dáng công
nghiệp sắp được làm thủ tục thông quan để yêu cầu cơ quan hải quan áp dụng
biện pháp đó. Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Hải quan không quy định về nghĩa vụ
thông báo về thông tin lô hàng có dấu hiệu nghi ngờ xâm phạm kiểu dáng công
nghiệp của cơ quan Hải quan cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp. Việc
thông báo chỉ trở thành nghĩa vụ với điều kiện trước đó chủ sở hữu kiểu dáng
công nghiệp đã yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng
hóa xâm phạm kiểu dáng công nghiệp. Ngoài ra, việc yêu cầu áp dụng biện
pháp tạm dừng Hải quan đều phải nộp một khoản bảo đảm sẽ gây khó khăn của
chủ thể quyền trong việc yêu cầu áp dụng biện pháp đó để bảo vệ kiểu dáng
công nghiệp thuộc sở hữu của mình. Ngoài ra, Luật Sở hữu trí tuệ đã giao cho
Hải quan thẩm quyền rất lớn, vượt quá khả năng của cơ quan này và vượt quá
yêu cầu của Hiệp định TRIPS đối với các quốc gia thành viên của WTO. Với
trình độ về sở hữu trí tuệ hiện nay và sự hạn chế về trang thiết bị, hải quan Việt
Nam rất khó thẩm định được các xâm phạm về kiểu dáng công nghiệp cũng
như các đối tượng sở hữu công nghiệp khác. Nếu mời chuyên gia thẩm định

102
thì lại vượt quá thời gian tạm dừng thủ tục thông quan mà Luật Sở hữu trí tuệ
quy định. Điều này đã lý giải nguyên nhân của thực trạng hàng hóa xâm phạm
sở hữu trí tuệ có nguồn gốc nước ngoài đang tràn ngập thị trường Việt Nam.

Bên cạnh đó các quy định về nguyên tắc, căn cứ xác định mức độ thiệt
hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp gây ra
cũng còn một số hạn chế (đã phân tích tại mục 2.3). Tính chất, mức độ thiệt
hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp còn
khó xác định nhất là các thiệt hại gián tiếp và mức độ thiệt hại, căn cứ xác
định mức độ thiệt hại còn quá chung chung. Việc xác định thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo các
căn cứ và nguyên tắc được quy định trong pháp luật Sở hữu trí tuệ là hết sức
khó khăn và hầu hết các trường hợp chỉ mang tính tương đối. Ngoài ra, theo
pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành thì việc xác định hình thức lỗi trong
việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT chỉ có ý nghĩa
quan trọng trong một số trường hợp nhất định. Trong một số trường hợp, lỗi
vô ý là một trong những điều kiện để được xem xét giảm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Còn mọi trường hợp gây thiệt hại do lỗi cố ý thì luôn phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại “toàn bộ”. Theo pháp luật SHTT hiện
hành của Việt Nam, việc phân loại lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không thực sự có nhiều ý nghĩa và không ảnh hưởng đến bất kỳ yếu tố nào
trong toàn bộ cơ chế bồi thường thiệt hại. Một hành vi xâm phạm dù do lỗi vô
ý, cố ý hay không có lỗi đều phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt
hại thực tế gây ra. Điều này xuất phát từ quan điểm pháp lý của Việt Nam về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khôi phục các quan hệ dân sự bị phá vỡ
chứ không nhằm mục đích trừng phạt.

Ngoài ra, về căn cứ xác định hành vi xâm phạm tương đối trừu tượng
và khó xác định đặc biệt là về địa điểm thực hiện hành vi “có thể coi là xảy ra

103
tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên internet nhưng nhằm vào người tiêu
dùng Việt Nam”.

Thứ hai, ý thức pháp luật còn hạn chế

Nhận thức của tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng về kiểu
dáng công nghiệp và xâm phạm kiểu dáng công nghiệp còn hạn chế, chưa
hình thành tâm lý tôn trọng pháp luật và tuân thủ pháp luật về bảo hộ và
chống hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp. Phần lớn các chủ SHTT
chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao
trong việc đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, trong khi trình độ và hiểu
biết về tác hại của xâm phạm SHTT nói chung và xâm phạm kiểu dáng công
nghiệp nói riêng đối với sức khỏe, lợi ích cộng đồng còn hạn chế. Hiện nay,
rất ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về SHTT, hầu như chưa có
doanh nghiệp nào có chiến lược về SHTT, coi vấn đề SHTT là bộ phận trong
chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng quản
lý như quản lý tài sản thông thường. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong
việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả kiểu dáng công nghiệp của mình,
chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm
soát. Có những doanh nghiệp do sợ ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ
sản phẩm, không dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm
làm giả tinh vi đến mức chính doanh nghiệp cũng không phát hiện được, khi
biết mặc dù có biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, chấp nhận sống
chung với hàng giả. Mặc khác, hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp nói
riêng và hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung, hàng nhái, hàng giả luôn
tạo ra siêu lợi nhuận. So với hàng thật, hàng giả, hàng xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp có mẫu mã, kiểu dáng giống hàng thật,
nhưng có giá thành thấp hơn nhiều, do đó thường dễ bán và bán được với số
lượng lớn hơn. Vì vậy, các đối tượng thường xâm phạm để có thể kiếm được

104
doanh thu lớn hơn. Sự hiểu biết của toàn xã hội đối với vấn đề bảo hộ SHTT
còn hạn chế, chưa hình thành tập quán tôn trọng quyền SHTT, các chủ thể
SHTT chưa chủ động thực hiện việc bảo vệ quyền và tài sản của mình mà còn
mang nặng tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Đây cũng là lĩnh vực còn
mới mẻ đối với đa số cán bộ, công chức nhà nước và gần như hầu hết các
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mạng lưới dịch vụ về SHTT
còn rất mỏng, số chuyên gia dịch vụ mới chỉ có khoảng gần 200 người với
trên 30 công ty cung cấp dịch vụ này. Thông tin SHTT đang là một trong các
khâu yếu nhất của hoạt động SHTT. Về người tiêu dùng, do nhận thức về
hàng hóa và hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp còn nhiều hạn chế, tâm
lý thích hàng rẻ, mẫu mã đẹp nên thông qua hành vi tiêu dùng của mình đã
thúc đẩy hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp.

Thứ ba, việc xử phạt chưa nghiêm, chưa đủ sức răn đe

Việc xử lý xâm phạm kiểu dáng công nghiệp mới chủ yếu dừng ở mức
xử phạt hành chính và mức phạt chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng thực
hiện hành vi xâm phạm. Cơ chế bảo đảm thực thi chưa được hoàn thiện và
chưa phát huy đúng mức, biểu hiện là vụ việc được giải quyết ở Tòa án rất ít
ỏi, mà chủ yếu được giải quyết ở các cơ quan hành chính, cùng với các quy
định đã có nhưng mới chỉ dừng ở nguyên tắc chứ chưa đủ chi tiết nên việc áp
dụng các chế tài bị lẫn lộn và thiếu hiệu quả. Trình tự giải quyết theo thủ tục
dân sự lẽ ra phải được coi là biện pháp chủ yếu nhưng các quan hệ dân sự
thông thường đã bị hành chính hóa một cách quá mức. Trên thực tế các yêu
cầu Tòa án nhân dân giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT nói chung và
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng không nhiều và việc
giải quyết các tranh chấp quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp không
mang lại hiệu quả như mong muốn.

105
Trên thực tế, các cơ quan thực thi ở Việt Nam khi xử lý vi phạm
thường vẫn còn tâm lý “giơ cao đánh khẽ” và luôn cân nhắc đến khả năng
thực tế thi hành nên mức phạt đưa ra thường thấp, do đó, không đủ sức răn đe
đối với đối tượng vi phạm. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì Tòa án
phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các xâm phạm về SHTT,
nhưng ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của Tòa án rất mờ nhạt so với các cơ
quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn vụ xâm phạm SHTT nói chung
và hàng trăm vụ xâm phạm kiểu dáng công nghiệp được xử lý bởi cơ quan
hành chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại Tòa án lại chỉ đếm trên đầu
ngón tay. Ngoài ra, việc xét xử các vụ án dân sự liên quan đến hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp còn có hạn chế ở việc quy
định về chủ thể có thể yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn cung cấp số liệu về
lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm quyền, căn cứ xác định mức bồi
thường thiệt hại theo luật, yêu cầu giám định xâm phạm... theo Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng
dân sự 2004; Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
SHTT 2009 là không rõ ràng, rất dễ dẫn đến việc áp dụng tùy tiện, gây thiệt
hại cho các bên liên quan. Trong hàng ngàn vụ xâm phạm quyền SHTT bị
phát hiện và xử lý từ năm 2000-2005, giai đoạn trước khi Luật SHTT 2005 có
hiệu lực pháp luật thì chỉ có 93 vụ do Tòa án thụ lý giải quyết và trong số 93
vụ đó thì đã giải quyết được 61 vụ. Tiếp đó, trong 3 năm từ năm 2006-2009
toàn ngành Tòa án đã thụ lý được 115 vụ, cụ thể: năm 2006: toàn ngành Tòa
án đã thụ lý 17 vụ tranh chấp quyền SHTT. Năm 2007: toàn ngành Tòa án thụ
lý 20 vụ tranh chấp quyền SHTT. Năm 2008: Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
thụ lý 15 vụ, năm 2009 là 53 vụ. Nguyên nhân của tình trạng này đã được
phân tích ở phần 3.1.2. Như vậy, số vụ án được đưa ra giải quyết tại Tòa án là

106
rất ít và hầu như chưa có biến chuyển, các tranh chấp liên quan đến quyền
SHTT chủ yếu vẫn được giải quyết bằng biện pháp hành chính.

Thứ tư, thiếu sự phối hợp xử lý một cách khoa học của các cơ quan
chuyên trách

Tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh với các
hành vi xâm phạm quyền SHTT còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng
nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện nay ở Việt Nam có
tới 6 cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi về SHTT là Tòa án;
Quản lý thị trường; Thanh tra (Khoa học và Công nghệ, Văn hóa-Thể thao và
Du lịch, Nông nghiệp và phát triển nông thôn); Công an, Hải quan và Ủy ban
nhân dân các cấp. Mặc dù thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được quy định rõ
trong Nghị định 106/NĐ-CP nhưng vẫn có hiện tượng chồng chéo. Điều này
không chỉ khiến các chủ thể quyền SHTT lúng túng khi muốn liên lạc và làm
chính những cơ quan thực thi này nảy sinh tâm lý đùn đẩy, chờ đợi nhau. Việc
có quá nhiều cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lý trong khi sự phối hợp
giữa các cơ quan này còn chưa hợp lý, khiến hiệu lực thi hành bị phân tán và
trở nên phức tạp, gây ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành. Thực tế cho thấy hiện
nay đang thiếu một đầu mối thống nhất để liên lạc trong trường hợp xảy ra vi
phạm quyền SHTT nói chung, quyền kiểu dáng công nghiệp nói riêng.

Sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi quyền SHTT còn nhiều hạn
chế. Theo Quyết định 127/2001/QĐ-TTg ngày 27-08-2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian
lận thương mại được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 28/2008/QĐ-TTg
ngày 04-02-2008, Ban Chỉ đạo 127 Trung ương và Ban Chỉ đạo 127 các tỉnh
gồm đại diện các cơ quan liên quan có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ
và Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác đấu
tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại. Tuy nhiên, cơ chế

107
phối hợp còn chung chung, đặc biệt, cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp giải
quyết các vụ việc liên quan tới nhiều cơ quan nên có tình trạng đùn đẩy trách
nhiệm giữa các cơ quan thực thi. Vai trò của Bộ Công thương và Sở Công
thương trong việc “giữ vai trò chủ đạo”, Cục Quản lý thị trường và Chi cục
Quản lý thị trường trong việc là “cơ quan thường trực” của Ban Chỉ đạo 127
chưa được làm rõ và chưa phát huy hiệu quả trên thực tế. Chương trình hành
động 168/CTHĐ/VHTT-KHCN-NN&PTNT-TC-TM-CA ngày 19-01-2006
liên bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại và Bộ Công an
về hợp tác phòng và chống xâm phạm quyền SHTT giai đoạn 2006-2010 là
chương trình hợp tác tương đối toàn diện giữa các bộ hữu quan trong công tác
quản lý nhà nước về SHTT trong lĩnh vực nâng cao nhận thức, trình độ của
các cán bộ, công chức, các cơ quan hữu quan và người dân về SHTT cho đến
việc tăng cường công tác xác lập quyền và thực thi quyền SHTT. Chương
trình được thực hiện ở hai cấp, cả Trung ương và cấp tỉnh. Ở Trung ương,
gồm đại diện các Bộ. Ở cấp tỉnh gồm đại diện các Sở chuyên môn. Do tính
chất của văn bản là cam kết hoạt động chung nên sự ràng buộc giữa các bên
chưa cao, trách nhiệm của các bên tham gia chưa rõ ràng, chưa có quy định về
cơ chế trao đổi thông tin, thống kê, báo cáo giữa các bên nên hoạt động của
Chương trình còn nhiều hạn chế.

Thứ năm, năng lực của cán bộ làm công tác xử lý vi phạm sở hữu trí
tuệ còn hạn chế.

Sở hữu trí tuệ còn là lĩnh vực mới. Vì vậy, bản thân các cán bộ chuyên
trách xử lý vi phạm chưa hoàn toàn tự tin trong khâu xử lý do năng lực trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế nên thường phải yêu cầu có ý kiến chuyên
môn của Cục SHTT trong việc đánh giá hành vi, mức độ vi phạm. Sự phối hợp
giữa các cơ quan này cũng chưa hợp lý, dẫn đến kéo dài thời gian xử lý.

108
Năng lực giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền SHTT của cán bộ
làm công tác thực thi SHTT chưa đáp ứng được yêu cầu. Pháp luật về bảo hộ
quyền SHTT là lĩnh vực pháp luật còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù
trong thời gian qua ngành Tòa án cũng đã có sự quan tâm đúng mức đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật SHTT cho đội ngũ cán bộ
Thẩm phán, song do tính phức tạp và đa dạng của các tranh chấp về quyền
SHTT nên một số Thẩm phán vẫn gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết
các vụ án tranh chấp về quyền SHTT (đặc biệt là các vụ án tranh chấp về
quyền tác giả, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp …) vì chưa đủ trình độ
chuyên sâu về SHTT. Vì vậy, trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về
quyền SHTT thì kết quả trưng cầu giám định hoặc kết luận các yếu tố vi phạm
của cơ quan có thẩm quyền về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền
quyền SHTT nói chung cũng như đối với quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp nói riêng có giá trị quan trọng để Tòa án dùng làm căn cứ giải
quyết các vụ án về SHTT được chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi
hợp pháp của các bên đương sự.

Bên cạnh đó, việc nhìn nhận, đánh giá về các hành vi xâm phạm
quyền SHTT của các cơ quan chức năng nhiều khi không thống nhất được
quan điểm. Một bất cập rất lớn trong khâu thực thi quyền SHTT hiện nay là
thiếu sự phối hợp xử lý một cách khoa học của các cơ quan chuyên trách. Hiện
nay, Việt Nam có tới 6 cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi về
SHTT là Tòa án; Quản lý thị trường; thanh tra (Khoa học và Công nghệ, Văn
hóa –Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn); công an; hải
quan; Uỷ ban nhân dân các cấp. Mặc dù thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được
quy định trong Nghị định 106/NĐ-CP nhưng vẫn có hiện tượng chồng chéo,
“điều này không chỉ khiến các chủ thể quyền SHTT lúng túng khi muốn liên lạc
mà còn làm chính những cơ quan thực thi này nảy sinh tâm lý đùn đẩy, chờ

109
đợi, giẫm chân lên nhau hoặc mạnh ai nấy làm” [31]. Việc có quá nhiều cơ
quan chức năng có thẩm quyền xử lý trong khi sự phối hợp giữa các cơ quan
này còn chưa hợp lý khiến hiệu lực thi hành bị phân tán và trở lên phức tạp,
gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi. Cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra
tổng hợp nào về tình hình xâm phạm SHTT nói chung và xâm phạm kiểu dáng
công nghiệp nói riêng tại Việt Nam, mà mỗi cơ quan thực thi lại hoạt động độc
lập, đưa ra những con số khác nhau, chưa kể số liệu đưa ra thường không cập
nhật. Vì vậy, cùng với việc còn hạn chế về năng lực của cán bộ làm công tác
SHTT đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của các chủ thể quyền SHTT
trong việc yêu cầu Tòa án giải quyết khi có sự xâm phạm.

Thứ sáu, pháp luật về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí
tuệ còn chưa tập trung và còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật

Các quy định về SHTT và hành vi xâm phạm SHTT còn chưa tập
trung, mà nằm rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm 1992, Bộ
luật Dân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi, bổ sung
năm 2002, 2008), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),
Luật Khoa học và công nghệ năm 2000, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố
tụng Dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật Hải quan... và trong
nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật, pháp lệnh nêu trên. Những quy
định về SHTT và hành vi xâm phạm SHTT chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ,
đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu
dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình hình thực tế,
chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế tài về hình sự chỉ được áp dụng
với cá nhân, trong khi nhóm tội về SHTT chủ yếu do tổ chức thực hiện, vì
vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự với pháp nhân được.

Thứ bảy, mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế

110
Do ảnh hưởng từ mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế, thực tế không
phải mọi loại hàng nhái, hàng xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp đều được sản xuất tại Việt Nam, mà một khối lượng hàng hóa được
sản xuất ở nước ngoài rồi đưa vào Việt Nam theo nhiều đường, bằng nhiều
cách để tiêu thụ. Các hành vi xâm phạm được thực hiện bằng nhiều phương
thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng trang thiết bị hiện
đại. Các hành vi xâm phạm được thực hiện với tổ chức chặt chẽ, không những
ở trong lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa học, công nghệ đã tạo ra nhiều thiết bị,
công cụ, phương tiện phạm tội ngày càng tinh vi nên rất khó phát hiện.
3.3. Một số giải pháp hạn chế tình trạng xâm phạm và nâng cao
hiệu quả xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp ở nƣớc ta hiện nay
Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã nỗ lực triển khai xây dựng
hệ thống pháp luật về SHTT, về cơ bản hệ thống pháp luật này đã được xây
dựng trên nguyên tắc phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về SHTT và đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hội nhập nền
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do việc ban hành trong các thời điểm khác nhau
nên hệ thống pháp luật này chưa đồng bộ, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn
thiện. Nước ta đã là thành viên của nhiều công ước quốc tế nhưng hệ thống
pháp luật về SHTT cũng như thực tiễn thi hành, bảo vệ quyền SHTT còn chưa
đáp ứng được yêu cầu. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn như đã phân tích ở trên,
tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xác định hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp và hạn chế tình trạng xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp như sau:

111
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật
Cần tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật dân sự, pháp luật chuyên
ngành về SHTT để bổ sung các quy định đầy đủ và cụ thể hơn. Pháp điển hóa
các quy định, các văn bản này, đơn giản hóa các thủ tục, tạo điều kiện cho các
chủ sở hữu tham gia bảo hộ quyền sở hữu của mình đối với tài sản SHTT.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự.
Bộ luật Tố tụng dân sự là công cụ pháp lý quan trọng của Tòa án trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự về SHTT
nói riêng. Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 với
nhiều quy định đã phù hợp và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên,
thời gian giải quyết tại Tòa án vẫn kéo dài và thủ tục phức tạp. Theo quy định
hiện nay thì chỉ riêng việc xác định vụ việc tranh chấp quyền SHCN đối với
kiểu dáng công nghiệp là quan hệ pháp luật tranh chấp về dân sự hay kinh
doanh thương mại, thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án cấp huyện hay Tòa án
cấp tỉnh đã mất một thời gian dài chứ chưa nói đến việc giải quyết nội dung.
Việc xác định tiêu chí “cùng có mục đích lợi nhuận”, để xác định tranh chấp
dân sự hay kinh doanh thương mại đã có những ý kiến khác nhau. Đặc biệt,
trong vụ án khi có nhiều quan hệ pháp luật, nhiều yêu cầu tranh chấp đan xen
đã gây ra sự khó khăn, lúng túng trong việc xác định Tòa án có thẩm quyền
giải quyết chỉ mới ở đầu vào thụ lý vụ án. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự được sửa đổi, bổ sung 2011:
Khoản 4, Điều 25 quy định về tranh chấp dân sự như sau:
tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Khoản 2, Điều 29 quy định về những tranh chấp kinh doanh
thương mại như sau: tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công
nghệ giữa cá nhân với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.[45]

112
Như vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự phân chia ra tranh chấp SHTT thành
tranh chấp về dân sự và tranh chấp về kinh doanh thương mại. Khi xác định
được tiêu chí cả hai bên hoặc có một bên không có mục đích lợi nhuận thì xác
định đó là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp
huyện; còn khi xác định cả 2 bên cùng có mục đích lợi nhuận thì xác định là
tranh chấp kinh doanh thương mại và trong trường hợp này thẩm quyền thuộc
Tòa án cấp tỉnh. Tuy nhiên, trong thực tế khi thụ lý vụ án tranh chấp về SHTT
lúc đầu chưa thể xác định được cả hai bên cùng có mục đích lợi nhuận hay
không? Hoặc sau khi thụ lý các bên thay đổi, bổ sung yêu cầu, dẫn đến việc
xác định tranh chấp về dân sự hay kinh doanh thương mại có những ý kiến
khác biệt dẫn đến việc thay đổi tranh chấp cũng như thẩm quyền của Tòa án
giải quyết. Do đó, thủ tục giải quyết tại Tòa án nhiêu khê, thời gian giải quyết
kéo dài. Vì vậy, cần phải rà soát lại các quy định của luật nội dung trong đó
đặc biệt là Luật SHTT và Bộ luật Tố tụng dân sự để sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự đối với việc giải quyết
thuận lợi, nhanh chóng và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp. Cần nâng
cao vai trò của việc giải quyết tranh chấp về quyền SHTT bằng biện pháp dân
sự vì quyền SHTT là một chế định pháp luật dân sự, thuộc quan hệ pháp luật
dân sự. Do đó, việc áp dụng quá nhiều biện pháp hành chính hoặc hình sự hóa
các hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung cũng như đối với kiểu dáng
công nghiệp nói riêng là chưa hợp lý.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ.

Để hoàn thiện pháp luật về SHTT cần nghiên cứu các Điều ước quốc
tế về SHTT mà nước ta là thành viên và sẽ là thành viên để sửa đổi, bổ sung
Luật SHTT cho phù hợp. Hoàn thiện các quy định pháp luật về SHTT sẽ có ý
nghĩa quan trọng đối với việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối

113
với kiểu dáng công nghiệp nói riêng và quyền SHCN nói chung cũng như đối
với công tác bảo vệ quyền SHCN.

- Pháp luật sở hữu trí tuệ cần bổ sung quy định về các hành vi gián
tiếp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

Pháp luật SHTT hiện nay mới chỉ quy định về các hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp mang tính trực tiếp mà chưa quy
định hành vi gián tiếp xâm phạm đến quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp nói riêng và quyền SHTT nói chung là hành vi vi phạm pháp luật.
Thực tế, hiện nay đã và đang tồn tại nhiều hành vi gián tiếp xâm phạm quyền
SHTT gây thiệt hại cho chủ sở hữu quyền. Qua nghiên cứu và tham khảo
pháp luật của một số nước tiên tiến như pháp luật Pháp, Mỹ, Nhật đều quy
định hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền SHTT bao gồm cả hành vi trực
tiếp xâm phạm quyền SHTT và hành vi gián tiếp xâm phạm quyền SHTT. Vì
vậy, pháp luật Việt Nam cũng nên bổ sung những hành vi gián tiếp xâm phạm
quyền SHTT nói chung cũng như xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng
công nghiệp nói riêng là những hành vi xâm phạm quyền SHTT, ví dụ như:
hành vi xúi giục người khác xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp; hành vi gián tiếp tham gia vào việc trợ giúp cho người khác thực hiện
hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp; bán hàng hóa
cho người khác khi biết hoặc có lý do để biết rằng người mua sẽ sử dụng hàng
hóa đó vào việc trực tiếp xâm phạm kiểu dáng công nghiệp... Việc bổ sung
các hành vi gián tiếp xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp
sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT và việc bảo vệ các quyền
SHTT tại Việt Nam.

- Pháp luật sở hữu trí tuệ cần bổ sung các quy định về việc phân loại
lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

114
Cần bổ sung các quy định về việc phân hóa trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo mức độ lỗi cũng như theo tính nghiêm trọng trong hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp. Trong pháp luật Dân sự
Việt Nam hiện hành thì việc xác định lỗi cũng chỉ có ý nghĩa trong một số
trường hợp nhất định. Trong một số trường hợp, lỗi vô ý là một trong những
điều kiện cần để được xem xét giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mọi
trường hợp gây thiệt hại do lỗi cố ý thì luôn phải chịu trách nhiệm bồi thường
toàn bộ. Nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới cho thấy việc xem
xét phân loại lỗi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định mức bồi thường
thiệt hại. Ví dụ, pháp luật Đức cho phép Tòa án có quyền xem xét để giảm
mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm được xác định là do lỗi vô
ý nhẹ. Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật SHTT hiện hành thì việc
phân loại lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thực sự có nhiều
ý nghĩa và không ảnh hưởng đến bất kỳ yếu tố nào trong toàn bộ cơ chế bồi
thường thiệt hại. Một hành vi xâm phạm dù là do lỗi cố ý, vô ý hay không có
lỗi đều phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại thực tế gây ra. Điều
này có lẽ xuất phát từ quan điểm pháp lý của Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là chủ trương khôi phục các quan hệ dân sự bị phá vỡ chứ
không nhằm mục đích trừng phạt. Ở góc độ loại trừ trách nhiệm, pháp luật
Việt Nam cũng cần bổ sung các quy định loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho những trường hợp rõ ràng cho thấy người có hành vi xâm phạm quyền
SHTT không có điều kiện để biết hoặc không thể biết hành vi của mình là
xâm phạm quyền SHTT của người khác. Ví dụ, những người bán lẻ ở vùng
sâu, vùng xa không có điều kiện để nhận biết hoặc không có đủ kiến thức và
hiểu biết để phân biệt được hàng thật và hàng xâm phạm quyền SHTT đặc
biệt khi chất lượng hàng xâm phạm quyền SHTT được sản xuất, thực hiện
một cách hết sức tinh vi và khó phân biệt, nhận biết. Vì vậy, họ không biết

115
rằng mình đang xâm phạm quyền SHTT, thậm chí bản thân họ cũng trở thành
nạn nhân của hành vi vi phạm được thực hiện bởi người khác. Trong trường
hợp này, pháp luật cũng cần bổ sung quy định người có hành vi xâm phạm
quyền SHTT trong những trường hợp như vậy phải có trách nhiệm chứng
minh sự vô lỗi của mình để được miễn trách nhiệm hình sự. Vì vậy, pháp luật
SHTT cần bổ sung các quy định về việc phân loại lỗi của hành vi xâm phạm
đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

- Pháp luật sở hữu trí tuệ cần bổ sung thêm quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của bên đưa ra yêu cầu không đúng hoặc lạm dụng các
thủ tục thực thi quyền.

Bổ sung thêm quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên đưa
ra yêu cầu không đúng hoặc lạm dụng các thủ tục thực thi quyền. Luật SHTT
chỉ quy định việc bồi thường thiệt hại (bao gồm cả chi phí thuê luật sư) áp dụng
cho nguyên đơn là chủ thể quyền SHTT còn trong trường hợp bị đơn thắng
kiện nhưng bị thiệt hại do hành vi khởi kiện của nguyên đơn thì pháp luật
SHTT hiện hành chưa có sự ghi nhận một cách rõ ràng. Pháp luật SHTT Việt
Nam quá chú tâm vào việc bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể quyền mà đã bỏ qua quyền lợi của bị đơn trong những trường hợp không có
hành vi xâm phạm nhưng lại bị khiếu kiện là xâm phạm quyền SHTT.

Để đảm bảo như một nguyên tắc về sự công bằng, bình đẳng giữa các
đương sự trong vụ kiện, đồng thời tránh sự lạm dụng và thiếu trách nhiệm từ
phía chủ thể quyền, Điều 48, Hiệp định TRIPS quy định “các cơ quan xét xử
phải có quyền ra lệnh buộc bên đã ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài
và đã lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả cho bên bị áp dụng các biện pháp
đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản tiền bồi thường tương xứng với
thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra và các chi phí trong đó có thể bao gồm cả

116
chi phí đại diện thích hợp” [58]. Ngoài ra, mục F, Khoản 2, Điều 12, Chương
II, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng yêu cầu các bên tham gia
Hiệp định phải đảm bảo việc bồi thường thỏa đáng “buộc một bên gia vụ kiện,
mà theo yêu cầu của bên đó các biện pháp thực thi đã được áp dụng và bên đó
đã lạm dụng những thủ tục thực thi, phải bồi thường thỏa đáng cho bất kỳ bên
nào đã bị cưỡng chế hoặc bị ngăn cản một cách sai trái, những thiệt hại mà
bên đó đã phải chịu do sự lạm dụng trên gây ra và phải trả các chi phí của bên
bị thiệt hại đó, trong đó có thể bao gồm cả chi phí thuê luật sư”. [28]

Để phù hợp với các điều ước quốc tế song phương và đa phương mà
Việt Nam đã ký kết, tham gia, Luật SHTT hiện hành cần bổ sung quy định
“trong trường hợp một bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo vệ
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp không đúng và/hoặc đã lạm dụng
các thủ tục bảo vệ quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của người khác thì phải
trả cho bên bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái sự
bồi thường tương xứng với thiệt hại phải trả cho bên bị áp dụng các biện
pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái sự bồi thường tương xứng với
những thiệt hại phải gánh chịu, những thiệt hại phải bao gồm cả chi phí liên
quan và chi phí đại diện, phí luật sư ở mức hợp lý”.

- Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về căn cứ xác định thiệt hại quy
định tại Luật Sở hữu trí tuệ.

Khi yêu cầu các cơ quan chức năng xác định hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp, các chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp
mong muốn các cơ quan chức năng buộc các chủ thể vi phạm phải ngừng
hành vi xâm phạm và mong muốn được bồi thường thỏa đáng và kịp thời.
Việc Tòa án xem xét giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường về các khoản thiệt
hại của các bên đương sự tùy thuộc vào yêu cầu của đương sự, nhiệm vụ cung

117
cấp chứng cứ chứng minh các thiệt hại đó cũng thuộc các đương sự. Trong
thực tế việc đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án nhiều trường hợp rất hạn
chế, đương sự không xác định được phải cung cấp chứng cứ gì cho Tòa án,
chứng cứ đương sự cung cấp không có đủ cơ sở; các số liệu đương sự cung
cấp cho Tòa án không kèm theo chứng cứ có giá trị để chứng minh, đôi khi
chỉ đơn thuần là lời khai; không phải trong vụ án nào Tòa án cũng có thể yêu
cầu giám định thiệt hại. Hiện nay, do gặp khó khăn trong việc xác định mức
phạt, nhiều cơ quan thực thi thường “ước lệ” mức phạt, và cũng do tâm lý
luôn cân nhắc đến khả năng thi hành nên mức phạt đưa ra thường thấp so với
giá trị hàng hóa vi phạm. Theo Luật SHTT (sửa đổi) đã được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực từ năm 2010, mức phạt tiền ít nhất bằng giá trị hàng hóa vi
phạm đã phát hiện tối đa là 500 triệu đồng được như quy định phù hợp với
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Điểm c, Khoản 1, Điều 205, Luật
SHTT quy định tùy vào mức độ thiệt hại, Tòa án có thể ấn định mức thiệt hại
về vật chất nhưng không quá 500 triệu đồng. Đây là quy định mở tạo điều
kiện thuận lợi cho Tòa án nhưng để đánh giá, xác định mức độ thiệt hại như
thế nào và việc xác định cũng chỉ mang tính tương đối. Để xác định mức bồi
thường thiệt hại hợp lý, cần có hướng dẫn dựa trên tính chất của hành vi xâm
phạm, hậu quả, mức độ thiệt hại, thời gian và phạm vi xảy ra hành vi xâm
phạm để Tòa án áp dụng. Trong trường hợp không thể xác định được thiệt hại
về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a, b khoản 1, Điều 205, Luật
SHTT thì mức bồi thường thiệt hại do Tòa án ấn định nhưng không quá năm
trăm triệu đồng. Bồi thường chi phí khác phải là các chi phí cần thiết, liên
quan để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại của việc xâm phạm như: chi phí để xác
minh, bảo quản tang vật, chi phí cải chính trên các phương tiện thông tin đại
chúng... Việc xác định thiệt hại của chủ sở hữu các đối tượng quyền SHCN và
lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm quyền SHCN cần được hướng dẫn

118
cụ thể, rõ ràng hơn thông qua những quy định chi tiết về căn cứ xác định thiệt
hại và bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để có đủ các chế tài xử lý và xử lý
hiệu quả các hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp.

- Cần có hướng dẫn cụ thể hơn về mức bồi thường chi phí hợp lý để
thuê luật sư, người đại diện theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.

Khoản 3, Điều 205, Luật SHTT quy định: ngoài các khoản bồi thường
khác, “chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, các nhân
có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật
sư” [40]. Thực tế, trong số các vụ giải quyết tranh chấp quyền SHTT tại Việt
Nam, số lượng Tòa án ra phán quyết buộc bên có hành vi xâm phạm quyền
SHTT phải bồi thường cả chi phí thuê luật sư là không nhiều. Trong số ít các
trường hợp đó, thì mức phí luật sư được ấn định lại quá thấp và không phù
hợp với chi phí thuê luật sư thực tế mà bên bị thiệt hại đã bỏ ra để thuê luật
sư. Vì vậy, cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề buộc bên có hành
vi xâm phạm quyền SHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Hướng dẫn này cần quy định “nếu bên bị vi phạm có thuê luật sư/người đại
diện SHTT hoặc bất kỳ tổ chức/cá nhân nào khác thực hiện các dịch vụ pháp
lý để tư vấn theo đuổi các thủ tục tố tụng/ thủ tục hành chính để bảo vệ quyền
lợi của bên bị vi phạm thì Tòa án đều phải buộc bên vi phạm phải thanh toán
chi phí hợp lý để thuê luật sư/người đại diện”. Văn bản hướng dẫn này cần có
hướng dẫn cụ thể rõ ràng thế nào là chi phí hợp lý để thuê luật sư, trong đó
phải căn cứ và xem xét thích đáng đến mức phí luật sư mà các bên đã thỏa
thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.

119
3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động ngăn ngừa,
hạn chế và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp

3.3.2.1. Nâng cao ý thức của doanh nghiệp đối với việc đăng ký bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp nói riêng

Cũng như các đối tượng quyền SHTT khác, kiểu dáng công nghiệp là
một loại tài sản đặc thù, loại tài sản này dễ bị xâm phạm khi hàng hóa được
lưu thông trên thị trường. Chủ sở hữu tài sản SHTT nói chung và kiểu dáng
công nghiệp nói riêng cần phải xác lập quyền sở hữu của mình một cách hợp
pháp để bảo vệ, phát triển và thụ hưởng những lợi ích do tài sản đó mang lại.
Quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp cũng là một trong những nền
tảng để doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng thị trường, là phương thức để
doanh nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến với người tiêu dùng. Nếu
doanh nghiệp không chứng minh được kiểu dáng công nghiệp thuộc sở hữu
của mình thì không thể yêu cầu các cơ quan chức năng bảo vệ tài sản đó khi
bị xâm phạm, thậm chí doanh nghiệp có thể bị mất quyền sở hữu và quyền sử
dụng kiểu dáng công nghiệp. Xác lập quyền SHCN đối với kiểu dáng công
nghiệp nhằm phát triển uy tín và danh tiếng sản phẩm của doanh nghiệp từ đó
người tiêu dùng dễ nhận biết sản phẩm của doanh nghiệp khi mua sắm, ngăn
chặn sự thâm nhập thị trường của hàng giả, hàng hóa xâm phạm quyền SHTT.

Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiều thông tin để không xâm phạm
quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp của người khác và chủ động phối
hợp với các cơ quan chức năng thực thi để bảo vệ quyền SHTT. Các doanh
nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin (thông qua tra cứu tại Cơ quan đăng
ký quyền SHTT) và xác lập quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp

120
trước khi sản xuất và đưa sản phẩm ra thị trường nhằm bảo vệ kiểu dáng sản
phẩm và tránh bị ảnh hưởng bởi các tranh chấp sau này. Đồng thời doanh
nghiệp cũng cần chủ động phối hợp với các cơ quan thực thi để bảo vệ quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp của mình.

3.3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, tập huấn về
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp

Hoạt động này góp phần vào việc nâng cao nhận thức của người dân
về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp và cũng
góp phần nâng cao năng lực, nhận thức của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
thực thi quyền SHTT. Vì vậy, phải nâng cao và tăng cường hơn nữa việc
tuyên truyền, phổ biến về pháp luật SHTT, về hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Để nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến về hành vi xâm
phạm quyền SHCN có thể thực hiện các biện pháp như: đưa các môn học về
SHTT vào các trường đại học và tăng cường hơn nữa thời lượng giảng dạy,
chú trọng phần nội dung về xâm phạm quyền SHCN nói chung và xâm phạm
kiểu dáng công nghiệp nói riêng đối với các trường đã đưa môn SHTT vào
giảng dạy; phát hành các cẩm nang, tài liệu về SHCN và hành vi xâm phạm
quyền SHCN;... Thực hiện việc công bố các bản án, quyết định của Tòa án.
Việc công bố này sẽ làm tăng cường tính minh bạch và giúp Tòa án các cấp
áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử, nâng cao chất lượng của
việc ra bản án; giúp cho Thẩm phán học được kỹ năng viết bản án, kinh
nghiệm khai thác và đánh giá chứng cứ; giúp cho người dân thấy được kết
quả giải quyết vụ án của Tòa án từ đó có thể tự mình giải quyết các vụ án
tương tự mà không cần phải khởi kiện ra Tòa án. Do vậy, việc công bố các
bản án, quyết định của Tòa án sẽ hỗ trợ công tác đào tạo, giáo dục, phổ biến
và tuyên truyền pháp luật về sở hữu trí tệ. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả

121
công tác tuyên truyền, giáo dục về pháp luật SHTT cũng cần tiến hành các hội
thảo, tập huấn về pháp luật SHTT cho đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi
pháp luật SHTT.

Tăng cường công tác thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến
kiến thức pháp luật và thông tin về SHTT. Chỉ khi chúng ta có nhận thức
đúng đắn về vai trò của SHTT và pháp luật về SHTT, chúng ta mới có được
pháp luật SHTT tốt và việc thực thi quyền SHTT mới được hiệu quả. Tổ chức
SHTT thế giới đã khẳng định vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng là
mấu chốt để nâng cao chất lượng của pháp luật SHTT và hiệu quả thực thi
trong chiến lược hành động của mình.

3.3.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác về sở hữu
trí tuệ

Cũng như bất cứ hoạt động nào trong công tác bảo vệ quyền SHTT thì
yếu tố con người có vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định. Pháp luật về
SHTT là lĩnh vực pháp luật còn tương đối mới và cũng hết sức phức tạp. Do
đó, các cán bộ làm công tác SHTT gặp không ít khó khăn trong việc xác định
hành vi xâm phạm cũng như giải quyết các tranh chấp về SHTT nói chung
cũng như kiểu dáng công nghiệp nói riêng.

Hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác về SHTT đặc biệt là các Thẩm
phán về lĩnh vực này còn ít và còn thiếu kiến thức chuyên sâu về SHTT. Trên
thực tế, số cán bộ được đào tạo về SHTT quá ít ỏi. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng đội ngũ này: cần tăng cường đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng với rèn luyện, thử
thách họ trong thực tiễn công tác và cuộc sống; cần có những hình thức bồi
dưỡng, tập huấn ngắn ngày để bổ túc kiến thức nghiệp vụ; bồi dưỡng theo
chuyên đề kết hợp với hội thảo tổng kết công tác thực tiễn. Việc nâng cao

122
năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác về SHTT đặc biệt là các
Thẩm phán là công việc quan trọng do vậy phải được thực hiện trong thời
gian dài nhưng phải thường xuyên và liên tục. Cần xây dựng các phiên tòa
mẫu về việc xét xử các vi phạm quyền SHTT gồm cả lĩnh vực hành chính,
hình sự và dân sự, tổ chức tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm trong tiến hành
phiên tòa, trong tổ chức hòa giải để nâng cao kỹ năng, năng lực thực hành cho
Thẩm phán, Hội thẩm; cần tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong giải
quyết tranh chấp quyền SHTT.

3.3.2.4. Nâng cao vai trò của Tòa án trong việc giải quyết các tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ và nghiên cứu xây dựng tòa án sở hữu trí tuệ
chuyên xử lý các vụ vi phạm về sở hữu trí tuệ

Vai trò của Tòa án trong việc xét xử các tranh chấp về SHTT hiện nay
còn khá mờ nhạt. Hiện nay, các vụ tranh chấp về quyền SHCN nói chung và
kiểu dáng công nghiệp nói riêng được giải quyết tại Tòa án nhân dân rất ít,
hầu như không đáng kể. Thực trạng này do một số nguyên nhân như: thủ tục
tố tụng dân sự được tiến hành theo thủ tục chung là khá phức tạp; thời gian
giải quyết kéo dài; năng lực của các Thẩm phán còn hạn chế.... Vì vậy, để
nâng cao hơn nữa hiệu quả giải quyết các tranh chấp quyền SHTT tại Tòa án
nhân dân cần rà soát các quy định pháp luật về tố tụng dân sự để sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp, đồng thời cần nâng cao hơn nữa năng lực xét xử của các
thẩm phán; cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa Tòa án, Viện Kiểm sát
với các cơ quan chức năng về SHTT.

Việc thành lập Tòa án về SHTT sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc
giải quyết các tranh chấp về SHTT nói chung và về kiểu dáng công nghiệp
nói riêng. Một số nước như Pháp, Mỹ, Đức, Thái Lan, Singapore, Malaysia đã
thành lập Tòa án SHTT riêng. Một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh,

123
Xứ Uên chỉ có Tòa SHTT giải quyết các vụ án dân sự về SHTT mà không có
Tòa chuyên trách giải quyết các vụ án hình sự về SHTT, các vụ án hình sự về
SHTT được giải quyết theo thủ tục thông thường. Kinh nghiệm từ các nước
này cho thấy việc thành lập Tòa SHTT góp phần cho việc giải quyết các tranh
chấp SHTT hiệu quả hơn. Tìm hiểu kinh nghiệm Tòa án SHTT của Thái Lan
cho thấy, việc thành lập Tòa án SHTT đã chứng tỏ sự hiệu quả đối với sự phát
triển thương mại và quốc tế. Ông Vichai Ariyamuntaka (Thẩm phán Tòa án
Trung ương về SHTT và thương mại quốc tế trung ương, Bangkok, Thái Lan)
đã nói về tầm quan trọng của việc thành lập Tòa án Trung ương về SHTT và
thương mại quốc tế (viết tắt là Tòa IP&IT) như sau:

Đây là thời kỳ để suy nghĩ lại, lập lại kế hoạch và cấu trúc
lại cơ sở hạ tầng pháp lý của chúng ta để tạo nên một môi trường
pháp luật thân thiện hơn cho thương mại và đầu tư quốc tế. Một
môi trường pháp lý mà tại đó các quyền pháp lý, công dân và người
nước ngoài phải được bảo vệ và thi hành theo luật pháp và bởi hệ
thống tư pháp của chúng ta. Môi trường pháp lý sẽ mang lại cho
chúng ta danh tiếng trong thương mại và đầu tư quốc tế và phục
hồi toàn bộ nền kinh tế của chúng ta. Tại Thái Lan, trong lĩnh vực
thi hành công lý, việc thành lập Tòa IP&IT là một yếu tố duy nhất
quan trọng nhằm đạt được mục tiêu này.[53]

Vì vậy, cần khẩn trương nghiên cứu các mô hình về Tòa SHTT theo
kinh nghiệm của một số nước; cần có sự đào tạo về nguồn nhân lực và chuẩn
bị cơ sở lý luận cho việc thành lập Tòa chuyên trách về SHTT, trước mắt là ở
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó sẽ nghiên cứu, rút kinh
nghiệm để xây dựng hệ thống Tòa SHTT.

124
3.3.2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng về sở
hữu trí tuệ

Hiện nay, có tới 6 cơ quan thực thi về SHTT và lại thiếu một đầu mối
thống nhất giữa các cơ quan này, vì vậy mà đã dẫn đến sự thiếu thống nhất
giữa các cơ quan chức năng trong lĩnh vực SHTT. Trong thực tế, có nhiều
trường hợp một vụ việc về SHTT phải qua nhiều cấp xét xử bởi vì sau khi có
phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối với vụ việc rồi các bên đương sự
vẫn viện dẫn các loại ý kiến được tham khảo để ra phán quyết để tiếp tục
khiếu nại, yêu cầu xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã gây ra
khiếu kiện kéo dài, ảnh hưởng đến xã hội. Cần làm rõ trách nhiệm của các cơ
quan, trách nhiệm của cơ quan “đầu mối” hay cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong các vụ việc liên quan đến nhiều cơ quan; các nguyên tắc, thủ tục trong
trường hợp chuyển giao hồ sơ giữa các cấp và các cơ quan. Do đó, cần phải
cải cách bộ máy hành chính và phân công lại chức năng, quyền hạn của từng
cơ quan theo hướng bố trí một cơ quan làm đầu mối tiếp nhận, thụ lý các đơn
yêu cầu xử lý, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Cần tăng cường công tác
thanh tra và tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng để xử lý kịp
thời hành vi xâm phạm.

125
KẾT LUẬN

Sở hữu trí tuệ là lĩnh vực còn mới ở Việt Nam. Từ khi Việt Nam trở
thành thành viên của WTO, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ đã được ban
hành, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết song phương và đa
phương mà Việt Nam tham gia. Thực tế hiện nay, các hành vi xâm phạm sở
hữu trí tuệ nói chung cũng như các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp nói riêng rất đa dạng, phức tạp với mức
độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Các hành vi xâm phạm cùng ngày càng
tinh vi, do đó, việc xác định hành vi xâm phạm cũng hết sức khó khăn. Để
công tác thực thi sở hữu trí tuệ có hiệu quả và việc xử lý các hành vi xâm
phạm nhanh, chính xác, hiệu quả thì việc xác định hành vi xâm phạm có ý
nghĩa hết sức quan trọng.

Nghiên cứu đề tài xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp, tác giả đã tiếp cận vấn đề thông qua
phân tích một số vấn đề lý luận chung về kiểu dáng công nghiệp, hành vi xâm
phạm cũng như căn cứ để xác định một hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp. Luận văn cũng đã nêu ra các quy định
của pháp luật Việt Nam về kiểu dáng công nghiệp qua các thời kỳ và Luận
văn cũng đã so sánh một số quy định của pháp luật các nước và các điều ước
quốc tế về hành vi xâm phạm đối với kiểu dáng công nghiệp. Trên cơ sở
nghiên cứu một số vấn đề lý luận, tác giả đã đưa ra thực trạng xâm phạm,
thực trạng xác định và thực trạng xử lý đối với hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam hiện nay, luận
văn đã cố gắng đề xuất một số giải pháp tham khảo nhằm hạn chế tình trạng
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp và nâng
cao hiệu quả của công tác xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.

126
Với sự cố gắng của bản thân, tác giả may mắn nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội đặc biệt là sự giúp đỡ tận
tình của người hướng dẫn nghiên cứu khoa học, Tiến sĩ Nguyễn Thị Quế Anh,
một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về sở hữu trí tuệ tại Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn đã đưa ra một cái nhìn tổng thể về
pháp luật điều chỉnh cũng như thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp và thực trạng xác định và xử lý đối với
hành vi xâm phạm này. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế, luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện, rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp để luận văn được hoàn thiện hơn.

127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ
(2000), Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCN ngày
27-4 hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999
của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng
giả, Hà Nội.

2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Công an (2006),
Chương trình hành động số 168/CTHĐ/VHTTDL-KHCN-NN&PTNT-TC-
TM-CA ngày 19-01-2006 về hợp tác phòng và chống xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.

3. Nguyễn Bá Bình (2005), Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam-Pháp
luật và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

4. Chính phủ (2006), Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 về sở


hữu công nghiệp, Hà Nội.

5. Chính phủ (2006), Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 về


bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà
Nội.

6. Chính phủ (2010), Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30-12-2010 sửa


đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-
2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu
trí tuệ, Hà Nội.

7. Chính phủ (2010), Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31-12-2010 sửa


đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22-9-

128
2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

8. Chính phủ (1996), Nghị định 63/NĐ-CP ngày 24-10-1996 quy định chi
tiết về quyền sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

9. Chính phủ (2010), Nghị định số 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm


hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

10. Chính phủ (2006), Nghị định số 106/2006/NĐ-CP Quy định xử phạt vi
phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

11. Chính phủ (2000), Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 03-10-2000 về bảo
hộ quyền SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương
mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở
hữu công nghiêp, Hà Nội.

12. Chính phủ (1999), Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 06-03-1999) về xử


phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

13. Chính phủ (2013), Nghị định số 08/2013/NĐ-CP ngày 10-01-2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản
xuất, buôn bán hàng giả, Hà Nội.

14. Cục Sở hữu trí tuệ (2009), Tài liệu Hội thảo về thực thi quyền sở hữu trí
tuệ, Hà Nội.

15. Cục Sở hữu trí tuệ (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và
phương hướng công tác năm 2011 về sở hữu trí tuệ, website:
http://noip.gov.vn.

16. Cục Sở hữu trí tuệ (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và
phương hướng công tác năm 2010 về sở hữu trí tuệ, www.noip.gov.vn.

129
17. Cục Sở hữu trí tuệ (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008 và
phương hướng công tác năm 2009 về sở hữu trí tuệ, website:
www.noip.gov.vn.

18. Cục Sở hữu trí tuệ (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 và
phương hướng công tác năm 2008 về sở hữu trí tuệ, www.noip.gov.vn.

19. Cục quản lý thị trường Bộ Công thương và Dự án hỗ trợ thương mại đa
biên (2011), Sổ tay chống hàng giả và thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam, Nxb thông tin và truyền thông, Hà Nội.

20. “Cần xét xử vi phạm sở hữu trí tuệ tại Tòa Dân sự”, www.vnlawfind.com.vn.

21. Dự án hỗ trợ thương mại đa biên và Phòng Công nghiệp và thương mại
công nghiệp Việt Nam (2011), Tầm quan trọng của thực thi pháp luật
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

22. Đại Hội đồng Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2002 của Bộ Chính trị về Chiên lược cải cách đến năm 2020, Hà
Nội.

25. Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Sỹ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và
hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ năm 2000.

26. Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (phần sở hữu trí tuệ)
2008.

27. Hiệp định Hợp tác khoa học về công nghệ giữa Việt Nam và Hòa Kỳ
năm 2000.

130
28. Hiệp định giữa Việt Nam – Hoa Kỳ về quan hệ thương mại năm 2000.

29. Hội đồng Bộ trưởng (1988), Nghị định số 85/HĐBT ngày 13-5-1988 ban
hành điều lệ về Kiểu dáng công nghiệp, Hà Nội.

30. Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, Hà Nội.

31. Như Hằng (2004), Rắc rồi từ một vụ kiện... kiểu dáng công nghiệp,
www.vietbao.vn.

32. K. Hưng (2008), Phạt vi phạm kiểu dáng xe Honda hơn 114 triệu đồng,
www.tuoitre.vn.

33. Kết quả hoạt động Ban chỉ đạo 127 Trung ương, địa phương và nhiệm
vụ sáu tháng cuối năm 2009, www. Sctbinhdinh.gov.vn.

34. Kiểu dáng công nghiệp là gì, www.baohothuonghieu.com.

35. Lê Việt Long (2008), Xâm phạm sở hữu trí tuệ, thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (126).

36. Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ - Tài liệu bài giảng (bổ sung, sửa đổi
theo Luật SHTT 2005), Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh.

37. Đinh Thị Mai Phương (2008), “Xác định thiệt hại trong pháp luật về sở hữu
công nghiệp”, Nhà nước và pháp luật, 9(1), tr.40-49, 68.

38. Lê Đình Nghị và Vũ Thị Hải Yến (2009), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

39. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2000), Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ
và chuyển giao công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

131
41. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điểu của Luật Sở hữu trí
tuệ, Hà Nội.

42. Quốc hội (2005), Luật Cạnh tranh, Hà Nội.

43. Quốc hội (2004), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

44. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

45. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

46. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hà Nội.

47. Nguyễn Thanh Tâm (2007), “Pháp luật về SHCN trong tiến trình đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Luật học (01), trang 42-48.

48. Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Châu Âu (Dự án hỗ trợ thể chế cho
Việt Nam) (2008), Tài liệu tập huấn về giải quyết tranh chấp quyền Sở
hữu trí tuệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Tổng cục Thuế (2009), Công văn số 208/TCT-CS ngày 04/6/2009 về việc
xác định chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp, Hà Nội.

50. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Tài liệu tập huấn về Sở hữu trí tuệ cho
các Thẩm phán Việt Nam tại Tòa Trung tâm Thương mại và Sở hữu trí
tuệ Thái Lan, Hà Nội.

51. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nâng cao vai trò và năng lực của Tòa án
trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam-Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

52. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
quyền Sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân trong tình hình mới, Đề tài
nghiên cứu cấp cơ sở, Hà Nội.

132
53. Tòa án nhân dân tối cao và Cơ quan phát triển quốc tế Ô-Xtơ-Rây-Lia
(2010), Tài liệu hội thảo về Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

54. “Từ điển tiếng Việt căn bản”, nxb Thanh niên, Hà Nội.

55. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (2005), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, (Tài liệu
dịch của Cục Sở hữu trí tuệ), Hà Nội.

56. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (2006), Tạo dáng sản phẩm, Tài liệu giới
thiệu về kiểu dáng công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

57. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (1967), Công ước thành lập Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (Công ước STOCKHOM).

58. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (1883), Công ước Paris về bảo hộ sở hữu
công nghiệp.

59. Tổ chức Thương mại thế giới (1994), Hiệp định về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ TRIPS.

60. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và Bộ Khoa học và Công nghệ (2008), Thông tư liên tịch
số 02/2008/TTLT-TANDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP, ngày 03/4/2008
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân, Hà Nội.

61. Vũ Yến, Trọng Yến, Văn Hải (2010), Xử lý vi phạm kiểu dáng công
nghiệp những vấn đề còn bỏ ngỏ, www.investip.vn.

Tiếng Anh

62. Australia Design Act 2003, www.Jpo.go.jp.

133
63. European Parliament (1998), Directive 98/71/EC of the European
Parliament and of the Council of 13 October 1998 on the Legal
Protection of designs.

64. Japan Patent Office-Asia- Pacific Industrial Property Center- JIII (2000),
Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp dành cho doanh nhân, tr.5.

Trang Web

65. Website: http://www.lele.com.vn (trang Web của Công ty Tư vấn Luật


Sở hữu trí tuệ LÊ&LÊ).

66. Website: http://www.noip.gov.vn (trang Web của Cục Sở hữu trí tuệ).

67. Website: http://www.wto.int.

68. Website: http://www.mipa.org.my.

69. Website: http://www.noip.gov.vn/noip/Văn bản pháp quy/Điều ước quốc tế.

70. Website: http://vi.wikipedia.org/wiki.

134

You might also like