Soi - Hồng Lâu Mộng

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 378

VĂN & CHỮ

Về Hồng Lâu Mộng:


- Về những cái tên trong Hồng Lâu Mộng (phần 1+2)

- Bảo Ngọc và mệnh Thổ (phần 1): 


Hiền như đất, gieo rắc yêu và khổ
- Bảo Ngọc và mệnh Thổ (phần 2): 
Là gương nên không thể cùng người
- Giả Bảo Ngọc: “một nửa đàn ông là đàn bà”, lại là “nửa dôi”

- Hồng Lâu Mộng: bi kịch của đàn ông thấy mình đầu thai thành đàn bà

- Phượng Thư và mệnh Hỏa (phần 1): Nội vụ hai tay hai dao
- Phượng Thư và mệnh Hỏa (phần 2): máu đỏ của nam tính
- “Hận Phượng Thư, mắng Phượng Thư, không thấy Phượng Thư lại nhớ
Phượng Thư”

- Tiết Bảo Thoa (phần 1): “lãnh mỹ nhân” giấu kín trái tim nóng
- Tiết Bảo Thoa (phần 2): Trong nóng, ngoài lạnh, thắng cả Lãnh Hương
Hoàn
- Tiết Bảo Thoa (phần 3): Con sâu chủ động chui vào với hoa
- Tiết Bảo Thoa: Từ món thuốc giá băng đến mối lương duyên lạnh lẽo
- Bảo Thoa và mệnh Kim: hoa mai ấm trong tuyết lạnh
- Đại Ngọc vs Bảo Thoa: viên ngọc đen vs chiếc thoa vàng, ai hơn ai
kém?

- Đại Ngọc và mệnh Mộc: sống như cây và chết cũng như cây
- Đại Ngọc-Tình Văn: tuy hai mà một

- Giả mẫu (phần 1): đầu tiên là chuyện giàu sang


- Giả mẫu (phần 2): đứa trẻ bất chấp và thiên vị
- Giả mẫu (phần 3): may còn được người viết về cuối rủ lòng thương

- Giả Nghênh Xuân (phần 1): rúc đầu vào sách, bịt mắt bưng tai
- Giả Nghênh Xuân (phần 2): hiền quá khó mà gặp lành
- Tàn xuân bàn chuyện Nguyên Xuân

- Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 1): đè nén sống đời vờ nhạt nhẽo
- Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tiếng hão đành vui phúc về già

- Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 1): sự thôi thúc của phần con
- Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tấm gương mê gái có chết
cũng (nên) soi
- Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 3): bài học cảnh giác về “si”,
về “sắc” cho… Bảo Ngọc

- Người đàn bà ghen Hạ Kim Quế


- Giả Chính: dấu chân trên tuyết của tình phụ tử

- Căn phòng “dâm tình và chết chóc”: Phần 1 – Từ bức tranh trên tường
- Căn phòng “dâm tình và chết chóc”: Phần 2 – Từ mâm vàng tới quả
dưa
- Căn phòng “dâm tình và chết chóc”
Phần 3 – Từ giường báu tới màn châu
- Diệu Ngọc: miễn cưỡng diệt dục, sư chả phải sư, tục không phải tục
- Đọc Hồng Lâu Mộng: Tần Khả Khanh – kẻ lẳng lơ trong mộng
- 5 dẫn chứng về mối quan hệ “bất chính” của Tần thị
- Hai chị em nhà họ Vưu: càng lăng loàn tợn càng đau vì tình

- Mượn món cà xào “xa xỉ” nói về ẩm thực thực-hư


- Gửi bác Phúc Bồ: về Xuân Cung Đồ và cái “hư” trong Hồng Lâu Mộng

- Giả Thám Xuân: con phượng hoàng sinh trong ổ quạ

Về những cái tên trong Hồng Lâu Mộng (phần 1)


09. 02. 19 - 1:00 pm
Anh Nguyễn

Nhà phê bình kiêm lý luận văn học nổi tiếng người Pháp Roland Barthes
từng nói: “Một cái tên [trong văn chương] luôn cần được phân tích kỹ
lưỡng, bởi tên chính là vị chúa trùm của những biểu tượng.”
Trong trường hợp các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng, tầm quan trọng
của tên nhân vật lại càng rõ rệt hơn hết. Chi Nghiễn Trai là người đầu tiên
quan tâm đến ý nghĩa đằng sau những cái tên trong Hồng Lâu Mộng. Đến
thế kỉ 19, tác phẩm Hồng Lâu Mộng tùy bút (khuyết danh) lại tiếp tục đào
sâu vào chủ đề hết sức thú vị này. Tính chất đặc biệt của tiếng Trung
Quốc với vô số từ đồng âm hoặc hài âm đã biến công việc nghiên
cứu Hồng Lâu Mộng trở thành một trò chơi tìm kho báu, qua đó tên nhân
vật trở thành chìa khoá để mở những tầng lớp sâu xa của tác phẩm. Tạm
thời có thể chia thành mấy loại:
1. Những cái tên gợi đến chủ đề của tác phẩm
Tất cả những cái tên xuất hiện trong chương một của Hồng Lâu
Mộng đều xứng đáng được phân tích kỹ càng. Ngay từ chương này, người
đọc đã tiếp xúc với những địa danh mang màu sắc huyền bí, thần thoại:
Đại Hoang Sơn (ngọn núi của sự hoang đường lớn) và Vô Kê Nhai
(vách núi không có căn cứ, không được ghi lại).
Từ hai cái tên trên có thể suy ra hai điều: những điều xảy ra từ nay về sau
nói là mộng cũng được, là thực cũng được, hư hư ảo ảo, giả giả chân
chân không biết đâu mà lần. Hơn thế nữa, việc bà Nữ Oa luyện đá vá trời
cũng như việc họ Tào lấy chữ dệt lên câu chuyện Hồng Lâu Mộng, nói
cho cùng, chỉ là hành động vô nghĩa, phi lý, không có ảnh hưởng gì tới
cuộc sống thực. Đây là cái nhìn nhuốm màu sắc bi quan.
Nhân vật chính (Bảo Ngọc) lại chính là hòn đá thừa thãi không được sử
dụng đầu thai mà thành. Có thể suy ra rằng Tào Tuyết Cần đã gửi vào
Hồng Lâu Mộng tinh thần chán nản, bất đắc chí vì thất bại trong đường
hoạn lộ. Ba vạn sáu ngàn năm trăm hòn đá vá trời, kích cỡ cao mười hai
trượng, vuông hai bốn trượng, tất thảy đều được trọng dụng, chỉ trừ có
“Thạch huynh”. 36500 là số ngày trong năm nhân với 100 lần, 12 và 24 là
số tháng trong năm và số giờ trong ngày. Những chi tiết này ám chỉ rằng:
câu chuyện về hòn đá có ý nghĩa vượt thời gian.
Tác giả Tào Tuyết Cần
Hòn đá bị bà Nữ Oa bỏ rơi tại Thanh Ngạnh Phong (đỉnh núi có cây
xanh). Nghe qua thì tưởng chỉ là miêu tả đơn thuần, nhưng hai chữ
“thanh ngạnh” lại hài âm với “tình căn” – cái gốc của tình. Nhờ vậy ta
biết Hồng Lâu Mộng là câu chuyện của tình, và hòn đá này chính là cội rễ
của lưới tình.
Tiếp theo đó, hòn đá gặp hai vị Mang Mang đạo sĩ và Diểu Diểu chân
nhân. Mang Mang miêu tả không gian mênh mông, rộng lớn. Diểu Diểu
có nghĩa xa xăm, mờ ảo. Kết hợp lại ta có từ “diểu mang” (miaomang):
không thật, không đáng tin. Hai người này đã mang hòn đá về chốn hồng
trần, nhưng chính bản thân họ cũng là những sứ giả của sự mơ hồ. Về
sau, một đạo nhân tên là Không Không (không tồn tại của không tồn tại,
nghĩa là tột cùng của không) vì ngẫm nghĩ câu chuyện hòn đá mà đổi tên
thành Tình Tăng (nhà sư tình). Điều này chứng tỏ câu chuyện hòn đá có
sức cảm hoá ghê gớm, có khả năng biến không trở thành sắc (tình).
Ba vị Không Không, Mang Mang, Diểu Diểu

Trong truyện có nói: “Sau Tào Tuyết Cần mười năm đọc bộ sách này ở
trong Điếu hồng hiên, thêm bớt năm lần, xếp thành mục lục, chia ra từng
chương từng hồi, lại đề là Kim lăng thập nhị hoa.”
Mấy chữ “Điếu hồng hiên” đồng âm với “Điếu hồng trần” – khóc cho
trần gian. Chưa cần đọc đã hiểu Hồng Lâu Mộng tràn đầy bi kịch.
Tiền kiếp của Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp nhau bên hòn đá Tam Sinh (ba
kiếp) ám chỉ tình duyên của đôi trai gái này sẽ phải trải qua ba lần đầu
thai mới có thể ở bên nhau. Khi Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp nhau mới là
kiếp thứ hai, vì vậy số mệnh buộc phải chia lìa.
Tiền kiếp của Đại Ngọc rong chơi ở tầng trời Ly Hận (hận vì phải xa
nhau), ăn quả Mật Thanh (điều bí mật) uống nước bể Quán Sầu (nước để
tưới sự buồn), tất cả đều báo trước cuộc tình thê thảm của nàng.
Bảo Ngọc và Đại Ngọc
Nhân vật dưới trần đầu tiên xuất hiện là Chân Sĩ Ẩn. Cái tên này có hai
nghĩa.
Thứ nhất, Chân Sĩ Ẩn hài âm với Chân Sự Ẩn, có nghĩa là giấu giếm đi
những sự thực. Tên tự Chân Sĩ Ẩn hài âm với Chân Sự Ẩn, có nghĩa là sự
thật bị ẩn giấu đi. Chân Sĩ Ẩn lãnh vai trò dẫn dắt Hồng Lâu Mộng – một
câu chuyện nửa hư nửa thực, ấy là dùng mộng để nói đời. Tên thật của
nhân vật này là Chân Phí, lại đồng âm với Chân Phế, nghĩa là đồ vô
dụng, phế phẩm. Nếu Chân Sĩ Ẩn là phản chiếu của Bảo Ngọc thì có thể
kết luận Bảo Ngọc “đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.”
Thứ hai, Chân Sĩ Ẩn còn có nghĩa kẻ sĩ thực thụ (chân sĩ) trốn tránh sự
đời (ẩn). Điều này nói lên bản chất cương trực, không màng danh lợi,
lánh đời của họ Chân, về cơ bản giống với tính cách và quá trình giác
ngộ của Bảo Ngọc.
Chân Sĩ Ẩn đi tu
Ngược lại, người hàng xóm xấu tính của Chân Sĩ Ẩn là Giả Vũ Thôn lại
ham mê phù hoa. Giả Vũ Thôn có ba tên gọi khác nhau: tên chữ Giả Vũ
Thôn đồng âm với Giả Ngữ Thôn (lời quê mùa không thật), tên tục Giả
Hóa đồng âm với Giả Thoại (lời giả dối), và Giả Thời Phi đồng âm với
Giả Thực Phi (việc không thật). Qua đó có thể thấy nhân vật này là biểu
tượng cho sự giảo quyệt, xảo trá.
Số phận lên voi xuống chó của Giả Vũ Thôn là ẩn dụ cho sự thăng trầm
của Giả phủ, một nơi hiểm ác và giả tạo. Thế nhưng tuy tính cách hoàn
toàn trái ngược, Chân Sĩ Ẩn và Giả Vũ Thôn lại vô cùng thân thiết với
nhau. Điều này ám chỉ rằng trong Hồng Lâu Mộng, sự thật (chân) và sự
dối trá (giả) cũng quấn quít, đan xen bên nhau, khó có thể phân biệt.
Quay trở lại chương một, con gái của Chân Sĩ Ẩn có tên Anh Liên. Chữ
“anh” có nghĩa là dũng cảm, còn “liên” (hoa sen) vừa đẹp vừa trong
trắng tinh khôi. Tên cũng như người, Anh Liên (Hương Lăng) là người
phụ nữ có nhan sắc và tính cách thẳng thắn, can trường chịu đựng sự hành
hạ của Tiết Bàn, nhưng Anh Liên còn đồng âm với “ứng liên” (đáng phải
thương xót).
Giả Vũ Thôn làm quan

Số phận của Anh Liên từ đầu đến cuối Hồng Lâu Mộng buồn nhiều hơn
vui do sự tàn nhẫn của Tiết Bàn, sự độc địa của Hạ Kim Quế. Sau này Hạ
Kim Quế lại đổi tên nàng thành Thu Lăng. Hoa lăng là củ ấu, nhưng chữ
“lăng” còn có nghĩa lăng mộ, chữ “thu” hài âm với “khưu” cũng có
nghĩa là mồ mả. Ý đồ nham hiểm của Hạ Kim Quế muốn ám hại Hương
Lăng đã được tác giả báo trước từ câu chuyện đổi tên tưởng chừng vô
thưởng vô phạt này.
Anh Liên từ thân phận tiểu thư cao quý, do số phận trớ trêu mà trở thành
nàng hầu của Tiết Bàn. Ngược lại, a hoàn của Chân Sĩ Ẩn vì đứng hái
hoa, liếc nhìn Giả Vũ Thôn mà sau này một trở thành chính thất của quan,
được bao người ngưỡng vọng.
Tên của a hoàn này là Kiều Hạnh (hoa hạnh mềm mại). Thứ nhất, cái tên
nói lên vẻ đẹp ngọt ngào, say lòng của nàng ta. Thứ hai, Kiều Hạnh đồng
âm với “kiểu hãnh” – tốt số, may mắn. Cái tên đã nói lên vận mệnh “một
bước lên bà” của Kiều Hạnh.
Chân Sĩ Ẩn bế Anh Liên lúc nhỏ

A hoàn của Chân Sĩ Ẩn hái hoa, liếc nhìn Giả Vũ Thôn


(Hết phần 1)
*
Ý KIẾN - THẢO LUẬN
10:37 Tuesday,28.5.2019
Đăng bởi:   XUÂN DUY
Cảm ơn bạn Anh Nguyễn nhiều thật là nhiều luôn. Mong bạn cho ra nhiều bài hay hơn nữa. Hihi
14:33 Thursday,23.5.2019
Đăng bởi:   KIM NHI
Có 1 đề bài yêu cầu so sánh HLM và Truyện Kiều, nhờ Soi đăng lên để mọi người cũng bàn luận nhé!

9:09 Thursday,23.5.2019
Đăng bởi:   ANH NGUYỄN
@Xuân Duy: Nếu vẫn thích HLM bạn vào đây để đọc tiếp bài của mình nhé, viết đến đâu mình sẽ update:
http://www.jennyartblog.com/2019/05/nhung-cai-ten-trong-hong-lau-mong.html#more Ở đây bài mình
gửi 2 tháng không được đưa lên nên mình sẽ không gửi nữa. Cảm ơn bạn.
22:30 Wednesday,22.5.2019
Đăng bởi:   ADMIN
@ Xuân Duy: Tác giả nói Soi đừng đưa lên nữa bạn nhé.  Cảm ơn bạn vẫn vào Soi. Thân mến.

9:17 Wednesday,22.5.2019
Đăng bởi:   XUÂN DUY
Xin Soi đăng tiếp phần 2 bài này, cảm ơn Soi nhiều thật nhiều luôn ấy. Chờ hoài, chờ mãi mấy tháng mà
mới đây cũng có nhắn mà Soi bảo sẽ đăng cuối cùng cũng không thấy đâu cả. Haizzz, ngày nào mình
cũng vào thăm không biết đến bao giờ đây.
11:08 Thursday,25.4.2019
Đăng bởi:   ANH NGUYỄN
@Mạnh Cường: thời Khang Hi, những tu sĩ dòng Jesuit đã mang đến Trung Quốc những khái niệm mới
về cách tính ngày tháng theo kiểu phương Tây. Hoàng đế Khang Hi rất trọng dụng những tu sĩ này và và
triều đình vì thế cũng coi việc áo dụng giờ phương Tây là một thứ mốt mới. 

Thực ra đồng hồ Tây dương đã xuất hiện ở Trung Hoa từ thời nhà Minh, nhờ công của nhà truyền giáo
Matteo Ricci, nhưng đến thời nhà Thanh mới thực sự phát triển rực rỡ. Nhà vua đã tuyển rất nhiều nhà
thiên văn học phương Tây vào làm việc trong triều và tin vào những dự đoán chiêm tinh của họ. Những
gia đình quan lại, trí thức thời nhà Thanh đều hiểu rõ về lịch dương, trong đó có nhà họ Tào, một gia
đình cự phú, được triều đình trọng dụng. Trong Hồng Lâu Mộng bạn có thể tìm thấy mô tả về chiếc đồng
hồ Tây Dương. Để tìm hiểu thêm bạn có thể đọc bài "Clockmaking in Chin under the Kangxi and Qianlong
Emperors" hoặc cuốn Jade Dragon Mountain. 

Tóm lại việc áp dụng những con số 24, 12, 365 là do Tào Tuyết Cần đã áp dụng kiến thức mới, chính xác
hơn về cách tính thời gian. Tào Tuyết Cần tuy là một trí thức gạo cội của văn hoá Trung Hoa nhưng
trong Hồng Lâu Mộng có thể thấy sự thích thú của ông với phương Tây, qua hình ảnh chiếc gương Tây
dương hay câu chuyện về cô gái tóc vàng da trắng của Bảo Cầm.

9:08 Thursday,25.4.2019
Đăng bởi:   MẠNH CƯỜNG
Bài của bạn viết rất công phu tuy nhiên có một lỗi là một ngày trong lịch âm chỉ có 12 giờ chứ không
phải 24 giờ nhu lịch dương nên phần hòn đá vuông 24 trượng chắc có ý nghĩa khác mà không phải là liên
quan đến số giờ của một ngày, phần gán số lượng đá bằng số ngày của 100 năm cũng vậy, trong lịch âm
một năm  có 360 ngày không phải 365 ngày như lịch dương nên suy luận của bạn hơi khiên cưỡng.
16:00 Monday,15.4.2019
Đăng bởi:   LÂM
Tôi chờ từ tháng 2 rồi này, chỉ thích mỗi chuyên đề này.

20:45 Friday,12.4.2019
Đăng bởi:   ADMIN
@ Xuân Duy:
Có bài rồi mà Soi chưa đưa lên thôi. Đợi bên mình đến cuối tuần nhé. Cảm ơn bạn.
14:11 Friday,12.4.2019
Đăng bởi:   XUÂN DUY
Sao mình chờ hoài mà không thấy có phần 2 nhỉ?

14:13 Monday,18.3.2019
Đăng bởi:   TRANG MAI QUÝ
Tuyệt vời! Mình đã đọc rất nhiều phân tích về HLM của Anh Nguyễn, nó giúp mình hiểu thêm rất nhiều về
HLM. Mình đang chờ đợi bạn viết tiếp đây
21:39 Tuesday,5.3.2019
Đăng bởi:   TANEOX
Anh Nguyễn mình đẫ đọc tất cả bài phân tích của bạn về tác phẩm Hông Lâu Mộng, nó đã giúp mình rất
nhiều để hiểu rõ hơn về tác phẩm cũng như sự vĩ đại của nó. Cám ơn bạn chúc bạn có thật nhiều sức
khỏe để có thêm nhiều bài phân tích về tác phâm tuyệt vời như thế này.

15:41 Friday,15.2.2019
Đăng bởi:   ANH NGUYỄN
@Kikuchi Mikiaki: cảm ơn bạn nhiều. Khi nào mình sẽ cố gắng viết về Kim Bình Mai nhé, không nhiều
nhưng sẽ cố gắng khoảng một, hai bài. Sau HLM thì mình thích Tây Du Ký nhưng cũng chưa có lúc nào
viết được gì. Có lẽ cần phải có chút duyên nữa :-)
12:41 Tuesday,12.2.2019
Đăng bởi:   KIKUCHI MIKIAKI
Kikuchi mới tiếp cận "Hồng lâu mộng" cách đây không lâu, quả thật mình thấy những chi tiết trong "Hồng
lâu mộng" thực sự khó hiểu, nếu không có Anh Nguyễn phân tích rành rọt cặn kẽ bằng bao nhiêu bài
như này thì hẳn mình chỉ nghĩ đó là những chi tiết bình thường và chả hiểu sao Tào gia viết nên nó lại
nổi tiếng được. Kikuchi còn đọc "Hồng lâu mộng" sau khi đọc "Kim Bình Mai", trước nữa còn đọc "Thuỷ
hử" (vì "Kim Bình Mai" diễn sinh từ "Thuỷ hử" mà, nên phải đọc tác phẩm gốc trước). Trong tứ đại danh
tác, "Hồng lâu mộng" đúng là tiểu thuyết khó hiểu nhất nên Kikuchi phải đi từ cái dễ hiểu trước ; mà
những chuyện ong ve bướm vãn, cười hoa cợt liễu luôn đứng hàng đầu về độ phức tạp, mang tính biểu
tượng nhiều. Nếu "Hồng lâu mộng" phân tích mãi không hết như thế, thì đối với "Kim Bình Mai" cũng viết
về chuyện gió trăng, tình nam nữ thì có phân tích được nhiều thế hay không ? Đối với Kikuchi thì "Kim
Bình Mai" dễ hiểu hơn "Hồng lâu mộng" nhiều, nhưng đến khi đọc những bài của Anh Nguyễn thì mình
mới nhớ lại "Kim Bình Mai" cũng có khá nhiều chi tiết mà mình cho là bình thường nhưng lại có ẩn ý.
Mong là bên cạnh những bài về "Hồng lâu mộng" thì Anh Nguyễn sớm ra bài nào đó phân tích về "Kim
Bình Mai" nha.

9:57 Monday,11.2.2019
Đăng bởi:   ANH NGUYỄN
@Huyền My: cảm ơn bạn nhiều nhé. Phần tiếp theo đã có rồi nhưng ngày tháng đưa lên do admin Soi
quyết định nên mình cũng không rõ ạ ^^
20:33 Sunday,10.2.2019
Đăng bởi:   HUYỀN MY
Mới phần 1 mà đã xức xắc như vầy rồi hả chị? Lâu rồi mới thấy chị tái xuất HLM với toàn bài càng ngày
càng hay.  Trà dư tửu hậu, HLM bàn mãi bàn chẳng xuể. Xin chị hé lộ cho đôi chút ngày tháng của các
phần tiếp theo ^^ 
Bảo Ngọc và mệnh Thổ (phần 1): 
Hiền như đất, gieo rắc yêu và khổ
22. 03. 18 - 9:30 pm
Anh Nguyễn biên soạn

(Tiếp theo bài trước: Phượng Thư)


Nhân vật thuộc hành Thổ trong Hồng Lâu Mộng cũng là nam chính duy
nhất của tác phẩm – Giả Bảo Ngọc. Thổ là đất, mà bản mệnh của Bảo
Ngọc chính là một hòn đá. Truyện đã nói rõ:
Khi xưa Nữ Oa luyện đá vá trời ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại Hoang, luyện
được ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai
trượng, vuông hai mươi bốn trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu
nghìn năm trăm viên, còn thừa một viên bỏ lại ở chân núi Thanh
Ngạnh. Ngờ đâu viên đá này từ khi được luyện, đã có linh tính. Nhân
thấy những viên đá khác được đem vá trời, còn mình vô tài, bị loại, nó
rất tủi hận, ngày đêm kêu khóc buồn rầu.
Thèm khát được trải nghiệm hồng trần nên hòn đá van vỉ hai vị Mang
Mang đạo sĩ và Diểu Diểu chân nhân cho theo xuống hạ giới. Hòn đá to
lớn được biến thành một viên ngọc nhỏ sáng long lanh có khắc chữ, nằm
trong miệng chú bé Giả Bảo Ngọc (do Thần Anh thị giả hóa kiếp) khi ra
đời. Khi đã nếm đủ “mùi đời lạnh nhạt, tan hợp bi hoan” thì viên ngọc lại
trở về bản thể là hòn đá lớn, có điều trên mặt nó đã chép đầy đủ câu
chuyện 19 năm của Hồng Lâu Mộng. Chính vì vậy mà hòn đá được kính
cẩn tôn là “Thạch huynh”, và Hồng Lâu Mộng còn có tên khác là Thạch
đầu ký (truyện hòn đá.)

Ngọc hay đá đều là những biến thể của Thổ. Bảo Ngọc và đá-ngọc, tuy
hai mà một, tuy một mà hai. Chàng ta sinh ra ngậm ngọc, nhưng cái tên
Bảo Ngọc cũng có nghĩa là một viên ngọc quý. Khi ngọc thất lạc thì thần
trí Bảo Ngọc cũng tiêu tán, hồ đồ. Bị phù thủy ám hại, người nhà chỉ cần
treo viên ngọc lên là chàng được giải cứu. Do sinh mệnh Bảo Ngọc gắn
liền với hòn đá-viên ngọc như vậy nên chàng chính là nhân vật thuộc
hành Thổ.
Thổ là đất, mà bùn chính là đất và nước kết hợp mà thành. Bảo Ngọc có
câu nói nổi tiếng: “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt
của con trai là bùn kết thành.”
Tào Tuyết Cần lại nói rõ hơn:
Vì Bảo Ngọc từ bé luôn luôn ở chung với đám chị em, chị em ruột thì có
Nguyên Xuân, Thám Xuân; chị em thúc bá thì có Nghênh Xuân, Tính
Xuân; chị em ngoại thì có Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Thoa;
Bảo Ngọc cho rằng, người thiêng hơn cả vạn vật, bao nhiêu tinh hoa
trong sạch của trời đất, đều chung đúc vào con gái, bọn con trai chỉ là
hạng cặn bã bẩn đục mà thôi.
Như vậy thì trong con mắt Bảo Ngọc thì thân nam nhi là một thứ dơ bẩn,
tầm thường. Cậu ta tự nhận mình là bùn, bởi trong Bảo Ngọc có bao gồm
cả tính nữ (nước) và mệnh thổ (đất.) Bảo Ngọc vui lòng hạ mình để tôn
vinh những chị em xung quanh, chẳng khác nào mặt đất khiêm tốn nâng
đỡ các nguyên tố khác. Đó chính là sự cao quý lặng thầm của đất.

,
Bản chất của thổ là ôn hòa, tĩnh lặng, vững chãi. Chẳng thế mà có câu
“hiền như đất”. Bảo Ngọc cũng là nhân vật hiền lành số một trong Hồng
Lâu Mộng. Đại Ngọc giận dỗi, mắng mỏ chàng, Bảo Ngọc vẫn một lòng
một dạ chiều chuộng, chăm sóc cô. Bảo Thoa lạnh lẽo với chàng, Bảo
Ngọc cũng không mảy may để bụng. Trên thực tế, không chỉ các tiểu thư
“hành hạ” Bảo Ngọc mà ngay cả các con hầu, người ở cũng đùa bỡn,
trách móc, thậm chí dạy dỗ Bảo Ngọc! Về phần mình, chàng sẵn lòng
đấm lưng, pha nước, trang điểm, nhường giường cho họ.
Với nam giới xung quanh, Bảo Ngọc cũng nhún nhường vô cùng. Từ
người có địa vị thấp kém hơn (Tần Chung) đến con hát hèn kém (Tưởng
Ngọc Hàm) hay thư sinh nhà nghèo (Liễu Tương Liên) đều được chàng
đối xử tôn trọng, chí tình. Tuy được Giả mẫu yêu chiều, Bảo Ngọc cũng
không vì thế mà lên mặt với các anh em trong nhà. Truyện đã nói rõ:
Giả Hoàn không dám nói câu gì. Bảo Thoa xưa nay vẫn biết gia pháp
nhà này, làm em thì phải sợ anh. Nhưng biết đâu Bảo Ngọc lại không
muốn ai sợ mình.

.
Trong ngũ hành thì Thổ nằm ở vị trí trung tâm. Trong Hồng Lâu Mộng,
Bảo Ngọc cũng là nhân vật nam chính duy nhất và quan trọng nhất. Trên
thực tế, toàn bộ các sự kiện trong Hồng Lâu Mộng đều xoay quanh cuộc
đời Bảo Ngọc, thậm chí từ khi chàng ta còn chưa ra đời. Những cô gái
trong truyện, từ chị em, thê tử đến tri kỷ, nàng hầu,… của Bảo Ngọc
chính là “bọn oan gia phong lưu đổi kiếp xuống trần” để bầu bạn với
chàng. Do đứng ở vị trí trung tâm nên tuy ở trạng thái “tĩnh” nhưng Thổ
lại có thể tương tác với tất cả các nguyên tố còn lại. Giữa vườn Đại Quan
đầy hương sắc, Bảo Ngọc cũng giống như một chú ong bận rộn bay từ
bông hoa này đến bông hoa kia, lúc thì gieo nợ gió trăng, khi lại gây ra
oan nghiệt.

Bảo Ngọc giữa đám quần thoa


Bảo Ngọc là mối tình tha thiết của Đại Ngọc (mộc), là duyên vợ chồng
của Bảo Thoa (kim), lại có mối dây huyết thống với Phượng Thư (hỏa) cả
hai bên đằng nội (Giả Liễn) và ngoại (Vương phu nhân). Chưa kể bản
chất đa tình của Bảo Ngọc còn khiến Kim Xuyến, Tình Văn phải uổng
mệnh, Phương Quan đi tu, Diệu Ngọc phát điên,…
Nếu nhìn lại Kim lăng thập nhị thoa chính sách, dễ dàng nhận thấy ngoại
trừ Diệu Ngọc là người ngoài, tất cả các thoa đều có quan hệ máu mủ
hoặc họ hàng thông qua hôn nhân với Bảo Ngọc. Về vấn đề này, Chi
Nghiễn Trai đã nhận xét: “Bảo Ngọc là sợi chỉ chạy xuyên suốt thập nhị
mỹ nhân.”
(Còn tiếp)
Ý KIẾN - THẢO LUẬN
20:59 Monday,2.4.2018
Đăng bởi:   ANH NGUYEN
@AnHy: không có nhân vật nào là chủ mệnh Thuỷ bạn ơi.
0:23 Monday,2.4.2018
Đăng bởi:   ANHY
Nếu chia theo ngũ hành như vậy, thì mệnh Thủy ở đây sẽ là ai? Xin tác giả chỉ giáo.
16:39 Saturday,31.3.2018
Đăng bởi:   CON MÒE BÉO BỤNG
Bài đã lên lâu nhưng hôm nay thấy Soi đăng phần 2 mới vào đọc kỹ.

Về góc nhìn cũng như tổng thể tác giả viết rất thú vị, nhưng phần về âm dương ngũ hành thì Mòe có đôi
phần nghĩ khác.

Cùng là Thổ, nhưng có rất nhiều loại Thổ khác nhau, mỗi loại có 1 tính chất rất riêng.
Giả Bảo Ngọc vốn là hòn đá do Nữ Oa luyện hóa để vá trời. Vì là tinh hoa của Thổ luyện hóa ra thành Đá
Ngũ Sắc. Việc hòn đá cầu xin được cho theo xuống hạ giới, bước vào hồng trần cũng là hình tượng cho
việc gột rửa và để biến đổi.

Do Hỏa sinh nên là tân sinh Thổ, dù là Thổ nhưng còn nóng rẫy, trải qua mưa nắng ở chân núi Thanh
Ngạnh làm dịu lại nhưng nó vẫn chưa đủ. Thổ này không thể nuôi dưỡng được Mộc (bởi vậy hồng nhan
tri kỷ Đại Ngọc mang mệnh Mộc gặp chàng thì chết sớm), cũng không diễn sinh ra Kim (nên Bảo Thoa
mang mệnh Kim gặp chàng thì bị vùi hãm), cần được Thủy tưới tắm lâu dài mới đắc dụng (vậy nên từ bé
chàng đã thích oanh oanh yến yến, thích ở gần nữ tính hơn là nam).

Trong bảng Niên Mệnh thì Lộ Bàng Thổ ứng với Thổ này. Nhưng vì Thổ khắc Thủy, nhất là tân sinh Thổ
thì lại càng khắc Thủy (trừ Thiên Hà Thủy và Đại Hải Thủy) vậy nên chị em, nàng hầu  của chàng người
thì oan uổng rồi bệnh chết, người uổng mệnh, người phát điên, người xuất gia... hầu như không mấy
người cao số thoát được.

Lại nói về tính cách, người ta vẫn cho rằng Giả Bảo Ngọc thân có nữ tính, vì mặt đẹp như ngọc, môi đỏ
răng trắng, đối xử với ai cũng hòa thiện.

Hay như Anh Nguyển từ câu “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết
thành.” cho rằng trong Bảo Ngọc có bao gồm cả tính nữ (nước) và mệnh thổ (đất.) hợp lại.

Nhưng nếu đã giải thích theo ngũ hành thì Mòe cho rằng phần "nữ tính" này lại là biểu hiện của yếu
nhược (khuyết Kim) chứ không phải là uyển chuyển khéo léo (hữu Thủy).

Vạn vật tương sinh, tương khắc nhưng cũng rất kỳ diệu. Kim nại Thổ sinh (Kim do Thổ sinh mà ra),
nhưng Thổ đa Kim mai (Thổ nhiều Kim bị hãm lấp), bởi vậy người mệnh Thổ mà quá cường vượng thì ù
lỳ, ngu độn và thiếu đi quyết đoán, sát phạt.

Như đã nói ở trên, chân thân của Bảo Ngọc vốn là viên Đá Ngũ Sắc mà Nữ Oa luyện hóa để vá trời. Đá
Ngũ Sắc là tinh hoa hành Thổ, gọi là ngọc cũng ko uổng. Mà Thổ thuần tịnh và vượng như vậy thì khó
mà diễn sinh ra Kim. Chưa kể Hỏa khắc Kim, nên trong quá trình luyện hóa thì "tạp chất" này vốn đã
được bài trừ.

Bởi khuyết Kim nên tính cách Bảo Ngọc mềm yếu, ủy mị và bị nhầm với nữ tính ( Thủy), nhưng 2 thừ này
rất khác nhau.

Nếu hữu Thủy thì tình cách phải có phần khéo léo, uyển chuyển, giỏi ứng xử và thuận thời thế. Nhưng
trong truyện thì Bảo Ngọc dù rất hòa thiện, rất nhân từ nhưng bảo uyển chuyển, khéo léo giải quyết vấn
đề thì chàng không có. Hồng nhan oan uổng chàng cũng chỉ biết than thở khóc thương chứ chẳng
phương cách gì...
...
23:49 Saturday,24.3.2018
Đăng bởi:   KIM TRẦN
Đọc 1 loạt bài của Anh Nguyễn mà tớ thấy mình thêm cảm nhận về HLM. Đúng là thoạt đầu tưởng chỉ là
ghi chép về" phong trần mơ người đẹp,..., chuyện bạn bè, tình tứ khuê các" tuy nói là không có ý chửi
đời, nhưng ẩn sâu hơn cái bề mặt đầy hoa ấy, là những gai góc tâm hồn, những nuối tiếc, và sự nghiền
ngẫm về nhân thế. Thật may tớ biết Soi 1 thời gian và thật may vì Anh Nguyễn viết loạt bài này. Nếu
không tớ sẽ chẳng xem HLM vì tớ đọc không hiểu. Cám ơn Anh nha, mong nhìu bài hơn, 1 ngày nào đó
ta đọc bài của nhau. Chúc sức khỏe
8:16 Sunday,25.3.2018
Đăng bởi:   ADMIN
@ Ngọc Chiếu: đúng là nhầm thật. Soi sửa lại rồi. Cảm ơn bạn rất nhiều.
11:02 Friday,23.3.2018
Đăng bởi:   NGỌC CHIẾU
Ad ơi, câu đầu tiên: "nhân vật thuộc hành Mộc..." có nhầm là Thổ không ad, vì mình đọc nội dung thì
hiểu Bảo Ngọc là hành Thổ?

Bảo Ngọc và mệnh Thổ (phần 2): 


Là gương nên không thể cùng người
26. 03. 18 - 7:31 pm
Anh Nguyễn biên soạn (Tiếp theo bài 1)
Bảo Ngọc có tính nhẫn nại, thậm chí thụ động, song lại có khả năng tác
động đến những nhân vât khác. Điều này khiến học giả Andrew Plaks cho
rằng: mệnh Thổ của Bảo Ngọc được thể hiện qua sự gắn bó của chàng với
những tấm gương trong truyện.
Bảo Ngọc cũng giống như một tấm gương: bản chất tĩnh lặng nhưng lại
phản ánh đúng bản chất của những người khác. Cậu thường đóng vai trò
quan sát, chiêm nghiệm. Nhiều sự việc và con người trong Hồng Lâu
Mộng được nhìn nhận, đánh giá qua con mắt Bảo Ngọc: sự tàn nhẫn
của Phượng Thư, sự yếu đuối của Vưu nhị thư, tính cao ngạo của Diệu
Ngọc, tính ghen tuông của Hạ Kim Quế,.. Không những thế Bảo Ngọc
còn mang trong mình nhiều sự trái ngược: tính nữ trong hình hài nam
giới, thần trên trời đổi kiếp làm người, là viên ngọc thật (chân) nhưng lại
mang tên “giả”. Chất nửa hư nửa thực này làm người ta liên tưởng đến
bóng người trong gương. Thế giới mà ta sống chưa chắc đã có thật, có khi
lại chính là phản chiếu của thế giới trong gương chưa biết chừng.

Giả Bảo Ngọc và mười hai thoa


Trong Hồng Lâu Mộng có ba tấm gương quan trọng, ít nhiều có liên quan
đến Bảo Ngọc:
– Tấm gương thứ nhất là của Võ Tắc Thiên, được bày trong buồng Tần
Thị. Võ Tắc Thiên là nữ hoàng nổi tiếng truỵ lạc, tấm gương này ắt đã
phản chiếu nhiều điều hay ho, lại được bày trong buồng Tần Thị và
“chứng kiến” lần vào đời trong mơ của Bảo Ngọc – ý nghĩa xuân tình từ
ấy lại càng tăng thêm nhiều lần.
– Tấm gương “Tây dương” được bày trong viện Di Hồng. Đây là một tấm
gương lớn có thể phản chiếu cả thân hình người. Già Lưu từng bị nhầm
lẫn vì tấm gương này. Chính Bảo Ngọc khi nằm mê man nhìn gương
cũng tưởng tượng ra cuộc hội thoại với Chân Bảo Ngọc. Về mặt ẩn dụ,
Chân Bảo Ngọc và Giả Bảo Ngọc thực ra là hai mặt thật-giả của một cá
thể duy nhất, vì thế có thể nói đó là cuộc đối thoại của Bảo Ngọc với tiềm
thức của chính bản thân mình. Katherine Alexander đã nhận xét rằng
những tầng ý nghĩa phức tạp của Hồng Lâu Mộng khiến người đọc không
khỏi rơi vào trạng thái mơ hồ như Lưu lão lão, tay bấm vào mép gương tự
hỏi “làm sao ra được khỏi nơi đây?”
– Tấm gương Phong nguyệt bảo giám.
Sự tương đồng của Bảo Ngọc và những tấm gương được khẳng định qua
hội đố đèn ở chương 22. Tại đây, câu đố của Bảo Ngọc là: “Ngươi nhìn
về phía bắc thì ta nhìn về hướng nam. Ngươi buồn ta buồn, ngươi vui ta
cũng vui theo.” Câu đố này thể hiện tính cách nhạy cảm, dễ lây lan cảm
xúc của Bảo Ngọc. Trong suốt Hồng Lâu Mộng, Bảo Ngọc thường xuyên
để ý đến những trạng thái hỉ nộ ái ố của những người đẹp xung quanh
mình. Dường như chàng có một thứ “ăng ten” đặc biệt với tâm tình nhi
nữ. Chàng vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ, sẵn sàng xả thân
để đem đến hạnh phúc cho họ. Có điều người trong gương luôn bị cách
trở với người bên ngoài, Bảo Ngọc cũng vậy, chàng chỉ có thể quan sát
những cô gái đó từ xa, vĩnh viễn không thể gắn bó với một ai thật sự.
Như vậy Bảo Ngọc đã trải qua đầy đủ những biến thể của hành Thổ: đất,
bùn, ngọc, đá, gương. Vùng vẫy trong chốn bụi hồng đủ khiến cậu ngộ ra
nhiều điều về nhân tình thế thái. Khi câu chuyện kết thúc, Bảo Ngọc nhận
ra thất tình lục dục chỉ là phù du, rũ áo trở về chốn Đại Hoang không còn
gì tơ luyến. Hòn đá sau khi đi một vòng luân hồi lại quay trở lại làm hòn
đá.
*
Nhân đây tôi cảm thấy cần phải làm rõ một vấn đề lớn. Ở bài trước, có
độc giả thắc mắc vì sao bài thơ “Áo chầu đầy khói…” bản tiếng Việt gán
cho Bảo Thoa mà tôi lại nói là của Đại Ngọc. Tôi phải khẳng định lại một
lần nữa rằng, bản dịch tiếng Việt không đúng. Chúng ta thử nghĩ mà xem,
hội thi đố đèn đã có những bài thơ của Giả Hoàn, Nguyên Xuân, Nghênh
Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Bảo Thoa, Giả Chính, Giả Mẫu. Vậy mà
lại thiếu hai nhân vật quan trọng nhất là Đại Ngọc và Bảo Ngọc ư? Khi
đối chiếu lại với nguyên tác và hai bản dịch tiếng Anh khác nhau (của H.
Bencraft Joly và David Hawkes,) tôi nhận thấy bản tiếng Việt đã mắc sai
lầm nghiêm trọng: thiếu hai câu đố của Bảo Ngọc, Bảo Thoa và biến câu
đố của Đại Ngọc thành của Bảo Thoa. (???)

Minh họa về hội đố đèn của Sun Wen


Không những thế, mỗi câu đố lại nói lên tính cách và số phận của người
ra đề, như câu đố của Giả Hoàn (đầu con thú – Anh Cả có tám sừng, anh
Hai hai sừng, anh Cả ngồi chồm chỗm trên giường) vừa không thông, vừa
thô lỗ, cục súc như con người y. Câu đố của Giả Chính (cái nghiên mình
vuông vắn, chất cứng rắn) cũng nói lên sự chỉn chu, mực thước đến mức
cứng nhắc của ông. Những câu đố ảm đạm của tứ Xuân cũng ẩn ý về số
phận long đong, bất hạnh mà họ phải gánh chịu. Vì thế việc nhầm lẫn các
câu đố là một thiếu sót lớn. Xin được nhắc lại:
– Câu đố “Áo chầu đầy khói…” là của Đại Ngọc. Những hình ảnh tàn tro,
héo úa, tang thương trong bài thơ này vừa ẩn dụ cho kết cục não nề của
mối tình Đại Ngọc-Bảo Ngọc, vừa ám chỉ số mệnh ngắn ngủi của Đại
Ngọc. Vật được nhắc đến trong câu đố là cái đèn canh hương, một thứ
đồng hồ sơ khai đánh dấu thời gian bằng cách đốt hương trầm. Hương
thơm đấy nhưng mau tàn lụi, đã đốt là cháy hết không để lại gì. Cuộc đời
vắn số của Đại Ngọc cũng ngắn dần đi như những đốt hương tàn.

Đèn canh hương


– Câu đố thứ hai của Bảo Thoa có thể dịch nôm na như sau: “Ta có mắt
nhưng không thể nhìn, bên trong ta trống rỗng. Khi hoa sen nở thì ta ở
bên người, khi lá thu rơi thì ta cũng bỏ đi. Ân ái lứa đôi mặn nồng không
thể kéo dài đến mùa đông.” Câu đố này không chỉ ẩn dụ cho tính cách
bàng quan, cô độc của Bảo Thoa mà còn báo trước cảnh chăn đơn gối
chiếc, xa lìa phu quân của nàng. Vật được nhắc đến trong câu đố là “trúc
phu nhân” (bà vợ trúc) – một thứ gối ôm làm bằng tre dùng khi ngủ mùa
hè cho mát. Đến mùa đông người ta cất nó đi không dùng tới nữa.
Hình dáng của một “trúc phu nhân”
– Giống như “trúc phu nhân,” Bảo Thoa đem đến sự lạnh lẽo, trống trải
thay vì cảm giác ấm áp của một hiền thê thực thụ. Vai trò của nàng chỉ có
thời vụ, tư cách người vợ của nàng cũng hữu danh vô thực.

Giả Bảo Ngọc: “một nửa đàn ông là đàn bà”, lại là “nửa dôi”
30. 01. 16 - 4:43 am
Anh Nguyễn

Có người đã nhận xét với tôi rằng, dù tôi chưa viết một bài nào chỉ bàn
riêng về nhân vật Giả Bảo Ngọc nhưng họ vẫn không cảm thấy thiếu, bởi
bài nào cũng có nhắc đến nhân vật này, không ít thì nhiều! Quả thật Bảo
Ngọc vừa là nhân vật chính, vừa là chứng nhân cho hầu hết những sự
kiện xảy ra trong Hồng Lâu Mộng. Số phận già trẻ trai gái trong truyện từ
con hầu Kim Xuyến, con hát Tưởng Ngọc Hàm, trai đẹp Tần Chung,…
cho chí ni cô Diệu Ngọc, tiểu thư Bảo Thoa, a hoàn Tình Văn,… đều có
gắn bó mật thiết với Bảo Ngọc. Nếu các cô gái trong truyện là những sợi
chỉ thêu nhiều màu sắc thì có lẽ Bảo Ngọc chính là cây kim xuyên suốt,
nối kết để dệt lên bức tranh Hồng Lâu Mộng muôn vẻ. Sở dĩ tôi trù trừ
chưa muốn viết về Bảo Ngọc cũng một phần vì muốn các bạn đọc có thời
gian cảm nhận sự hiện diện của cậu ta qua các nhân vật khác. Rốt cuộc thì
cũng đã đến lúc chúng ta dành thời gian cho “hòn đá vô tích sự” này. Tuy
nhiên nhân vật này có nội hàm rất rộng, vì thế ở bài này, để tránh lan
man, sa đà, chúng ta chỉ bàn về tính nữ của Bảo Ngọc.
Trong những nỗ lực cảm nhận nhân vật Bảo Ngọc, có lẽ sai lầm lớn nhất
là nhìn cậu ta dưới lăng kính của hiện thực. Nếu chúng ta phán xét Bảo
Ngọc như một người bình thường, ắt hẳn đa số người đọc sẽ không có
mấy thiện cảm: nhân vật này tính tình không quyết đoán, ít có khí độ của
bậc tu mi nam tử, tối ngày lại kề cận đám phấn son, quả thật không có gì
hay. Nhưng vì không thích Bảo Ngọc mà kết luận Hồng Lâu Mộng không
có giá trị văn học hoặc Tào Tuyết Cần hồ đồ thì thật nhầm lẫn. Hồng Lâu
Mộng hoàn toàn không phải một cuốn sách giáo khoa dạy đạo đức. Tào
Tuyết Cần xây dựng lên Bảo Ngọc, cũng như Lỗ Tấn viết về AQ với
phép thắng lợi tinh thần, Emily Bronte mô tả Heathcliff yêu cuồng dại,
càng không nhằm mục đính biến đứa con tinh thần của mình thành hình
mẫu lý tưởng đáng học tập. Với Bảo Ngọc, Tào Tuyết Cần cố tình khắc
hoạ tính “lưỡng cực” (bipolarity): Bảo Ngọc vừa già (xuất hiện từ buổi
khai thiên lập địa) vừa trẻ (trong truyện là cậu thiếu niên), vừa sống ở
hiện tại vừa đặt một chân vào cõi ảo mộng, vừa là người vừa là thần, vừa
có phong thái của Đạo gia vừa theo Phật pháp. Tính nữ của Bảo Ngọc
chính là đối trọng của tính nam trời sinh, cấu thành một phần không thể
thiếu trong con người Bảo Ngọc.
Trước hết, khi Bảo Ngọc xuất hiện, hình dáng ra sao?
Khi vào, thoạt nhìn thì thấy một thanh niên công tử: đầu đội mũ kim quan
dát ngọc, khăn bịt trán có đính hai con rồng bằng vàng vờn hạt châu,
mặc áo chẽn màu đại hồng thêu trăm con bươn vờn hoa, thắt lưng dây tơ
ngũ sắc tết hoa, áo khoác ngoài bằng đoạn hoa màu thạch thanh, đi đôi
hài bằng đoạn xanh, đế trắng, mặt như trăng rằm mùa thu, sắc như hoa
xuân buổi sớm, mái tóc bằng như dao xén, lông mày rõ như mực kẻ, má
như cánh hoa đào, mắt như làn sóng gợn. Lúc giận cũng như cười, dù
trừng mắt vẫn có tình tứ. Cổ đeo khánh vàng chạm con ly và một dây ngũ
sắc buộc viên ngọc.
.
Đây là lần đầu tiên người đọc được diện kiến Bảo Ngọc, ấn tượng có thể
nói là rất mạnh mẽ. Tổng cộng, Tào Tuyết Cần dụng công miêu tả tám
thứ phục sức trên người Bảo Ngọc (mũ, khăn, áo chẽn, thắt lưng, áo
khoác, hài, khánh, dây buộc ngọc) và tám nét nổi bật trên gương mặt cậu
ta (mặt, sắc diện, mái tóc, lông mày, má, mắt, vẻ mặt khi giận, khi cười.)
Quả thật là người đẹp như ngọc không sai! Nhưng thử đọc kỹ mà xem,
những so sánh ước lệ trăng rằm, hoa xuân, hoa đào, làn sóng dường như
phù hợp để miêu tả một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành hơn là
đấng mày râu. Và trang phục màu đại hồng, thạch thanh đầy nữ tính được
thêu bướm, kết hoa càng khiến ý đồ của tác giả “rõ đến không thể rõ
hơn”. Hình dáng Bảo Ngọc chính là của một cô gái xinh đẹp thướt tha,
hơn nữa còn có hơi hướm giống món đồ vật trang trí. Tào Tuyết Cần cố
tình cho Bảo Ngọc ăn mặc thật xúng xính, dường như qua đó “objectify”
Bảo Ngọc như một con búp bê vậy. Vẻ ngoài của Bảo Ngọc còn mang
đầy màu sắc hưởng lạc và ẻo lả, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng của
Nho giáo. Tào Tuyết Cần ngạo nghễ dựng lên một nhân vật chính đi
ngược lại hoàn toàn hình ảnh nam nhi đại trượng phu, phải chăng là để
thách thức lễ giáo truyền thống?
Hình dáng bên ngoài thì như vậy, còn giọng nói, dáng đi của Bảo Ngọc
cũng dễ khiến người ta nhầm lẫn. Trong truyện có rất nhiều ví dụ ẩn ý về
sự nhập nhằng giới tính của cậu Bảo, đơn cử như:
Già lưu say rượu loạng quạng đến ngủ ở Di Hồng viện của Bảo Ngọc, khi
tỉnh dậy:
Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới
tỉnh rượu, liền hỏi:
– Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên
trời vậy!
Tập Nhân mỉm cười nói:
– Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.

Già Lưu say rượu vào nhầm buồng Bảo Ngọc


Giả Mẫu cũng bị nhầm:
Nói chưa dứt lời, thấy phía sau Bảo Cầm có một người mặc áo da vượn
màu đỏ đi đến. Giả mẫu hỏi:
– Lại cô ả nào nữa đấy?
– Chúng cháu ở đây cả, chắc là cậu Bảo Ngọc.
– Ta càng ngày càng sinh lóa mắt.
Hai người đi đến, chính là Bảo Ngọc và Bảo Cầm.
Vưu Tam Thư khi nói về Bảo Ngọc:
Xem cách ăn nói, cách xử sự của cậu ấy có vẻ hơi giống con gái. Đó là vì
ngày nào cậu ấy cũng ở chung trong đám chị em, thành ra thói quen, chứ
hồ đồ ở chỗ nào?
Dính Yên thắp hương cầu nguyện:
Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để
cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ
bẩn nữa.

Dính Yên cầu cho Bảo Ngọc kiếp sau được hoá thành con gái
Giả Mẫu nhận xét về Bảo Ngọc:
Ta không hiểu sao và cũng chưa thấy đứa trẻ con nào như thế cả. Đối với
người khác thì nó bướng bỉnh đấy, nhưng riêng đối với bọn a hoàn lại rất
tử tế. Khó thấy có ai được như nó. Vì vậy ta sinh nghi, thường để ý xem
xét, thấy nó cứ đùa với bọn a hoàn, chắc là người lớn thì tính tình cũng
lớn, đã biết chuyện trai gái, nên mới gần gũi bọn chúng. Nhưng dò xét kỹ,
lại hóa không phải. Thế mới lạ chứ? Có lẽ nó là một con a hoàn đầu thai
lầm cũng nên.
Ở đây lại phải làm rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “sex” – giới tính
sinh học, và “gender” – giới tính xã hội. Về mặt sinh học thì Bảo Ngọc rõ
ràng là nam giới, điều này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng về mặt
tâm lý, tính cách, hành vi, cử chỉ thì mù mờ hơn. Sự rối loạn giới tính của
Bảo Ngọc xảy ra từ khi cậu ta còn rất nhỏ:
Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới
đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu
nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính
không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm.
Số đông mọi người khi đọc đến đây thì cũng như Giả Chính và Tử Hưng,
cho rằng Bảo Ngọc lớn lên sẽ trở thành con quỷ hiếu sắc. Đấy là một suy
luận thiển cận. Trên thực tế, hành vi chọn phấn son, trâm vòng của Bảo
Ngọc là báo trước nữ tính tiềm ẩn của cậu ta. Nói theo cách khác, Bảo
Ngọc chọn chúng vì bản thể chàng có một nửa là nữ, chứ không phải vì
cậu ta ham muốn phụ nữ. Giả Chính bắt Bảo Ngọc lựa đồ chơi, qua đó
gián tiếp ép buộc cậu ta đối mặt với hai giới tính đối chọi nhau, đó là
điềm báo trước bi kịch của Bảo Ngọc. Trong truyện, cậu ta thường xuyên
phải ra quyết định: chọn giữa mộng ảo và đời thực, giữa Nho giáo và Phật
giáo, giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa. Khuynh hướng lưỡng tính chỉ là một
trong số vô vàn cuộc đấu tranh mà Bảo Ngọc phải trải qua, như là đánh
đổi cho việc trải nghiệm cuộc sống phù hoa dưới trần thế.
Bảo Ngọc chơi đùa cùng các tiểu thư
Như đã nhắc đi nhắc lại, nơi ở của các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng có
ý nghĩa không thể xem thường. Trong Đại Quân viên, Bảo Ngọc chọn
viện Di Hồng làm chỗ trú ngụ. Di Hồng viện tên vốn đã mang đậm mùi
son phấn, lại là rút gọn của “di hồng khoái lục”, hay “hồng hương lục
ngọc”. Bảo Ngọc có cả hồng (màu đỏ) và lục (màu xanh) tức là có cả tính
nữ và tính nam, nhưng lại nghiêng về hồng nhiều hơn là lục.
Trong truyện, Bảo Ngọc gắn bó sâu sắc với màu đỏ. “Hồng lâu” là nơi
“êm đềm trướng rủ màn che” cậu ta ở đã đành, Bảo Ngọc còn đam mê
phấn sáp, thích thú son môi.
Nhân thấy hai bên tủ gương có nhiều đồ phấn sáp, tiện tay lấy ra ngắm
nghía. Khi thấy một hộp sáp bôi môi, Bảo Ngọc muốn bỏ vào miệng ăn,
lại sợ Tương Vân cười.
Còn sau đây là cảnh Bảo Ngọc dỗ dành Bình Nhi sau khi nàng bị Phượng
Thư đánh ghen, chẳng hề đượm màu tán tỉnh sắc dục trai gái, mà giống
như bạn gái giúp nhau trang điểm thì đúng hơn!
Bình Nhi nghe nói có lý, liền đi tìm phấn, nhưng không thấy. Bảo Ngọc
vội chạy đến đài trang, mở cái hộp sứ Châu Tuyên ra, trong hộp đựng
một lượt mười thoi phấn hoa ngọc trâm, lấy ra một thoi đưa cho Bình
Nhi, cười nói:
– Đây không phải là phấn thường đâu, là giống hoa dạ hương nghiền nát
ra, chế với thứ bột thượng hảo hạng đấy.
Bình Nhi để lên trên tay xem, quả nhiên vừa nhẹ, vừa trắng, vừa đỏ, vừa
thơm, xoa lên mặt thấy da mịn và mát, không bết như thứ phấn khác. Sau
thấy một cái hộp ngọc trắng nhỏ, trong đựng một hộp sáp màu đỏ tươi
như cao văn khôi, chứ không phải từng tờ một. Bảo Ngọc cười nói:
– Sáp bán ở hiệu không sạch, màu lại chóng bay. Đây là hạng sáp tốt
nhất, vắt nước ra, lọc sạch rồi hòa lẫn với sương ở trong hoa, đem nấu
lên. Chỉ lấy cái trâm nhỏ khêu một tí xát vào môi; lại lấy một giọt hòa lẫn
nước với sáp vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt cũng đủ.
Bình Nhi cứ theo thế trang điểm, thấy tươi đẹp khác thường và mùi thơm
ngào ngạt. Bảo Ngọc lại lấy một cành hoa huệ ở trong chậu dùng dao tre
cắt đem cắm lên đầu cho Bình Nhi.
Bảo Ngọc giúp Bình Nhi trang điểm
Hay đoạn Hương Lăng nói Bảo Ngọc quay mặt đi để thay quần:
Bảo Ngọc cúi đầu nhìn, “úi chà” một tiếng nói:
– Tại sao chị lại bị kéo xuống bùn thế này? Đáng tiếc! Lụa đỏ thạch lựu
này dễ bẩn lắm!
[…]
Hương Lăng đỏ mặt cười nói:
– Cám ơn chị lắm, không ngờ bọn quỷ sứ ấy nó làm ác.
Nói xong cầm lấy cái quần, giở ra xem, quả nhiên giống hệt cái quần của
mình, liền bảo Bảo Ngọc quay mặt đi chỗ khác rồi ngoảnh vào phía trong
cởi quần bẩn ra, mặc quần mới vào.

Bảo Ngọc quay lưng để Hương Lăng thay tấm quần hồng lăng
Đến đây chúng ta đã gần chạm tới cội rễ vấn đề sâu xa của Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc coi trọng phụ nữ, cho rằng “Xương thịt của con gái là nước kết
thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì
người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi
dơ bẩn vậy” không xuất phát từ vị thế nâng niu gái đẹp của đàn ông, mà
là đồng bệnh tương liên. Bảo Ngọc có một nửa nữ tính, thậm chí “nửa
dôi” là đằng khác, nên sự yêu mến, âu yếm, thương xót của cậu ta với các
chị em chính là sự đồng cảm của nữ giới. Trong Hồng Lâu Mộng, ta
chứng kiến sự bảo vệ che chắn kỹ lưỡng của mọi người trong phủ với
Bảo Ngọc, từ Giả Mẫu, Vương phu nhân, Phượng Thư cho đến các a
hoàn, đến mức cậu ta phàn nàn với Tần Chung rằng mình chẳng được
bước chân ra khỏi cửa! Kiểu kín cổng cao tường đó vốn chỉ dành cho các
tiểu thư, nhưng Bảo Ngọc đã bị đồng hóa với những cô gái trong phủ nên
dường như không ai lấy đó làm điều kỳ dị.

Bảo Ngọc quây quần trong đám a hoàn


Nếu về mặt “gender”, Bảo Ngọc là người lưỡng tính, thì “sexuality” (xu
hướng tình dục) của Bảo Ngọc có thể được phân loại là song tính luyến ái
(bisexual.) Tạm chưa bàn đến những mối tình với nữ giới của Bảo Ngọc
vội. Trong những nhân vật nam của Hồng Lâu Mộng có ba dạng chính:
– Loại đàn ông theo tư tưởng Khổng Mạnh một cách khuôn phép (Giả
Chính, Chân Bảo Ngọc) hoặc Đạo giáo (Giả Kính ham mê luyện đan để
trường sinh bất lão), lạnh nhạt, không gần nữ sắc, bất cận nhân tình. Với
những người này Bảo Ngọc có quan hệ rất hời hợt, bởi cậu ta không có
cùng chí hướng, quan điểm với họ.
– Loại đàn ông thích hưởng lạc, ham mê dục tình. Những người này rất
đông, phần lớn đều là anh em chú bác của Bảo Ngọc: Giả Trân, Giả Xá,
Giả Liễn, Giả Dung, Tiết Bàn,… Đối tượng ham muốn của những kẻ này
cũng bao gồm của nam và nữ, cách cư xử thì rất hèn hạ. Với những nhân
vật này Bảo Ngọc muốn tránh xa, thâm tâm cậu coi thường và ghê sợ họ.
Trong mắt Bảo Ngọc, những đối tượng này chỉ có “dâm” mà không có
“tình”, vì thế họ nhơ nhớp và xấu xa.
– Loại đàn ông mềm mại, đẹp đẽ, có tâm hồn lãng mạn, trong sáng.
Những người này gồm Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương,
Liễu Tương Liên… Đặc điểm nổi bật của họ là khuynh hướng bị nữ tính
hóa giống như Bảo Ngọc. Mối giao lưu thân cận của Bảo Ngọc với những
nhân vật này ngả sang xu hướng tri kỉ-tình yêu, thậm chí gần với tình dục.
Những mối quan hệ này được khắc hoạ thanh cao, trong sáng bởi nó
không gắn với mục đích sinh sản mà dựa trên sự tương hợp giữa hai tâm
hồn, giống như người Hy Lạp cổ nhìn nhận tình yêu nam-nam
(pederasty.)
Bảo Ngọc chán ngán khi phải giao tiếp với đám văn nhân khách khứa
của Giả Chính
Một số trích đoạn trong sách:
Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, xem ra dáng điệu tươi đẹp như
hoa; Tần Chung thì bẽn lẽn nhu mì, chưa nói đã đỏ mặt, ngượng nghịu
như con gái; Bảo Ngọc thì nhũn nhặn dịu dàng, nói năng hòa nhã. Vì hai
người thân mật với nhau như thế nên tránh sao khỏi sự ngừ vực của một
số học trò. Lúc vắng mặt thì người nói thế này, kẻ nói thế khác, giễu cợt,
gièm pha khắp cả trong và ngoài lớp học.
Có hai đứa không biết con cái nhà ai, tên tuổi là gì, chỉ vì thấy chúng có
vẻ lẳng lơ, nên cả trường đặt tên cho một đứa là Hương Lân, một đứa là
Ngọc ái. Có nhưng người mến thích chúng, định đem lòng không tốt đối
với lũ trẻ nhưng lại sợ uy thế Tiết Bàn, nên không ai dám vương vào. Từ
khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, thấy hai đứa ấy trong bụng cũng
vấn vương trìu mến, nhưng biết là bạn tương tri của Tiết Bàn, nên cũng
không dám động chạm đến. Hai đứa Hương Lân, Ngọc ái đều để ý đến
Tần Chung và Bảo Ngọc. Bốn người sẵn có tình ý với nhau, nhưng chưa
dám lộ ra ngoài. Mỗi khi vào học, họ ngồi riêng bốn chỗ, nhưng tám mắt
vẫn liếc nhau, hoặc đặt lời mượn ý, vịnh dâu ngắm liễu, xa tỏ nỗi lòng.

Bảo Ngọc đến thăm Tần Chung hấp hối.

[…]
Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai
người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo
Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:
– Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta
có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên,
không được gặp.
Ngọc Hàm cười đáp:
– Đó là tên tục của tôi đấy.
Bảo Ngọc mừng lắm, giậm chân cười nói:
– Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp
lần đầu, biết làm thế nào đây.
Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt
đưa cho Kỳ Quan và nói:
– Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.
Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:
– Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có
một vật lạ, sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin
tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.
Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo
lót, đưa tặng Bảo Ngọc và nói:
– Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương,
mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh
vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai.
Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.
Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa
tùng của mình đưa cho Kỳ Quan.
Việc con nhà quyền quý có tình nhân ở cả hai giới không phải điều gì kỳ
lạ lắm, thậm chí nó còn là một cách biểu lộ quyền lực là đằng khác. Mấu
chốt ở đây là những người đàn ông quý tộc kia luôn đứng ở vị trí săn đuổi
trong hành trình tìm kiếm khoái lạc. Mỹ nữ hay mỹ nam cũng chỉ là một
món đồ chơi trong tay họ. Tiết Bàn chính là một kẻ như vậy. Còn Bảo
Ngọc tuy thân đường đường con nhà dòng dõi mà lại mang dáng vẻ yếu
mềm, óng ả như vậy thì thật không thể hiểu nổi! Sự thanh nhã, tú lệ của
Bảo Ngọc tương phản hẳn với vẻ rượu thịt, thô bỉ của Tiết Bàn. Trong
thực tế, điều duy nhất bảo vệ Bảo Ngọc khỏi sự tấn công tình dục của
Tiết Bàn là địa vị tôn quý của Bảo Ngọc, ngang hàng – thậm chí cao hơn
Tiết Bàn. Nếu Bảo Ngọc chỉ là tiểu đồng nhỏ thì chắc đã bị Tiết Bàn vồ
lấy như diều hâu quắp gà con.
Chi Nghiễn Trai có liệt kê mười hai nhân vật đa tình nhất trong Hồng Lâu
Mộng, trong đó Bảo Ngọc đứng đầu tình bảng, còn Đại Ngọc đứng thứ
hai. Đại Ngọc là “tình tình,” còn Bảo Ngọc là “tình bất tình,” nghĩa là
luyến ái cả những người không yêu mình (Bảo Thoa không có mặt trong
danh sách này, nên thường bị gọi là “lãnh tình”.) Trong tình bảng thì Bảo
Ngọc là nhân vật nam duy nhất, nhưng trong yêu đương lại mang nhiều
tính nữ hơn cả. Bảo Ngọc không chỉ có xu hướng đồng tính nam mà trong
quan hệ ái ân nam nữ, cậu ta cũng thường đóng vai trò thụ động. Người
khác hời hợt nhìn vào có thể nghĩ Bảo Ngọc là kẻ khinh bạc vô hạnh, hay
buông lời gió trăng, cử chỉ không đúng đắn với các chị em. Nhưng trên
thực tế những hành động của Bảo Ngọc đa phần đều bị thúc đẩy bởi tình
yêu cái đẹp, sự đồng cảm, gần gũi hơn là bản năng của một “con đực.”
Khi gặp sự tấn công ồ ạt của tình dục, Bảo Ngọc co lại sợ hãi:
Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén màn đi vào nói:
– Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với nhau, tôi nghe thấy cả rồi! – Chị ta
quay lại nói với Bảo Ngọc: – Cậu là chủ nhà, vào buồng đầy tớ làm gì?
Thấy tôi xinh đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười van xin:
– Chị ơi, xin đừng nói to. Chị ấy lâu nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây
thăm chị ấy.
Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào nhà trong, cười nói:
– Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.
Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng,
hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay chưa thấy thế bao giờ, tim đập
thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa
nói:
– Chị ơi, đừng đùa thế.
Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:
– Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen sống trong trường trăng gió,
sao hôm nay lại nhút nhát thế?
Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:
– Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho
bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?
Cô “Đa” cười nói:
– Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi
hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp, nhưng đúng
như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu
đẹp thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi
chừng nhút nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có
khi không đáng tin. Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày
thường thế nào cũng thầm vụng với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ
nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ
nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem ra, thì hai người
thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự oan uổng. Bây giờ
tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi
không dám to tiếng.
Ngoại trừ lần đầu tiên với Tập Nhân, Bảo Ngọc không có mối quan hệ
tiền hôn nhân nào khác, bất chấp rất nhiều cơ hội. Nếu không có cô “Đa”
minh oan cho, có lẽ người đọc chắc vẫn còn nghi oan cho Bảo Ngọc!
Đoạn trên cũng khắc hoạ sự ngượng nghịu, e dè của Bảo Ngọc trước dục
vọng mãnh liệt của người đàn bà từng trải. Xét một cách tổng thể, từ cử
chỉ, hành vi, tính tình, Bảo Ngọc chính là một ví dụ tiêu biểu cho cái gọi
là “một nửa đàn ông là đàn bà.”
Vậy thì mục đích của Tào Tuyết Cần trong việc mô tả một Bảo Ngọc nửa
nam nửa nữ, ái nữ ái nam là gì? Nếu coi bản thể nam giới là “cái tôi”, thì
bản thể nữ giới là “cái bên ngoài cái tôi”. Thông qua Bảo Ngọc, Tào
Tuyết Cần đã đề ra một giải pháp dung hòa giữa cái tôi cá nhân và thế
giới. Vì biểu lộ đồng thời cả tính nam và tính nữ, Bảo Ngọc không tránh
khỏi bị gắn mác lập dị, bị cả hai giới từ chối cho gia nhập. Đó là bi kịch
khi cá nhân không được sự chấp nhận của tập thể. Bảo Ngọc là nhân vật
duy nhất đạt tới cảnh giới giác ngộ, vượt khỏi bể trầm luân, điều đó tốt
hay xấu? Tôi nghĩ đó là một cái kết khá bi quan, bởi cái tôi cá nhân đã
không thể hòa hợp với thế giới bên ngoài, chỉ còn cách trốn chạy. Jacques
Derrida đã miêu tả một xã hội utopia, nơi những cá thể như Bảo Ngọc có
thể sống tự do, hạnh phúc mà không sợ khuôn khổ áp đặt. Có điều Hồng
Lâu Mộng chưa bao giờ là một utopia…
Ý KIẾN - THẢO LUẬN

14:46 Monday,31.10.2016 Đăng bởi:  đặng thanh vân


hồi xưa mình đọc Hồng Lâu Mộng, nhưng chỉ hiểu một cách chung chung,
tương đối...nay đọc một số bài viết của Anh Nguyen đăng trong Soi. thấy
hiểu sâu sắc thêm các nhân vật trong Hồng lâu mộng...bạn đúng là nhà Hồng
Lâu Mộng học...mong được đọc nhiều bài của bạn viết về cái hay, giá trị văn
chương, nghệ thuật của HLM..cám ơn Anh nguyen.

23:09 Thursday,21.4.2016 Đăng bởi:  Luu ha na
Bạn viết hay lắm mong rằng bạn sẽ viết thêm những nhân vâ ̣t khác nữa
Tiết Bảo Thoa: Từ món thuốc giá băng đến mối lương duyên lạnh lẽo 17.
01. 15 - 6:40 am
Anh Nguyễn

Trong Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch Đầu Ký (câu chuyện hòn đá –
tên khác của Hồng Lâu Mộng), Lâm Đại Ngọc được tặng hai chữ tình
tình, nhưng về tình của Tiết Bảo Thoa thì… chẳng có chữ nào. Những ý
kiến cho rằng nhân vật này vô tình hoặc lãnh tình là có cơ sở xác đáng từ
văn bản tiểu thuyết. Diệu Ngọc tuy xuất gia làm ni cô nhưng ngoài lạnh
trong ấm, còn cái lạnh của Bảo Thoa là một cái nghiệp, vừa là lỗi của số
phận vừa do Bảo Thoa tự mình gây ra. Lớp vỏ băng giá khiến cho Bảo
Thoa vĩnh viễn không thể chạm đến trái tim ấm nóng của Bảo Ngọc và
nàng cũng tự héo mòn trong hố băng đó.
Tranh vẽ Tiết Bảo Thoa
Ở hồi thứ tư, lần đầu người đọc được tiếp xúc với nhà họ Tiết – một trong
bốn họ giàu nhất Kim Lăng nhờ đảm nhận việc mua hàng trong cung.
Câu tục ngữ truyền miệng về nhà này như thế nào?
Được mùa tuyết lã chã rơi, ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi. (Con
cháu Tử vi xá nhân Tiết công, hiện lĩnh tiền khi đi mua hàng, có tám chi).
Chữ Tiết trong họ của Bảo Thoa rất gần với chữ “tuyết,” đó chính là hàm
ý về “được mùa tuyết rơi” trong câu trên. Hai vế “ngọc châu như đất,
vàng thời sắt thoi” vừa nhấn mạnh gia sản giàu cỡ… Thạch Sùng của nhà
họ Tiết, vừa là ẩn ý kín đáo về số phận của hai nhân vật Bảo Ngọc (ngọc
châu) và Bảo Thoa (vàng). Khi giấc mộng lầu hồng kết thúc thì công tử
cũng hóa thành bùn đất, tiểu thư thì giống như sắt vụn mà thôi.
Bảo Thoa bắt bướm ở đình Trích Thúy
Giải mã những lá số tiền định của mười hai thoa trong Hồng Lâu Mộng là
một việc làm khó khăn. Đối với những người đọc không có vốn tiếng
Trung dày dặn cộng thêm kiến thức về nền văn hóa Trung Quốc thì hiểu
một cách hoàn toàn những biện pháp nghệ thuật trong truyện (ẩn dụ, điển
cố, song quan, chiết tự) là gần như không thể. Bài viết này do đó chắc
chắn còn rất nhiều thiếu sót. Trong số mười hai lá số thì lá số Bảo Thoa –
Đại Ngọc đứng đầu bảng. Lá số tiền định của Bảo Thoa gắn liền với Đại
Ngọc, bởi lẽ hai nhân vật này như âm và dương, như mặt trăng và mặt
trời soi rọi vào nhau làm nổi bật lên những góc cạnh của họ. Bởi thế trong
số mười công án lớn của Hồng học, công án đầu tiên là “Đại Ngọc Bảo
Thoa ai hơn ai kém?” Những cuộc tranh cãi liên miên trong giới học giả
và giữa người đọc về vấn đề này đến giờ vẫn chưa dứt và đây có lẽ cũng
là ý đồ của tác giả. Lá số tiền định như sau:
Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại lấy một quyển ở trong tủ
“chính sách” ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô, trên cây treo một
cái đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái trâm vàng.
Có bốn câu thơ:
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
“Đức dừng thoi” ở đây ám chỉ Bảo Thoa, dựa theo điển cố về người vợ
nết na của Dương Tử: thấy chồng bỏ học quay về, nàng cắt tấm vải đang
dệt để khuyên chồng đừng bỏ lỡ con đường công danh sự nghiệp. Xuyên
suốt cả câu chuyện, Bảo Thoa luôn khuyên nhủ Bảo Ngọc học hành đỗ
đạt khiến cậu ta chán ngán – biểu hiệu cơ bản về sự cập kênh tâm hồn
giữa hai người. Hai chữ “trâm vàng” (kim trâm) là ám chỉ tên của Bảo
Thoa vì nghĩa trâm–thoa gần nhau, cũng như “đai ngọc giữa rừng” (ngọc
đái lâm nói lái là tên của Lâm Đại Ngọc). Bởi thế chiếc trâm vàng vùi
trong tuyết (tiết) chính là hình ảnh ẩn dụ về Bảo Thoa vậy.
Nói đến đây phải dừng lại một chút để bàn về tên của những cô gái vây
quanh Bảo Ngọc. Trong số các chị em tiểu thư trong vườn Đại Quan thì
cậu ta thân thiết nhất Sử Tương Vân và Đại Ngọc. Tên của Sử Tương
Vân có chữ “sở,” tên của Đại Ngọc lại được Bảo Ngọc đặt là Tần Tần,
ghép lại thành ra “mưa Sở mây Tần” chỉ chuyện ái ân của trai gái. Không
chỉ có “mây mưa,” Bảo Ngọc còn ôm cả trăng hoa nữa (Xạ Nguyệt, Hoa
Tập Nhân). Nhưng kết cục của cậu ta lại phải gắn với nàng tuyết lạnh lẽo
– Bảo Thoa. Tất cả là vì mối nhân duyên vàng ngọc được định sẵn khiến
cho truyện Hồng Lâu Mộng còn có tên khác là Kim Ngọc lương duyên.
Mối tình tay ba Bảo Ngọc – Đại Ngọc – Bảo Thoa
Bảo Ngọc lúc đẻ ra ngậm viên Thông linh bảo ngọc trong miệng, chính là
do hòn đá hóa thành. Trên mặt viên ngọc có viết dòng chữ “Mạc thất mạc
vương, tiên thọ hằng xương”, làm thành một cặp với dòng chữ khắc trên
cái khóa vàng của Bảo Thoa “Bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế.” Nhà
sư chốc đầu cho Bảo Thoa chiếc khóa chính là Diễu Diễu chân nhân,
người hóa phép cho hòn đá hóa thành hòn ngọc. Từ chi tiết trên có thể kết
luận Bảo Ngọc – Bảo Thoa chỉ là hai con tốt trong trò chơi nhân duyên
mà thôi.
Nói họ là con tốt tình ái không phải để ám chỉ những mưu kế của Vương
Hy Phượng, Giả Mẫu, bởi lẽ những người đàn bà tưởng chừng ghê gớm
ấy chẳng qua cũng con rối của thời thế, không hơn. Bàn tay của số phận
mạnh hơn mưu kế của con người, đủ khiến cho “những con tốt của nhân
duyên” tự mua dây buộc mình mà không biết. Xin hãy dành thời gian đọc
hai hồi thứ 29 và 35.
Hồi 29: Bảo Ngọc và Đại Ngọc giận dỗi nhau vì chuyện duyên “vàng
ngọc”. Đại Ngọc nóng lên cầm kéo cắt vụn cái dây đeo ngọc nàng làm
cho Bảo Ngọc.
Đại Ngọc nghe nói, không nghĩ gì đến mình đương ốm, chạy ngay lại
cướp lấy cái dây, tiện tay cầm kéo cắt nát ra. Tập Nhân và Tử Quyên
muốn giật lại, nhưng đã đứt làm mấy đoạn rồi.
Đại Ngọc khóc:
– Ta thực uổng công, anh ấy không cần đâu, đã có người khác đeo cho
cái dây đẹp hơn kia.
Tập Nhân vội cầm lấy viên ngọc nói:
– Làm gì như thế? Đây cũng là lỗi tự tôi hay bép xép.
Bảo Ngọc bảo Đại Ngọc:
– Cô cứ việc cắt đi, tôi không đeo ngọc cũng chẳng sao.
Viên ngọc là bản mệnh của Bảo Ngọc, sợi dây Đại Ngọc làm là mối tình
vấn vít buộc lấy cậu ta. Câu nói tưởng như trẻ con của Bảo Ngọc có hàm
ý sâu xa: nếu mối dây liên kết của hai người bị hủy hoại thì Bảo Ngọc
cũng không cần gì đến tấm thân mình nữa.
Tua nhanh đến hồi thứ 35 – “Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen, Oanh
Nhi khéo tết dây hoa mai”:
Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết
được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:
– Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã
Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:
– Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?
Bảo Thoa nói:
– Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu.
Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim
tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.
Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim
tuyến ra.
Ở hồi này, Bảo Thoa đề nghị dùng sợi kim tuyến để tết dây đeo ngọc cho
Bảo Ngọc, tưởng vô tình nhưng hỡi ôi lại chính là sợi dây tơ hồng! Dây
kim tuyến chính là dây vàng – nàng đã dùng sợi vàng bản mệnh của mình
để trói lấy viên ngọc, cũng từ đó gắn số phận hai người làm một. Kết cục
câu chuyện đã diễn ra đúng như vậy: Đại Ngọc chết, sợi dây giữa nàng và
người yêu đứt đoạn. Bảo Thoa trói buộc được Bảo Ngọc nhưng bản thân
cậu ta lại không cần gì đến bản thân nữa, dứt áo ra đi. Ở hồi sau, khi Bảo
Thoa cắm cúi tết sợi dây vàng cho chồng tương lai, nàng liền nghe thấy
Bảo Ngọc nói mê:
Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm
mê thét lên: “Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là
nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!
Đáng tiếc thay, ý muốn của con người không lại được với ý trời, vì đó mà
khúc hát của Bảo Thoa có tên Chung thân ngộ (lỡ nhau suốt đời):
Ai rằng vàng ngọc duyên ưa,
Ta quên cây, đá, thề xưa được nào.
Trơ trơ người tuyết trên cao,
Ngoài đời, đường vắng khuây sao được nàng.
Cuộc đời ngán nỗi tang thương,
Đẹp không toàn đẹp, lời càng đúng thay.
Dù cho án đặt ngang mày,
Cuối cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.
Đám cưới không tình yêu của Bảo Ngọc–Bảo Thoa
Điển tích “án đặt ngang mày” (cử án tề mi) nói về cặp vợ chồng chuẩn
mực Mạnh Quang–Lương Hồng kính nhau như khách. Quả thực mối
quan hệ vợ chồng của Bảo Ngọc và Bảo Thoa nhìn bên ngoài long lanh
nhưng chỉ được cái vỏ, còn bên trong họ vẫn đối đãi với nhau như…
khách, không hơn. Vàng kết hợp với ngọc nhìn bên ngoài đẹp nhưng thực
ra lại vô cùng lạnh lẽo. Ẩn dụ về cái lạnh (lãnh) của Bảo Thoa được tác
giả “cài cắm” trong Hồng Lâu Mộng ngay từ khi nàng xuất hiện. 
Bảo Thoa giữa hoa mẫu đơn: trong truyện nàng thường được ví với
Dương quý phi và hoa mẫu đơn vì có vẻ đẹp phúc hậu, đầy đặn
Ở đầu truyện, Bảo Thoa bị một chứng bệnh lạ “nhiệt độc từ trong thai,”
do đó được hòa thượng chỉ cho thứ thuốc uống đặc biệt “Lãnh hương
hoàn” (thuốc hoàn có mùi hương lạnh). 
Vị thuốc này ly kỳ ra sao?
– Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực
đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó
nhất là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu
đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào
mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười
hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi
vào ngày xuân phân năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười
hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
– Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không
mưa thì làm thế nào?
– Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn
phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân
nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày
tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật
ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào
trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra
uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
Vị thuốc của Bảo Thoa toàn sử dụng các thứ hoa màu trắng biểu tượng
cho sự thanh khiết, cộng thêm các loại nước sương, nước tuyết khéo hòa
trộn mà thành. Như các món ăn khác trong Hồng Lâu Mộng, món thuốc
này không thể nhìn dưới lăng kính hiện thực. Cách bào chế mang đậm
màu sắc thần thoại ấy nhấn mạnh vào tính chất băng thanh ngọc khiết,
cao quý không với tới được của Bảo Thoa, đồng thời diễn tả sự lãnh đạm
của nàng. Dùng cái lạnh để tiễu trừ nhiệt độc chính là ẩn dụ cho sự tự giới
hạn của Bảo Thoa. Nhiệt độc từ trong thai chính là cái tình nồng nhiệt của
nhân gian, là lý do khiến con tim trai gái rung động vì tình yêu, là nghiệp
chướng khiến Tần Khả Khanh, Lâm Đại Ngọc, Hạ Kim Quế phải chết.
Bảo Thoa dùng cái lạnh để áp chế cái tình khiến cho nàng trở thành nhân
vật vô tình, vì thế thoát khỏi phải chết vì tình ái. Tuy nhiên số phận của
Bảo Thoa có thể nói là tệ hơn cái chết: nàng sống cuộc đời của một quả
phụ dù chồng vẫn sống sờ sờ, trong một thứ “lãnh cung” do chính nàng
và thế lực phong kiến nàng ủng hộ nhiệt tình tạo nên. Lần đầu Bảo Ngọc
gặp Bảo Thoa, cậu có bị quyến rũ bởi thứ “hương lạnh” của nàng, cũng
nhiều lúc Bảo Ngọc gần cô chị mà quên khuấy mất cô em, nhưng rốt cuộc
trái tim cậu vẫn quay lại với “ngọc ấm” Lâm Đại Ngọc.
Bảo Ngọc lần đầu gặp Bảo Thoa, xán lại ngửi mùi thơm
Thử xem chính các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng nhận xét về Bảo Thoa
thế nào. Phượng Thư đánh giá Bảo Thoa là người “giữ gìn ý tứ, không
phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây
nguẩy lắc đầu.” Giới hầu cận thì bỗ bã hơn. Sau đây là đoạn thằng Hưng
“buôn dưa lê” với mẹ con Vưu nhị thư về sự lạnh lùng của Bảo Thoa.
(…) một cô là con gái bà dì chúng cháu, họ Tiết, tên gọi Bảo Thoa,
chừng như ở trong đống tuyết chui lên vậy. Khi gặp các cô ấy đi ra cửa,
hoặc lên xe hay chơi trong vườn, chúng cháu sợ quá không dám thở.
Chị Hai cười nói:
– Nhà mày phép tắc lắm, khi trẻ con đi ra ngoài gặp các cô đều phải
tránh xa, còn dám thở vào đâu nữa!
Thằng Hưng xua tay nói:
– Không phải thế! Không phải thế! Chính là giữ lễ phải tránh xa, điều đó
không cần nói. Mặc dầu đã tránh xa, nhưng ai nấy vẫn phải nín thở vì sợ
thở mạnh quá sẽ thổi ngã mất cô Lâm, thở nóng quá sẽ làm tan cô Tiết.
Bất chấp điều đó, Tiết Bảo Thoa vẫn là một nhân vật hết sức phức tạp. Sự
lạnh lùng kể trên tuy là tính cách điển hình của Bảo Thoa song không
phải là tất cả. Còn một Tiết Bảo Thoa thông thái, lãng mạn, tình cảm mà
chúng ta sẽ cùng khám phá ở những bài sau.

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

14:05 Saturday,10.3.2018 Đăng bởi:  Tuấn Kiệt


Tranh hoa mẫu đơn rất đẹp, rất tiếc là loại hoa mẫu đơn này khó trồng ở việt
nam. Khí hậu gần giống với Trung Quốc mà sao khó trồng

14:08 Friday,18.11.2016 Đăng bởi:  Ly
@Trương Huyền My: mạn phép tác giả mình có vài dòng thảo luận thế này.
Trong bài viết tác giả đã phân tích nhiều về độ "lạnh" của Bảo Thoa, ngoài ra
còn rất nhiều tình tiết cho thấy Bảo Thoa là người lí trí hơn lí tình, ví dụ
những lời nói của Bảo Thoa khi Kim Xuyến tự tử, khi cô ba Vưu tự vẫn và
Liễu Tương Liên bỏ đi. Nhiều người coi đó là những lời phũ phàng, đối lập
với vẻ thanh cao của Bảo Thoa. Nếu bạn cho rằng truyện không đề cập tới
tình cảm của Bảo Thoa, thì có lẽ là do đối với bạn những lời khuyên nhủ của
Bảo Thoa đối với Bảo Ngọc về việc tu thân không tượng trưng cho tình yêu.
Bảo Thoa theo chuẩn nam nữ yêu đương tự do thì không có ái tình gì thật, mà
nếu có thì cũng đã bị đè nén hết rồi. HLM có 2 cái kết phổ biến (bản của Cao
Ngạc, và bản phim truyền hình 1987), theo cái kết nào thì bạn cũng thấy là
Bảo Thoa không phải người bị tình cảm chi phối. Ví dụ trong bản của Cao
Ngạc, khi biết tin Bảo Ngọc bị lạc mất (thực ra là bỏ đi) sau khi thi), đồng
nghĩa với việc mình sẽ thành goá phụ trẻ tuổi sẽ sinh và nuôi con một mình,
Bảo Thoa hầu như không phản ứng gì ra mặt. Sau còn có đoạn Bảo Thoa
khóc lóc, nhưng rồi lại quay ra an ủi mọi người, nói chuyện đạo lí (cái này là
sở trường của Bảo Thoa hihi), phải nói là thần kinh quá thép. Theo nhận xét
của mình thì Bảo Thoa là mẫu người ích kỉ, ngược lại hoàn toàn với nhận xét
của các nhân vật trong HLM. Ích kỉ ở đây là làm gì cũng tính phần thiệt hơn,
cái gì có lợi cho mình thì làm, cái gì không có lợi thì không hoàn toàn không
ngó ngàng tới. Còn theo chuẩn phong kiến thì Bảo Thoa là người rất hiểu
chuyện (đạo lí). Phụ nữ lấy chồng không chỉ biết có chồng mà còn phải hết
lòng vì gia đình chồng, phụng dưỡng bố mẹ chồng và sinh con nối dõi là ưu
tiên số 1 nên những việc làm của Bảo Thoa là cực kì phải đạo. 

Tập Nhân đúng là bản phụ của Bảo Thoa, theo kiểu Tình Văn là bản phụ của
Đại Ngọc. Nhìn vào những hành động của Tập Nhân và Tình Văn bạn có thể
suy ngược một phần về Bảo Thoa và Đại Ngọc (và ngược lại). Phận của Tình
Văn và Đại Ngọc là phải chết vì cái tình đối với Bảo Ngọc, còn Tập Nhân,
đọc theo bản Cao Ngạc, sau khi Bảo Ngọc bỏ đi, chị ta cũng tưởng khóc lóc
đau đớn, nhưng vẫn đủ tỉnh táo để nghĩ nên thế này nên thế kia. Mấy lần
muốn chết, nhưng lần thì uống thuốc xong thấy khoẻ lại, lần thì nghĩ không
nên chết ở nhà anh chị, lần thì nghĩ không nên chết ở nhà chồng mới cưới vì
có vẻ tử tế... nên cuối cùng không chết :D

Đại Ngọc vs Bảo Thoa: viên ngọc đen vs chiếc thoa vàng, ai hơn ai
kém? 17. 01. 16 - 5:46 am
Anh Nguyễn

“Rốt lại thì Đại Ngọc-Bảo Thoa ai hơn ai kém?” là một trong mười công
án lớn của Hồng Lâu Mộng. Thật khó có thể trả lời thoả đáng đến tận
cùng, bởi Tào Tuyết Cần đã cố tình cho hai nhân vật này làm đối trọng
trong tam giác tình yêu, ắt không cho phép có sự chênh lệch quá xa. So
bề tài sắc thì chẳng có ai trội hơn ai, người là chiếc thoa vàng, người là
viên ngọc đen (chữ “đại” trong tên Đại Ngọc là chỉ màu huyền của loại đá
dùng vẽ lông mày, không phải là to lớn). Càng đi vào tiểu tiết lại càng
khó phân định rạch ròi, đơn giản là người thích cô Lâm, người yêu cô
Bảo, cũng như anh thích làm toán, tôi thích viết văn, không có ai đúng ai
sai. Vậy so sánh Đại Ngọc và Bảo Thoa phải chăng là một việc làm vô
ích?

Đại Ngọc
Hoàn toàn không phải như vậy. Giữa cõi mịt mù hỗn độn lại có thể nhận
ra một số đặc điểm và bản chất, ấy chính là Hồng Lâu Mộng. Trên thực
tế, không thể nói đến Đại Ngọc mà không kể đến Bảo Thoa, và ngược lại.
Người Trung Quốc quan niệm thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa, câu đối
lại là tinh hoa của thơ văn. Câu đối gồm hai vế sóng đôi để tôn vinh cái
hay của nhau, cả hai cùng tề chỉnh, không cái nào xuất sắc hơn cái nào
mới là câu đối hay. Quan hệ giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa đại khái cũng
gần giống như hai vế của câu đối vậy.
Bảo Thoa
Số phận của Đại Ngọc và Bảo Thoa có gắn kết chặt chẽ với Bảo Ngọc,
một bên là “mộc thạch tiền minh,” một bên là “kim ngọc lương duyên”.
Bảo Ngọc có lúc ngả sang người này, có lúc lại rung động với người kia,
kết cục làm cho một người chết uống, một người sống uổng. Nhìn qua thì
có vẻ là một câu chuyện tình tay ba điển hình, nhưng nếu đi sâu hơn thì
mối quan hệ này có ý nghĩa tượng trưng rất mạnh mẽ. Tên của Bảo Ngọc
chính là ghép giữa chữ “Bảo” trong Bảo Thoa và chữ “Ngọc” trong Đại
Ngọc – từ bản thể sâu kín nhất, Bảo Ngọc đã không thể tồn tại mà thiếu
một trong hai nàng. Đứng giữa hai tiểu mỹ nhân yêu kiều, các chàng
thường trộm nghĩ “thân này ví xẻ làm đôi…”, còn Bảo Ngọc thì lại mơ
hai nàng hợp thành một. Trong giấc mộng ở Thái Hư ảo cảnh, Bảo Ngọc
đã gặp ai?
Tiên cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu
thơm tho. Trong đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy. Đáng
sợ nhất là có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo
Thoa, dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc.
Bộ ba nhân vật Bảo Ngọc-Đại Ngọc-Bảo Thoa
Đây là giấc mộng đánh dấu bước đầu sự trưởng thành về tình, tính, và
dục của Bảo Ngọc, hay như Tào Tuyết Cần gọi là “phong lưu gây lấy nợ
vào thân”. Từ giây phút ân tình với nàng tiên đó, Bảo Ngọc không còn là
một đứa trẻ chưa biết mùi đời. Về mặt sinh lý là vậy, còn trong tiềm thức,
rõ ràng Bảo Ngọc đã hình thành một “ideal type” (mẫu hình lý tưởng).
Người phụ nữ hoàn hảo của cậu Bảo (cũng của Tào tiên sinh) không phải
ai cụ thể, mà là một nàng Pandora “lắp ghép” từ Bảo Thoa và Đại Ngọc.
Sự kết hợp giữa Bảo Thoa và Đại Ngọc là sự vẹn toàn thập toàn thập mỹ,
là một thứ “fantasy”… bất khả thi, vì thế mà nàng tiên chỉ xuất hiện trong
giấc mơ chứ không thể tồn tại ngoài đời thực. Tuy nhiên, qua chi tiết giấc
mơ có thể thấy triết lý của Tào Tuyết Cần về hai nửa cấu thành nữ tính
Trung Hoa. Nữ tính huyền bí đó là một mẫu mực lý tưởng xuất hiện trong
giấc mơ của Bảo Ngọc – một giấc mộng nhỏ lồng trong giấc mộng lầu
hồng, rồi thiên hạ chẳng qua cũng chỉ là một trường đại mộng. Vậy phải
chăng Đại Ngọc và Bảo Thoa đơn giản là hai mảnh của trí tưởng tượng
mà thôi?
Nếu chỉ có vậy thì cuộc tranh luận về Bảo Thoa-Đại Ngọc có thể đi đến
hồi kết ở đây rồi. Nhưng trong số mười công án của Hồng học, còn có
một câu hỏi lớn:
Hồng lâu mộng có chứa đựng tư tưởng phản Mãn Thanh hay không?
Thời Trung Hoa dân quốc, các nhà Hồng học bắt đầu mạnh dạn hơn trong
việc phân tích yếu tố chính trị của Hồng Lâu Mộng, kể từ đó nảy sinh ra
nhiều học thuyết mới, trong đó có một thuyết cho rằng hai người đẹp của
Hồng Lâu Mộng là đại biểu của hai thời Minh, Thanh.
Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng vào thời điểm vận nhà và vận nước
đều đang suy. Thời Ung Chính, Càn Long, người Mãn Châu đã chiếm
được giang sơn gấm vóc của nhà Hán được một thời gian khá dài. Đất
nước thái bình thịnh trị, tuy nhiên không ít người vẫn còn nuối tiếc tiền
triều. Những tổ chức nửa tôn giáo nửa chính trị kiểu Thiên Địa hội mang
tư tưởng phản Thanh phục Minh có không ít người tham gia. Khởi nghĩa
lật đổ triều chính trong nội bộ Hán tộc có đầy rẫy trong lịch sử, nhưng
người Hán đặc biệt căm hận việc đất nước bị di địch xâm lược. Người
Mãn Châu, cũng như người Hung Nô, Khiết Đan,… đều bị coi là man di.
Nhà Nguyên (Mông Cổ) đã một lần công diệt Nam Tống, chiếm lấy
Trung Hoa, rồi lại bị Chu Nguyên Chương cướp về, lên làm Minh Thái
tổ. Triều Minh là triều đại cuối cùng do người Hán cai trị. Về sau Ngô
Tam Quế mở cửa cho người Mãn Châu vào lãnh thổ Trung Hoa, cướp lấy
chính quyền, lập ra nhà Thanh. Nỗi nhục bị những kẻ “mọi rợ” chiếm lấy
đất nước đã ám ảnh không ít thế hệ văn sĩ người Hán. Hồng Lâu Mộng ra
đời không sớm không muộn, đúng lúc kinh tế thịnh vượng nhưng tư
tưởng phục quốc vẫn còn dai dẳng. Bởi vậy có nhiều người cho rằng Tào
Tuyết Cần đã kín đáo gửi gắm vào hai nhân vật Đại Ngọc-Bảo Thoa xu
hướng chính trị của ông, và Hồng Lâu Mộng chưa bao giờ là một tiểu
thuyết tình ái đơn thuần.
Đại Ngọc-Bảo Ngọc chơi đùa khi còn nhỏ
Xét về gia thế, Đại Ngọc mồ côi cả cha lẫn mẹ, có thể nói là gần như “vô
sản”. Bảo Thoa thì có cả anh và mẹ, gia thế giàu có bậc nhất, là một trong
bốn nhà giàu ở Kim Lăng, “ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi”. Tình
cảnh bơ vơ của Đại Ngọc liệu có khác gì nhà Hán mất cả giang sơn,
chẳng còn mảnh đất cắm dùi? Đương nhiên người Mãn Châu thứ nhất là
số lượng không đông đảo, thứ hai là muốn thu phục nhân tâm, nên vẫn để
quan lại người Hán giữ chức trong triều, nhưng những lời xì xào thiên vị
người Mãn, chèn ép người Hán quả thật không ít. Tâm lý giận dỗi, so bì
của Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng thật chẳng khác gì thái độ uất ức của
những sĩ phu vong quốc thời bấy giờ.
Đại Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
– Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà Chu nói:
– Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại Ngọc cười nhạt:
– Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Xét về hình dáng, Đại Ngọc mong manh sương gió, là nàng Tây Thi đa
bệnh, “người yếu như không mang nổi áo, nhưng lại có một vẻ yêu kiều
yểu điệu riêng.” Bảo Thoa thì ngược lại, “mặt tròn mâm bạc”, cơ thể
phốp pháp giống như Dương Quý phi, mang vẻ đẹp vượng phu ích tử.
Người Mãn Châu vốn xuất thân từ du mục, sống trên lưng ngựa, tự nhiên
là hay giễu nhại những văn sĩ người Hán “trói gà không chặt”. Nhìn rộng
hơn, thể lực kiệt quệ, thường xuyên đau ốm của Đại Ngọc ngụ ý cho vận
khí yếu ớt của nhà Minh, trái ngược với nhà Thanh đang đà sung sức. Về
cuối truyện Đại Ngọc qua đời là cái kết có thể dự đoán trước, bởi nó ứng
hợp với sự rệu rã của nhà Minh. Cái chết của Đại Ngọc cho thấy cái nhìn
bi quan của người viết. Thực ra triều đại nào cũng có giai đoạn cường
thịnh rồi chuyển sang suy vi. Nhà Thanh đến cuối thế kỷ 19 cũng chỉ còn
là một cái bóng của thời Khang Hy, Càn Long.

Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc khi nàng đang đọc sách tình ái
Xét về nguyện vọng, hành vi trốn mình trong những áng văn mơ mộng
kiểu Tây Sương ký, hoặc khóc thương hoa chết trong Táng Hoa từ của
Đại Ngọc chính là ẩn dụ cho căn bệnh thoát ly thực tại (escapism) của
nhiều người Hán dưới thời cai trị của nhà Thanh. Thương thân trách phận
(mồ côi), tiếc nuối quá khứ (được cha mẹ bảo bọc), sợ hãi tương lai (bị bỏ
rơi), Đại Ngọc có tâm bệnh rất nặng. Bảo Thoa thì mang nặng tư tưởng
phong kiến, luôn khuyên Bảo Ngọc ra làm quan, rõ ràng là có ý đồ chính
trị, nếu không thì cũng rất thực tế, nếu chưa nói là xu thời. Bảo Thoa suy
nghĩ mạch lạc, thực dụng, có việc đến thì bình tĩnh giải quyết, không mở
miệng oán thán. Đại Ngọc coi chốn quan trường là nơi bẩn thỉu, Bảo
Thoa cho rằng những áng văn mơ mộng là độc hại. Sự trái ngược này đã
phản ảnh thế giới quan khác nhau giữa (một số không nhỏ) người Hán và
người Mãn Châu dưới thời nhà Thanh.

Bảo Thoa bắt bướm ở đình Trích Thuý, được ví với Dương Quý phi
Xét về tính cách, Đại Ngọc có tư thế ngạo nghễ khinh đời, còn Bảo Thoa
thì mềm mại và khéo léo. Điều này tưởng chừng ngược đời nhưng thực ra
lại rất hợp lý. Trong truyện đã nói rõ:
Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống như Đại
Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng
người dưới.
Nếu sự khiêm nhường của Bảo Thoa xuất phát từ tâm lý tự tin của kẻ
thắng thì sự tự phụ của Đại Ngọc lại mang nặng màu sắc tự ti, tư thế thua
cuộc. Tào Tuyết Cần có thể nói là bậc thầy tâm lý, ông không lạ gì trước
những thái độ tiêu cực, oán trách thời cuộc của người Hán, dựa vào đó
miêu tả sự dằn vặt, oán trách của Đại Ngọc rất tinh diệu. Trong suốt cả
câu chuyện, Đại Ngọc không ngừng ghen tuông, lo sợ Bảo Ngọc yêu Bảo
Thoa, chẳng khác nào người Hán cố gắng níu kéo những hồi ức và hào
quang của tiền triều. Kết cục thì Đại Ngọc vẫn đánh mất Bảo Ngọc, và
dòng chảy của thời cuộc cũng mau chóng chôn vùi nhà Minh dưới cát bụi
thời gian, bởi những nỗ lực manh mún giành lại thiên hạ từ tay người
Mãn Thanh đều không thành công.

Đại Ngọc ốm đau


Xét về kết cuộc, Bảo Thoa và Đại Ngọc đều không thành công trong tình
cảm với Bảo Ngọc. Một người có được trái tim cậu ta, nhưng rốt cục chỉ
còn một khối tình hận. Người còn lại có được Bảo Ngọc bằng xương thịt,
nhưng chỉ là cái vỏ rỗng tuếch. Nếu coi Bảo Ngọc là hình ảnh đại diện
cho trí thức người Hán thì hành trình yêu đương của Bảo Ngọc chính là đi
tìm cái tôi chung. Bảo Ngọc xuất hiện đã sống chết yêu Đại Ngọc như
quen từ kiếp trước, có điểm giống với tình cảm dân tộc không dễ gì cắt
đứt. Rốt cuộc tình yêu đó bị chứng tỏ là không thực tế, thậm chí là có hại
và bị ngăn cản, Bảo Ngọc tiếc nuối dằn vặt nhưng vẫn phải thuận theo
thời cuộc, kết hôn cùng Bảo Thoa. Về sau Bảo Ngọc hoàn thành nhiệm
vụ với gia đình, lấy vợ sinh con đi thi đỗ, nhưng tâm hồn cậu ta đã vĩnh
viễn rời khỏi thế giới trần tục, chẳng khác nào những sĩ phu người Hán ra
làm quan cho nhà Thanh nhưng trong lòng trống rỗng và đau khổ. Bảo
Ngọc còn có thể về cõi Đại Hoang, còn người sĩ phu thì biết về đâu?

Đại Ngọc qua đời, được mọi người rửa ráy để khâm liệm trong khi Bảo
Ngọc kết hôn vợ chồng cùng Bảo Thoa
Tào Tuyết Cần vốn dòng dõi người Hán ở Liêu Dương, về sau tổ tiên ông
đầu hàng nhà Thanh, nhập tịch Mãn Châu. Nhà họ Tào có uy danh cực
lớn, tiền của nhiều như nước, được nhà Thanh sủng ái. Trong gia tộc có ít
nhất hai người làm phi tần trong cung, giống với Nguyên Xuân trong
truyện. Về sau, khi Ung Chính lên ngôi, những chuyện ăn của đút, bòn rút
bị lôi ra ánh sáng, nhà họ Tào liền bị thất sủng, có thể nói là y hệt như
tình cảnh nhà họ Giả. Tào Tuyết Cần sinh ra lúc vận nhà khó khăn, thân
mang tài nghệ nhưng không thể thỏa chí bình sinh, quả thực đã mang một
nỗi uất ức lớn. Tình cảm phức tạp của ông với nhà Minh và nhà Thanh ra
sao, ta chỉ có thể phỏng đoán dựa vào những chi tiết ít ỏi, và tác phẩm
duy nhất còn lại của ông – Hồng Lâu Mộng.

Bảo Ngọc chăn gối cùng vợ – Bảo Thoa


Tào Tuyết Cần liệu có thực sự ủng hộ phản Thanh phục Minh thì không
thể biết chắc, nhưng dựa vào một chi tiết nhỏ như mắt muỗi, có thể suy ra
cách ông xếp hạng Đại Ngọc và Bảo Thoa. Chi tiết đó nằm ở hồi Giả
Chính vào thăm vườn Đại Quan:
Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng
suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào,
cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có
một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ.
Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và
một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi
các ngả.
Giả Chính nói:
– Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì! (*)
Nơi này về sau chính là Hành Vu uyển, nơi ở của Bảo Thoa.
Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi
thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ,
cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn
gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn,
mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ. Chân
tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến
dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra..
Giả Chính cười nói:
– Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không
uổng một đời.
Nơi này về sau chính là Tiêu Tương quán, chỗ ở của Đại Ngọc.
Về điểm này, ông Dư Anh Thời đã nhận xét “đây có thể nói tác giả mượn
mồm Giả Chính để biểu hiện thái độ của mình.” Nói rõ hơn về vấn đề
phân loại người và cảnh trong Đại Quan Viên, ông Du Bình Bá cho rằng
lời bình ở đây đã nói rõ ý đồ của chính tác giả tiểu thuyết: “Đây là phép
chưa khen (bên kia) hẵng chê (bên này) trước đã. Bảo Thoa với Đại Ngọc
chưa so đã thấy hơn kém. Khắc họa cảnh và người trong tiểu thuyết như
vậy không phải là dễ”. Rốt cuộc thì tình cảm của Tào Tuyết Cần trước
sau vẫn nghiêng về Đại Ngọc, chẳng khác nào Bảo Ngọc khi sắp rũ bỏ nợ
trần gian vẫn si mộng hình bóng từ kiếp trước của nàng Giáng Châu!
*
(*) bản dịch mới dịch câu này là “Nhà cửa ở đây vô vị quá!”
Phượng Thư và mệnh Hỏa (phần 1): Nội vụ hai tay hai dao 28. 02. 18 -
10:10 am
Anh Nguyễn biên soạn

(Tiếp theo bài 1 và bài 2)


Nhân vật tiếp theo trong Ngũ hành là Vương Hy Phượng, thuộc mệnh
Hỏa. Trước khi phân tích kỹ hơn, xin phép nói sơ lược về sự tiến triển
trong cách nhìn của độc giả đối với Vương Hy Phượng.

Phượng Thư giữ tiếng nói quan trọng trong nhà họ Giả
Vương Hy Phượng, hay còn được gọi với cái tên Phượng Thư, Phượng ớt
(lạt tử) là nữ nhân quan trọng thứ ba trong Hồng Lâu Mộng. Từ thế kỷ 19
đổ về trước, xu hướng chung coi Phượng Thư là nhân vật phản diện,
thường so sánh nàng với Tào Tháo. Thế nhưng bước sang thể kỷ 20,
Phượng Thư được các nhà phê bình “xét lại” với cái nhìn đa chiều hơn,
sự ái mộ của người đọc với nàng cũng từ đó tăng theo. Một cuộc khảo sát
vào năm 1935 của giáo sư văn học Triệu Cảnh Thâm tại đại học Phúc
Đán, Thượng Hải cho thấy Phượng Thư được yêu thích chỉ sau Bảo Thoa
và Đại Ngọc. Tầm ảnh hưởng của Phượng Thư với văn hóa đương đại
Trung Quốc có không ít phần là nhờ yếu tố chính trị, có thể kể ra ba lý do
chủ đạo:
Thứ nhất, tính cạnh tranh khốc liệt, chủ nghĩa kim tiền trong xã hội Trung
Quốc khiến kiểu người như Phượng Thư trở thành hình mẫu tinh thần,
những ai cảm thấy bị chà đạp, thiếu tự tin cũng có thể nhìn vào bản lĩnh
của Phượng Thư mà khích lệ bản thân tiến lên. Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo
Ngọc tái sinh chưa chắc đã tồn tại được trong môi trường hiện nay, nhưng
Phượng Thư lại có thể thích nghi rất tốt.

Phượng Thư điều hành cơ nghiệp nhà họ Giả, nhưng cũng không ít lần vì
tư lợi mà làm chuyện xấu
Thứ hai, tư tưởng giải phóng phụ nữ, trai gái bình đẳng lan rộng khiến
Phượng Thư bỗng trở thành “nữ anh hùng” thách thức tầng lớp nam trị.
Một người phụ nữ lại có thể quyền biến như vậy, khiến bao gã đàn ông
nghiến răng tức mà không làm được gì, quả khiến cho người ta hả dạ.
Nàng bị chê là độc ác, nhưng thử hỏi thời phong kiến Trung Quốc có
người đàn bà nào đứng trên đỉnh cao mà không có vài phần nhẫn tâm, thủ
đoạn? Những hành động của nàng từng bị coi là đảo ngược tôn ti trật tự,
giờ đã trở thành tích cực, có tính đấu tranh.
Thứ ba, Phượng Thư được sự ủng hộ của nhân vật quyền thế nhất Trung
Quốc thế kỉ 20 – Mao Trạch Đông. Mao Chủ tịch là một người có tiếng là
say mê Hồng Lâu Mộng, ông từng nói rằng phải đọc Hồng Lâu Mộng ít
nhất năm lần mới nên mở miệng bình luận về nó. Lúc sinh thời Mao hết
sức yêu thích Phượng Thư, thậm chí còn tuyên bố, Phượng Thư có thể
đảm nhiệm vai trò bộ trưởng bộ Nội vụ một cách xuất sắc. Nhận xét về
cái tài của Phượng Thư, Mao gọi đó là khả năng “hai tay cầm dao giết
người mà không rơi một giọt máu.” Vùng Hồ Nam quê Mao Trạch Đông
lại nổi tiếng về đặc sản ớt cay xé lưỡi. Người Trung Quốc có câu “Người
Tứ Xuyên không sợ cay, người Hồ Nam sợ không cay.” Mao Trạch Đông
rất tôn sùng ớt, ông từng nói: “Không ăn được ớt thì không làm được
cách mạng!” Sự yêu thích của Mao Trạch Đông với Phượng ớt khiến số
lượng công trình nghiên cứu về nàng tăng vọt.

Mao Trạch Đông đọc Hồng Lâu Mộng


Có thể dễ dàng nhận thấy vì sao Phượng Thư chiếm được cảm tình của
đông đảo người đọc. Từ thời thượng cổ, lửa đã mang tới hơi ấm và sự
sống cho loài người, và cũng có thể trở thành vũ khí hủy diệt, bạo tàn.
Lửa mau bùng lên song lại khó kiểm soát. Giống như ngọn lửa, Phượng
Thư mang trong mình sự quá khích, cực đoan, hấp dẫn người khác nhưng
cũng mau thiêu đốt họ. Người mệnh Hỏa thường có tính cách bốc đồng,
cuồng nhiệt, đi kèm với nóng nảy và khắt khe. Họ thường giữ vai trò lãnh
đạo, có khả năng truyền cảm hứng, lôi kéo số đông, kèm theo đó là thói
bất chấp hậu quả, liều lĩnh, dễ gây rắc rối. Phượng Thư là quản gia của
nhà họ Giả, có thể nói là trên muôn người. Nàng được Giả mẫu và Vương
phu nhân thương yêu, là tay hòm chìa khóa, song cũng có vô số kẻ nghiến
răng căm hận, muốn nuốt sống nàng. Những quyết định sai lầm trong việc
cho vay nặng lãi, hại người của Phượng Thư góp phần biến tiền đồ của
gia tộc thành tro bụi.
Mệnh Hỏa của Phượng Thư còn thể hiện qua tính hai mặt giống như lửa.
Lửa có vẻ đẹp huyền bí, quyến rũ, nhưng chạm tay vào là bỏng. Phượng
Thư cũng Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu. Làn son chưa hé miệng như
cười, có điều ẩn bên dưới là dao găm sắc nhọn. Sự tàn nhẫn của Phượng
Thư đã trở thành huyền thoại trong Hồng Lâu Mộng. Nàng nghiệt ngã với
tất cả: từ chồng (Giả Liễn) cho tới con em trong nhà, từ người hầu thân
tín nhất (Bình Nhi) đến những kẻ nô bộc khác.
Phượng Thư mắng Giả Hoàn:
Mày là hạng người không có khí phách gì cả. Ta thường bảo mày muốn
ăn, muốn uống, muốn chơi gì tùy ý, trong các anh, các chị, ưa người nào
thì chơi với người ấy, mày không nghe lời, lại cứ đi nghe hạng người bậy
bạ, ranh mãnh. Mình không biết tự trọng mình, chỉ theo lối hạ lưu bừa
bãi, lại còn oán người ta đối đãi thiên lệch với mình. Thua có mấy đồng
mà đến nỗi thế à? Thua hết bao nhiêu? Từ rầy mày còn giữ lối quỉ quái
như thế, ta sẽ đánh trước rồi mách bên trường học cho người ta lột da ra!
Vì mày không biết tự trọng, nên anh Bảo giận mày lắm. Nếu tao không
can thì anh mày đã đá cho mày lòi ruột ra rồi. Thôi! Cút đi!
Phượng Thư đánh ghen:
Phượng Thư ngồi ngay ở trên thềm, bắt đứa bé quỳ xuống, rồi hét bảo
Bình Nhi:
– Bảo hai đứa hầu ở cửa ngoài mang thừng roi vào đây, đem con ranh con
này đánh chết đi cho tao. Nó chẳng biết tao là ai à?
Đứa bé hồn vía lên mây, vừa khóc vừa van lạy xin tha.
[…]
Đứa bé trước còn chối cãi, sau thấy Phượng Thư bảo nung đỏ thanh sắt dí
vào mồm, nó mới khóc nói:
[…]
Nói xong, lấy cái trâm ở trên đầu ra đâm vào mồm đứa bé. Nó sợ quá,
vừa tránh vừa khóc:
[…]
Phượng Thư quát:
– Từ nãy mày làm gì? Bây giờ tao trông thấy rồi, mày mới tìm cách đổ
quanh.
Nói xong, giơ tay tát một cái, làm cho đứa hầu ngã lạng choạng
[…]
Phượng Thư nghe nói, tức run người lên. Lại nghe thấy họ đều khen Bình
Nhi, liền ngờ cho Bình Nhi ngày thường vắng mình, chắc cũng ngỏ lời
oán trách. Hơi rượu càng hăng lên, không nghĩ ngợi gì cả. Phương Thư
quay ngay người lại tát Bình Nhi hai cái; đạp cửa vào, không nói năng gì,
túm lấy vợ Bão Nhị đánh xé. Lại sợ Giả Liễn trốn đi, liền đứng chặn lấy
cửa và mắng:
– Con đĩ này! Mày đã cướp chồng chủ mày, lại định giết cả vợ chủ mày
nữa à! Bình Nhi lại đây! Bọn đĩ này cùng về hùa với nhau để hại ta!
Ngoài mặt thì vẫn thơn thớt dỗ dành ta.
Nói xong lại đánh Bình Nhi mấy cái.
Phượng Thư đánh ghen
Về sau vợ Bão Nhị treo cổ tự sát vì nhục nhã, Vưu Nhị Thư cũng nuốt
vàng chết do bàn tay ghen tuông của Phượng Thư sắp đặt. Đấy là chưa
kể Giả Thuỵ vì mưu hiểm của Phượng Thư mà lìa đời. Mao Trạch Đông
đã nhận xét: “Nhìn mà xem, cô ta bỡn cợt Giả Thuỵ vào chỗ chết mà y
không hay biết.” Kết cục bi thảm của Đại Ngọc cũng một phần do kế
“tráo giường đổi cột” của Phượng Thư. Có thể nói Phượng Thư là nhân
vật gây ra nhiều đau khổ nhất trong Hồng Lâu Mộng. Đó là khía cạnh hủy
diệt, ghê gớm của Hỏa.
Phượng Thư mồi chài Giả Thuỵ
Lửa hại người, nhưng cũng có thể quay lại thiêu đốt chính kẻ mang nó. Ở
chương 25 Phượng Thư bị lời nguyền của phù thuỷ khiến “tâm thần mê
mẩn, nằm vật vã trên giường, người nóng như lửa, nói lảm nhảm chẳng
biết tý gì.” Có thể nói chất Hỏa trong Phượng Thư đã phản bội lại nàng.
(Còn tiếp phần 2)
*
SOI: Để đọc các bài cùng tác giả, các bạn gõ vào phần tìm kiếm, phần
tên tác giả, và gõ tên vào.

Phượng Thư và mệnh Hỏa (phần 2): máu đỏ của nam tính 02. 03. 18 -
8:30 pm
Anh Nguyễn biên soạn

(Tiếp theo phần 1 của bài, và bài 1, bài 2 của chùm bài)


Hành Hỏa đứng phía Nam, màu đỏ. Nguyên quán của Phượng Thư ở tại
Nam Kinh, loài vật bản mệnh của Phượng Thư là chim phượng màu đỏ
trấn phía nam. Ớt (lạt tử) cũng có màu đỏ. Lần đầu Phượng Thư xuất hiện
mặc áo màu đỏ rực (đại hồng,) cài trâm ngũ phượng, mắt phượng sắc sảo,
khí phái như tướng soái trên sân khấu:
Chợt thấy bọn hầu đỡ một người từ phòng sau lại. Người này trang sức
không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông như một vị thần tiên!
Trên đầu, đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài trâm Ngũ Phượng
Triêu Dương đính hạt châu, cổ đeo vòng vàng chạm con ly, mình mặc áo
vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm lượn hoa bằng chỉ kim tuyến, ngoài
khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch viền chỉ ngũ sắc, mặc quần
lụa hoa màu cánh trả; mắt phượng, mày cong lá liễu, vóc người óng ả,
dáng điệu phong lưu.
Trang phục của Phượng Thư
Khi ở nhà Phượng Thư cũng ăn bận lộng lẫy, áo quần màu đỏ, khác hẳn
người khác:
Phượng Thư ở nhà thường đội mũ Chiêu Quân lông điêu sắc tía, chung
quanh có dây giắt hạt châu, mặc áo hoa màu hồng điều, khoác áo choàng
bằng da chuột, viền chỉ tơ màu thạch thanh, mặc quần nền lụa đại hồng
phấn son lộng lẫy, ngồi nghiêm chỉnh ở đấy, tay đương cầm cái đũa bằng
đồng gạt tro lồng ấp.
Tính Hỏa của Phượng Thư còn biểu hiện qua màu đỏ của máu. Máu trong
người là biểu tượng của sinh mệnh, sức khỏe. Khi Phượng Thư bắt đầu
suy yếu thì máu trong người nàng cũng dần kiệt quệ vì bệnh băng huyết,
để lại một Phượng Thư nhợt nhạt, không sức sống. Ngọn lửa dần bị dập
tắt cũng như máu trong người Phượng Thư không ngớt tuôn chảy. Cuối
cùng Phượng Thư vì bệnh tật, mất máu, cộng thêm tủi nhục mà chết năm
31 tuổi.
Phượng Thư khi bắt đầu bệnh tật, yếu ớt, trắng bệch
Theo quan hệ Tương khắc thì Thủy khắc Hỏa. Trong Hồng Lâu Mộng,
Thủy là biểu tượng của nữ tính, vì thế Phượng Thư là kẻ phản nghịch giới
nữ. Có nhiều dấu hiệu ám chỉ việc này. Vương Hy Phượng là tên nam
giới, thậm chí trong Hồng Lâu Mộng có kể “truyện trong truyện” về một
cậu học trò tên là Vương Hy Phượng lên kinh dự thi. Từ nhỏ Phượng Thư
đã “giả làm trai, đi học.” Lớn lên Phượng Thư không bằng lòng đứng đầu
trong giới quần thoa, trái lại, nàng muốn lấn lướt cả giới đàn ông. Dì Chu
đã nhận xét về Phượng Thư: “Bề ngoài dáng điệu óng ả, tưởng chỉ là một
cô gái đẹp, nhưng lại là người có đến vạn con mắt, không chỗ nào là
không nhìn thấy. Còn về ăn nói thì chấp cả mười anh đàn ông mồm mép
cũng phải thua.”
Tần Khả Khanh khi hiện về báo mộng cũng khen ngợi Phượng Thư:
“Thím là bực anh hùng trong đám phấn son, ngay bọn con trai mũ cao áo
dài cũng chẳng hơn được.”
Vợ Chu Thuỵ cũng nịnh hót Phượng Thư: “Đừng nói là đàn bà làm
không được, dầu cho hạng đàn ông ba đầu sáu tay cũng chưa chắc đã
chống đỡ nổi.”
Phượng Thư tài là thế, giỏi là thế nhưng lại phải chịu ba sự trừng phạt lớn
trong đời người đàn bà Trung Hoa thời xưa: chồng chán ghét phản bội,
không sinh được con trai, bị băng huyết mà chết. Đó là cái giá phải trả
cho việc chối bỏ nữ tính, làm loạn âm dương. Theo y học Trung Quốc,
bệnh tật xảy ra khi âm dương không cân bằng. Phượng Thư thừa dương
(nam tính) mà lại thiếu âm (nữ tính.) Hỏa quá vượng mà lại không có
thủy trị nên bệnh càng tăng. Triệu chứng “âm hư hỏa vượng” của Phượng
Thư có ba nguyên do chính.
Thứ nhất, hành vi, cử chỉ của Phượng Thư thường thiên về nam tính hơn
là nữ tính, ví dụ như:
– Ở nhiều chương trong truyện, nàng uống rượu chẳng kém gì giới mày
râu. Già Lưu, Sử Tương Vân say rượu đi tìm chỗ ngủ, còn Phượng Thư
say thì… nóng máu, đánh nhau.
– Trái với những người đàn bà quý tộc thường mê tín, Phượng Thư lại
không tin vào tâm linh. Ở chương 15, nàng nói với sư am Thúy Nguyệt:
“Xưa nay ta chẳng tin sự báo ứng âm ty địa ngục gì cả. Bất cứ việc gì ta
đã làm là làm.”
– Nàng cũng không nhút nhát, e thẹn như những chị em khác. Ở chương
13, “Nghe người báo: “Ông vào!”, các bà các chị nhớn nhác lẩn vào
phía sau, chỉ có Phượng Thư thong thả đứng dậy.”
Các tiểu thư trong Giả phủ đa phần đều văn nhã thanh tao, nhưng lửa
hoang dại chứ không mềm mại như nước, như cây, thế nên Phượng Thư
hầu như không biết chữ. Trong cuộc sống hàng ngày, mồm miệng nàng
cay nghiệt và có ba phần thô tục. Giả Mẫu cũng nhận xét: “Con Phượng
ăn nói như Hạng Võ.”
Phượng Thư xinh đẹp nhưng chữ nghĩa biết rất ít, văn thơ không thạo,
công việc trong nhà đa phần dựa vào trí nhớ tốt mà giải quyết
Thứ hai, dường như Phượng Thư có ý muốn vô thức “ví đây đổi phận
làm trai được.” Ở chương 46, Phượng Thư nói với Giả Mẫu về Uyên
Ương: “Ai bảo bà khéo chải chuốt cho người? Chải chuốt đến nỗi nó đẹp
mơn mởn lên, trách nào người ta chả thích? May cháu là dâu đấy, chứ là
cháu trai, thì cháu đòi bà đã lâu rồi, không còn chờ đến bây giờ. Để cháu
tu hết kiếp này, đến kiếp sau được làm con trai, cháu mới cần đến nó.”
Thứ ba, chúng ta còn chứng kiến Phượng Thư nhiều lần đảm nhận vai trò
đàn ông trong gia tộc. Ở chương 40, nhân ngày Tết trong Đại quan viên,
nàng lên đứng đầu thuyền dùng sào chở thuyền đi, bất chấp Giả Mẫu can
ngăn. Ở chương 54, nàng khoe với Vưu thị rằng mình “đốt pháo giỏi hơn
bọn người hầu đấy nhé.” Vì giới đàn ông trong nhà không ai kể chuyện
cho Giả mẫu vui, Phượng Thư cũng đóng luôn vai diễn hài. Nàng nói:
“Trong nhị thập tứ hiếu có chuyện ‘múa áo ban’, các anh ấy không mặc
áo hoa múa cho cụ tôi vui thì tôi phải khó khăn mới làm cho cụ tôi cười,
để ăn thêm được một ít, cho cả nhà vui mừng.” Những hành động tưởng
chừng vui đùa đó thực ra báo hiệu cho quá trình tiếm quyền, lấn át phái
nam của Phượng Thư. Trong mọi khía cạnh từ tài chính đến đối nhân xử
thế trong gia đình, nàng đều làm chủ, bởi đàn ông nhà họ Giả người thì
mải ăn chơi đàng điếm (Giả Xá), người mê luyện đan (Giả Kính), người
bàng quan không để ý (Giả Chính).
Trong quan hệ Tương sinh thì Hỏa sinh Thổ, vì thế, Phượng Thư luôn che
chở, bảo vệ, chăm sóc cho Bảo Ngọc – nhân vật mang mệnh Thổ và cũng
là trung tâm của Ngũ hành. Nhân vật này sẽ được bàn ở bài sau.
(Bài cuối: Bảo Ngọc và mệnh Thổ.)

“Hận Phượng Thư, mắng Phượng Thư, không thấy Phượng Thư lại nhớ
Phượng Thư” 04. 09. 15 - 7:56 pm
Anh Nguyễn

… đó chính là lời bình luận về nhân vật Vương Hy Phượng của Vương
Côn Luân – tác giả cuốn Hồng lâu mộng nhân vật luận đồng thời là Chủ
nhiệm Ban cố vấn bộ phim Hồng lâu mộng nổi tiếng. Vương lão gia là
nhà Hồng học gạo cội, một câu nhận xét của ông đã khái quát thật chuẩn
sức hấp dẫn của “Phượng lạt tử.” Ghét Phượng Thư vì nàng  ta thơn thớt
lấy lòng Giả Mẫu và Vương phu nhân, vì tính cách tàn độc ám hại Vu
tam thư, vì nhẫn tâm bày kế “tráo rường đổi cột” đẩy cô Lâm vào chỗ
chết, nhưng mỗi khi “Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu. Làn son chưa hé
miệng như cười” xuất hiện trên trang giấy là cả người đọc lẫn những nhân
vật trong truyện đều không thể không dán mắt vào nàng ta, lắng tai nghe
xem cái miệng đẹp đẽ mà điêu ngoa kia thốt ra những lời gì!
Vương Hy Phượng. Hình từ Internet
Trong số những người đẹp như hoa của Hồng Lâu Mộng, có lẽ Phượng
Thư là nhân vật được nhắc đến nhiều nhất, chỉ sau Đại Ngọc. Vì sao vậy?
Thật đơn giản, bởi trong các nữ nhân của Hồng Lâu Mộng, hai nhân vật
này là biểu hiện rõ nhất của sự bứt phá quy củ truyền thống. Đại Ngọc
bên ngoài yếu mềm nhưng là người con gái mạnh mẽ trong tình cảm, dám
sống dám yêu, còn Phượng Thư là người đàn bà thuộc hàng “nữ lưu hào
kiệt” trong Giả phủ, nam nhân không có ai bằng. Chỉ bằng nội hai nhân
vật này thôi đã đủ để vinh danh Tào Tuyết Cần là một nhà nữ quyền trong
văn học!
Nói về cái giỏi của Phượng Thư thì không kể xiết. Phượng Thư không
phải người văn hay chữ tốt nhưng lại rất khôn ngoan, bản thân nàng luôn
bô bô tự nhận mình là người tục, nhưng tinh ranh lại chẳng ai bằng. Theo
tôi, cái khéo của Phượng Thư thể hiện ngay khi nàng ta xuất hiện những
trang đầu tiên:
Hy Phượng cầm tay Đại Ngọc, nhìn kỹ một lúc rồi dắt đến cạnh Giả mẫu,
cười nói:
– Trong thiên hạ lại có người đẹp như thế này! Bây giờ cháu mới được
thấy! Trông hình dáng con người, ai cũng cho là cháu nội của bà, chứ
không phải là cháu ngoại. Chả trách ngày nào bà cũng nhắc đến, chỉ
đáng thương là em tôi vất vả, sao cô tôi lại mất sớm thế!
Nói xong lấy khăn mặt lau nước mắt. Giả mẫu cười nói:
– Ta vừa mới khuây đi, mày lại còn gợi ra. Em nó ở xa mới đến, người lại
yếu, nên an ủi nó, đừng nói chuyện buồn nữa.
Vương Hy Phượng nghe xong, đổi buồn làm vui, nói:
– Phải đấy! Cháu vừa trông thấy, bụng để cả vào cô em, vừa vui vừa
buồn, quên hẳn là. Đáng đánh đòn!
Rồi nắm tay Đại Ngọc nói:
– Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện đang uống thuốc gì? Ở đây
đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị. Bọn người nhà có
hỗn láo thì mách chị.
Hy Phượng lại hỏi người nhà:
– Những hành lý của cô Lâm đã mang vào chưa? Cô Lâm mang mấy
người theo hầu? Các người hãy dọn hai gian buồng cho họ vào nghỉ.
Thật đon đả, ngọt ngào biết bao! Nếu chỉ mới đọc tới đây, người đọc
cũng như Lâm Đại Ngọc ắt nghĩ rằng Phượng Thư hiền dịu như cô Tấm
vậy. Ai có thể ngờ được đây cũng là con người chua ngoa cay nghiệt đến
mức Bình Nhi là người thân tín nhất, trung thành nhất với cô ta cũng từng
bị đánh đập không thương tiếc. Bởi vì sao mà Phượng Thư lại thân thiết,
chiều chuộng Đại Ngọc, một đứa trẻ mồ côi, không tiền bạc, không quan
hệ máu  mủ với cô ta? Đơn giản vì Phượng Thư thấy rõ tình thương của
Giả Mẫu với đứa cháu ngoại côi cút, mà trong Giả phủ, ý muốn của Giả
Mẫu chính là thánh chỉ. Vị trí quản gia của Phượng Thư trong nhà không
chỉ dựa vào tài năng mà có, mà chủ yếu là nhờ vào sự tin tưởng của Giả
mẫu và Vương phu nhân. Bảo Ngọc vốn là hòn ngọc trong mắt Giả mẫu,
Phượng Thư thì hết lòng chiều chuộng Bảo Ngọc. Bây giờ lại có Đại
Ngọc xuất hiện, Phượng Thư đánh giá tình huống rất nhanh, đi tắt đón
đầu khiến Giả mẫu càng vui lòng. Đó chính là cái tài của nàng ta.
Phượng Thư thường luôn ở bên hầu hạ làm vui Giả mẫu
Phượng Thư không chỉ có tài mà còn là người độc ác. Trong mười hai
thoa,  nàng là kẻ có tâm địa dã man nhất. Vì sao tôi nói Phượng Thư dã
man? Vì nàng đem việc hành hạ người khác làm thú vui, kể cả những
người không hề có ý hãm hại nàng.  Ví dụ rõ nhất có lẽ là cách nàng đối
xử với Giả Thụy. Tội lỗi lớn nhất của y là hâm mộ sắc đẹp Phượng Thư.
Tội lỗi thứ nhì của y là ngu ngốc, hay còn gọi nôm na là “dại gái.”
Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.
Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám
chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:

– Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay
được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã.
Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi,
chúng ta lại sẽ gặp nhau.

Giả Thụy nói:


– Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ
dàng.

Phượng Thư lại giả cách cười nói:

– Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?

Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: “Không ngờ hôm nay lại có
cuộc gặp gỡ lạ lùng thế này!” Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn
ngơ ngơ ngẩn.
Phượng Thư lại nói:

– Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!

Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại
nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ:
“Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng
người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết
tay!”
Phượng Thư là một người đẹp thuộc hàng nhất trong Hồng Lâu Mộng.
Đây quyết không phải lần đầu tiên có nam nhân bị “khổ người óng ả,
dáng vẻ phong lưu” của nàng ta quyến rũ. Ở đây có hai vấn đề cần bàn:
một là, trong việc Giả Thụy to gan lả lướt với Phượng Thư có phải hoàn
toàn là lỗi của y không? Hai là, kể cả y có bị nàng ta mê hoặc thì tội đó có
đáng chết không? Vấn đề một, rõ ràng Phượng Thư hoàn toàn có thể
nghiêm mặt khước từ Giả Thụy, đảm bảo y có ăn gan hùm cũng không
dám làm liều. Rõ ràng Phượng Thư ý thức được hấp lực của mình với
một thanh niên trẻ tuổi và thích thú khai thác sự chú ý của hắn. Nếu thay
Bảo Thoa, Đại Ngọc, Thám Xuân vào vị trí Phượng Thư, chắc chắn họ sẽ
không giả lả đưa đẩy với Giả Thụy như vậy. Vấn đề hai, Giả Thuy là một
thanh niên máu nóng, bất chợt gặp một thiếu phụ đẹp lại tỏ ý ưa hắn ta,
nếu có mừng rỡ tiến tới thì cũng không thể trách, cùng lắm chỉ đáng bị ăn
vài bạt tai. Chính Tào Tuyết Cần cũng tỏ ý “bênh” Giả Thụy trong tên
đầu chương (Giả Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt).  Ý
định “cho mày chết” của Phượng Thư đã biểu hiện khía cạnh thích làm
người khác đau đớn (sadistic) của nàng. Đây là một điểm khiến người đọc
rất khó hoàn toàn thông cảm với số phận bi đát của nàng. Trong mười hai
thoa, nàng cũng chỉ xếp thứ chín, sau Xảo Thư (con gái nàng), Lý Hoàn
(bà góa), và Tần Khả Khanh (dâm phụ.)

Giả Thụy tưởng tượng được ân ái với Phượng Thư trong gương
Đây là lá số tiền định của Vương Hy Phượng trong hồi thứ năm:
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời
Người đều yêu mến bực cao tài
Một theo hai lệnh, ba thôi cả
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi
Trong nguyên tác Tào Tuyết Cần viết: “Phàm điểu thiên tòng mạt thế
lai,” dùng biện pháp chiết tự ghép hai chữ “phàm,””điểu” thành chữ
Phượng. Bản dịch tiếc thay không truyền tải được điều này, làm lộ thiên
cơ. Câu thứ ba là một câu sấm ngữ “nhất tòng, nhị lệnh, tam nhân mộc”,
đại ý lúc đầu nói gì cũng được người nghe răm rắp, cuối cùng cũng bị bỏ
rơi, đây chính là ám chỉ số phận về cuối của Phượng Thư. Lá số của
Phượng Thư lại có hình một con chim phượng trên ngọn núi băng – đã là
băng thì có cao mấy cũng phải tan chảy. Phượng Thư đứng trên cao uy
nghi lộng lẫy nhưng khi ngọn núi băng – Giả phủ tan rã thì nàng cũng bị
ruồng bỏ. Có thể coi Phượng Thư là người đầy tớ trung thành của giai cấp
phong kiến. Phượng Thư trên đội dưới đạp, hết lòng phục vụ kẻ trên, bắt
nạt người dưới, ung dung ở giữa thu lợi, nhưng kết cục của nàng cũng
không ra gì. Vì sao Tào Tuyết Cần lại để nhân vật tài năng, sắc sảo như
Phượng Thư kết thúc một cách hẩm hiu như vậy?
Lý do thứ nhất, nhân vật Phượng Thư chính là ẩn dụ cho Giả phủ. Khi
nàng mới xuất hiện, khí thế chẳng khác gì tướng soái, trang sức như một
vị hoàng hậu nương nương:
“Người này trang sức không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông
như một vị thần tiên! Trên đầu, đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài
trâm ngũ phượng Triệu Dương đính hạt châu, cổ đeo vòng vàng chạm
con ly, mình mặc áo vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm lượn hoa bằng
chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch viền
chỉ ngũ sắc, mặc quần lụa hoa màu cánh trả.”
Đó cũng trùng với giai đoạn thịnh vượng của nhà họ Giả. Nhưng cũng
giống như Phượng Thư bên ngoài đẹp đẽ mà bên trong xấu xa, Giả phủ
hào nhoáng thực ra cũng thối nát từ bên trong: nào là loạn luân, bóc lột,
nào là lừa gạt, tự sát,…  Cuối cùng Giả phủ và Phượng Thư đều bị chà
đạp bởi chính những nghiệp chướng họ tạo ra. Sự tan vỡ của Giả phủ
cũng như cái chết của Phượng Thư là không thể tránh khỏi.
Nhan sắc Phượng Thư thường được mô tả lộng lẫy rực rỡ cầu kì
Lý do thứ hai, Phượng Thư là một nhân vật vượt qua lễ giáo. Cái tội lớn
nhất của Phượng Thư không phải ghen tuông, đáo để, hay tham lam, mà
là quá khôn ngoan tài giỏi.  Tào Tuyết Cần cố tình để những người đàn
ông trong phủ Giả đều là những kẻ bất tài: kẻ thì mơ mộng như Bảo
Ngọc, người thì thiếu thực tế như Giả Chính, kẻ thì dâm ô hưởng lạc như
Giả Xá, không có nổi một mống đảm đương nổi việc lớn. Nếu Đại Ngọc
là số một về khoản văn chương thì Phượng Thư là kẻ tháo vát nhất Giả
phủ. Thế nhưng trong bối cảnh phong kiến thì một người đàn bà mà lại
giỏi giang hơn tất thảy đàn ông là một điều không thể chấp nhận nổi. Để
cảnh cáo Phượng Thư, tác giả để nàng khốn khổ vì đường chồng con. Giả
Liễn là một kẻ đa tình nhưng đối với vợ lại chẳng có chút thương yêu tôn
trọng. Phượng Thư cũng không thể sinh con trai và sức lực của nàng bị
phá hủy bởi bệnh rong kinh. Như tất cả những điều khác trong Hồng Lâu
Mộng, căn bệnh của nàng cũng có ý ẩn dụ. Phượng thư bị mất máu trong
nhiều tháng ròng – căn bệnh đó là sự trừng phạt bản thể phụ nữ của nàng,
oái oăm thay, chính vì nàng không chịu ngoan ngoãn theo khuôn phép
phụ nữ “bất tài mới là có đức.”  Bệnh mất máu cũng là biểu tượng cho
quá trình dần dần cạn kiệt năng lượng của  Phượng Thư và Giả phủ. Ở
đầu truyện Phượng thư là con chim phượng rực lửa, đến cuối truyện nàng
chỉ còn là cái bóng nhợt nhạt của chính mình.

Phượng Thư đánh đập Bình Nhi. Theo phong tục Trung Quốc, con gái
nhà quyền quý khi xuất giá thì người nữ tì thân cận nhất cũng trở thành
nàng hầu của chồng. Bình Nhi là người tận tụy với Phượng Thư nhất
nhưng vẫn là nạn nhân mỗi khi nàng Phượng ớt nổi cơn ghen
Học giả Vương Bá Hàng đã so sánh Phượng Thư với Võ Tắc Thiên và Từ
Hi thái hậu và kết luận rằng: hệ tư tưởng phong kiến không thể cho phép
những người phụ nữ có quyền lực tồn tại một cách bình thường mà phải
bằng mọi cách tô vẽ họ thành những nhân vật phản diện. Nói nào ngay,
trong thời hiện đại mà chúng ta đang sống cũng có không ít trường hợp
những người phụ nữ quá xuất chúng bị chê trách, dèm pha. Sự thoái trào
của những triều đại Trung Quốc cũng thường được đổ tại cho Đát Kỷ,
Bao Tự. Những truyền thuyết về sự trụy lạc của Võ hậu và Từ Hi, cũng
như những khía cạnh tiêu cực Tào Tuyết Cần dành cho Vương Hy
Phượng chính là biểu hiện cho nỗ lực “bêu xấu” đó.
Đại Ngọc và mệnh Mộc: sống như cây và chết cũng như cây 06. 12. 17 -
10:04 pm
Anh Nguyễn

Theo triết học Trung Hoa, ngũ hành là năm nguyên tố cơ bản tạo nên vạn
vật trong vũ trụ: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Thuyết ngũ hành diễn giải mối
quan hệ và sự phát triển của con người, trời đất, cỏ cây, sự vật,… dựa trên
hai nguyên lý chính là tương sinh, tương khắc. Ở bài này, chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu về các nhân vật chính củaHồng Lâu Mộng và vị trí của họ
theo ngũ hành.
Đỏ: Hỏa. Trắng: Kim. Đen: Thủy. Xanh: Mộc. Vàng: Thổ
Nhân vật nữ quan trọng nhất của Hồng Lâu Mộng là Lâm Đại Ngọc,
thuộc mạng Mộc. Ngay cái tên đã biểu đạt sinh mệnh: họ Lâm của nàng
nghĩa là khu rừng, mà rừng chính là cây, là gỗ. Tiền kiếp của Đại Ngọc là
cây Giáng Châu tiên thảo ở Tây Phương, vì được Thần Anh mưa móc mà
lớn lên. Sinh nhật nàng rơi vào tháng Hai âm lịch – mùa xuân cây cỏ đâm
chồi, cũng là ứng với giai đoạn “thủy sinh mộc” trong năm. Khi mới xuất
hiện, dáng vẻ Đại Ngọc cũng phảng phất vẻ yêu kiều của hoa cỏ: “Vẻ thư
nhàn, hoa rọi mặt hồ. Dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió.”
Lâm Đại Ngọc
Chưa hết, nơi Đại Ngọc ở là Tiêu Tương quán, một chốn bạt ngàn những
cây trúc vằn đốm tím như những hạt nước mắt nhỏ vào. Trúc ở Tiêu
Tương quán có hàm chứa ba ý nghĩa.
Thứ nhất, nó củng cố thêm vị trí mệnh Mộc của Đại Ngọc.
Thứ hai, câu chuyện về hai bà Nga Hoàng, Nữ Anh khóc vua Thuấn bảy
ngày bảy đêm bên bờ sông Thương rồi quyên sinh theo chồng gợi lên sắc
thái chung tình, tha thiết của Đại Ngọc. Loại trúc quý này được gọi là
Tương phi trúc (湘妃竹) mà biệt hiệu của Đại Ngọc lại là Tiêu Tương phi
tử, càng nhấn mạnh rõ hơn mối tương quan giữa Đại Ngọc và truyền
thuyết kia.
Trúc Tương phi
Thứ ba, khu vườn trúc của Đại Ngọc được tác giả mô phỏng theo nơi ở
của Trúc lâm thất hiền. Đó là bảy người tài đời Tấn gồm Nguyễn Tịch,
Kê Khang,.. chán công danh bỏ lên rừng trúc ở, uống rượu ngâm thơ, tiêu
dao tháng ngày. Đại Ngọc ưa tĩnh mịch, lánh xa sự đời, ghét công danh,
hoàn toàn giống với triết lý sống của Trúc lâm thất hiền.
Trúc lâm thất hiền
Trong Tiêu Tương quán không chỉ có trúc mà còn có lê và chuối. Hoa lê
là thứ hoa diễm lệ nhưng cũng yếu đuối bậc nhất. Hình ảnh hoa lê đẫm
nước mưa đã được bất tử hóa trong văn học nhờ tác phẩm Trường Hận
Ca của Bạch Cư Dị: “Ngọc dung tịch mịch lệ lan can. Lê hoa nhất chi
xuân đới vũ” (Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa. Cành lê hoa trĩu giọt mưa xuân
đằm. – Tản Đà dịch). Hoa lê là biểu tượng của mỹ nhân sầu bi, Đại Ngọc
lại rút được thẻ hoa “sương gió buồn tênh,” thật không thể hợp hơn.
Chuối (ba tiêu) là loài cây kín đáo, thanh đạm. Cây chuối ám chỉ những
tâm sự giấu kín của thiếu nữ, bởi lá chuối xanh ngọc cuốn lại như phong
thư. Có thể tham khảo bài thơ Vị triển ba tiêu (Cây chuối non) của Tiền
Hử: “Nhất giam thư tráp tàng hà sự. Hội bị đông phong ám sách khan”
(Như phong thư có ẩn tàng. Gió đông lần mở đàng hoàng cho xem).
Có thể nói ba loài thực vật trúc, lê, chuối đã góp phần vẽ lên hai bức
tranh: bức tranh phong cảnh hữu tình nơi Đại Ngọc ở và bức tranh lãng
mạn của tâm hồn nàng.
Đại Ngọc u buồn
Bởi Đại Ngọc là mạng Mộc nên nàng có sự thấu cảm sâu sắc với hoa cỏ,
thậm chí đồng nhất bản thân với chúng. Ai có thể quên được hình ảnh Đại
Ngọc chôn hoa, khóc hoa, làm bài thơ Táng hoa từ? Kết thúc bài thơ là
hai câu: “Hồng nhan thấm thoắt xuân qua. Hoa tàn người vắng ai mà biết
ai!” Khi giận buồn Bảo Ngọc ở chương 28, nàng ví mình với “cỏ rác,”
không dám so cùng “vàng ngọc” của ai kia. Ngắm hoa lan, nàng lại nghĩ
vẩn vơ: “Cỏ cây đang lúc mùa xuân hoa tươi lá tốt, nghĩ mình tuổi trẻ mà
đã giống như vóc bồ liễu ba thu, nếu được như nguyện hoặc giả dần dần
tươi tốt, nếu không thì chẳng khác gì hoa liễu lúc xuân tàn, chịu sao nổi
mưa dồn gió dập.” Nguyên nhân bệnh tật của nàng được chẩn đoán là do:
“Mộc khí không tiết ra được, thế nào cũng lấn tỳ thổ, vì thế mà ăn không
biết ngon, thậm chí thắng cái không thể thắng; phế kim nhất định bị
thương.” Những ví dụ như vậy xuất hiện rất nhiều lần trong Hồng Lâu
Mộng.
Về quan hệ tương sinh, Thủy sinh Mộc mà Mộc sinh Hỏa. Về Thủy, có
thể khẳng định rằng trong Hồng Lâu Mộng, Thủy chính là hiện thân cho
tính nữ mềm mại, dịu dàng, trong sạch. Lại phải nhắc lại câu nói nổi tiếng
của Bảo Ngọc: “Xương thịt con gái là nước kết thành….” Thủy sinh Mộc
nên sinh mệnh của Đại Ngọc gắn bó chặt chẽ với nước. Ở tiền kiếp, cây
hoa Giáng Châu nằm bên bờ Tam Sinh Thạch của sông Linh Hà ở Tây
Phương. Nàng lớn lên nhờ được Thần Anh dùng nước cam lộ tinh túy
chăm bón, đến khi tu luyện thành tiên lại uống nước bể quán sầu (nước để
tưới sự buồn), bởi vậy mà nàng vừa tài sắc vừa sầu bi không tả xiết. Mục
đích xuống trần của Đại Ngọc cũng chính là để trả món nợ chăm bón:
“Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có nước để trả lại. Chàng đã xuống
trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời ta để
trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!” Cây thiêng Giáng Châu tiên
thảo nở hoa đỏ như máu, nàng lại tái sinh để đền nợ nước mắt, bởi thế
cuộc đời nàng luôn gắn liền với huyết và lệ.

Đại Ngọc – Bảo Ngọc


Khi tái sinh ở kiếp này, Đại Ngọc đầu thai làm con của Lâm Như Hải
vùng Dương Châu nhiều sông nước, chữ Hải trong tên ông cũng có nghĩa
là biển cả. Nàng tới Giả phủ trên một chiếc thuyền xuôi dọc dòng sông,
và trở về quê (khi đã chết) cũng bằng đường thủy, có thể nói là Đại Ngọc
đến và đi như cánh hoa trôi theo dòng nước. Loài hoa ứng với nàng chính
là thủy phù dung (hoa sen) mềm mại, khiến hình dung của người đọc về
Đại Ngọc chẳng khác nào một nữ thủy thần. Trong bài “Hai thế giới
trong Hồng Lâu Mộng”, ông Du Bình Bá đã nhận xét về cảnh Đại Ngọc
chôn hoa như sau: “Hình tượng nước trong vườn Đại Quan sau khi chảy
đến Di Hồng Viện lại theo tường trôi ra ứng hợp với ý của Đại Ngọc ngỏ
cùng Bảo Ngọc khi chôn hoa – nước trong vườn là sạch, chỉ là khi đã
chảy ra là lại nhiễm ô uế của nhà người.” Sự mẫn cảm của Đại Ngọc với
nước là không thể chối cãi. Có thể nói Đại Ngọc là cô gái có nữ tính
thuần khiết và đẹp đẽ nhất trong Hồng Lâu Mộng, điều đó được thể hiện
qua sự liên kết mật thiết của nàng và các biểu tượng nước trong truyện.

Đại Ngọc đi chôn hoa


Về Mộc sinh Hỏa, hoa lá cỏ cây đến khi tuyệt mệnh thì cháy thành tro.
Những bài thơ của Đại Ngọc dần chuyển hướng từ hoa tươi cỏ thắm đến
tro tàn, khói bay khi nàng sắp lìa đời. Ngoài ra, khi làm thơ dựa theo Nam
Hoa kinh, Bảo Ngọc đã viết: “... dùng tàn tro lấp khiếu thông minh của
Đại Ngọc”. Ngay ở chương sau, Đại Ngọc lại làm bài thơ đố đèn với
những câu:
Áo chầu đầy khói để ai mang?
Đàn đấy, chăn đây, luống bẽ bàng,
Chú lính sớm không cần đếm thẻ,
Chị hầu đêm cũng biếng thêm hương,
Vùi đầu trải biết bao hôm sớm,
Đốt ruột không nài mấy tuyết sương,
Thấm thoát bóng xuân đà đáng tiếc,
Kể gì thay đổi cuộc tang thương.
Đây chính là cái đèn canh hương, một thứ “đồng hồ” sơ khai đánh dấu
bằng cách đốt các loại hương trầm. Bài thơ thất ngôn với những chi tiết
ảm đạm khiến Giả Chính lo rằng Đại Ngọc sẽ không phải là người được
hưởng phúc về sau. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Đại Ngọc ra lệnh
đốt lò than để thiêu hủy hết những di vật của tình yêu: tập thơ, khăn tay.
“Can hỏa bốc lên” khiến đôi má nàng ửng đỏ. Liền ngay sau đó, Đại
Ngọc qua đời. Số phận của Đại Ngọc giống như loài thảo mộc: sinh ra
vào mùa xuân, rực rỡ về mùa hạ, tàn héo vào mùa thu. Chu trình này
hoàn toàn ăn khớp với vòng đời của mệnh Mộc.

Đại Ngọc thổ huyết


Về quan hệ Tương khắc, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Bảo Thoa thuộc
mệnh Kim, Bảo Ngọc thuộc mệnh Thổ. Bảo Thoa và Đại Ngọc vì thế mãi
“bằng mặt mà chẳng bằng lòng,” còn Đại Ngọc cũng gây cho Bảo Ngọc
vô số nỗi khổ khó nói thành lời!
*
(Bài sau: Bảo Thoa và mệnh Kim)

Đại Ngọc-Tình Văn: tuy hai mà một


20. 03. 15 - 8:00 am
Anh Nguyễn
Tranh vẽ Lâm Đại Ngọc
Trong giới Hồng học, ít ai còn xa lạ với việc Tào Tuyết Cần cố ý xếp đặt
cho Tình Văn trở thành phiên bản song sinh của Đại Ngọc. Tuy nhiên nếu
độc giả không chú ý thật kỹ thì dễ dàng để những chi tiết lắt léo mà tác
giả dày công “cài cắm” trượt khỏi ý thức của mình. Sau khi dành cả đời
tận tâm nghiên cứu Hồng học, ông Chu Nhữ Xương cũng phải thốt lên
“Hồng Lâu Mộng thật không dễ đọc và càng khó để hiểu.” Điều này
khẳng định một lần nữa tài năng trác tuyệt của Tào Tuyết Cần trong việc
kiến tạo một tác phẩm đồ sộ nhưng rất tự nhiên, “không có dấu vết của
công phu và nhân tạo” như ông Nhật Chiêu đã nhận xét.
Mặt khác, đối với độc giả mê Hồng Lâu Mộng, tự mình nhặt nhạnh những
đầu mối để giải những bài tập Hồng học là một thử thách thú vị. Thí dụ
có người đã ví Tình Văn như “cái bóng” của Lâm Đại Ngọc vậy. Trong
bài này, người viết xin mạn phép hệ thống lại những điểm tương đồng
giữa hai nhân vật Đại Ngọc-Tình Văn nhằm làm sáng tỏ những thông
điệp về “duyên” và “nghiệp” của Hồng Lâu Mộng.
Tranh vẽ Tình Văn
Nếu Tình Văn là cái bóng trong gương của Đại Ngọc thì Tập Nhân là
hình ảnh phản chiếu của Bảo Thoa. Khi xét về mối tương quan giữa Đại
Ngọc-Tình Văn, ta luôn cần so sánh nó với cặp bài trùng Bảo Thoa-Tập
Nhân. Trước hết, về hoàn cảnh xuất thân, Bảo Thoa và Tập Nhân đều mồ
côi cha nhưng vẫn còn mẹ và anh trai thương yêu. Tình Văn và Đại Ngọc
đều mồ côi cha mẹ, bơ vơ không nơi nương tựa. Đây là điểm khiến họ trở
nên vô cùng đáng thương trong con mắt người đọc. Tuy trẻ tuổi, Đại
Ngọc và Tình Văn đều không ảo tưởng về địa vị của họ trong phủ Giả.
Hai cô gái mồ côi gửi gắm thân mình vào nhà họ Giả, tuy được chiều
chuộng từ tấm bé, nhưng họ đều ý thức rõ rằng sự thân thiện của nhà họ
Giả cũng chỉ là “giả” mà thôi, có thể tan biến bất cứ lúc nào như làn khói
mỏng. Quả nhiên khi câu chuyện đến hồi kết, Đại Ngọc và Tình Văn đều
bị chính những kẻ cưu mang họ hắt hủi, đúng với nhận xét của Bảo Ngọc
là như “cây hoa lan bị vứt vào chuồng lợn.” Tình Văn bị giới quý tộc mà
nàng nai lưng hầu hạ rũ bỏ như một miếng giẻ rách, còn Đại Ngọc bị Giả
Mẫu mà nàng yêu thương ruồng bỏ. Đó là bi kịch thứ nhất của Đại Ngọc
và Tình Văn. Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa được nhà họ Giả đối xử
tử tế cho đến cùng. 

Tình Văn vá áo lông công cho Bảo Ngọc


Điểm tương đồng thứ hai được nhắc đi nhắc lại trong Hồng Lâu Mộng là
sự giống nhau về hình dáng của Đại Ngọc-Tình Văn. Vương phu nhân
nhận xét Tình Văn là “lưng hơi cong, vai hơi thon, lông mày và mắt lại
hơi giống em Lâm.” Trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, Lâm Đại
Ngọc đứng đầu, nàng là tiểu thư đẹp và tài năng nhất trong Giả phủ.
Trong Kim Lăng thập nhị thoa hựu phó sách, Tình Văn cũng là số một,
nàng là người hầu có nhan sắc diễm lệ nhất, khí chất cao đẹp và trong
sáng nhất. Tào Tuyết Cần nhắc đi nhắc lại rằng Tình Văn có hình dáng
giống Lâm Đại Ngọc, và cùng gắn vẻ đẹp của họ với mỹ nhân số một
Trung Hoa: Tây Thi. Một số dẫn chứng:
– Khi Lâm Đại Ngọc lần đầu xuất hiện đã gây ấn tượng bởi vẻ đẹp mong
manh, yếu đuối của nàng. Tào Tuyết Cần gọi đó là nét mềm mại “Vẻ thư
nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ
Can hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tử trội vài phân.”
– Lâm Đại Ngọc chôn hoa là một trong những hình ảnh lãng mạn nhất
trong Hồng Lâu Mộng. Khi Bảo Ngọc ngó thấy Linh Quan vạch vẽ chữ
“Tường” trên mặt đất liền đoán rằng con bé học theo Đại Ngọc chôn hoa,
và gọi đó là trò Đông Thi vờ nhăn mặt, không có gì hay mà còn đáng
chán. (Tây Thi đời Chiến quốc nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng
đẹp. Ở phía đông trong làng có một người con gái rất xấu, thấy thế cũng
bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người giàu trông thấy phải đóng
cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem cả vợ con trốn đi
nơi khác.)
– Đến bọn con hầu, người ở trong nhà cũng lén gọi Lâm Đại Ngọc là
“nàng Tây Thi đa bệnh,” vừa vì nàng có nhan sắc hơn người, vừa vì Đại
Ngọc ốm đau luôn.

Đại Ngọc cầm cuốc đi chôn hoa


Giống như Đại Ngọc, Tình Văn có nhan sắc đặc biệt trội hơn hẳn các nô
tỳ khác trong phủ, khiến nàng bị ghen ghét không ít. Tình Văn cũng
thường được/bị ví với Tây Thi:
– Vợ Vương Thiện Bảo khi ton hót với Vương phu nhân có nói rằng Tình
Văn “Nó cậy sắc đẹp hơn người, miệng lại khéo léo, ngày nào cũng
trang điểm như nàng Tây Thi.” Lời dèm pha này đã bắt đầu quá trình
Tình Văn bị ngược đãi.
– Khi Vương phu nhân tới tra hỏi Tình Văn, con mắt giận dữ của bà thấy
nàng “đầu tóc bơ phờ, áo quần lõng thõng, có vẻ lẳng lơ như Tây Thi
đêm xuân nằm ôm bụng.” Vốn là người mừng giận bất thường, bà ta liền
mắng chửi Tình Văn: “Đẹp thật! Thật là giống hệt ‘Tây Thi đương ốm!’
Ngày nào mày cũng giở cái lối trai lơ ấy ra để cho ai xem đấy? Mày cứ
tưởng là ta không biết việc mày làm à?”
Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, ngoài Đại Ngọc và Tình Văn ra, không
còn ai được ví với nàng Tây Thi nữa. Nhưng cũng đúng với câu hồng
nhan bạc mệnh, số phận của cả hai cũng thật đau xót, đúng như bài vịnh
Tây Thi mà Đại Ngọc đã viết trong chùm thơ Ngũ mỹ:
Trôi theo hoa sóng ngán cho đời,
Luống để vua Ngô nhớ thiếp hoài.
Đừng bảo Đông Thi nhăn mặt vụng,
Bạc đầu mà vẫn giặt bên khơi.
Điểm tương đồng thứ ba giữa Đại Ngọc-Tình Văn là tính cách của họ.
Nhạy cảm, thông minh vốn sẵn tính trời, cả hai cô gái đều dễ xúc động,
hay buông lời trách móc, đùa cợt, trêu chọc người khác. Đúng như lời
sấm báo, Tình Văn “tinh khôn, đài các tổ người ghen.” Đại Ngọc thì
thường “tinh ranh, nói câu bỡn cợt.” Sở dĩ tính cách Đại Ngọc-Tình Văn
như vậy một phần do hoàn cảnh côi cút của họ, một phần do họ đều có
lòng yêu Bảo Ngọc, từ yêu đâm ra ghen, càng ghen lại càng mẫn cảm với
những bóng hồng xung quanh anh ta. Đối tượng gây hiềm khích của Đại
Ngọc-Tình Văn cũng tương ứng với thứ bậc của họ. Đại Ngọc ghen với
Bảo Thoa và Tương Văn; chiếc khóa vàng, con kỳ lân vàng, và điềm báo
“kim ngọc lương duyên” khiến nàng bứt rứt không thôi.
Tình Văn, với vai trò người hầu cận bên Bảo Ngọc, thường hay soi xét
Tập Nhân và Xạ Nguyệt – hai a hoàn thân thiết khác. Với Xạ Nguyệt,
nàng chỉ thường trêu chọc, nhưng biết rõ quan hệ “trên mức bình thường”
của Bảo Ngọc và Tập Nhân, nàng rất dễ nổi cáu:
Tình Văn nghe thấy hai tiếng “Chúng tôi”, cho ngay là Tập Nhân muốn
nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy
tiếng:
– Tôi chả biết ai là “Chúng tôi” cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai!
Các người làm những việc thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi
cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này cũng còn chưa với lên được, huống
chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi “Chúng tôi” à?
Điểm tương đồng thứ tư giữa Đại Ngọc và Tình Văn là biểu tượng hoa
phù dung. Những người đẹp trong Hồng Lâu Mộng thường được ví với
hoa. Bảo Thoa là hoa mẫu đơn rực rỡ, đài các, đầy đặn, Thám Xuân là
hoa hồng đẹp thơm nhưng lắm gai làm đau người khác, Kim Quế là hoa
quế sắc sảo tàn nhẫn, Tương Vân là thược dược phóng khoáng, Hương
Lăng là củ ấu bình dị, v.v,… Đại Ngọc và Tình Văn đều ứng với hoa phù
dung. Phù dung là loài hoa đẹp kiều mị nhưng mong manh, sớm nở tối
tàn. Người sao hoa vậy, cả hai cô gái đều lìa đời khi đang ở tuổi hoa đẹp
nhất. Những dẫn chứng về Đại Ngọc-Tình Văn và hoa phù dung bao
gồm:
– Khi uống rượu rút thẻ hoa với các chị em, Đại Ngọc rút được thẻ hoa
phù dung.
Rồi rút được một thẻ vẽ một cành hoa phù dung, có đề bốn chữ “sương
gió buồn tênh”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Thương mình nào dám giận
gì gió đông”. (…) Mọi người cười nói:
– Hay quá! Trừ cô ấy ra, không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa.
– Khi Bảo Ngọc lên thăm Thái hư ảo cảnh lần thứ hai, nữ thần cai quản
hoa phù dung chính là Tiêu Tương phi tử – cùng tên với Đại Ngọc khi
còn sống. Đây chính là hậu kiếp của Đại Ngọc.
– Khi Tình Văn qua đời, Bảo Ngọc liền làm Văn tế nữ thần hoa phù dung
để tiễn linh hồn nàng. Về sau câu chuyện lưu truyền trong Đại Quan viên
theo lời Giả Dung rằng Tình Văn đã hóa thành nữ thần coi hoa phù dung.
.
Cuối cùng, điểm tương đồng giữa Đại Ngọc-Tình Văn là mối quan hệ của
họ với Bảo Ngọc. Không phải ngẫu nhiên mà Tào Tuyết Cần để Tình Văn
làm “cánh chim xanh” đưa thư giữa Đại Ngọc-Bảo Ngọc. Bức thư tình
đầu tiên Bảo Ngọc gửi cho cô Lâm không có thơ, không có họa, mà chỉ là
hai chiếc khăn lụa cũ trơn. Tình Văn nửa tin nửa ngờ nhưng vẫn vâng lời
đem tín vật này đến cho Đại Ngọc, đó là thời điểm bước ngoặt của câu
chuyện chính thức đánh dấu Bảo Ngọc-Đại Ngọc sa chân vào đường tình
ái.
Tập Nhân và Bảo Thoa cũng gần gũi Bảo Ngọc vậy, song vì sao họ
không bao giờ chạm được vào trái tim Bảo Ngọc? Đó là vì Tập Nhân,
Bảo Thoa ăn mặc giản dị, được lòng trên dưới, đáng kính đáng yêu,…
song họ không hiểu được chí hướng của Bảo Ngọc, một mực khuyên
chàng học hành, đỗ đạt, làm quan. Họ có biết đâu Bảo Ngọc sinh ra trong
trời đất này chỉ để nếm trải thất tình lục dục của con người, để đốt cháy
trái tim đến tận cùng, buông thả cho “lửa nhiệt độc” tình ái bẩm sinh dẫn
chàng ta đến đâu thì đến. Viên ngọc là hòn đá hóa thành, sau khi mất đi
em Lâm, Bảo Ngọc lại quay trở về làm hòn đá lãnh đạm với đời.
Bảo Thoa và Tập Nhân có yêu Bảo Ngọc không? Có. Nhưng họ có sẵn
sàng hủy mình vì tình yêu đó chăng? Không. Chỉ có Tình Văn dù ốm yếu
vẫn “vùng dậy vá áo cừu” cho Bảo Ngọc không màng đến thân mình, báo
trước cho việc Đại Ngọc tự hủy hoại bản thân khi tình yêu tan vỡ. Tình
Văn xé quạt, Đại Ngọc cắt dây đeo ngọc chính là những điềm báo số
phận của họ. Trong câu chuyện này, chỉ có Đại Ngọc-Tình Văn dám cháy
hết mình cho tình yêu, bất chấp kết quả bi đát.

Tình Văn xé quạt


Một điểm cần lưu ý: Đại Ngọc và Tình Văn tuy có tình cảm mãnh liệt với
Bảo Ngọc, song mối quan hệ đó hoàn toàn trong sạch, không vướng nhơ
bẩn của tình dục. Trong Hồng Lâu Mộng, cả Tình Văn và Đại Ngọc đã
cùng nằm chung một giường với Bảo Ngọc (Đại Ngọc khi nằm ngủ trưa,
Tình Văn khi cảm lạnh) nhưng họ vẫn là xử nữ băng thanh ngọc khiết.
Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa là hai người có quan hệ chăn gối với
Bảo Ngọc, nhưng mãi là “đồng sàng dị mộng”, nên nực cười thay khi nhà
họ Giả nghi ngờ Tình Văn đã quyến rũ Bảo Ngọc vào con đường xằng
bậy, khiến nàng khi sắp chết vẫn ôm hận mang tiếng xấu mà chẳng được
sống hết mình, quả là “Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ, đa tình công tử
luống than phiền.”
Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con dao cắt đứt hai móng tay tháp bút,
sau lại cho tay vào trong chăn, cởi chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng
với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:

– Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy.
Cậu cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì
cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang
tiếng hão, tôi không còn cách nào.

Tình Văn trước khi chết và Bảo Ngọc trong ngôi nhà lụp xụp
Với vai trò “chị em song sinh”, cái chết của Tình Văn báo trước kết cục
của Đại Ngọc. Khi qua đời Tình Văn ho dồn, gầy mòn, và mang những
dấu vết của bệnh lao. Khi đọc đến đây, người đọc không khỏi ngậm ngùi
vì biết số phận Đại Ngọc cũng không mấy tốt đẹp hơn. Hai người con gái
đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn bậc nhất Giả phủ đều chết trong cảnh cô
độc, không người thân thiết. Tuy nhiên Tình Văn còn đôi phần có hậu
hơn vì nàng được gặp Bảo Ngọc trước khi lìa trần, được thổ lộ hết tấm
tình chân thật. Đại Ngọc trút hơi thở cuối cùng trong khi người yêu làm lễ
hợp cẩn với người con gái khác, âu cũng là số kiếp sinh ra để trả nợ tình
kiếp trước bằng nước mắt.

Lâm Đại Ngọc qua đời


Theo Tào Tuyết Cần, nghiệp chướng ái tình của Lâm Đại Ngọc chính là
phải chịu cảnh “hoài công biết nhau” với Bảo Ngọc. Cũng như Tình Văn,
Đại Ngọc chia sẻ với Bảo Ngọc mối tình đằm thắm, song tất cả chỉ là
uổng phí. Có lẽ đến lúc chết, Đại Ngọc vẫn không thể nhắm mắt được vì
những câu hỏi luẩn quẩn:
Bảo rằng chả có duyên đâu,
Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo rằng sẵn có duyên may,
Thì sao lại đổi thay lời nguyền?
Lâm Đại Ngọc có thể không hiểu, nhưng người đọc không thể không
hiểu: chính cuộc tình tưởng chừng như vô thường, “bóng trăng đáy nước,
hoa rọi trong gương” đó mới là ái tình thật sự. Vì khi giấc mộng lầu hồng
chấm dứt, cát bụi lại trở về với cát bụi, giả và chân dần lộ rõ thì chỉ còn
lại mối ơn đằm thắm của Thần Anh với Giáng Châu còn sống lại mãi với
nhân gian. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở là vậy!
*

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

19:33 Friday,7.7.2017 Đăng bởi:  Trần anh Thịnh


Chào bạn  
Cho mình hỏi Tình Văn có yêu Bảo Ngọc hay không ? (dẫn chứng giúp mình
mấy đoạn) 
Ngược lại Bảo Ngọc có yêu Tình Văn không ? (dẫn chứng giúp mình mấy
đoạn) 
Bảo ngọc yêu Tình Văn hay Tập Nhân nhiều hơn ? 
Cảm ơn, chúc bạn sức khỏe

14:31 Monday,23.1.2017 Đăng bởi:  TuanNguyen
Trăng đáy nước, hoa trong gương! Đọc AnhNguyen lại có cảm hứng đọc lại
HLM. Tks!
Bảo Thoa và mệnh Kim: hoa mai ấm trong tuyết lạnh 31. 12. 17 - 4:19
pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo bài 1)
Nhân vật nữ quan trọng thứ hai trong Hồng Lâu Mộng là Tiết Bảo Thoa,
thuộc mệnh Kim. Tên nàng có nghĩa là chiếc thoa quý, trên cổ lại đeo
chiếc khóa vàng khắc tám chữ bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế. Tám
chữ này hợp với tám chữ trên viên ngọc của Bảo Ngọc mạc thất mạc
vong, tiên thọ hằng xương, vì thế cuộc hôn nhân của hai người bọn họ
còn được gọi là kim ngọc lương duyên. Theo bài thơ ở đầu hồi thứ 8 thì
Bảo Thoa chính là “kim nương” sánh vai cùng “ngọc lang” Bảo Ngọc.
Trong ngũ phúc (Thọ, Khang, Ninh, Phú, Quý) thì mệnh Kim ứng vào
Phú, vì vậy gia tộc Bảo Thoa giàu có ức vạn. Tuy nhiên các sự kiện
trong Hồng Lâu Mộng hầu hết đều tuân theo quy tắc “vật cực tất phản”
nên tài sản nhà Bảo Thoa rốt cuộc cũng tiêu tán hết.
Bảo Thoa cho Bảo Ngọc xem chiếc khóa vàng
Khi Bảo Thoa lần đầu xuất hiện, phục trang nàng nhã nhặn nhưng vẫn
điểm chút ánh kim:
Bảo Thoa đương ngồi trên giường thêu kim tuyến, đầu vén, tóc đen
nhánh, mặc áo bông màu gụ, cái khoác vai màu tím nhạt viền kim ngân
tuyến, quần lụa bông lót màu vàng. Tất cả đồ mặc đều đã rung rúc, giở cũ
giở mới, nhìn không có vẻ xa hoa mà lại thêm nhũn nhặn, môi không tô
mà đỏ, mày không kẻ vẫn xanh, mặt như mâm bạc, mắt sáng long lanh.
Tranh vẽ Bảo Thoa
Trắng là màu bản mệnh của người mệnh Kim. Các loại hoa lấy nhụy
trong thuốc Lãnh Hương Hoàn của Bảo Thoa đều có màu trắng: mẫu đơn
trắng, sen trắng, phù dung trắng, hoa mai trắng, tất cả được nhào với
đường trắng.
Bốn loại hoa trong Lãnh Hương Hoàn
Đối trọng với cảnh “Đại Ngọc chôn hoa” là “Bảo Thoa đùa bướm trắng.”
Bảo Thoa bắt bướm ở đình Trích Thuý, được ví với Dương Quý phi
Trong Hồng Lâu Mộng có ba khoảnh khắc Bảo Ngọc bị quyến rũ bởi
nhan sắc Bảo Thoa, và chúng đều có liên quan đến màu trắng.
Ở chương 28:
Nhưng vì Bảo Thoa da thịt nõn nà, mập mạp, tháo mãi không được. Bảo
Ngọc đứng bên cạnh thấy bắp thịt trắng muốt, đâm ra thèm muốn, nghĩ
thầm: “Nếu cái bắp tay này mà ở vào người cô Lâm, may ra có lúc được
mó một cái; nhưng lại ở vào tay cô Bảo thì ta thực là kém phúc”. Chợt
nghĩ đến chuyện vàng và ngọc, Bảo Ngọc ngắm nghía đến dáng điệu Bảo
Thoa, thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn
môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có
vẻ phong lưu thùy mị riêng, Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra.
Ở chương 97:
Bảo Ngọc trừng mắt nhìn, thấy giống như Bảo Thoa, trong bụng không
tin, một tay cầm đèn, một tay dụi mắt, trông kỹ lần nữa, thì chẳng phải
Bảo Thoa là gì! Thấy cô ta ăn mặc lộng lẫy, thân thể đẫy đà, mái tóc rủ
nghiêng, mặt mày e lệ. Rõ ràng:
Vẻ thanh nhã bông sen sương rủ,
Dáng yêu kiều hoa hạnh khói lồng.
(Trong nguyên tác là “hà phấn lộ thùy”, có nghĩa “sen hồng đẫm sương rủ
xuống.”
Ở chương 110:
Bảo Ngọc nhìn thấy cô ta, cũng khôn xiết đau lòng, nhưng tới khuyên thì
không tiện, thấy cô ta án mặc đồ trắng, son phấn không xoa, mà so với
lúc chưa đi lấy chồng còn đẹp hơn nhiều. Ngoảnh lại, thấy bọn Bảo Cầm
cũng đều ăn mặc đồ trắng mà phong vận tuyệt vời. Riêng nhìn đến Bảo
Thoa thì thấy chị ta mặc toàn đồ tang, cái dáng điệu phong nhã so với khi
ăn mặc hoa hòe lại càng khác hẳn. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Người xưa nói:
muôn hồng ngàn tía. rút cục phải nhường hoa mai làm đầu. Xem ra thì
chẳng những hoa mai nở sớm, mà bốn chữ “Sạch, trắng, trong, thơm” thật
không có gì bì kịp.
Hành Kim chủ về mùa thu. Mệnh của Bảo Thoa vì thế cũng gắn với thu,
nhưng vì có “tuyết” nên là giai đoạn thu chớm đông giá rét chứ không
phải thu lá vàng phe phẩy. Trong hội đố đèn, câu đố của Bảo Thoa có
đoạn: “Ân ái phu thê bất đáo đông” (Ái ân vợ chồng không kéo dài đến
mùa đông) ám chỉ rõ về tiết thu muộn. Loài cỏ hành vu trong khu vườn
của Bảo Thoa có hương thơm mát như hoa mai và chỉ nở hoa trắng về
cuối thu, đầu đông. Cái lạnh của Bảo Thoa đã được chúng ta bàn kỹ
lưỡng nên có lẽ không cần nói thêm nữa.
Sự liên kết của Bảo Thoa và mùa thu còn được thể hiện rõ qua bài
thơ Bàng giải vịnh(Vịnh cua) được giải quán quân của nàng:
Chén mời dưới bóng quế đồng,
Trùng dương khao hát, khắp vùng Trường An,
Trên đường nào thấy dọc ngang,
Khen chê chỉ thấy đen vàng trông ra.
Rửa tanh rượu với cúc xoa, 
Muốn phòng chứng lạnh thì ta thêm gừng,
Vò dốc cạn mùi còn chăng?
Bến trăng kia những lúa lừng mùi thơm.
Cua và hoa cúc là chủ đề mùa thu ưa thích của hội hoạ và văn chương
Trung Quốc
Những hình ảnh cây ngô đồng, hoa quế, tiết Trùng dương, thịt cua, rượu
cúc, lúa thơm, trăng sáng góp phần dựng lên một bức tranh mùa thu lãng
mạn. Trong bài thơ còn có ý tứ mai mỉa giai cấp thống trị, nhưng đó là
chủ đề cho một bài khác.
Giới nữ nhà họ Giả quây quần ăn cua thưởng cúc, nhân đó mà làm thơ
Một bài thơ khác của Bảo Thoa lặp lại các chi tiết thu, trăng lạnh, tiết
Trùng dương, hoa cúc. Mệnh Kim thuộc hướng Tây, sương mát, nên
trong bài có nhắc đến gió tây và sương trong mộng.
ỨC CÚC
Ngóng gió tây về luống ngẩn ngơ,
Nhìn lau liễu tốt ruột vò tơ.
Vườn hoang, giậu vắng thu đâu nhỉ,
Trăng lạnh, sương trong mộng thấy chưa?
Lòng vướng vít theo đàn nhạn khuất,
Tai văng vẳng lọt tiếng chày thưa.
Thương mình gầy cũng vì hoa đấy,
Này tiết trùng duơng hãy đợi chờ.
Chị em trong Đại Quan viên cùng làm thơ
Mối quan hệ của Bảo Thoa và các nhân vật khác cũng tuân theo quy tắc
ngũ hành. Nếu Đại Ngọc là thảo mộc mùa xuân tươi xanh thì Bảo Thoa là
cành mai thu khô lạnh. Kim khắc Mộc nên họ luôn đối chọi nhau, Đại
Ngọc nồng nàn bao nhiêu thì Bảo Thoa lãnh đạm bấy nhiêu. Thế nhưng
chính vì “vật cực tất phản” mà Đại Ngọc không thể thọ lâu. Nàng là cây
đèn cháy lên rực rỡ nhưng quá mau cạn dầu. Cuộc đời Đại Ngọc giống
như cỏ cây – chỉ bừng nở tươi thắm một thời gian rồi trở về cát bụi.
Không phải ngẫu nhiên mà khi Đại Ngọc (xuân) qua đời cũng là lúc Bảo
Ngọc (thu) lên ngôi. “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua. Xuân còn
non, nghĩa là xuân sẽ già.”
Đại Ngọc tài hoa nhưng chết yểu
Ngược lại với Đại Ngọc, Bảo Thoa tuy bề ngoài lạnh lẽo nhưng bền bỉ và
cứng cáp. Bên dưới lớp vỏ giá lạnh của nàng có tiềm tàng hơi ấm nồng
cháy của sự sống.  Chính vì thế mà Bảo Thoa không những có thể sống
sót qua mùa đông (gia đình suy sụp, ly tán, chồng bỏ đi) mà còn mang
trong mình mầm sống của mùa xuân (có thai với Bảo Ngọc). Trong Hồng
Lâu Mộng, hình ảnh hoa mai nở trên tuyết là tuyệt đích của vẻ đẹp cao
quý. Tiết Bảo Thoa chính là hoa mai vững vàng, cốt cách thanh cao, bừng
nở trong những điều kiện khắc nghiệt nhất.
Trăm thứ hoa trong vườn đua nở
Đã chơi hoa nên biết đủ mùi hoa 
Kìa hoa lan, hoa sen, hoa huệ, hoa trà
So sánh có mai là đệ nhất. (Thơ khuyết danh)
Vẻ đẹp cao khiết của hoa mai trong tuyết (Bảo Thoa)
Vẻ đẹp yếu đuối của hoa sen trên đầm (Đại Ngọc)
Trong mối quan hệ Tương sinh, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Bảo Ngọc
chủ về Thổ, vì thế hai người Bảo Ngọc-Bảo Thoa kết duyên, nâng đỡ,
nương tựa vào nhau. Thủy là nữ tính, nhưng khi đặt vào Bảo Thoa thì
biến thể thành tuyết cứng lạnh. Nữ tính đã bị đóng băng nên Bảo Thoa
giản dị, không thích điểm trang, cũng không mềm yếu như “nữ nhân
thường tình”.
Trong mối quan hệ Tương khắc, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Bảo
Thoa (Kim) có phần lấn lướt Đại Ngọc (Mộc) nhưng lại phải chịu nhún
nhường trước nhân vật có mệnh Hoả ghê gớm nhất gia tộc – Phượng Thư.
(Bài sau: Phượng Thư và mệnh Hỏa. Ngoài ra, để đọc các bài khác do
Anh Nguyễn viết, bạn vào mục tìm kiếm, phần tác giả, gõ vào.)

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

21:35 Saturday,25.7.2020 Đăng bởi:  Kikuchi Mikiaki


Anh Nguyễn nên giải thích kỹ hơn chút được chứ ? Ở Trung Quốc, thứ bậc
anh chị em họ chỉ cần phân theo tuổi : cứ lớn tuổi hơn thì là anh chị họ, nhỏ
tuổi hơn thì là em họ. Còn ở Việt Nam, thứ bậc anh chị em họ phải tính theo
thứ bậc của cha mẹ : lớn tuổi hơn mà là con cô, chú, cậu, dì thì vẫn là em họ ;
nhỏ tuổi hơn mà là con bác thì vẫn là anh chị họ.2 nước khác nhau nên mới
có thắc mắc thế.

15:40 Tuesday,22.5.2018 Đăng bởi:  Anh Nguyễn


@Nguyễn Hoàng: theo nguyên tác,  do Bảo Ngọc kém tuổi Bảo Thoa và Tiết
Bàn nên Bảo Ngọc gọi Tiết Bàn là anh (ca ca,) Bảo Thoa là chị (thư thư.)
Tiết Bảo Thoa (phần 1): “lãnh mỹ nhân” giấu kín trái tim nóng 05. 11.
17 - 7:18 pm
Anh Nguyễn

Tiết Bảo Thoa, như chúng ta đã từng bàn ở đây, có thể được coi là một
“lãnh mỹ nhân” (người đẹp lạnh lùng) điển hình. Từ cái tên (Tiết đồng
âm với tuyết), nơi ở (được ví như một hang tuyết: xuedong yiban – tuyết
động nhất phần), cho tới món thuốc lạnh lẽo Lãnh hương hoàn, dường
như Bảo Thoa là một khối băng thuần túy. Thế nhưng đọc kỹ mà xem, ta
sẽ phát hiện thấy bên dưới lớp vỏ giá buốt đó là một trái tim nồng cháy,
thậm chí trong Bảo Thoa có hiện diện cả những sắc thái khác nhau của
“tình”, của “dục”, và “ý dâm.”
Tiết Bảo Thoa
Đối lập với Đại Ngọc buồn giận yêu ghét đều rõ rệt, Bảo Thoa kín đáo
hơn. Nếu câu thơ ứng với Đại Ngọc là Ngọc đới lâm trung quải – đai
ngọc treo giữa rừng, thì Bảo Thoa là Kim trâm tuyết lý mai – trâm vàng
vùi trong tuyết. Người đời có thể nhìn thấy Đại Ngọc, khóc cùng nàng,
tôn thờ nàng, còn Bảo Thoa thì sao? Nàng là cành thoa quý bằng vàng vô
giá, nhưng đã bị lấp đi dưới lớp tuyết lạnh lẽo. Nàng giấu kín cảm xúc,
lặng lẽ im lìm. Chỉ người nào biết giá trị của nàng, lại có lòng tìm kiếm,
mới có thể chạm đến phần quý báu, sâu sắc nhất của Bảo Thoa. Nói cách
khác, Bảo Thoa mong chờ một người tri kỷ. Tiếc thay cho đến cuối Hồng
Lâu Mộng, người đó vẫn không xuất hiện, khiến trâm vàng – bản thể thực
sự của Bảo Thoa – mãi mãi không được lộ diện.
Ở một ví dụ khác, hãy cùng xem lại lần Giả Chính vào thăm vườn Đại
Quan:
Giả Chính nói:
– Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì!
Rồi bước vào cửa. Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá lấp lánh cao
ngất trời, xung quanh bao bọc bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn
những nhà cửa bên trong. Ở đây, không có một gốc cây, toàn những cỏ lạ
hoặc leo lên núi, hoặc bò ra đất hoặc từ trên núi rủ xuống, hoặc luồn qua
khe đá chui ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột
chằng chịt cả bờ hè, như vải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả
đỏ hoa vàng, hương thơm ngào ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì
được.
Giả Chính đến thăm
Khi mới nhìn thấy nơi ở tương lai của Bảo Thoa, ấn tượng đầu tiên của
Giả Chính là nhạt nhẽo, đáng chán, “chẳng có ý nghĩa gì”. Thế nhưng khi
bước chân vô, ông lại thấy một quả núi đá cao ngất che lấp những nhà
cửa, thực vật đẹp đẽ bên trong. Càng vào sâu, Giả Chính và mọi người
càng khám phá thêm nhiều điều kỳ thú, đặc biệt là một loài hoa có mùi
hương quyến rũ “không hoa nào có thể bì được”. Không những loài hoa
này làm ta liên tưởng đến mùi thơm đặc biệt của Bảo Thoa khiến Bảo
Ngọc ngây ngất ở hồi 8, nó còn là ẩn dụ về vẻ đẹp giấu kín của nàng. Để
cảm nhận nét duyên ngầm của Bảo Thoa, phải vượt qua được thành lũy
bên ngoài, bởi nàng không phô bày, diêm dúa. Thế nhưng một khi đã tiếp
cận được phần cốt lõi, tính túy ấy, ta mới nhận ra Bảo Thoa mới chính là
“chúa hoa,” đứng đầu phái nữ. Không phải ngẫu nhiên mà Bảo Thoa lại
ứng với mẫu đơn, thứ hoa được mệnh danh là 花王 – hoa vương.
Bảo Thoa không những ý thức được giá trị của mình, nàng còn tự hào
một cách kín đáo về điều đó. Khí chất của nàng được biểu lộ rõ qua bài
thơ vịnh hoa hải đường trắng với những câu như “Cửa khép vì hoa khép
suốt ngày”, “Phấn son rửa sạch thềm thu nọ”, “Lạt thếch hoa càng thêm
được vẻ”. “Băng tuyết vời về bực móc đây”. Tinh thần băng thanh ngọc
khiết mà không cao ngạo này là lý do bài thơ của Bảo Thoa được xếp trên
tác phẩm ủy mị, sầu bi của Đại Ngọc một bậc, khiến nàng trở thành quán
quân đầu tiên của Hải đường Thi xã. Có thể nói tuy người đọc và Tào
Tuyết Cần đều có lòng thương yêu, thiên vị Đại Ngọc, nhưng chính Bảo
Thoa mới là nhân vật toàn mỹ, cao quý nhất trong thập nhị thoa.

*
Trong phạm vi tác phẩm, tính nhị nguyên (duality) của Bảo Thoa là một
điểm đặc sắc. Tình cảm nóng bỏng của nàng không thể được khắc họa
quá lộ liễu, bằng không nó sẽ phá vỡ thế cân bằng của bộ ba Bảo Ngọc-
Đại Ngọc-Bảo Thoa.
Bảo Ngọc vén rèm vào, thấy Bảo Thoa đương ngồi trên giường thêu kim
tuyến, đầu vén, tóc đen nhánh, mặc áo bông màu gụ, cái khoác vai màu
tím nhạt viền kim ngân tuyến, quần lụa bông lót màu vàng. Tất cả đồ mặc
đều đã rung rúc, giở cũ giở mới, nhìn không có vẻ xa hoa mà lại thêm
nhũn nhặn, môi không tô mà đỏ, mày không kẻ vẫn xanh, mặt như mâm
bạc, mắt sáng long lanh. Điềm đạm ít lời, có người cho là giả dại; tùy
thời đối xử, tự mình chỉ biết phận mình.
[…]
Bảo Thoa xem xong, lại giơ mặt trước xem kỹ, mồm lẩm nhẩm đọc: “Mạc
thất mạc vương, tiên thọ hằng xương”. Sau đó Bảo Thoa quay lại bảo
Oanh Nhi:
– Mày không đi pha nước à? đứng ngẩn ra đấy làm gì?
Oanh Nhi cười hì hì nói:
– Tôi nghe hai câu này như là đối với hai câu khắc ở cái khóa cổ của cô.
Bảo Ngọc nghe nói, vội cười hỏi:
– Thế ra khóa của chị cũng khắc tám chữ à? Cho tôi xem nào?
Bảo Thoa nói:
– Anh đừng nghe nó, chẳng có chữ gì cả.
Bảo Ngọc nằn nì mãi:
– Chị ơi, chị coi tôi như thế nào?
Bảo Thoa không từ chối được mới nói:
– Đó chẳng qua vì có hai câu chúc tụng tốt lành, nên ngày nào tôi cũng
đeo, nếu không thì nó nặng chình chịch, đeo có thú gì!
Bảo Thoa vừa nói vừa cởi dây, lấy cái chuỗi ngọc có kết hạt châu ở trong
cổ áo đại hồng ra.
Bảo Ngọc vội đỡ lấy xem, quả nhiên mỗi mặt có bốn chữ, hai mặt thành
hai câu tám chữ: “Bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế”.
Bảo Ngọc xem xong lẩm nhẩm hai lần, lại nhẩm câu của mình hai lần,
cười nói:
– Chị ơi! Tám chữ này với tám chữ của tôi thành một câu đối.
Oanh Nhi cười nói:
– Đó là hòa thượng chốc đầu cho đấy. Người bảo phải khắc vào cái khóa
vàng.
Bảo Thoa ngắt lời mắng:
– Sao mày không đi pha nước đem lại đây?
Rồi hỏi lảng Bảo Ngọc ở đâu đến.

Giả Bảo Ngọc và Tiết Bảo Thoa


Có thể Bảo Thoa không cố tình bày mưu sắp đặt cùng Oanh Nhi, nhưng
rõ ràng nữ tỳ này rất hiểu lòng chủ nhân. Trước tiên Bảo Thoa đòi xem
mặt ngọc của Bảo Ngọc, lẩm nhẩm đọc tám chữ khắc trên đó. Liền sau
đó, nàng lại mắng Oanh Nhi sao đứng ngẩn ra đó mà không “làm gì đi”,
ấy chính là một lời nhắc khéo vậy. Hành động tiếp theo của Oanh Nhi là
kể về cái khóa cổ của Bảo Thoa, và Bảo Ngọc đã cắn câu một cách dễ
dàng. Chủ-tớ hai người phối hợp nhịp nhàng như hai diễn viên đóng theo
kịch bản đã soạn trước. Thật tự nhiên, thật tài tình. Đường đường là tiểu
thư ngàn vàng, đương nhiên Bảo Thoa có chết cũng không dám mở
miệng động đến vấn đề nhạy cảm như ước định hôn nhân. Có điều Bảo
Thoa tuy mới gặp Bảo Ngọc chưa lâu nhưng đã hiểu rõ tính cách tò mò, si
mê, mộng mơ của anh chàng. Bằng cách mượn lời Oanh Nhi và dẫn dắt
Bảo Ngọc, Bảo Thoa đã thành công trong ba việc: giới thiệu cho Bảo
Ngọc mối duyên khóa vàng-viên ngọc, gieo rắc những cảm xúc mơ hồ,
say sưa trong lòng chàng ta, mà vẫn giữ dáng vẻ thanh cao quý phái, có
thể nói là một mũi tên trúng ba đích.
*
(Kỳ sau, phần 2: Vài ví dụ về tính “trong nóng ngoài lạnh”)
*
Các bạn có thể đọc thêm các bài khác của Anh Nguyễn ở đây

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

23:59 Thursday,29.3.2018 Đăng bởi:  Hoahoaa
Em luôn theo dõi và đọc tất cả các bài viết của tác giả. Điều đó mở mang cho 
rất nhiều điều về tác phẩm kinh điển này. Cảm ơn tác giả rất nhiều

22:39 Sunday,10.12.2017 Đăng bởi:  Frederic Cacao


Đoạn xem ngọc này nếu Anh Nguyễn không phân tích thì mình cũng không
biết là Bảo Thoa lại biết dàn xếp như thế. Quả là cao tay!

Tiết Bảo Thoa (phần 2): Trong nóng, ngoài lạnh, thắng cả Lãnh Hương
Hoàn 08. 11. 17 - 7:46 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo  phần 1)


Một hình dung về Tiết Bảo Thoa
Như bài trước đã dẫn, những khía cạnh tình-ý-dục của Bảo Thoa vì vậy
chỉ thấp thoáng, lấp ló trong truyện, giống như tia óng ánh của chiếc thoa
vàng vùi trong tuyết, chớp mắt một cái thôi là biến mất, nhưng chính vì
thế mà càng trở nên sâu sắc, ý vị. Có thể kể ra bốn ví dụ sau về đặc tính
“trong nóng ngoài lạnh” của nàng.
Ví dụ thứ nhất là lần gặp mặt tại khuê phòng giữa Bảo Thoa và Bảo
Ngọc. Trong khi mối quan hệ Bảo Ngọc-Bảo Thoa đang chớm nở những
nụ hoa đầu tiên quanh câu chuyện chiếc khóa vàng nêu trên thì Tào Tuyết
Cần khéo léo chuyển cảnh để Đại Ngọc xuất hiện! Nếu tình huống “giằng
co” giữa Bảo Ngọc – Bảo Thoa có chút ý vị và e thẹn thì trạng thái này đã
bị phá vỡ khi Đại Ngọc chen vào, trở nên nhuốm màu ghen tuông và căng
thẳng.
Nói chưa dứt lời thì Đại Ngọc đã tha thướt tới nơi. Trông thấy Bảo Ngọc,
Đại Ngọc cười nói:
– Ối chào! Tôi đến không đúng lúc rồi?Bảo Ngọc vội đứng dậy mời ngồi.
Bảo Thoa cười nói:
– Sao chị lại nói thế?
Đại Ngọc nói:
– Nếu biết anh ấy ở đây, thì tôi chẳng đến làm gì!
Bảo thoa hỏi:
– Thế là thế nào?
Đại Ngọc nói:
– Thế nào à? Khi đến thì cùng đến, khi không đến thì chẳng ai đến cả;
hôm nay anh ấy đến, ngày mai tôi đến, cứ cắt lượt nhau, thế có phải là
ngày nào cũng có người đến không? Như thế thì không có lúc nào buồn
quá, mà cũng không có lúc nào vui quá. Có gì mà chị không hiểu?
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc khoác một cái áo đoạn ngoài bằng lông chim
màu đỏ sẫm, liền hỏi:
– Có tuyết à?
Bọn hầu già ở dưới nói:
– Có tuyết từ lúc nãy.
Tiếp theo là một trong những trích đoạn đáng nhớ nhất của Hồng Lâu
Mộng: bên ngoài là trời tuyết (lạnh,) nhưng tình cảnh ba người quây quần
bên trong lại đầy cảm xúc rực cháy (nóng.) Bảo Ngọc muốn uống rượu
(lạnh,) nhưng Bảo Thoa đã ngăn cản:
Bảo Thoa cười nói:
– Anh Bảo, hàng ngày anh học hỏi được nhiều điều, thế mà anh lại không
biết tính rượu rất nóng à? Phải uống nóng thì phát tán nhanh; nếu uống
lạnh thì đọng lại ở bên trong, ngũ tạng sẽ bị lạnh, như thế chẳng có hại
hay sao? Từ rày anh nên chừa đi, đừng uống rượu lạnh nữa.
Bảo Ngọc nghe nói có lý, bỏ rượu lạnh xuống, sai người hâm nóng mới
uống.
Đại Ngọc đương cắn hạt dưa, nhếch mép mỉm cười. Vừa lúc đó a hoàn
của Đại Ngọc là Tuyết Nhạn mang đến cái lồng ấp, Đại Ngọc cười hỏi:
– Ai bảo em đem đến cho ta thế? Thật là em chu tất quá. Nhưng ta đã
chết rét đâu mà sợ!
Tuyết Nhạn nói:
– Chị Tử Quyên sợ cô lạnh, bảo tôi mang đến đấy.
Đại Ngọc cầm lấy lồng ấp để vào lòng, cười nói:
– Khen cho em cũng khá đấy! Lại biết nghe lời nó. Xưa nay ta bảo em
câu gì, em đều để ngoài tai. Thế mà bây giờ nó bảo em, em vâng lời,
nhanh hơn chiếu chỉ nhà vua!
Bảo Ngọc nghe nói thế, biết Đại Ngọc mượn cớ nói chọc mình, nhưng
không biết trả lời ra làm sao, chỉ hì hì cười mà thôi.
Bảo Thoa vẫn biết Đại Ngọc xưa nay quen lối nói cạnh nói khóe, nên
không để ý. Tiết phu nhân cười nói:
– Cháu người vốn yếu, không chịu được lạnh, thế mà nó lại nghĩ đến
cháu, chẳng tốt hay sao?
Đại Ngọc cười nói:
– Dì không biết: may mà ở nhà dì đấy, chứ ở nhà khác, chẳng làm cho
người ta phát bực hay sao? Nhà ai chẳng có lồng ấp, việc gì phải mang
từ nhà đến? Dù rằng bọn a hoàn chu tất thật đấy, nhưng người ta lại cho
cháu ngày thường quen thói ngông cuồng đi rồi.
Giống như âm-dương, hàn-nhiệt là một cặp phạm trù đối xứng và gắn kết
bất diệt, luôn xuất hiện cùng nhau trong y học, văn chương, triết học,…
của người Trung Quốc. Mặc dù Bảo Thoa bị chứng “nhiệt độc từ trong
tim” và phải uống Lãnh Hương Hoàn để điều trị, nàng lại nhắc nhở Bảo
Ngọc rằng chất nóng trong rượu nếu không được phát tán hết sẽ làm hại
đến ngũ tạng. Cũng theo triết lý nóng-lạnh sóng đôi ấy, Bảo Thoa giải
thích cho dì Chu rằng Lãnh Hương Hoàn (lạnh) cần được uống cùng
“nhiệt thang” (nóng.) Bảo Thoa vốn luôn được miêu tả như một nhân vật
trí tuệ và thông thái. Nàng ý thức được rằng “nhiệt” là một phần không
thể thiếu trong cơ thể, cũng như “tình” là một phần không thể thiếu của
sự sống. Tìm cách triệt tiêu nó một cách hoàn toàn là một việc làm sai
lầm, trái với tự nhiên. Bởi vậy có thể suy ra Bảo Thoa cũng ngoài lạnh
trong nóng như ly rượu kia vậy.
Câu chuyện “nóng nóng lạnh lạnh” giữa Bảo Thoa-Bảo Ngọc khiến Đại
Ngọc trở nên khó chịu, thậm chí ghen tức. Trong hoàn cảnh này, Đại
Ngọc lại chính là “mỹ nhân băng tuyết”. Đại Ngọc từ bên ngoài trời tuyết
đi vào, phá vỡ không khí ấm áp trước đó của Bảo Thoa-Bảo Ngọc. Nàng
lạnh nhạt, thờ ơ, kiêu kỳ, mai mỉa. Nàng tỏ ra bất cần, không sợ cái lạnh,
thậm chí còn đón nhận nó. Ngay cả cái tên của Tuyết Nhạn cũng góp
phần làm tăng sự giá buốt của nàng. Ngược lại, Bảo Thoa lại toả ra sự
nồng ấm. Dường như chương này đã báo trước sự rạn nứt của cặp đôi
cây-đá và sự kết hợp của cặp đôi vàng-ngọc về sau. Theo giáo sư Martin
W. Huang của đại học UC Irvine, đây là trích đoạn trong Hồng Lâu
Mộng mà cặp phạm trù nóng-lạnh có tính biểu tượng đậm đặc nhất. Ông
cũng chỉ ra rằng việc đặt các hình ảnh nóng-lạnh kề nhau là một truyền
thống của văn học Trung Hoa, có từ những tác phẩm như Thủy
Hử và Kim Bình Mai.
Ví dụ thứ hai về tính “trong nóng ngoài lạnh” của Bảo Thoa là lúc nàng
tới thăm Bảo Ngọc sau khi bị cha đánh. Đoạn này diễn ra ở chương 34:
Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc mở mắt ra nói chuyện, đã khá hơn lúc nãy,
trong bụng cũng đỡ lo, chỉ lắc đầu thở dài:
– Nếu cậu sớm chịu nghe lời mọi người thì đâu đến nỗi như ngày hôm
nay? Chả cứ cụ và dì mà ngay chúng tôi trông thấy cũng phải đau lòng.
Bảo Thoa nói được nửa chừng thì nín hẳn lại, hối hận không nghĩ kỹ, tự
nhiên má đỏ lên, đầu cúi xuống, không nói nữa. Nghe những lời thân
mật, có ngụ ý sâu xa, lại thấy Bảo Thoa nín bặt không nói, má đỏ, đầu
cúi xuống, tay mân mê dải áo, có dáng e lệ thẹn thò, không thể nào hình
dung hết được, Bảo Ngọc trong lòng càng thêm cảm động, bao nhiêu đau
đớn hình như đã trút sạch ra ngoài chín tầng mây.
Bảo Thoa đến thăm Bảo Ngọc sau trận đòn
Đôi má đỏ của Bảo Thoa được Tào Tuyết Cần nhắc lại hai lần để nhấn
mạnh ý nghĩa của nó. Má đỏ là đào hoa chỉ diện, là biểu hiện của người
phụ nữ đa tình. Dáng vẻ, điệu bộ, lời nói của Bảo Thoa dành cho Bảo
Ngọc có lãnh tình không? Hoàn toàn không. Thuốc Lãnh Hương Hoàn
thế là không có tác dụng rồi!
*
(Phần cuối: “Con sâu chủ động chui vào với hoa“)
*
Các bạn có thể đọc thêm các bài khác của Anh Nguyễn ở đây

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

10:28 Friday,10.11.2017 Đăng bởi:  hai phạm


Bác Anh Nguyễn ơi... Bác phân tích hay quá, em chờ.. em chờ bác ở Phần
cuối: “Con sâu chủ động chui vào với hoa“ và còn chờ nhiều hơn nữa các
phân tích tác phẩm văn học. Cảm ơn bác và chúc bác luôn vui khỏe!

17:15 Thursday,9.11.2017 Đăng bởi:  Đăng Niện


@ Đã lừa gạt tôi không xót xa: Bạn nói cứ như đúng rồi ấy, nào là Đại Ngọc
vì nghĩa lớn (thí dụ đi), nào là Bảo Thoa chẳng khác Phượng Thư (lúc nào,
chứng minh đi). Toàn cứ như mượn bài người ta nói bức xúc ở cơ quan mình
ấy nhỉ. 

Tiết Bảo Thoa (phần 3): Con sâu chủ động chui vào với hoa 14. 11. 17 -
5:29 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo phần 1  và phần 2)


Ví dụ thứ ba diễn ra chỉ hai chương sau đó là một cảnh tượng đặc sắc,
hàm ý sâu xa:
Bảo Thoa đi một mình, tiện đường tạt vào viện Di Hồng, muốn gặp Bảo
Ngọc nói chuyện để khuây khỏa buổi trưa. Khi vào đến sân, thấy lặng lẽ
không một tiếng động. Đôi hạc đậu ở khóm chuối cũng đều thiu thiu giấc
ngủ. Bảo Thoa rẽ sang bên cạnh, vào ngay trong buồng, thấy ở gian
ngoài, bọn a hoàn đương ngủ ngổn ngang cả trên giường. Bảo Thoa đi
qua cửa sổ có treo màn gấm các màu, vào tận buồng Bảo Ngọc, thấy Bảo
Ngọc cũng ngủ, chỉ có Tập Nhân ngồi thêu bên cạnh, để một cái phất
trần cán bằng sừng trắng.
Bảo Thoa đến gần khê cười nói:
– Chị cẩn thận quá, trong nhà này còn có ruồi muỗi à? Để cái này làm gì
đấy?
Tập Nhân bất thình lình ngẩng đầu lên, trông thấy Bảo Thoa, vội bỏ kim
chỉ đứng dậy, khẽ cười nói:
– Cô đến đấy à? Tồi sợ giật nẩy mình lên. Cô chưa biết, ở đây tuy không
ruồi muỗi, nhưng có một thứ sâu nhỏ ở ngoài màn chui vào, chẳng ai
trông thấy. Trong khi ngủ, lỡ nó cắn vào người, thì đau như kiến đốt.
Bảo Thoa nói:
– Chả trách được, đằng sau thì gần nước, lại trồng các thứ hoa, làm
thơm lừng cả nhà lên, giống sâu này quen ăn nhụy hoa, hễ ngửi thấy mùi
thơm là thế nào nó cũng chui vào.
Bảo Thoa nhìn cái bức thêu ở tay Tập Nhân. Đó là cái yếm bằng lụa
trắng, giữa có màu đỏ, trên mặt thêu kiểu “Uyên ương vờn hoa sen” có
hoa đỏ lá xanh, có chim uyên ương năm màu.
Bảo Thoa nói:
– Ái chà? Tươi đẹp quá! Cái này của ai mà làm phí bao nhiêu là công?
Tập Nhân ngoảnh vào giường bĩu môi. Bảo Thoa cười nói:
– Người đã lớn thế mà còn đeo cái này à?.
Tập Nhân cười nói:
– Xưa nay cậu ấy vẫn không chịu đeo, nên phải làm thật đẹp, để cậu ấy
trông thấy tự khắc phải đeo! Bây giờ trời nóng, nhân lúc cậu ấy ngủ
không để ý, tôi lựa cách đeo vào cho, lỡ đêm không đắp chăn cẩn thận
cũng không sao. Cô nói làm cái này tốn công, có lẽ cô chưa thấy cái cậu
ấy đang đeo trong người sao!
– Chị chịu khó quá!
– Hôm nay làm việc nhiều, cổ cúi xuống đau nhừ cả người.
Lại cười nói:
– Cô hãy ngồi chơi, tôi ra ngoài một tý rồi vào ngay.
Nói xong đi ra.
Bảo Thoa chỉ chăm chú nhìn cái bức thêu nên không để ý, ngồi luôn
xuống đó. Vì cũng thích bức thêu, Bảo Thoa liền lấy ngay kim thêu tiếp.
Không ngờ Đại Ngọc hẹn Tương Vân đến mừng Tập Nhân. Hai người
vào sân, thấy vắng ngắt cả. Tương Vân quay ra ngoài hiên đi tìm Tập
Nhân, Đại Ngọc tìm đến chỗ cửa sổ, đứng ngoài màn the nhìn vào, thấy
Bảo Ngọc mặc cái áo sa màu hồng, nằm ngủ ở trên giường, Bảo Thoa
ngồi thêu bên cạnh, có cái đập ruồi để gần đấy.
Đại Ngọc thấy thế, đứng né ra một bên, lấy tay bịt mồm, không dám cười
ra tiếng, liền vẫy Tương Vân lại. Tương Vân tưởng có gì lạ, vội chạy lại,
thấy thế, muốn cười, nhưng nghĩ Bảo Thoa xưa nay đối với mình tử tế,
liền nín ngay, biết Đại Ngọc vốn tính đành hanh, hay nói bóng nói gió để
chế nhạo người, Tương Vân kéo Đại Ngọc và nói:
– Đi đi thôi. Tôi nhớ Tập Nhân có nói là đến trưa sẽ ra ao giặt quần áo,
chắc chị ta đã ở đấy rồi, chúng ta đi tìm chị ấy thôi.Đại Ngọc hiểu ý,
cười nhạt một tiếng rồi theo đi.
Bảo Thoa thêu yếm uyên ương cạnh Bảo Ngọc, chú ý cái phất trần sừng
tê giác ở bên cạnh
Bảo Thoa ngồi thêu trong lúc Bảo Ngọc ngủ trưa
Trích đoạn trên có ý nghĩa thế nào? Về mặt lễ nghi, việc Bảo Thoa ngồi
cạnh một Bảo Ngọc say ngủ, ăn mặc không chỉnh tề, rõ ràng là một sai
phạm nghiêm trọng. Không những thế nàng còn thế chỗ của Tập Nhân –
hầu gái và vợ lẽ của Bảo Ngọc sau này! Theo nhà Hồng học Hồng Thu
Phan đời nhà Thanh, hành động này biểu hiện khát vọng hợp thức hóa
mối quan hệ vợ chồng của Bảo Thoa với Bảo Ngọc. Khát vọng này mãnh
liệt tới mức Bảo Thoa – một tiểu thư luôn chú ý đến phép tắc, quy củ,
cũng không thể cưỡng lại được nó. Hồng Thu Phan nhận xét rằng, trong
vô thức, Bảo Thoa bị cuốn hút về phía Bảo Ngọc chẳng khác gì “con sâu
chui vào nhụy hoa” mà chính nàng nhắc đến. Hình ảnh sâu-hoa làm ẩn dụ
cho quan hệ nam nữ vốn không xa lạ gì với người đọc truyện Kiều (Tiếc
thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về.) Điều đặc biệt ở đây
là Bảo Thoa lại nắm vai trò chủ động thay vì bị động như những người
con gái khác.
Một nhà Hồng học khác là Trương Tân Chi còn “buộc tội” Bảo Thoa một
cách ráo riết hơn. Theo Trương, cái phất trần cán bằng sừng trắng là một
biểu tượng phồn thực. Thứ nhất, sừng tê giác thường được dùng như một
vị thuốc kích dục. Không những thế, chữ tê trong tê giác còn có nghĩa
cứng nhọn, vì thế sừng tê thường được dùng để ám chỉ cho bộ phận sinh
dục nam giới trong những tác phẩm như Nhục Bồ Đoàn. Quả thật, nếu cái
phất trần không phải chi tiết quan trọng thì tác giả đã không bỏ công nhắc
tới nó hai lần! Trương Tân Chi còn lật lại hình ảnh sâu-hoa, nhắc lại cho
người đọc rằng ở chương 28, Tào Tuyết Cần đã giới thiệu với người đọc
một bài hát khá “gợi cảm” những câu như:
“Tháng ba đậu mới trồi hoa,
Sâu kia đâu đã lân la đục rồi.
Đục vào cũng uổng công thôi,
Trên hoa tấp tểnh lên ngồi đánh đu.”
Cuối cùng, khi bình luận về chiếc yếm mà Bảo Thoa thêu cho Bảo Ngọc,
Trương Tân Chi đã đặt ra bốn câu hỏi khó: “Chim uyên ương là chim như
thế nào? Vờn hoa sen là ý nghĩa gì? Bộ phận nào của đàn ông được che
bởi yếm? Cái gì mà ngoài trắng trong đỏ? Tất cả những điều này có ý
nghĩa cực quan trọng.”
Uyên ương là một loại vịt mà con trống con mái cả đời quấn quít, vì thế
uyên ương hí thủy (uyên ương đùa nước) là một biểu tượng cho hạnh
phúc lứa đôi. Hoa sen (liên) đồng âm với yêu thương (lân) và thường
được dùng để chỉ bộ phận sinh dục nữ. Loại “yếm” được miêu tả trong
đoạn này giống như một thứ tạp dề đeo dưới thắt lưng đàn ông. Và cái gì
trong trắng ngoài đỏ thì … để bạn đọc tự đoán. Trong một đoạn văn rất
ngắn, Tào Tuyết Cần dệt lên một bức tranh sống động, tục mà vẫn nhã, có
ý dâm đấy mà vẫn thanh cao. Và nhân vật Bảo Thoa qua đó càng trở nên
thú vị, nhiều màu sắc hơn.
Ví dụ cuối cùng về nữ tính, thậm chí dục tính của Bảo Thoa nằm ở
chương 27: Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng. Cần nhắc lại
rằng trái với Đại Ngọc liễu yếu đào tơ, Bảo Thoa có thân hình nảy nở,
đẫy đà. Nếu Đại Ngọc thường được so sánh với nàng Tây Thi đa bệnh thì
Bảo Thoa lại được ví với Dương Quý Phi – một mỹ nữ nổi tiếng truỵ lạc
đời nhà Đường.

Bảo Thoa bắt bướm ở đình Trích Thuý, được ví với Dương Quý phi
Nghĩ xong, Bảo Thoa định quay đi tìm chị em khác, thì trước mặt có một
đôi bướm trắng to bằng cái quạt, con xuống con lên, theo gió bay lượn,
rất là đẹp mắt. Bảo Thoa muốn bắt để chơi, liền lấy cái quạt ở trong tay
áo ra, định đập xuống đất. Không ngờ đôi bướm cứ lên lên xuống xuống,
lượn lượn bay bay, rồi chúng luồn qua khe hoa, khóm liễu, chờn vờn định
bay qua sông, làm cho Bảo Thoa cứ rón rén đuổi theo mãi đến đình Trích
Thúy ở bên ao. Bấy giờ mồ hôi đầm đìa, hơi thở hổn hển, Bảo Thoa đành
thôi không đuổi nữa.
Những cụm từ “mồ hôi đầm đìa” (hương hãn lâm lâm,) hơi thở hổn hển
(kiều xuyễn vy vy,) và đặc biệt hình ảnh “đôi bướm lên lên xuống xuống,
lượn lượn bay bay” (nhất song hồ điệp, nhất khởi nhất lạc) rất thường
được dùng để miêu tả người phụ nữ trong cảnh khoái lạc trong những tác
phẩm gợi dục của Trung Quốc, Không những thế, trong Kim Bình Mai,
Phan Kim Liên cũng hai lần bắt bướm trong khi đùa giỡn cùng con rể Tây
Môn Khánh là Trần Kinh Tế. Trong Lâm Lan Hương, hình ảnh cặp bướm
bay lượn cũng gắn liền với nhân vật nữ chính lẳng lơ. Trên thực tế, đoạn
Bảo Thoa bắt bướm lẽ ra được viết dài và chi tiết hơn nhiều để làm đối
trọng của cảnh Đại Ngọc chôn hoa: cái đẹp nhục dục, trần thế của Bảo
Thoa đối nghịch với cái đẹp tinh thần, siêu hình của Đại Ngọc *. Nếu nhìn
qua lăng kính trừu tượng thì Bảo Thoa biểu tượng cho tình yêu thân xác,
Đại Ngọc biểu tượng cho tình yêu tâm hồn, và sự kết hợp của bộ ba Bảo
Ngọc-Đại Ngọc-Bảo Thoa mới là tột cùng của tình yêu hoàn hảo.
Đại Ngọc qua đời, được mọi người rửa ráy để khâm liệm trong khi Bảo
Ngọc kết hôn vợ chồng cùng Bảo Thoa
*
*
Tiếc là ông Ky Hốt Tẩu (một người hàng cha chú, thậm chí là cha đẻ
của Tào Tuyết Cần) đã yêu cầu tác giả cắt đi những cảnh quá sống
sượng. Ky Hốt Tẩu là một bút danh có ý nghĩa chua  chát. Ky nghĩa là
tàn tật, phế hỏng. Hốt là cái bằng sừng hoặc ngọc các quan cầm khi vào
chầu vua. Tẩu là ông già. Dựa vào bút danh, có thể suy đoán Ky Hốt Tẩu
là một trưởng lão trong Tào gia đã từng có thời gian làm quan trong
triều. Những dòng bình luận bên lề của Ky Hốt Tẩu thường có những từ
cảm thán: khấp (khóc,) thán tức (than thở,) thương tai (đau đớn thay.) Vì
sự can thiệp của Ky Hốt Tẩu mà Phong Nguyệt Bảo Giám nhiều cảnh
chăn gối, yêu đương, hóa thành Hồng Lâu Mộng mà chúng ta đọc ngày
nay.
Ý KIẾN - THẢO LUẬN

1:22 Tuesday,21.8.2018 Đăng bởi:  Trang Mai Quý


@Anh Nguyễn ơi 
  
Mình không có ý gì. Nhưng thú thực chưa hiểu trong trắng ngoài đỏ ám chỉ
cái gì, bạn giải thích dùm mình với

13:46 Tuesday,21.8.2018 Đăng bởi:  Anh Nguyễn


@Trang Mai Quý: là cái yindao (陰道) bạn nhé.

Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 1): sự thôi thúc của phần
con 07. 01. 17 - 7:14 am
Anh Nguyễn

Nhân vật Giả Thụy, tên chữ Giả Thiên Tường, là một trường hợp tương
đối đặc biệt của Hồng Lâu Mộng. Y xuất hiện ở hồi thứ chín, đến hồi thứ
mười hai đã qua đời đột ngột theo kiểu “sét đánh không kịp bưng tai.”
Cuộc đời – cái chết Giả Thụy tuy chỉ gói gọn trong vài chương ngắn ngủi
nhưng diễn biến hấp dẫn, tình tiết ly kỳ, lại có nhiều ý nghĩa sâu xa khó
nói hết, hoàn toàn xứng đáng dựng thành một vở bi hài kịch riêng. Câu
chuyện gió trăng của Giả Thụy khiến tôi liên tưởng nhiều đến những tác
phẩm của Shakespeare như The Comedy of Errors hay Love’s Labour’s
Lost.
Tranh vẽ Giả Thụy
Giả Thụy là cháu nội Giả Đại Nho, thuộc một chi tương đối nghèo của họ
Giả. Y đóng vai trò trông nom trường học của dòng họ, trách nhiệm
không phải nhỏ. Nhưng dưới sự cai quản của y, nơi này trở thành chỗ yêu
đương đồng giới của bọn học sinh, chữ nghĩa thánh hiền thảy đều bị thổi
bay đi đâu mất cả. Trong truyện đã giới thiệu về Giả Thụy rõ ràng:
Giả Thụy vốn người không đứng đắn, chỉ thích lợi, khi ở trong trường
hắn thường hay mượn việc công làm việc tư, hạch sách đám học trò phải
mời hắn ăn uống. Hắn vào hùa với Tiết Bàn, mong kiếm tiền, kiếm rượu,
nên tha hồ để mặc cho Tiết Bàn ngông nghênh làm càn, không những hắn
không ngăn cấm mà còn nối giáo cho giặc để lấy lòng Tiết Bàn.
Hồng Lâu Mộng có nhiều cung bậc của tình: có tình trong sáng, tình tri
kỷ, cũng có tình dâm ô và nhơ bẩn. Nói thẳng ra là Giả Thụy đã biến
trường học thành ổ giai bao cho họ Tiết, bản thân y lãnh nhiệm vụ ma cô
dắt khách. Khổ nỗi anh chàng Tiết Bàn là kẻ không đứng đắn, có mới nới
cũ, chán chê với Kim Vinh lại chuyển sang hai nam sinh Hương Lân và
Ngọc Ái. Về sau y cũng hết yêu hai cậu này, thế là Giả Thụy trở nên “bơ
vơ không nơi nương tựa.” Tiết Bàn chính là kẻ thô tục bậc nhất
trong Hồng Lâu Mộng, y một thân hào phú nhưng bị con lợn lòng hoàn
toàn chi phối. Giả Thụy dính dáng với Tiết Bàn là đủ biết y thuộc hạng
người nào. Kết cục của Giả Thụy khó mà tốt đẹp được.
Thế nhưng cuộc đời Giả Thụy chỉ hoàn toàn xoay chuyển khi y gặp phải
Phượng Thư. Quả đúng là… người đâu gặp gỡ làm chi.
[…] rồi dẫn bọn người hầu và người nhà phủ Ninh ra quanh cửa đi tắt
vào vườn hoa, nhìn thấy:
Hoa vàng giải đất, liễu trắng quanh bờ. Suối Nhược Gia cầu nhỏ bắc
qua; núi Thiên Thai đường con rẽ tới. Khe đá dòng trong róc rách, hàng
giậu đều thơm; trên cây lá đỏ rập rờn, rừng thưa như vẽ. Gió tây thổi
mạnh, oanh còn thỏ thẻ bên tai; ngày ấm vui dồn, dế cũng rì rầm nói
chuyện. Kìa phía đông nam, mấy tòa lầu nhấp nhô dựa núi; nọ nơi Tây
bắc, ba gian hiên thấp thoáng kề sông. Vang tiếng phách sênh, tình riêng
khôn tả; chen màu là lụa, cảnh đẹp nên thơ.
Phượng Thư đi thong thả xem cảnh trong vườn. Đương lúc ngắm nghía,
chợt thấy một người ở sau núi giả chạy ra, đứng trước mặt, nói:
– Xin chào chị!
Phượng Thư giật mình, lùi lại hỏi:
– Có phải chú Thụy đấy không?
Giả Thụy nói:
– Chị không nhận ra tôi à?
– Không phải tôi không nhận ra, đương lúc bất thình lình không ngờ chú
lại ở đây.
Giả Thụy nói:
– Có lẽ tôi với chị có duyên hay sao? Tôi vừa ở trong tiệc lẻn ra, đến chỗ
thanh vắng này cho khoan khoái một tí, không ngờ lại gặp chị. Thế chẳng
phải có duyên là gì.
Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.
Lần đầu Giả Thụy gặp Phượng Thư
Đoạn trên rất hay, có thể nói Tào Tuyết Cần đã vận dụng biện pháp
“foreshadowing” (báo trước) một cách tuyệt diệu. Về thời điểm, cảnh này
diễn ra sau khi Phượng Thư thăm nom Tần thị, nàng dâu lẳng lơ dưới
trần kiêm “người tình nhân thứ nhất” ở cõi tiên (hồi một trăm mười một),
nên không khỏi dính dáng tới chuyện mây mưa. Sân khấu diễn ra tấn trò
lại chính là vườn hoa của Ninh quốc phủ, một nơi đầy chuyện tục khí, mờ
ám, đến mức Liễu Tương Liên từng nhận xét hoạ may chỉ có hai con sư
tử đá bên ngoài là còn sạch! Những địa danh được nhắc đến trong cảnh
cũng có ý tứ nhạo báng: suối Nhược Gia là nơi Tây Thi giặt lụa gặp Phạm
Lãi, núi Thiên Thai là nơi Nguyễn Triệu diện kiến tiên nữ. Thế nhưng
Phượng Thư bụng dạ độc ác, ăn nói chua cay không xứng với danh hiệu
mỹ nhân, còn Giả Thuỵ lại càng không phải anh hùng cái thế hay tài tử
phong nhã. Cuộc tao ngộ này chỉ là kẻ cắp bà già gặp nhau mà thôi.
Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám
chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:
– Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay
được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã.
Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi,
chúng ta lại sẽ gặp nhau.
Giả Thụy nói:
– Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ
dàng.
Phượng Thư lại giả cách cười nói:
– Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?
Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: “Không ngờ hôm nay lại có
cuộc gặp gỡ lạ lùng thế này!” Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn
ngơ ngơ ngẩn. Phượng Thư lại nói:
– Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!
Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại
nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ:
“Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng
người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết
tay!”

Hai người từ biệt nhau


Vậy là kết thúc hồi mười một “Gặp Hy Phượng, Giả Thuỵ động lòng dâm
dục”. Khi Tào Tuyết Cần nói về sự thức tỉnh tình dục (sexual awakening)
của Bảo Ngọc, ông dùng những cụm từ hết sức tinh tế, ý nhị “mộng kín,”
“tình ngây.” Còn đối với Giả Thụy, tác giả gọi thẳng bản chất sự thôi thúc
trong y – sự khao khát phần con chứ không phải phần người. Đoạn sau
không cần nói rõ. Giả Thụy lần mò đến gặp Phượng Thư, say sưa mê
mẩn, rạo rực sàm sỡ. Phượng Thư khéo léo cầm chừng, lại hẹn y một nơi
vắng vẻ buổi đêm. Vở kịch bắt đầu đến hồi gay cấn. Giả Thụy đi gặp gái
ra sao?
(Còn tiếp)

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

11:36 Sunday,8.1.2017 Đăng bởi:  Anh Nguyễn


@Frederic Cacao: bạn yên tâm, mình thương Giả Thuỵ lắm á, không có dè
bỉu gì đâu. Bạn chờ xem phần sau của bài nhé. 

21:42 Saturday,7.1.2017 Đăng bởi:  Frederic Cacao


Cảm ơn bài viết của Anh Nguyễn. 
Phần con thì thực ra trong ai cũng có một ít. Giả Thụy có phần đáng thương
vì không có ai giúp hắn kiểm soát phần con đó (xem cách Giả Đại Nho dạy
cháu, cũng như Giả Chính dạy con, mà rùng cả mình), mà nàng Phượng Thư
lại cố tình khêu phần con đấy của hắn ra. Trong vụ xì-căng-đan của Giả Thụy
thì lỗi của Phượng Thư cũng phải đến 4 phần. Mình rất thích nhân vật
Phượng Thư chứ ko phải antifan đâu.
Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tấm gương mê gái có chết
cũng (nên) soi 08. 01. 17 - 12:00 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo phần 1)
Vở kịch bắt đầu đến hồi gay cấn. Giả Thụy đi gặp gái ra sao?
Giả Thụy nghe nói, mừng quá, vội cáo từ, trong bụng chắc mẩm. Chờ
đến chiều tối, hắn mò sang phủ Vinh. Đương lúc sắp đóng của, hắn lẻn
vào cái nhà trống, quả thấy tối om, chẳng có người nào đi lại. Cửa sang
bên nhà Giả mẫu đã khóa rồi, chỉ còn cửa phía đông chưa đóng. Giả
Thụy lắng nghe giờ lâu chẳng thấy ai đến. Chợt nghe tiếng lách cách,
cửa phía đông cũng đóng nốt. Giả Thụy sốt ruột, nhưng không dám lên
tiếng, khe khẽ lần đến đẩy mấy cái, thấy cửa đóng chặt như thùng sắt.
Bấy giờ hắn muốn ra cũng không được. Phía nam, phía bắc đều là tường
cao, muốn trèo cũng không có chỗ vịn. Chỗ ấy lại là nơi gió lùa, chung
quanh trống hốc. Trời tháng chạp đêm dài, gió bấc thổi hun hút, rét buốt
đến xương, ai đứng đó một đêm có thể chết cứng được. Chờ mãi đến mờ
sáng, thấy một bà già mở cửa phía đông, rồi sang gọi cửa phía tây. Lúc
bà già ngoảnh mặt đi, hắn liền cắm đầu cắm cổ chạy biến mất. May trời
còn sớm, chưa ai dậy, hắn lẻn ra cửa sau chạy một mạch về nhà.
Giả Thụy bị Phượng Thư cho “leo cây”
Chuyến này Giả Thụy không những không được thoả nguyện mà còn bị
ông nội “đánh ba bốn chục roi thật đau, lại không cho ăn cơm, bắt phải
quỳ học bù mười buổi mới tha. Giả Thụy bị rét một đêm, lại bị một trận
đòn đau, phải nhịn đói, quỳ ở dưới đất mà học, khổ sở muôn phần”.
Đây là trở ngại đầu tiên của Giả Thụy: bị lừa dối, bị lạnh nhạt, và bị trừng
phạt về thể xác.
Giả Đại Nho chửi mắng Giả Thụy
Lần thứ hai, Phượng Thư tiếp tục bày cuộc tương tư. Giả Thụy thì say mê
sắc đẹp đến mức mất cả lý trí:
Nhưng lòng tà vẫn chưa chịu bỏ, Giả Thụy vẫn chưa biết mưu chước của
Phượng Thư. Qua vài ngày được lúc rỗi, hắn lại tìm đến. Phượng Thư
làm ra bộ trách móc sai hẹn. Giả Thụy vội vàng thề ngay. Phượng Thư
thấy hắn tự đâm đầu vào tròng, lại bày mẹo khác để cho hắn tỉnh ngộ.
Bèn giả cách hẹn:
– Tối hôm nay đừng đến chỗ cũ nữa, cứ đến chờ ở cái gian nhà bỏ không,
có đường rẽ sang buồng tôi, đừng có lầm đấy!
– Thực thế chứ?
– Không tin thì đừng đến!
– Thế nào cũng đến, nhất định đến, dù chết cũng đến.
– Bây giờ hãy về đi.
Giả Thụy chắc mẩm tối ấy thế nào cũng ổn chuyện ra về ngay. Bấy giờ
Phượng Thư mới điều binh khiển tướng, đặt sẵn vòng vây.
[…]
Đương lúc phân vân, thấy lù lù một bóng đen đi đến, Giả Thụy đoán chắc
là Phượng Thư. Người ấy vừa đến gần, Giả Thụy ôm chầm lấy, như hổ
đói vồ mồi, mèo đói vồ chuột, nói: “Chị ơi! Làm tôi chờ lâu chết đi
được!” Hắn ôm ngay lên giường, hôn hít, cởi dải quần, rồi cứ “cha ôi!
mẹ ôi!” kêu cuống cuồng lên. Người ấy lặng yên chẳng nói gì. Giả Thụy
cũng đang cởi dải quần định nhập cuộc. Chợt có bóng đèn lòe sáng. Giả
Tường cầm nến soi, hỏi:
– Ai ở trong nhà ấy?
Người nằm trên giường té ra là Giả Dung cười nói:
– Chú Thụy định hiếp tôi đấy!
Giả Thụy xấu hổ quá, không lẩn vào chỗ nào được, quay mình toan chạy.
Giả Tường giữ lại, bảo:
– Không được chạy! Thím Liễn đã trình với bà Hai là chú đến ghẹo thím
ấy. Thím ấy dùng kế giữ được chú ở đây. Bà Hai nghe nói, tức lộn ruột,
bảo đến bắt chú. Chú phải theo tôi đi ngay!
Giả Thụy sợ hết hồn, nói:
– Cháu ơi! Cháu cứ nói là không tìm thấy chú, ngày mai chú sẽ hậu tạ.
[…]
Giả Tường lấy giấy bút, ra vẻ làm phúc làm đức, bắt Giả Thụy phải viết
văn tự và ký tên vay 50 lạng. Xong xuôi đâu đấy, hắn lại bắt điều đình với
Giả Dung. Lúc đầu Giả Dung nhất định không nghe, chỉ nói: “Ngày mai
báo cho cả họ biết, xem họ phân xử ra sao!” Giả Thụy kêu van mãi, sau
phải sụp xuống lạy, Giả Tường mới làm ra vẻ nhân từ, bắt Giả Thụy phải
viết một bức văn tự vay 50 lạng bạc nữa mới thôi.
[…]
Giả Thụy không làm thế nào được, đành phải ngồi chồm chỗm ở dưới
thềm. Đang lúc lo nghĩ. Chợt ở trên đỉnh đầu, nghe ào một tiếng, một
thùng vừa cứt vừa nước đái đổ xuống suốt từ đầu đến chân, Giả Thụy “ối
chào” một tiếng, vội bưng miệng, không dám kêu to, đầu và mặt đầy
những cứt đái, người lạnh như băng, run cầm cập. Giả Tường chạy lại
bảo “Chạy mau! Chạy mau!” Giả Thụy được lệnh, ba chân bốn cẳng, từ
cửa sau chạy về. Bấy giờ đêm đã canh ba, phải gọi cửa.
Ở lần thứ hai này, cấp độ “bị lừa dối, bị lạnh nhạt, và bị trừng phạt về thể
xác” của Giả Thụy còn nặng nề hơn! Lần trước y chịu đựng một mình,
còn bây giờ có hai người chứng kiến. Giả Dung, Giả Tường trêu chọc y,
sỉ vả y, bắt y lạy lục xin tha và viết văn tự nợ, đó là hành hạ tinh thần.
Những thứ chất thải đổ lên đầu lại càng làm hoàn thiện bức tranh thê
thảm của Giả Thụy, là ẩn dụ cho sự kiệt cùng, nhơ nhuốc của y. Dưới góc
độ thể diện, nó còn tệ hơn bị đánh đòn hay bắt nhịn ăn. Rõ ràng Giả Thụy
càng luyến ái Phượng Thư bao nhiêu thì lại càng phải chịu đựng sự hành
hạ khốc liệt bấy nhiêu. Cơ thể bị dày vò, tinh thần bị làm nhục, có thể nói
Giả Thụy đã ở đáy cùng của số phận.
Thế nhưng cái nghiệt ngã của tình lại nằm ở chỗ này: khi Phượng Thư
không đùa cợt với Giả Thụy nữa, bản thân y cũng không dám bén mảng
đến gần nàng, thì sự mê đắm của y mới đạt đến mức tột cùng. Giả Thụy
không chỉ đơn thuần bị Phương Thư quyến rũ. Y đã bị ám ảnh với nàng,
hoàn toàn lạc lối trong ma đạo của tình dục.

Giả Thụy tới gặp Phượng Thư


Bấy giờ hắn mới biết Phượng Thư lừa mình, tức giận một hồi, nhưng lại
nghĩ đến bóng dáng yểu điệu của nàng, tiếc không được ôm ngay vào
lòng. Hắn nghĩ vơ nghĩ vẩn suốt đêm, không chợp mắt. […] Với con
người mới hai mươi tuổi đầu, chưa có vợ, mơ tưởng Phượng Thư không
toại nguyện, tránh sao khỏi ngón tay rầy dã rành rơi  (*), gia dĩ hai lần bị
rét và đi lại đêm hôm vất vả. Mấy mặt dồn dập tấn công, hắn đâm ra mắc
bệnh: bụng đầy, miệng nhạt, chân run, mắt cay, đêm sốt, ngày mỏi mệt,
đi đái dắt, di tinh, ho ra máu… Chưa đầy một năm, bệnh cứ nặng lên.
Không gượng được nữa, hắn phải nằm liệt trên giường, hễ nhắm mắt lại
mê mẩn bàng hoàng, sợ hãi, hoảng hốt, nói nhảm luôn mồm.
Đây mới thực sự là hồi kết của Giả Thụy. Đã đến nước này, y mê luyến
Phượng Thư đến nỗi không cần mượn ai hành hạ y, chính y tự tàn phá
bản thân mình! Mang Mang đạo sĩ đem tới cho y chiếc gương “Phong
nguyệt bảo giám” (giám sát chuyện gió trăng) với mục đích cứu y. Giả
Thụy không những không làm được theo lời dặn mà còn lún sâu hơn vào
nghiệp chướng, đến chết mới thôi.
Đạo sĩ thở dài:
– Bệnh ngươi không thể chữa bằng thuốc được! Ta đưa cho ngươi cái
“bảo bối” này, ngày ngày ngươi ngắm vào đấy mới có thể cứu được.
Đạo sĩ lấy ở trong tay nải ra đưa cho Giả Thụy một cái gương soi cả hai
mặt. Đằng sau gương khắc bốn chữ “Phong nguyệt bảo giám” và nói:
– Gương này lấy ở đền Không Linh trong cõi Thái hư ảo cảnh, do vị tiên
Cảnh ảo làm ra, có công giúp người đời bảo toàn tính mệnh. Vì thế, ta
mang xuống trần chỉ để cho những bọn Vương tôn công tử tuấn tú phong
lưu soi thôi. Nhưng chỉ nên soi mặt trái, không được soi mặt phải. Cẩn
thận đấy! Soi ngay đi! Ba ngày nữa ta lại lấy, chắc bệnh ngươi sẽ khỏi.
Nói xong, thong dong đi ra, ai giữ cũng không chịu ở. Giả Thụy cầm lấy
gương nghĩ thầm:
– Đạo sĩ này chắc có ý gì đây! Ta hãy soi thử xem sao?
Bèn cầm gương mang mặt trái ra soi, thấy trong có bộ xương người. Giả
Thụy sợ quá, vội giấu gương đi, mắng: “Đồ láo! Làm sao lại dọa ta! Ta
hãy soi mặt phải xem sao?” Bèn soi mặt phải, thấy Phượng Thư đứng ở
trong, vẫy tay gọi. Giả Thụy mừng lắm, mê mẩn đi vào trong gương,
cùng Phượng Thư vui cuộc mây mưa, rồi Phượng Thư lại đưa ra nằm
trên giường. Giả Thụy kêu “ái chà” một tiếng, bừng mắt ra, cái gương tự
nhiên lật lại mặt trái, vẫn thấy một bộ xương người đứng sừng sững ở
trong. Giả Thụy mồ hôi đầm đìa, dưới quần tinh thoát ra một đống. Dục
tình vẫn chưa được thỏa, hắn lại quay mặt phải ra soi, thấy Phượng Thư
lại vẫy tay gọi, hắn lại đi vào trong gương, cứ thế ba bốn lần. Đến lần
cuối cùng vừa mới ở trong gương ra, thấy hai người chạy lại mang xích
sắt khóa tay lôi đi, Giả Thụy kêu “Để cho tôi lấy cái gương đã”. Rồi im
bặt, không nói được nữa.

Giả Thuỵ mê mải soi gương


Những người hầu bên cạnh thấy Giả Thụy mang gương ra soi, gương rơi
xuống, mắt trợn to, lại cầm lấy gương. Cuối cùng gương rơi ra, tay
không động đậy nữa. Mọi người đến xem thì đã tắt thở rồi, dưới quần
đầm đìa một vũng tinh lạnh buốt.
(*)
 sự thủ dâm, lấy từ Tây Sương Ký
(Còn tiếp) 
Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 3): bài học cảnh giác về “si”, về
“sắc” cho… Bảo Ngọc 09. 01. 17 - 10:12 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo phần 2)
Giả Thụy bị quỷ bắt xuống địa ngục
Theo thiển ý của tôi, đoạn trích ở phần 2 là một trong những đoạn có
nhiều tầng ý nghĩa nhất của Hồng Lâu Mộng.
Thứ nhất, nếu hành trình chịu đựng của Giả Thụy có nhiều bậc thì đây
chính là nấc thang cuối cùng. Nỗi thống khổ y chịu đựng theo độ mê đắm
mà tăng lên, y dần đánh mất sức khỏe, danh dự, ý chí, cuối cùng là mạng
sống. Thứ “tinh” được nêu trong truyện là ẩn dụ cho tinh khí, tinh thần,
tinh hoa của Giả Thụy. Kết cục của Giả Thụy là bài học cảnh tỉnh về sự
mê muội tình dục. Sự dâng hiến cho tình của Giả Thụy tuy không đẹp đẽ
thơ mộng nhưng hoàn toàn triệt để. Giả Thụy quả thực không còn gì để
mất nữa rồi!
Tiếp theo, cần bàn về bộ xương người. Trong triết học phương Tây, đây
là motif thường bắt gặp trong những memento mori – sự nhắc nhở về tính
hữu hạn của đời người. Ai ai rồi cũng phải chết.
Tác phẩm “All is vanity” của Charles Allen Gilbert
Đặt trong bối cảnh Hồng Lâu Mộng, bộ xương lại mang thông điệp Phật
giáo rõ rệt. Trong Đại Trang Nghiêm Kinh từ thế kỉ thứ năm đã có câu
chuyện tương tự: một vị Phật dùng pháp lực biến một kỹ nữ thành bộ
xương cho các đệ tử nhìn rõ bản chất của nhan sắc. Chữ “sắc” trong tiếng
Hán vừa chỉ sắc đẹp, vừa chỉ hình tướng mà con người có thể cảm nhận
được, đối ngược với không là hình tướng mà mắt phàm không thấy được.
Nhưng vạn vật luân chuyển, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Muôn
vật đều là không có thật, là phù du. Phượng Thư tươi đẹp thật nhưng má
hồng môi son rồi cũng thành cát bụi cả. Ngoài ra bộ xương còn là lời
cảnh tỉnh: nếu Giả Thụy không quay đầu, tất mau có kết cục như bộ
xương này. Ở hồi đầu truyện Chân Sĩ Ẩn khi giải nghĩa bài thơ “Hảo
Liễu ca” đã nói:
Xưa sao phấn đượm hương nồng.
Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu?
Bãi tha ma có xa đâu,
Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.
Tất cả “sắc” đều sẽ tan biến, chỉ có sự tan biến là bất biến. Đã biết tình,
sắc, dục là vô thường mà vẫn mê đắm, chẳng phải ngu ngốc sao? Thế
nhưng Giả Thụy không dám đối mặt với thực tế đó. Một mặt y sợ cái
chết, mặt khác y quá quyến luyến chữ “sắc” đến nỗi không thể rời bỏ. Oái
oăm thay, chính việc không chịu thừa nhận tính vĩnh hằng của sự chết đã
đẩy Giả Thuỵ nhanh tới nó.
Thứ ba, không thể bỏ qua chiếc gương “Phong nguyệt bảo giám”. Gương
vốn là biểu tượng cho tâm hồn. Nhưng thế giới song đôi trong gương
cũng là ẩn dụ cho sự gắn bó mật thiết giữa các cặp phạm trù sắc-không,
thực-hư, âm-dương. Nếu Phượng Thư ngoài đời là sắc, thì Phượng Thư
trong gương lại càng mơ hồ, là hư huyền của hư huyền. Phượng Thư
trong gương là do trí tưởng tượng của y hun đúc nên, không có quan hệ
với mợ Hai Liễn ngoài đời kia. Thay vì nhìn vào mặt trái để thấy rõ chân
lý, Giả Thụy lại đắm chìm vào thế giới ảo của mặt phải. Công cuộc mò
trăng đáy nước này khiến y phải trả giá bằng mạng sống. Đến phút chót, y
vẫn muốn mang chiếc gương theo mình xuống âm ti, thật đáng cười mà
cũng đáng thương.
Khi Giả Đại Nho, ông nội Giả Thụy định đem đốt chiếc gương, trong
gương có tiếng nói vọng ra: “Ai bảo soi mặt phải! Các ngươi tự mình lấy
giả làm thực, việc gì lại đốt gương của ta?” Đại Nho nghĩa đen là “nhà
nho lớn,” nhưng lại họ “Giả,” ý nói lão chỉ là nhà nho giả hiệu. Tào Tuyết
Cần đã dựng lên hình ảnh Giả Đại Nho để giễu cợt những kẻ theo đạo
Khổng nhưng đầu óc xơ cứng, hủ lậu, không nhìn ra được bản chất của sự
vật. Nhân vật này lúc trước rèn dạy Giả Thụy bằng cách đánh đập, sau lại
muốn đốt chiếc gương, đúng là chữa bệnh từ ngọn, mê lầm không lối
thoát.
Cuối cùng, chúng ta cần phân tích hình ảnh Giả Thụy khi chết. Hồng Lâu
Mộng không thiếu những chi tiết phòng the, nhưng chỉ hai lần Tào Tuyết
Cần nhắc đến chi tiết “giấc mơ ướt” một cách trần trụi như vậy: Giả Thụy
khi chết, và khi Bảo Ngọc tỉnh dậy sau khi ân ái với nàng tiên.
Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một
đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:
– Cái gì thế này?
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt, bấm mạnh tay Tập Nhân một cái.
Theo các nhà Hồng học như Jinsheng Yi đã chỉ ra, sự giống nhau giữa
Bảo Ngọc và Giả Thụy có ý nghĩa quan trọng. Nói một cách đơn giản,
Giả Thụy chính là bài học cảnh giác cho Bảo Ngọc. Tên chữ của Giả
Thụy là “Thiên Tường”, nghĩa đen là “điềm báo của trời”. Bảo Ngọc là
ngọc quý, Thụy cũng là ngọc. Con đường tình ái mà Bảo Ngọc bước chân
vào ở hồi năm, tuy phần nào trong sạch hơn Giả Thụy, về bản chất không
khác gì nhau. Bảo Ngọc lần đầu trải qua sự mất mát tinh lực của người
đàn ông sau giấc mơ với nàng tiên. Nếu Bảo Ngọc không biết kiềm chế,
để điều đó lặp đi lặp lại, ắt sẽ phải chết như Giả Thụy. Nói rộng hơn, tính
cách “phong lưu gây lấy nợ vào thân” của Bảo Ngọc chính là tiền đề cho
những đau xót, thất vọng, nhục nhã trong đời cậu ta sau này: bị bố đánh,
người hầu yêu và người tình phải chết, phải chứng kiến cảnh tan tác của
các chị em,… Nỗi khổ mà Bảo Ngọc cũng như Giả Thụy gánh chịu, nói
cho cùng, đều bắt nguồn từ một chữ “si.” Về cuối truyện, Bảo Ngọc đã
kịp thời nhận ra chân lý “sắc sắc không không,” từ đó rẽ ngang, thoát
khỏi luân hồi, đó vừa là bi kịch vừa là may mắn của Bảo Ngọc.
Kết luận lại, Giả Thụy là một nhân vật phụ nhưng số phận của y hàm
chứa triết lý nhân sinh to lớn, có thể nói là đã hóa thành truyện ngụ ngôn
răn dạy người đời. Mang Mang đạo sĩ và chiếc gương “Phong Nguyệt bảo
giám” xứng đáng nhận giải bác sĩ phân tâm học của năm!

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

13:54 Friday,10.3.2017 Đăng bởi:  LC
Anh Tùng ơi 
Giá trị dương cương là gì? Nghe hấp con nhà ông dẫn quá đi...
8:05 Friday,10.3.2017 Đăng bởi:  phó đức tùng
Mạn phép chuyên gia Anh Nguyễn tán phét thêm chút nữa. 
Nhiều khi có người nói trong HLM Tào Tuyết Cần có đề cao vai trò phụ nữ,
một điều rất trái với tư duy nho giáo. Theo tôi thì không phải, TTC vẫn hoàn
toàn nằm trong tư duy nho giáo, trọng nam khinh nữ. Một trong những bằng
chứng là tác phẩm này được đông đảo người hâm mộ ngay từ xưa, mà những
người này không có lý do gì để có nhận thức về bình đẳng giới cả. 
HLM theo tôi là một cơn ác mộng rất đặc biệt, khi một người đàn ông (hòn
đá, chính là Tào Tuyết Cần) thấy mình đầu thai dưới dạng đàn bà (mặc dù
Bảo Ngọc vẫn là đàn ông nhưng hệ thống giá trị, nhận thức là đàn bà) Khi
một hòn đá (đàn ông) tự coi mình như một viên ngọc thì tức là nó bị biến
thành đàn bà. 
Giả Phủ là một tiểu thế giới đàn bà, trong đó đàn ông trở thành thứ yếu, đảo
ngược hệ giá trị Nho giáo. Cũng chính vì vậy nên khi Bảo Ngọc ra đời, có
viên ngọc, hội đàn ông trong gia đình không mấy quan tâm, chỉ có hội đàn bà
thì rất nâng niu. 12 thoa tượng trưng cho 12 dạng cơ bản của thế giới đàn bà,
(số 12 tương tự như 12 địa chi, tượng trưng cho mọi dạng archetype có thể
hình dung dưới mặt đất này) mà vì Bảo Ngọc bị biến thành đàn bà, nhưng
không phải một đàn bà cụ thể, mà là cái sự đàn bà nói chung, nên có thể trải
nghiệm, cảm nhận sâu sắc về tất cả 12 dạng đàn bà. 

Toàn câu chuyện mô tả về một xã hội mang hệ thang giá trị đàn bà, cho dù có
muôn vàn nét tinh tế, lộng lẫy, cho dù rất khôn ngoan, cơ trí, nhưng cuối
cùng về cơ bản vẫn là ảo, giả, sai lầm, và do đó không có kết cục tốt đẹp. 
Như vậy, HLM cũng có thể coi là một chước tác kinh điển Nho giáo, nhưng
thay vì cứ suy tôn các giá trị đàn ông, quân tử, và hiển nhiên miệt thị đàn bà,
tiểu nhân, đây là một bài luận sâu sắc về thế giới đàn bà, để đi đến kết luận là
cuối cùng đó cũng chỉ như trang sức mà thôi, không thể trụ cột. 
Nói cách khác, không phải là một hủ nho gia trưởng nói xấu đàn bà, mà chính
là tinh hoa đàn bà cuối cùng tự nhật thấy sự bất cập của mình, và quay trở lại
tôn vinh giá trị dương cương.
Căn phòng “dâm tình và chết chóc”: Phần 1 – Từ bức tranh trên
tường 20. 03. 20 - 10:23 pm
Willow Wằn Wại

Việc Hồng Lâu Mộng bị gán danh “dâm thư” và “câu chuyện tình yêu
Kim Ngọc” khiến nhiều người có xu hướng đánh giá hời hợt về nó. Mà
thật ra cũng khó trách, khi Tào Tuyết Cần đã sử dụng bút pháp vi diệu để
che giấu đi bi thương ai oán cùng những bài học về nhân sinh, về Đạo
dưới những thứ trăng hoa tuyết nguyệt. Nhân lúc rỗi rãi, xin được bàn
thêm về căn phòng bắt đầu sự “dâm”, “tình” và cả “Đạo” trong Hồng Lâu
Mộng, mong được mọi người bàn luận thêm.
*
Tần Khả Khanh trong phòng ngủ
Căn phòng phụ nữ đầu tiên không phải của người thân mà Bảo Ngọc ngủ
là phòng của Tần Khả Khanh, được tác giả dụng công miêu tả kỹ đến
từng chi tiết, từ vật trang trí đến cái gối cái rèm, tất cả đều toát ra sự khiêu
gợi nhục dục:
“Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng có mùi
thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhũn ra, nói ngay:
– Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa “Hải đường xuân thụy” của Đường
Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:
Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.”
Như tác giả Anh Nguyễn từng bàn ở một bài viết, bức vẽ “Hải đường
xuân thụy” thật ra không phải vẽ bông hoa hải đường hay gì cả mà vẽ một
người phụ nữ đang nằm ngủ, quần áo lả lơi. Một cậu nhóc mới lớn như
Bảo Ngọc lớn lên trong gia đình gia giáo, bà mẹ và các chị em đều đứng
đắn, lần đầu được thấy hình ảnh buông thả, ắt hẳn không tránh khỏi việc
“Quân tử dùng đằng đi chẳng dứt” như trong bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”
của Hồ Xuân Hương.

Một bức tranh vẽ người phụ nữ bên hoa mẫu đơn của Đường Bá Hổ.
Hình từ trang này

Bàn thêm về Đường Bá Hổ, được tác giả nhắc đến như là tác giả của
bức Hải đường xuân thụy kể trên. Đường Bá Hổ nổi danh nhờ tài năng, là
một danh sĩ nổi tiếng được nhiều người tán dương, tại sao một nhân vật
lẫy lừng ấy lại được tác giả sắp đặt để xuất hiện ở trong căn phòng đầy
hoa thơm cỏ lạ, lại còn được “gán” cho bức tranh khêu gợi này?
Tôi xin mạo muội đoán. Muốn giải được câu đố này phải so sánh với bức
“Nhiên lê đồ” mà Bảo Ngọc đã thấy ở căn phòng trước đó. Cậu chán ngán
căn phòng này và đòi sang nơi khác ngủ, từ đó mới dẫn đến việc vào ngủ
ở phòng riêng của cháu dâu là Tần Khả Khanh. Trong khi “Nhiên lê đồ”
là một bức tranh ngợi ca tinh thần học tập, một anh học trò nghèo nhờ
chăm chỉ học hành mà sau này đỗ đạt công danh, thì cuộc đời của Đường
Bá Hổ, tác giả bức “Hải đường xuân thụy” (theo Tào Tuyết Cần viết) lại
có chiều hướng khác hẳn.
Ông sinh ra trong một gia đình giàu có dưới thời nhà Minh, bản thân học
hành đỗ đạt nhưng con đường công danh cũng gặp ngã rẽ đột ngột, phải
ngồi tù. Về sau ông từ bỏ chốn quan trường, tìm mọi cách để về nhà vui
thú thơ ca nhạc họa, không còn dính dáng đến cuộc sống thế tục nữa.

Đường Bá Hổ, hình từ trang này

Câu chuyện số phận thay đổi không ngờ, từ một danh sĩ phải vào chốn tù
lao, ước mong con đường đỗ đạt sau này cũng vứt bỏ, nghe thật sự có
chút quen thuộc với Hồng Lâu Mộng và Giả Bảo Ngọc, khi gia tộc họ Giả
đang ở ngưỡng cửa lao dốc, còn bản thân Giả Bảo Ngọc đã từ đầu chỉ
thích vui thú với cái đẹp, chẳng bận tâm gì đến việc làm quan. Liệu đây
có phải là một lời nhắn nhủ “thấy trước tương lai” mà Tào Tuyết Cần đã
cài cắm?
Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng Hồng Lâu Mộng mang
tư tưởng “phản Thanh phục Minh”, việc tên một danh sĩ được gọi là “đệ
nhất phong lưu tài tử” thời Minh được nêu lên, liệu có phải thể hiện sự
tiếc nuối của tác giả với tiền triều? Cần lưu ý là trong khi bức “Nhiên lê
đồ” không hề thấy tên tác giả thì bức “Hải đường xuân thụy” được Tào
Tuyết Cần chỉ đích danh của Đường Bá Hổ.

Một bức tranh của Đường Bá Hổ


Phía dưới bức “Hải đường xuân thụy” là một câu đối của Tần Thái Hư:
“Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.”
Rất tiếc khả năng của tôi chưa cho phép bàn luận sâu hơn về bút pháp hay
tác giả. Nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể thấy sự đối lập với câu đố
khuyến khích học tập ở căn phòng trước: ”
“Thế sự tinh thông đều là học vấn,
Nhân tình lịch duyệt mới gọi văn chương.”
Một bên là câu khuyên răn học tập, một bên thì chỉ có xuân, rượu, mộng
(còn mộng gì thì chưa biết, chỉ biết Bảo Ngọc sau đó có một giấc mộng
không… khô ráo chút nào).

Bảo Ngọc dan díu với nàng tiên trong mơ


(Còn tiếp phần 2)

Căn phòng “dâm tình và chết chóc”: Phần 2 – Từ mâm vàng tới quả
dưa 28. 03. 20 - 4:26 pm
Willow Wằn Wại
(Tiếp theo bài trước)

Cảnh vườn Đại Quan Viên (tranh không rõ tác giả)


Tiếp theo là những thứ đồ trang trí trong căn phòng của Tần Khả Khanh:
Cái gương của Vũ Tắc Thiên
“Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên đời Đường. Một bên
bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến đã đứng lên múa, trên mâm để quả
dưa mà An Lộc Sơn đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng trước kê một
cái giường báu của công chúa Thọ Xương nằm ở điện Hàm Chương, mắc
cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương dệt ra.”
Đoạn này tuy ngắn nhưng cực kỳ tinh xảo, khiến tôi phải tấm tắc đọc đi
đọc lại biết bao nhiêu lần. Tất cả những cái tên được nêu ra trong đoạn
văn đều là những mỹ nhân nổi danh trong lịch sử và truyền thuyết Trung
Hoa.
Vũ/Võ Tắc Thiên đời Đường thì không có gì quá xa lạ nữa. Bà là người
phụ nữ duy nhất trong lịch sử Trung Hoa xưng đế, đi lên từ một phi tần
của Đường Thái Tông. Bà nổi tiếng về “độ ăn chơi” khi có một loạt các
mỹ nam hầu hạ, tằng tịu với bao nhiêu người. Thậm chí trong dân gian
còn tố bà và con gái là Thái Bình công chúa “dùng chung” một sủng nam
đẹp trai, dẫn đến mẹ con gấu ó nhau, thật nhơ bẩn không sao nói hết.
Trong việc trị nước, Võ Tắc Thiên cũng bị chỉ trích là vô cùng hà khắc,
thậm chí nhẫn tâm xuống tay với cả người thân để giữ vững ngôi vị.

Một hình dung về Võ Tắc Thiên. Hình từ trang này 


Với một nền văn hóa đậm tư tưởng Khổng giáo, cực kỳ kì thị việc nữ giới
“vượt qua khuôn phép”, Võ Tắc Thiên là cái tên luôn được đem ra để chê
trách đầu tiên. Phải mãi đến sau này mọi người mới có cái nhìn công bình
hơn với bà, xác nhận nhiều câu chuyện truyền miệng về bà chỉ nhằm mục
đích hạ bệ, bêu xấu.
Nhìn lại trong Hồng Lâu Mộng, các vị quần thoa đều tỏ ra vượt trội so với
các đấng nam nhi, nếu không muốn nói phần lớn nhân vật nam trong
Hồng Lâu Mộng đều như “phế”. Chính Tần Khả Khanh khi chết cũng nói
với Hy Phượng: “Thím là bực anh hùng trong đám phấn son, ngay bọn
con trai mũ cao áo dài cũng chẳng hơn được”.
Phượng Thư giữ tiếng nói quan trọng trong nhà họ Giả
Ngoài đời, số phận những bậc kỳ nữ dám vượt qua nam giới đó thế nào?
Võ Tắc Thiên bị ép phế vị và bị giam trong lãnh cung, gia đình ly tán, con
cái quay sang đấu đá lẫn nhau và hãm hại chính mình. Các mỹ nữ của
Hồng Lâu cũng đều có kết cục bi thảm, riêng Vương Hy Phượng – bậc
anh hùng – sau này cũng mất hết quyền lực, chứng kiến cả gia tộc tan nát
và phải chết sớm, ứng với khúc hát “Thông minh lụy“:
“Việc đời tính rất thông minh
Việc mình, mình tính phận mình vẫn sai
Sống lần ruột đã nát rồi
Chết mang tiếng hão là người tinh ranh
Trước kia giàu có khang ninh
Giờ sao cơ nghiệp tan tành khắp nơi
…”
Phượng Thư khi bắt đầu bệnh tật, yếu ớt, trắng bệch
Một chiếc gương của Võ Tắc Thiên ở căn phòng này, có phải để cho Khả
Khanh, cho Bảo Ngọc soi lại để thấy sự dâm mà quay đầu, hay cũng dùng
để soi cả những gương mặt khác trong Hồng Lâu Mộng, trong đó có
cả Vương Hy Phượng, người thứ hai ngoài Bảo Ngọc đã vào căn phòng
này để thăm Tần Khả Khanh?
Mâm vàng của Triệu Phi Yến
Là vị vua duy nhất, làm việc chưa từng có trong lịch sử, Võ Tắc Thiên là
cái tên đầu tiên được nhắc đến trong căn phòng, không khác gì một “thủ
lĩnh” thống lĩnh tiếp một loạt các mỹ nhân nổi danh khác, mà nối tiếp là
Triệu Phi Yến, hoàng hậu nhà Hán, xuất hiện qua hình ảnh “cái mâm mà
nàng đã đứng trên đó múa”.
Triệu Phi Yến
Triệu Phi Yến nổi tiếng là thân thể nhẹ nhàng như mây, xuất thân chỉ là
một con hát, sau nhập cung và cùng em gái là Triệu Hợp Đức giành hết
sự sủng ái của Hán Thành Đế. Tương truyền câu “hồng nhan họa thủy”
chính là từ chị em nàng mà ra. Hai chị em họ Triệu không những ra tay
tàn hại những vị phi tần khác để tranh sủng, còn hại chết các vị hoàng tử.
Về độ “ăn chơi”, sau này bản thân Triệu Phi Yến cũng có hẳn một tẩm
cung toàn mỹ nam hầu hạ phục dịch.
Kết cục của hai chị em thì không có gì khó đoán, sau khi Hán Thành Đế
băng hà, hai chị em cũng bị phế và bị ép chết (có chuyệnn kể lại là phế
làm thứ dân thôi). Tuy bao nhiêu năm hại chết bao nhiêu hoàng tử, cả hai
nàng lại không thể sinh ra được đứa con nào nối dõi và làm chỗ dựa khi
hoàng đế băng hà, cái kết sau bao năm ở lầu son gác tía làm mẫu nghi
thiên hạ thật chẳng sao ngờ được.
Thật ứng với câu Khả Khanh báo mộng cho Hy Phượng khi chết: “Bĩ
chán thì phải thái, vinh chán thì phải nhục, xưa nay vẫn quanh quẩn như
thế, sức người có giữ được mãi đâu!”
Trang phục của Phượng Thư
Quả dưa của Dương Quý Phi
Một vị nữ vua, một vị hoàng hậu, người kế tiếp được Tào Tuyết Cần nhắc
đến là quý phi:
“… Trên mâm để quả dưa mà An Lộc Sơn đã ném vào vú Dương Quý
Phi.”
Đến đoạn này thì Tào Tuyết Cần thậm chí chẳng buồn nói giảm nói tránh
nữa mà tả thẳng cảnh dâm ô, như vậy càng có ý nhấn mạnh trực tiếp đến
nhân vật Dương Quý Phi này. Vậy Dương Quý Phi có gì đặc biệt?
Tranh vẽ Dương Quý Phi của Hosoda Eishi đầu thế kỷ XIX tại viện bảo
tàng Anh
Dương Quý Phi vốn là Thọ vương phi, vợ của Thọ Vương Lý Mạo, con
trai của Đường Huyền Tông. Năm 19 tuổi nàng gặp Đường Huyền Tông
và ngay lập tức chiếm được cảm tình của hoàng đế. Để thuận lợi cuỗm
luôn vợ của con trai, Đường Huyền Tông phải bày trò triệu Dương thị vào
cung làm đạo sĩ, sau đó mới từ từ tấn phong cho nàng.
Như vậy Dương Quý Phi và Đường Huyền Tông là bố chồng con dâu qua
lại với nhau, có thể coi là mỹ nhân băng hoại đạo đức nhất trong số tứ đại
mỹ nhân. Và ai là người thông dâm với bố chồng trong Hồng Lâu Mộng?
Không ai khác chính là Tần Khả Khanh, chủ nhân của căn phòng này.
Chưa hết, Dương Quý Phi nhận An Lộc Sơn là con nuôi nhưng theo
chuyện truyền miệng nàng lại thậm thụt với An Lộc Sơn. Loạn dâm cùng
cực như vậy, quả là chẳng chỗ nào đáng để đặt một hình ảnh hư hỏng này
như phủ Ninh, nơi con dâu tư thông với bố chồng (Giả Trân và Khả
Khanh), anh rể qua lại với em dâu (Giả Trân và Vưu Nhị thư, Tam thư),
cháu trai tằng tịu, nhấm nháy với dì và thím (Giả Dung và hai chị em Vưu
thư, ngoài ra còn đong đưa với Hy Phượng).
Giả Liễn quyến rũ Vưu nhị thư
Sự dâm của Dương phi nổi tiếng đến độ người học Tử vi còn truyền lại
câu: “Dương phi hiếu sắc tam hợp Văn Khúc, Văn Xương” (Dương Quí
Phi đa dâm bởi vì tam hợp vào Mệnh có Xương Khúc)
Có tài múa hát, nhan sắc khuynh thành, ở bên cạnh vua rồi phải chết yểu.
Cái chết của nàng cũng khiến cả dòng họ Dương tàn lụi. Ở phương diện
này Dương Quý phi gợi nhắc đến Giả Nguyên Xuân, chị của Giả Bảo
Ngọc, cũng đang làm phi trong cung. Không khó để đoán được rằng cái
chết của Nguyên Xuân cũng là khởi đầu cho sự lao dốc không ngừng của
dòng họ Giả.
Nguyên Xuân đề biển ở Đại Quan viên

(Còn tiếp bài 3)
Căn phòng “dâm tình và chết chóc”
Phần 3 – Từ giường báu tới màn châu

07. 04. 20 - 1:34 pm


Willow Wằn Wại

(Tiếp theo bài trước)

Giường báu Thọ Xương, màn châu Đồng Xương


Lại đến đoạn tả kế tiếp:
“Đằng trước kê một cái giường báu của công chúa Thọ Xương nằm ở
điện Hàm Chương, mắc cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương
dệt ra.”
Theo như phụ chú từ bản dịch thì Thọ Xương công chúa còn có tên gọi
khác là Thọ Dương. Nhân vật này trong lịch sử cũng có rất nhiều bí ẩn,
nhiều người nhất trí rằng đây chính là Lưu Hưng Đệ, con gái của Lưu
Tống Vũ Đế Lưu Dụ. Tương truyền lối trang điểm Mai hoa trang (vẽ hoa
mai lên trán) là do Lưu Hưng Đệ khi nhỏ bị hoa mai rơi lên trán tạo thành
vết cánh hoa mà ra.
Công chúa Lưu Hưng Đệ. Hình từ  trang này 
Lưu Hưng Đệ là công chúa rất mực được cưng chiều nhưng không may
góa chồng từ sớm. Một đứa con của bà sau này bị khép tội mưu phản. Bà
nổi tiếng vì tìm mọi cách để cầu xin em trai khác mẹ, khi đó là Lưu Tống
Văn Đế, để miễn tội cho con, từ ra mặt thị uy cho đến van nài khi hấp hối
trên giường đều có cả. Nhưng khi bà qua đời thì một trong hai đứa con
trai cũng bị xử trảm.
Nếu quả thật Thọ Xương công chúa mà Tào Tuyết Cần viết là Lưu Hưng
Đệ, thì đây là một nhân vật có sự khổ tâm riêng, bản thân góa bụa, cả đời
lo lắng cho con, sau này con cũng chết. Tuy vậy cá nhân tôi vẫn nghĩ có
một hình ảnh hay câu chuyện nào khác ứng với số phận Kim Lăng thập
nhị thoa hơn. Bởi lẽ góa bụa nuôi con thì chỉ có Lý Hoàn, mà hình ảnh Lý
Hoàn lẫn Lưu Hưng Đệ đều chưa tương xứng với căn phòng toàn mùi ái
ân.
May thay, nhân vật Đồng Xương công chúa có cái màn liên châu trong
căn phòng thì lại không khó tìm như Thọ Dương. Nàng chính là con gái
cưng nhất của Đường Ý Tông Lý Thôi (Lý Ôn). Mẹ nàng là Thục phi
Quách thị, nổi tiếng là Đệ nhất mỹ nhân thành Trường An.

Một hình dung về Đồng Xương công chúa

Số phận của Đồng Xương khá ngắn ngủi, nàng được gả cho Vi Bảo Hành
nhưng lại mất sớm, được vua cha vô cùng thương xót. Cuộc đời nàng vì
bạc mệnh thế nên cũng không có nhiều thứ để bàn, nhưng cuộc đời những
người quanh nàng thì lại rất đáng nói.
Cha nàng, Đường Ý Tông, từ khi còn là Vận vương đã ham mê tửu sắc,
chẳng được vua cha ban làm thái tử dù là con trưởng, thậm chí chỉ được ở
chỗ của các thân vương. Sau này khi lên ngôi, Đường Ý Tông ăn tiêu
hoang phí khiến nhà Đường vào bước diệt vong.
Đám cưới và đám tang của Đồng Xương công chúa đều cực kỳ xa hoa,
vàng ngọc lộng lẫy, đem cả tiền vàng mà đốt thành tro trong khi dân
chúng lầm than đói khổ, chiến tranh và loạn lạc khắp nơi. Khi con gái yêu
mất, ông vua này thậm chí còn giết 20 người ngự y vì nghĩ do họ không
tận tâm chạy chữa con mình, sau đó còn cho tống giam hàng trăm người
nữa. Chẳng trách tại sao Đường Ý Tông thường được coi là tội đồ, là vị
vua đưa nhà Đường xuống vực.

Vua Đường Ý Tông

Chồng của Đồng Xương là Vi Bảo Hành, cực kỳ thông minh giảo hoạt.
Theo truyền lại thì Vi Bảo Hành thậm chí còn lén lút qua lại với mẹ vợ là
Thục phi Quách thị. Vi Bảo Hành khéo nịnh nọt nên rất được lòng Đường
Ý Tông. Khi Đường Ý Tông băng hà, nhường ngôi lại cho Đường Hy
Tông và chiếu chỉ cho Vi Bảo Hành nhiếp chính. Vậy là họ Vi đã leo lên
đến vị thế quyền lực nhất vương triều.
Chẳng ngờ Hy Tông lên ngôi không được bao lâu thì các thế lực triều
đình khác đã mau chóng có được vị thế, Vi Bảo Hành bị giáng chức và bị
ép chết. Mẹ của Đồng Xương công chúa sau này cũng mất tích trong loạn
Hoàng Sào, vậy là cũng chấm dứt cuộc đời của một sủng phi xinh đẹp.
Tóm lại, cả gia đình của công chúa đều thực khéo ứng với cảnh chung
của nhà họ Giả: đàn bà con gái xinh đẹp dù là tài năng hay tai tiếng phóng
túng thì cũng đều yểu mệnh, đàn ông thì bạc nhược bất tài ăn chơi, cuối
cùng thì tất cả những gì tiền nhân gây dựng cũng sẽ tan vỡ cả. Có tất cả
và rồi lại mất hết, thật ứng với chữ “vật cực tất phản”, tinh thần của toàn
bộ tác phẩm Hồng Lâu Mộng.
Để Đồng Xương công chúa là cái tên nằm cuối đoạn văn này, có thể cho
thấy đây cũng là cái tên chốt sổ, một bản tóm lược của toàn bộ vở kịch hỷ
nộ ái ố diễn ra tại Giả phủ. Vẫn là những vai diễn quen, chỉ khác ở Giả
phủ thì “vở kịch” lần này dài hơn, đa dạng hơn nhờ sự có mặt của hòn đá
vá trời Bảo Ngọc.

Giả Mẫu tổ chức tiệc


Vậy là đã xong chi tiết về Dương quý phi, công chúa Thọ Dương và đỉnh
điểm là công chúa Đồng Xương, con gái Đường Ý Tông, một chi tiết hình
tượng mang tính dự báo và cảnh báo cực cao cho người đọc lẫn cho Giả
Bảo Ngọc.
Trước lời cảnh báo đó, Bảo Ngọc đã làm gì? Cậu nhóc chỉ thấy sướng tít
mắt:
“Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:
– Ở đây tốt! Ở đây tốt!
Tần thị cười:
– Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.”

Chiếc màn châu của Đồng Xương công chúa ở phòng của Tần Khả
Khanh. Bảo Ngọc nói, “Ở đây tốt! Ở đây tốt!|”
Bảo Ngọc là cậu bé mới lớn, thích hoa trái lạ đã rõ. Căn phòng toàn
chuyện phòng the này đủ để hiểu cậu sẽ lột xác thành “người nhớn” từ
đây. Không những vậy, sự lột xác này dẫn dắt tới cơ man thất tình lục dục
ở cõi trần.
Cũng đáng lưu ý là sự thoải mái của Bảo Ngọc khi đắm mình giữa những
hình ảnh của những số phận lên voi xuống chó, về hoan lạc vinh quang
tột đỉnh rồi rơi xuống cùng cực phản ánh tiếng nói từ bản năng, mà ở đây
là hòn đá, đang muốn nếm trải hết mọi thứ vinh nhục của cuộc đời.
Khăn lụa Tây Thi
Tần thị nói căn buồng của nàng dù thần tiên cũng ở được. Vậy ai là người
đã ở trong căn phòng này: là Khả Khanh, và giờ là Bảo Ngọc. Khả
Khanh là một trong những nàng tiên giáng xuống trần trả nghiệp tình với
dương gian. Còn Bảo Ngọc chính là Thần Anh giáng thế. Hai người họ
chính là những người mở đầu cho vở kịch bi hài của Hồng Lâu Mộng.
“Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi đã giặt,
và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa”

Bảo Ngọc chơi đùa cùng các tiểu thư


Điều khiến Hồng Lâu Mộng làm tôi mê mẩn chính là việc tác giả viết rất
cẩn trọng, không hề đặt bút đại khái. Bất cứ một cái tên nào được lặp lại
đều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Như cái tên Tây Thi và Hồng Nương ở
đây cũng vậy. Càng thú vị hơn vì hai cái tên này nằm ở đoạn riêng, tách
biệt hẳn với các mỹ nhân dâm loạn phía trên.
Trong suốt 80 chương đầu của Hồng Lâu Mộng do Tào Tuyết Cần viết
còn sót lại, chỉ có ba lần cái tên Tây Thi được nhắc đến: lần thứ nhất là
trong phòng Tần Khả Khanh, lần thứ hai là nói về nhan sắc của Lâm Đại
Ngọc (lời khen) và lần thứ ba là nói về nhan sắc của Tình Văn (lời chê).
Đây là sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến hết 80 chương để chỉ rõ mối quan hệ
của Bảo Ngọc và Đại Ngọc.

Đại Ngọc đi chôn hoa


Cũng là tứ đại mỹ nhân nhưng Dương Quý Phi thì hình ảnh đa dâm, được
Tào Tuyết Cần đặt vào khổ văn liệt kê những người phụ nữ với danh xấu.
Và ai được so sánh đích danh với Dương Quý Phi? Chính là Tiết Bảo
Thoa.
Giả Bảo Ngọc và Tiết Bảo Thoa
Đối lập với Dương Quý Phi-Bảo Thoa ở trên là Tây Thi-Đại Ngọc nằm ở
đoạn văn dưới. Tây Thi đứng đầu trong số bốn người đẹp khuynh thành,
nhưng danh tiếng của nàng chưa hề bị gán chữ “dâm”.
Tương tự là Tây Sương Ký – một trong những tác phẩm mang tính đột
phá cực lớn trong lịch sử Trung Hoa khi ủng hộ tình yêu đôi lứa, chống
lại tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” của xã hội. Đây là chi tiết rất
đặc biệt khi bối cảnh tác phẩm xảy ra ở thời đại mà nam nữ yêu nhau bị
phê phán gay gắt là “ma chẳng ra ma” “không xứng làm mỹ nhân” như
lời Giả Mẫu nói. Chính Tiết Bảo Thoa cũng bài trừ Tây Sương Ký, mắng
Đại Ngọc khi phát hiện ra Đại Ngọc đọc cuốn này.
Cặp đôi trời sinh Bảo Ngọc – Đại Ngọc
Đại Ngọc là nàng Tây Thi đa sầu đa bệnh, người đã đọc Tây Sương
Ký cùng với Bảo Ngọc. Cũng từ cuốn sách này mà hai người thấu hiểu
thêm về tình yêu đôi lứa, dần bộc lộ tình cảm cho nhau dù tư tưởng đó bị
phản đối. Bảo Ngọc chìm vào chiếc gối tình yêu, bao bọc trong tấm khăn
của Tây Thi/Đại Ngọc. Giữa khung cảnh dâm lại có tình ái chân thật.
Cũng như giữa thời loạn lạc phủ Ninh Vinh ăn chơi dâm loạn, ở giữa Đại
Quan Viên lại có những mối tình khắc cốt ghi tâm không chút dâm tà.
Gối ôm Hồng Nương
Vậy tại sao cái tên đại diện cho Tây Sương Ký lại là Hồng Nương chứ
không phải Thôi Oanh Oanh? Điều này cần liên hệ lại với việc Tình
Văn cũng được so sánh là Tây Thi. Ngoài việc xinh đẹp như cô Lâm, tính
cách trong sáng thanh cao khác người, Tình Văn còn là hình ảnh phản
chiếu của Đại Ngọc và cũng đóng vai trò làm cầu nối cho tình yêu của
cậu Bảo-cô Lâm, giống như nhân vật Hồng Nương trong Tây Sương Ký.
Hãy nhớ chi tiết quan trọng Bảo Ngọc đưa khăn tay cũ cho Đại Ngọc và
bảo Tình Văn đem sang. Hay chính Tình Văn cũng luôn là người khơi gợi
đem cô Lâm ra để nói với Bảo Ngọc.
Chiếc gối còn ám chỉ chuyện chăn gối nam nữ, vì Hồng Nương đem theo
gối này mỗi khi Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy hẹn nhau tình tứ.
Vậy là trong dâm có tình, trong tình lại có dâm.

Tình Văn vá áo lông công cho Bảo Ngọc


Vẫn là những cái tên, những câu tiếp theo cũng rất đáng lưu ý:
“Thấy Bảo Ngọc ngủ yên, bọn bà già rủ nhau đi ra ngoài, chỉ để Tập
Nhân, Mỹ Nhân, Tình Văn, Xạ Nguyệt, bốn người ở lại túc trực. Tần thị
gọi mấy a hoàn nhỏ ra ngồi ngoài thềm, đừng cho mèo chó đến cắn
nhau.”
Trong căn phòng vừa có dâm, vừa có tình, vừa có cái kết đoản hậu chỉ
còn Bảo Ngọc và người đẹp (Mỹ Nhân), có chuyện trăng hoa (Tập Nhân
họ Hoa, Xạ Nguyệt), có cả tình (Tình Văn) thì chẳng khác nào con đường
dọn sẵn chỉ chờ cậu Bảo lăn vào để đi đến đoạn kết. Giấc mộng vậy là đã
được an bài, chẳng có thế lực bên ngoài nào kéo Thạch huynh ra khỏi đó
nữa.
Tình Văn trước khi chết và Bảo Ngọc trong ngôi nhà lụp xụp
Đoạn sau thì Tần thị dẫn Bảo Ngọc vào cõi tiên, sau này lại kết hôn với
Bảo Ngọc dưới tên Kiêm Mỹ, khúc hát Hồng Lâu vang lên, vở kịch của
phủ Giả được kéo rèm.
*
Hồng Lâu Mộng: bi kịch của đàn ông thấy mình đầu thai thành đàn
bà 12. 03. 17 - 7:08 am
Phó Đức Tùng

Bảo Ngọc giúp Bình Nhi trang điểm


Có người cmt hỏi Anh Nguyễn, “Từ khi Bảo Ngọc làm mất ngọc thì gia
đình họ Giả bắt đầu sụp đổ. Tại sao lại mất ngọc?”
Mình mạn phép chuyên gia Anh Nguyễn tán phét một chút.
Mình không phải chuyên gia về Hồng Lâu Mộng, nhưng cứ suy theo logic
thì không phải họ Giả sa sút từ khi mất ngọc, mà ngay từ khi có ngọc. Giả
Bảo Ngọc tức là hòn ngọc quý nhưng giả, không phải ngọc thật.
Có ngọc giả giống như nhận lầm một giá trị giả làm thật, là nguyên nhân
của sự mất bền vững. Còn khi mất ngọc thì có nghĩa là đã sa sút, ê chề tới
mức ngay cả một giá trị quý ảo tưởng cũng không còn nữa.
Tuy nhiên, sự mất ngọc đó chỉ liên quan tới cái phù hoa quyền quý, còn
chính vì việc mất ngọc giả đó mà lại có thể dẫn tới nhận thức được những
giá trị bền vững hơn.

Giả mẫu phân phát của để dành cho các con khi đã sa sút.
*
Nhiều khi có người nói trong Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần có đề cao
vai trò phụ nữ, một điều rất trái với tư duy nho giáo. Theo tôi thì không
phải, Tào Tuyết Cần vẫn hoàn toàn nằm trong tư duy nho giáo, trọng nam
khinh nữ. Một trong những bằng chứng là tác phẩm này được đông đảo
người hâm mộ ngay từ xưa, mà những người này không có lý do gì để có
nhận thức về bình đẳng giới cả.
Hồng Lâu Mộng theo tôi là một cơn ác mộng rất đặc biệt, khi một người
đàn ông (hòn đá, chính là Tào Tuyết Cần) thấy mình đầu thai dưới dạng
đàn bà (mặc dù Bảo Ngọc vẫn là đàn ông nhưng hệ thống giá trị, nhận
thức là đàn bà). Khi một hòn đá (đàn ông) tự coi mình như một viên ngọc
thì tức là nó bị biến thành đàn bà.
Dính Yên cầu cho Bảo Ngọc kiếp sau được hoá thành con gái
Giả Phủ là một tiểu thế giới đàn bà, trong đó đàn ông trở thành thứ yếu,
đảo ngược hệ giá trị Nho giáo. Cũng chính vì vậy nên khi Bảo Ngọc ra
đời, có viên ngọc, hội đàn ông trong gia đình không mấy quan tâm, chỉ có
hội đàn bà thì rất nâng niu. 12 thoa tượng trưng cho 12 dạng cơ bản của
thế giới đàn bà, (số 12 tương tự như 12 địa chi, tượng trưng cho mọi dạng
archetype có thể hình dung dưới mặt đất này) mà vì Bảo Ngọc bị biến
thành đàn bà, nhưng không phải một đàn bà cụ thể, mà là cái sự đàn bà
nói chung, nên có thể trải nghiệm, cảm nhận sâu sắc về tất cả 12 dạng đàn
bà.
Toàn câu chuyện mô tả về một xã hội mang hệ thang giá trị đàn bà, cho
dù có muôn vàn nét tinh tế, lộng lẫy, cho dù rất khôn ngoan, cơ trí, nhưng
cuối cùng về cơ bản vẫn là ảo, giả, sai lầm, và do đó không có kết cục tốt
đẹp.
Bảo Ngọc chơi đùa cùng các tiểu thư
Như vậy, Hồng Lâu Mộng cũng có thể coi là một trước tác kinh điển Nho
giáo, nhưng thay vì cứ suy tôn các giá trị đàn ông, quân tử, và hiển nhiên
miệt thị đàn bà, tiểu nhân, đây là một bài luận sâu sắc về thế giới đàn bà,
để đi đến kết luận là cuối cùng đó cũng chỉ như trang sức mà thôi, không
thể trụ cột.
Nói cách khác, không phải là một hủ nho gia trưởng nói xấu đàn bà, mà
chính là tinh hoa đàn bà cuối cùng tự nhật thấy sự bất cập của mình, và
quay trở lại tôn vinh giá trị dương cương.

Ý KIẾN - THẢO LUẬN


14:30 Thursday,6.4.2017 Đăng bởi:  phó đức tùng
NMH 
nói là đàn bà thấy mình đầu thai trong thân xác đàn ông cũng đúng, nhưng vô
nghĩa, chẳng qua chỉ là chút bất cập về thể xác. Xét về ngữ cảnh thì ai là đàn
bà, và khi mộng rơi vào xác đàn ông thì từ điều đó không rút ra cái gì? 
Còn Bảo Ngọc vốn là hòn đá từ triệu năm, đó là biểu tượng của nam tính. Khi
nó nằm mơ thì hoá thành đàn bà, chỉ còn lại cái vỏ vẫn là nam thôi, toàn bộ
bản chất là nữ tính. và câu chuyện là khi trong xã hội, đàn ông bị hoá hết
thành đàn bà, xã hôi chỉ còn giá trị đàn bà thì sẽ như thế nào. Và khi tỉnh
mộng, hòn đá lại trở về làm hòn đá, đàn ông vẫn phải là đàn ông.

23:25 Wednesday,5.4.2017 Đăng bởi:  NMH
Em/cháu nghĩ bác PĐT nói ngược: đàn bà thấy mình đầu thai trong thân xác
đàn ông chứ nhỉ. 
Tâm hồn, tính cách, tư tưởng, kể cả tình cảm đều là nữ trong thân xác là nam.

Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 1): đè nén sống đời vờ nhạt
nhẽo 17. 12. 16 - 7:10 am
Anh Nguyễn

Trương Khánh Thiện đã nhận xét về Lý Hoàn trong cuốn Mạn đàm về


Hồng Lâu Mộngnhư sau: “Quãng đường bi kịch của nàng càng dài, cuộc
sống nhân sinh của nàng càng cay đắng”. Cùng với Lâm Đại Ngọc và
Hương Lăng, nàng là một trong những nhân vật vừa xuất hiện đã mang
nỗi bất hạnh đeo đẳng. Xét về địa vị và lai lịch, nhân vật Lý Hoàn lại
càng có điểm độc đáo đáng được bàn tới. Nàng là một tấm gương phản
chiếu xã hội phong kiến bóp nghẹt quyền sống của người phụ nữ. Có thể
nói số phận của Lý Hoàn có ba phần do thiên định, nhưng tới tận bảy
phần nằm ở những xiềng xích ăn sâu từ trong tiềm thức cộng đồng.

Lý Hoàn
Xiềng xích ấy bắt nguồn từ đâu? Trong truyện đã nói rõ:
Nguyên họ Lý là vợ Giả Châu. Giả Châu chết sớm, có đứa con trai tên là
Giả Lan, lên năm tuổi, đã đi học. Họ Lý cũng là con nhà danh hoạn đất
Kim Lăng, bố là Lý Thủ Trung là Quốc tử Tế tửu. Trong họ, con trai, con
gái đều được đi học. Đến đời Lý Thủ Trung thì cho “con gái bất tài, ấy là
đức”. Vì thế, ông ta không cho con gái đi học đến nơi đến chốn, chỉ cho
đọc “Nữ tứ thư”, “Liệt nữ truyện” để biết một số chữ, nhớ một số truyện
hiền nữ đời trước là đủ, cốt sao chú trọng về thêu thùa canh cửi và việc
vặt mà thôi. Nhân vậy đặt tên con là Lý Hoàn, tên chữ là Cung Tài.
Cái quan điểm “nữ tử vô tài tiện thị đức” này đã ám ảnh xã hội Trung
Quốc mấy nghìn năm, đẩy bao thế hệ phụ nữ vào hố sâu của sự tăm tối và
phục tùng. Lý Hoàn là tiểu thư của một gia đình quan lại mà còn như vậy,
thì đủ biết những người đàn bà ở tầng lớp thấp hơn sẽ ra sao. Không được
tự chủ về học vấn và của cải thì đương nhiên hôn nhân cũng phải để
người khác định đoạt. Lý Hoàn trở thành vợ Giả Châu, con dâu của Giả
Chính và Vương phu nhân, lại sinh được một con trai là Giả Lan. Nàng là
chị dâu của Bảo Ngọc, Nguyên Xuân, Thám Xuân, là mợ cả của Giả phủ.

Lý Hoàn dạy con học


Truyện không nói rõ cuộc hôn nhân của hai vợ chồng Lý Hoàn êm đềm
hay trúc trắc, chỉ biết Giả Châu là con người đức hạnh, nên có lẽ Lý Hoàn
cũng được “Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân. Tuyết sương che chở cho
thân cát đằng.” Có điều ngày xuân ngắn chẳng tày gang. Giả Châu chết
đột ngột, Lý Hoàn – một người con gái tuổi trẻ mơn mởn – bỗng chốc trở
thành góa phụ. Quãng đường đời tươi đẹp của nàng đóng sập cửa từ lúc
ấy.
Lý Hoàn trẻ tuổi, góa chồng, mặc dầu ở chỗ cao lương gấm vóc, nhưng
lòng lạnh như tro tàn, cây cỗi, hết thảy không buồn hỏi, không buồn nghe
việc gì; chỉ biết hầu bố mẹ chồng, nuôi con, lúc rỗi thì khâu vá, đọc sách
với các cô em.
Theo bài Vãn thiều hoa (Cảnh xuân về cuối) ứng với Lý Hoàn thì cuộc
hôn nhân của nàng trôi qua nhanh như một giấc mộng:
Còn gì ân ái trong gương
Còn gì giấc mộng trên đường công danh
Cảnh thiều hoa đi sao nhanh
Chăn uyên màn gấm thôi đành bỏ qua

.
Cũng như với các nhân vật khác, Tào Tuyết Cần đã dụng công đặt tên cho
Lý Hoàn. Lá số tiền định của Lý Hoàn mở đầu bằng câu “Đào lý xuân
phong kết tử hoàn,” chính là ám chỉ tên của nàng. Biện pháp chơi chữ ở
đây rất hay. Chữ Lý trong tên nàng có nghĩa là cây mận, quả mận. Đào và
mận thường đi chung một cặp để chỉ vẻ yêu kiều của người phụ nữ, cũng
là biểu tượng cho tuổi trẻ nở hoa kết trái và tình yêu đôi lứa (Đào chi yêu
yêu. Chước chước kỳ hoa,…) Đào mận gặp gió xuân kết thành quả, chữ
“tử” nghĩa là đứa con trai, chữ “hoàn 完” ở đây có nghĩa là hoàn chỉnh,
lại đồng âm với chữ “Hoàn 紈 ” trong tên nàng. Chữ Hoàn này mang
nghĩa khác: lụa trắng. Một tấm lụa trắng nõn nà không tỳ vết vừa gợi đến
sự cao nhã của thú chơi thư pháp, lại là biểu tượng cho sự trong sạch của
người quả phụ một lòng thủ tiết. Thế nhưng nó cũng ám chỉ cái chết và
tang tóc, khiến ta không khỏi liên tưởng đến những dải lụa vua ban để tự
tử.
Trạng thái “sự đời đã tắt lửa lòng” của Lý Hoàn được mặc định là đương
nhiên, nhất là trong một gia đình quyền quý như nhà họ Giả. Chẳng ai
bận tâm hỏi han Lý Hoàn xem nàng có vừa lòng ở vậy nuôi con, không
màng tình duyên hay không. Có lẽ ngay bản thân Lý Hoàn cũng không hề
nghĩ, hoặc dám nghĩ đến điều đó, bởi nàng chẳng có lựa chọn nào khác.
Sự ghẻ lạnh của xã hội với những người đàn bà tái giá đủ làm nàng chùn
bước, chưa kể sự “rớt hạng” về địa vị mà nàng cùng Giả Lan sẽ phải gánh
chịu. Ví dụ rõ nhất trong truyện là kế mẫu của Vưu thị cùng hai đứa con
gái riêng: Vưu nhị thư, Vưu tam thư. Ba mẹ con bọn họ bị đối xử chỉ hơn
những người hầu một chút, chẳng có thế lực gì, khi bị chèn ép cũng chẳng
biết kêu ai. Lý Hoàn chấp nhận sống một cuộc đời góa bụa kiểu mẫu để
đổi lấy sự an toàn, bao bọc, và danh dự. Thế nhưng Tào Tuyết Cần đã
khéo cho chúng ta thấy tất cả chỉ là lớp vỏ bề ngoài.
Lý Hoàn và con
Ở hồi mười bảy, Giả Chính và Bảo Ngọc cùng các môn khách vào thăm
vườn Đại Quan. Xin chú ý đến đoạn sau:
Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh
chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng,
trên tường có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun,
ráng phủ. Mặt trong có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây
dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn
vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân núi, ngoài hàng rào có cái
giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới có mảnh rộng
phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.
Giả Chính nói:
– Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt ra, nhưng
nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền
viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem
[…]
Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy,
giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này thế nào?
Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo
Ngọc không nghe, nói ngay:
– Xem ra chỗ này kém xa “Hữu phương lai nghi”.
Giả Chính nói:
– Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một
cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
[…]
Bảo Ngọc nói:
– Thế thì chỗ này đặt thành trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa
thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì
không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có
tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình,
không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên
hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại
gì. Cổ nhân có bốn chữ “bục tranh thiên nhiên”, sợ chỗ này không đáng
có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu
cũng vẫn không hợp.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
– Thôi, bước ngay!
Giả Chính cùng Bảo Ngọc đi thăm vườn Đại Quan
Đoạn này tả sự việc tưởng chừng vô thưởng vô phạt nhưng lại có hàm ý
sâu xa, bút pháp kín đáo hết sức tuyệt vời. Nơi được nhắc đến sau này
chính là Đạo Hương thôn – nơi ở của Lý Hoàn. Bề ngoài Đạo Hương
Thôn được bố trí bình dị, quê mùa, không châu ngọc hào hoa, chẳng lụa
là phú quý, chính là để phản chiếu cuộc sống phẳng lặng, giản tiện của
góa phụ Lý Hoàn. Giả Chính – bố chồng Lý Hoàn là một Nho gia theo
quan điểm truyền thống, thậm chí như Trương Tráng Niên nhận xét là
một nguỵ quân tử, đương nhiên là ông ta ưng ý trước cảnh tượng nền nếp,
khiêm nhường đó. Nhưng Bảo Ngọc với “tuệ nhãn” trong sáng và trái tim
thấu hiểu tình người, đã nhìn ra sự giả tạo, gán ghép của nó.
Nên nhớ trong giấc mơ nơi Ảo Cảnh, Bảo Ngọc đã uống vào bụng hai thứ
thức uống “Thiên hồng nhất quật” (đồng âm với Thiên hồng nhất khốc –
ngàn bóng hồng cùng khóc) và “Vạn diễm đồng bôi” (đồng âm với Vạn
diễm đồng bi – vạn vẻ đẹp đều buồn,) lại được thưởng thức mười hai
khúc Hồng Lâu Mộng. Từ đáy lòng Bảo Ngọc có sự thấu hiểu vô hạn với
những nỗi khổ của nữ nhi. Bằng trực quan, cậu linh cảm được sự miễn
cưỡng, gò ép của Lý Hoàn nhưng không thể diễn tả bằng lời mà phải biểu
hiện bằng việc chê trách Đạo Hương Thôn – nơi các bậc trưởng bối phân
cho Lý Hoàn ở. Đương nhiên những câu phê bình của Bảo Ngọc khiến
Giả Chính nổi xung, bởi qua đó Bảo Ngọc đã hạ thấp cả một phần của ý
thức hệ phong kiến!
(Còn tiếp)

Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tiếng hão đành vui phúc về
già 18. 12. 16 - 7:57 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo phần 1)
Sau khi các chị em được phân về Đại Quan Viên, Lý Hoàn trở thành
người phụ nữ duy nhất đã có chồng được vào ở đó. Nàng lãnh nhiệm vụ
cai quản, giáo huấn các cô gái ngây thơ ấy. Đại Quan viên muôn hồng
ngàn tía, có Đại Ngọc là bông phù dung kiều diễm, Thám Xuân là hoa
hạnh cao sang, Tương Vân là đoá hải đường tươi tắn, Bảo Thoa là mẫu
đơn quý phái. Lý Hoàn chẳng được làm hoa. Ở hồi sáu mươi ba, khi rút
thẻ hoa, Lý Hoàn rút được thẻ có hình cây mai già.
Mọi người cầm thẻ xem, thấy vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Vóc
đựng sương mai”. Mặt sau đề một câu thơ cổ: “Nhà tranh giậu trúc
nhưng lòng vẫn vui”.
.
Thế nhưng thay vì đè nén, nghiêm khắc với những cô tiểu thư trẻ trung
kia, Lý Hoàn lại một lòng bảo vệ, thương yêu, chiều chuộng bọn họ. Như
Chu Chiêu Linh nhận xét, dù sống trong cảnh lòng lạnh tro tàn nhưng Lý
Hoàn không mảy may oán thán, chấp nhận tuyết sương để chở che cho
những cánh hoa xuân sắc, để những đóa hoa ấy tận hưởng mùa xuân tươi
đẹp (dù ngắn ngủi) nơi Đại Quan Viên. Sự cao thượng của Lý Hoàn khiến
tất cả người trên kẻ dưới đều phải kính phục.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn cả là chỉ sau khi Lý Hoàn vào Đại Quan
Viên, Tào Tuyết Cần mới hé lộ cho ta thấy nàng có một tâm hồn thi vị,
tao nhã chẳng kém gì cô Lâm, cô Tiết. Lý Hoàn không tự mình làm thơ
bởi nó không phù hợp với vị trí trang nghiêm của người quả phụ, viện cớ
tài mọn, nàng chỉ xin nhiệm vụ giám khảo. Nhưng mỗi cuộc thi thơ lại
làm ta khám phá thêm những nét mới của Lý Hoàn. Nàng vui vẻ, cười
đùa, trêu chọc các em nhỏ, lại có những phẩm bình về thơ rất súc tích, xác
đáng.
Các chị em mở Hải Đường thi xã
Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:
– Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn. Mùa
xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì
bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã
cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.
Đại Ngọc nói:
– Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ
những tiếng xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.
Lý Hoàn nói:
– Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt
cho tôi là “Đạo Hương lão nông”, không ai được giành cái tên ấy.
[…] Lý Hoàn cười nói:
– Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.
Mọi người vội vã hỏi:
– Chữ gì?
Lý Hoàn nói:
– Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?
[…]
Lý Hoàn nói:
– Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì
vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.
Thám Xuân nói:
– Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.
Lý Hoàn nói:
– Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?
Bảo Ngọc nói:
– Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng – Lại cười nói –
Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu
Tương.
Lý Hoàn nói:
– Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ
bị phạt.
[…]
Lý Hoàn bình thơ
Trong Hồng Lâu Mộng thường nhắc đến cảnh Lý Hoàn dạy con học. Sự
tham dự của Lý Hoàn vào Hải Đường thi xã và phong cách của nàng
chứng tỏ nàng có đủ khả năng làm việc đó. Vậy nên đâu thể phán xét con
người qua vẻ bề ngoài. Nếu không có những cuộc thi thơ kia, ai có thể
ngờ trong Lý Hoàn vẫn chất chứa lòng yêu đời, yêu người như vậy. Thế
mới biết những thứ tiếng tăm hão huyền, “Tiết hạnh khả phong” ấy làm
hại người phụ nữ biết nhường nào! Trong lá số tiền định của Lý Hoàn đã
nói rõ: “Nước sạch, băng trong, ghen ghét hão. Tiếng tăm còn lại ở nhân
gian.” Mặc dù nàng đã có chậu lan làm niềm vui – đứa con trai Giả Lan
(đáo đầu thùy tự nhất bồn lan) thì số phận của nàng cũng là điều không ai
mong muốn, chẳng đáng ghen tị hay khen chê.
Nếu nhìn Lý Hoàn từ khía cạnh người vợ, người mẹ, ta lại thấy có nhiều
điều khác đáng bàn.
.
Trước hết phải khẳng định rõ ràng một điều: Tào Tuyết Cần chia những
người phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng ra thành hai nhóm rõ rệt: những
người đàn bà đã có chồng và những cô gái trinh nguyên. Cũng như Bảo
Ngọc, ông nâng niu dành những tình cảm trong sáng nhất cho những
người con gái ngây thơ, dù họ là tiểu thư hay con ở. Ai có thể quên được
Tương Vân hào sảng, Đại Ngọc thướt tha, Tình Văn cao quý, Phương
Quan tinh nghịch… Họ cũng là những cô gái tài năng: hoặc biết làm thơ,
hoặc giỏi vẽ tranh, hoặc ca hát, kết hoa, thêu thùa,…
Ngược lại, những người đàn bà có chồng trong truyện, dù là bà lớn hay
người hầu cũng đều có những khía cạnh thô tục và tàn nhẫn: Hình phu
nhân nỡ lòng bán cháu nội, Vương phu nhân khiến Kim Xuyến, Tình Văn
phải chết, Phượng Thư cay nghiệt làm hại bao người, Hạ Kim Quế ác
độc, Tần Khả Khanh dâm ô, thậm chí Giả mẫu cũng vô tình lạnh lẽo.
Những người đàn bà theo hầu như dì Triệu, vợ Vương Thiện Bảo, mụ
Liễu, mẹ nuôi Phương Quan,… lại càng xấu xa. Những người đàn bà này
cũng đầy tục khí, đa phần họ không biết làm thơ hay treo tranh gì cả (xem
đoạn mô tả nơi ở của hai bậc quyền quý Hình phu nhân, Vương phu
nhân.) Về điều này, Bảo Ngọc đã có nhận xét rất xác đáng:
Khi con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt chân châu rất quý; lấy
chồng rồi, không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt
chân châu đấy, nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến
già đi thì không phải hạt châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, sao
lại hóa ra ba dạng như thế?
Tại sao lại có sự phân biệt như vậy? Phải chăng Tào Tuyết Cần kỳ thị các
phụ nữ có chồng, cố tình khắc hoạ họ như những… phù thủy cưỡi chổi?
Không phải thế. Một trong những ý tưởng xuyên suốt của Hồng Lâu
Mộng là sự khác biệt giữa hai giới nam và nữ, hay nói đúng hơn là tính
nam và tính nữ. Lại phải mượn lời Bảo Ngọc “Xương thịt của con gái là
nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy
con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như
bị phải hơi dơ bẩn vậy.” Trong Hồng Lâu Mộng, không chỉ những cô gái
bẩm sinh mà những người đàn ông mang tính nữ như Tần Chung, Tưởng
Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương,… cũng cao quý và thanh nhã. Còn tính
nam không chỉ đục dơ từ bản chất mà còn có khả năng làm “ô nhiễm”
tính nữ, chính vì thế những người phụ nữ sau khi lấy chồng đều trở nên
cứng rắn và “trần tục” hơn. Tào Tuyết Cần đã làm một cuộc cách mạng
lật đổ tư tưởng trọng nam khinh nữ bằng ngòi bút.
Trong cái thế lưỡng cực đó, Lý Hoàn là một trường hợp đặc biệt nhưng
vẫn phản ánh đúng tinh thần trọng nữ khinh nam của tác giả. Nàng đã có
chồng, nên không khỏi bị xếp hạng thấp trong Kim Lăng thập nhị thoa
chính sách, nhưng vì xa rời ảnh hưởng ô trọc của đàn ông đã lâu, nên vẫn
giữ được tính tình hiền lành và cốt cách trong sáng. Sự nhân từ của Lý
Hoàn xuất phát từ trong tâm nên nàng được gia nhân trong nhà tôn là Phật
sống, chỉ có nàng đến bầu bạn cùng Đại Ngọc khi nàng sắp lìa đời. Nàng
vẫn giữ được tâm hồn lãng mạn và yêu nghệ thuật nên được cùng các chị
em bầu bạn nơi Đại Quan Viên, dù chẳng thể sống lại tuổi trẻ để bay nhảy
cùng bọn họ. Vì thế Lý Hoàn là một trong những số ít người phụ nữ có số
mệnh tươi sáng hơn ở thì tương lai:
Mũ châu áo phượng thướt tha
Chống làm sao nổi vận nhà bấp bênh
Già, nghèo khó chịu đã đành
Cũng nên tích đức để dành về sau
Ngông nghênh trâm ngọc trên đầu
Ấn vàng trước ngực muôn màu sáng tươi
Uy quyền lộc vị lẫy lừng
Suối vàng buồn thảm đường chừng gần thôi
Xưa nay khanh tướng còn ai
Hoạ còn tiếng hão cho đời ngợi khen

.
Trong lá số tiền định Lý Hoàn chính là mỹ nhân đội mũ phượng, mặc áo
màu ráng trời, ý nói Giả Lan sẽ thi đậu thành công được làm quan, mang
lại phúc phận tuổi già cho mẹ. Người viết ưu ái Lý Hoàn, không để nàng
chết trong tủi nhục như Phượng Thư, Nghênh Xuân, Đại Ngọc, lại không
phải chịu cảnh dơ bẩn như Diệu Ngọc, Tần Khả Khanh. Sự tưởng thưởng
này liệu có xứng đáng với cái tiếng hão kia chăng? Xin để cho bạn đọc tự
xét.
Ý KIẾN - THẢO LUẬN

14:49 Wednesday,28.12.2016 Đăng bởi:  Nguyễn Trần Quang Anh


@ Anh Nguyễn 

Cám ơn bạn rất nhiều!

16:28 Friday,23.12.2016 Đăng bởi:  Ly
Xin lỗi. Mình đọc comment của bạn Anh Nguyễn tưởng là bộ tranh khác
(120 tranh) nhưng vào xem link thì hoá ra đúng là bộ 240 tranh mình vừa gửi.

Giả mẫu (phần 1): đầu tiên là chuyện giàu sang 31. 10. 16 - 5:46 am
Anh Nguyễn
Giả mẫu là một nhân vật được tạo hình đặc sắc vào bậc nhất trong Hồng
Lâu Mộng. Giả mẫu có vị trí đứng đầu Giả phủ, tầm ảnh hưởng bao trùm
cả hai nhà Ninh, Vinh. Gầu như toàn bộ các cô gái trong Kim Lăng thập
nhị thoa chính sách (ngoại trừ Diệu Ngọc) đều là cháu chắt của Giả mẫu,
nếu không do huyết thống trực hệ thì cũng thông qua quan hệ hôn nhân.
Vì vậy Tào Tuyết Cần bỏ nhiều tâm sức miêu tả Giả mẫu cũng là điều dễ
hiểu. Nếu chỉ nhìn bên ngoài, Giả mẫu quả là một bà cụ bao dung, hiền
từ, thích an nhàn như … bà nội của chúng ta vậy! Vì vậy e rằng nhiều
người sẽ không đồng tình khi tôi cho rằng: những nguyên nhân dẫn đến
sự sụp đổ của nhà họ Giả có một phần lỗi của Giả mẫu.
Tào Tuyết Cần để Giả mẫu lần đầu xuất hiện qua lời kể của Lãnh Tử
Hưng ở hồi thứ hai, chính là áp dụng biện pháp “chưa nhìn thấy người đã
nghe thấy tiếng.” Giả mẫu sinh ra trong nhà họ Sử – một trong bốn gia
đình cự phú ở Kim Lăng (Cung A phòng xây lên ba trăm dặm đã đủ
chưa? Họ Sử đất Kim Lăng vẫn ở không vừa.) Lớn lên Sử tiểu thư kết
hôn với Giả Đại Thiện ở Vinh Quốc phủ, sinh ra Giả Chính và Giả Xá.
Lang quân bà chẳng may mất sớm, nhưng hai con trai Giả mẫu nhờ phúc
ấm của ông cha mà đều được đặc cách phong quan, tập tước. Giả mẫu
cũng vì thế mà được hưởng thụ cuộc sống viên mãn, xa hoa không kể
xiết. Người ta còn gọi bà là Sử thái quân.
Giả mẫu trong một bữa tiệc cùng gia đình
Trước hết, hãy bàn về khía cạnh vinh hoa phú quý của nhân vật này.
Truyện có nhiều chi tiết nhỏ được cài đặt rất khéo léo, tôi xin chỉ ra bốn
ví dụ nho nhỏ.
Thứ nhất là khi một thầy thuốc được mời vào thăm bệnh Giả mẫu.
Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào.
Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân
bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn
vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng,
trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để
tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp
hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc
đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên,
chạy lại cúi chào.
Thế mới nói, muốn giàu chỉ cần một đời, nhưng muốn sang phải ít nhất
ba đời mới đặng. Giả mẫu chẳng bộn bề trang sức trên người nhưng vẫn
uy nghi như một vị thái hậu. Từ kiểu cách đón tiếp, a hoàn bà già hầu hạ
vây quanh, cho đến những người “đeo vàng ngọc” đứng sau (Phượng
Thư, Lý Hoàn, Vương phu nhân) – tất cả đều đóng vai trò bức nền làm
toát lên vị trí cao quý của Giả mẫu.

Giả mẫu cùng Phượng Thư và các người hầu vây quanh
Thứ nhì là ngày mừng thọ tám mươi tuổi của Giả mẫu. Hồng Lâu Mộng
có nhiều bữa tiệc xa xỉ đến hoa cả mắt, song chúng ta chỉ cần chú ý đến
chi tiết này:
Từ đầu tháng bảy, người đưa lễ thọ đến mừng liên tiếp không dứt. Bộ Lễ
vâng chỉ ban cho một cái gậy bằng vàng dát ngọc, bốn súc đoạn màu,
chén vàng bốn cái, bạc năm trăm lạng. Nguyên phi lại sai Thái giám đưa
đến một tấm thọ tinh bằng vàng, một cái gậy trầm hương, một chuỗi hạt
dà nam, một hộp hương phúc thọ, hai nén vàng, tám nén bạc, mười hai
tấm đoạn màu, bốn cái chén ngọc. Ngoài ra từ thân vương, phò mã đến
các quan văn võ lớn, nhỏ đi lại xưa nay đều có lễ mừng, không thể kể xiết
được. Trong nhà đặt một cái bàn lớn trải thảm đỏ bày hết những đồ quý
giá bên trên rồi mời Giả mẫu đến xem. Mấy hôm đầu, Giả mẫu còn cao
hứng đến nhìn qua, sau chán không xem nữa, chỉ nói: “Bảo cháu Phượng
nhận cả, hôm nào rảnh ta sẽ lại xem”.
Chỉ một con người đã quen sống trong sự giàu có, thừa thãi đến cùng cực
mới có thể bộc lộ một thái độ “phớt tỉnh” như thế trước của cải. Có lẽ
trong tám mươi năm cuộc đời, số lượng châu báu Giả mẫu nhìn qua đã
quá nhiều, tới mức chúng không còn đem lại cảm giác ngạc nhiên hay
thích thú gì cho bà nữa.

Giả mẫu trong ngày lễ mừng thọ


Thứ ba là tên gọi các a hoàn của Giả mẫu. Ngoại trừ Uyên Ương, tên bốn
cô còn lại lần lượt là: Hổ Phách, Trân Châu (sau đổi thành Tập Nhân,)
Phỉ Thúy, Pha Lê. Chi tiết này là ẩn dụ cho thân phận tôn quý của Giả
mẫu – người chủ sở hữu tất cả những viên ngọc kia. Vinh hoa phú quý
không dồn vào bà thì còn ai nữa.
Lại một bữa tiệc trong Giả phủ
Thứ tư là lần Giả mẫu cùng mọi người tới thăm Tiết phu nhân. Chỉ qua
cách chọn màn cửa, Giả mẫu đã bộc lộ từ khiếu thẩm mỹ, biết người biết
của, cho đến kiến thức sâu rộng:
Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo
Vương phu nhân:
– Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu.
Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ
treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa
sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.
Phượng Thư nói:
– Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the
“thuyền dực” (the mỏng như cánh ve sầu): màu ngân hồng, tấm thì dệt
lối hoa chiết chi, tấm thì lưu vân biển bức (dơi bay theo đám mây), tấm
thì bách điệp xuyên hoa (trăm con bướm hút nhuỵ hoa), màu vừa tươi, lại
nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem
ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.
Giả mẫu cười nói:
– Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế
mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!
Mọi người đều cười, nhân nói:
– Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị
ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?
Phượng Thư cười nói:
– Bà ơi. Bà dạy cháu với!
Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:
– Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho
là thứ the “thuyền dực”, vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo
là the “thuyền dực”, nhưng tên nó là “nhuyễn yên la” (the mềm và mỏng
như làn khói) kia.
Phượng Thư nói:
– Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được
xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.
Giả mẫu cười nói:
– Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ the? Lại dám nói láo!
Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh (mưa
tạnh trời xanh), hai là thu hương sắc (màu hoa mùa thu), ba là tùng lục,
bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như
khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên la. Màu ngân hồng lại có tên là hà
ảnh sa (màu ráng trời) nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua
thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.
Tiết phu nhân cười nói:
– Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.
Qua đoạn trên, không chỉ Phượng Thư mà tất cả người đọc đều nhờ Giả
mẫu mà được mở rộng tầm nhìn. Ai ngờ chỉ mấy miếng the mỏng manh
mà chứa cả một bề dày văn hóa! Qua nhân vật Giả mẫu, Tào Tuyết Cần
đã khắc họa sự cầu kỳ, tinh tế trong cách thưởng ngoạn của giai cấp quý
tộc nhà Thanh. Cái đẹp của Hồng Lâu Mộng nằm chính ở những chi tiết
nhỏ như vậy.
Thế nhưng nếu Giả mẫu chỉ có giàu sang, sành sỏi thì quá đơn giản. Sự
thực là Tào Tuyết Cần đã dựng lên một Giả mẫu đáng yêu, đáng kính,
nhưng cũng đôi lúc đáng ghét và cả đáng thương nữa. Sở dĩ có nghịch lý
đó là bởi Giả mẫu luôn cư xử như một đứa trẻ được nuông chiều, bất chấp
việc bà đã lên chức cụ và có các chắt riêng (Giả Lan, Xảo Thư.) Dựa vào
đâu để nói rằng Giả mẫu vẫn giữ tính cách trẻ con?
Chúng ta sẽ bàn tiếp ở bài sau…
*
(Còn tiếp)

Ý KIẾN - THẢO LUẬN


9:05 Tuesday,1.11.2016 Đăng bởi:  Hà
:) còn có một vài chi tiết so ra còn mang tính biểu tượng hơn là tả cảnh giàu
sang ạ (vì sang thì bao y chưa hẳn đã sang, nhưng vận thì lúc ấy Giả phủ
đúng là vào vận Thái). Ví như (Chương 31), đoạn Tương Vân đi dạo trong
Đại Quân Viên thấy hoa cây hoa thạch lựu:
- Bên này có hoa thạch lựu bốn năm cành xúm xít lại, chùm nọ nằm chồng
lên chùm kia, sao mà đẹp 
...xem tiếp

7:40 Monday,31.10.2016 Đăng bởi:  Candid
Vũ quá thiên thanh là màu xanh của đồ sứ Sài diêu. Loại sứ nổi tiếng bị thất
truyền.

Giả mẫu (phần 2): đứa trẻ bất chấp và thiên vị 01. 11. 16 - 5:49 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo phần 1)
Trong bài trước chúng ta đặt câu hỏi: Dựa vào đâu để nói rằng Giả mẫu
vẫn giữ tính cách trẻ con?
Thứ nhất, Tào Tuyết Cần đã tóm lược tính cách Giả mẫu một cách chính
xác: “Giả mẫu tuy có tuổi, nhưng vẫn thích các cuộc vui”. Đọc Hồng
Lâu Mộng là thấy rõ Giả mẫu hầu như luôn là người khởi xướng các buổi
liên hoan, tiệc tùng, xướng ca,… Bà thích tụ họp đông người, nếu không
“đánh bài với vợ bọn quản gia,” thì cũng lịch kịch dẫn mọi người đi thăm
các cháu gái, thăm bà dì, thăm cô Diệu Ngọc,…
Ưa xôm tụ, sợ cô đơn là tính cách thường thấy ở người già, nhưng trong
cái ham vui của Giả mẫu còn có sự tùy hứng và vô tư của trẻ thơ. Quý phi
Nguyên Xuân gửi về nhà câu đố đèn ngày Nguyên tiêu, Giả mẫu cũng sai
làm gấp một cái đèn lồng to đẹp để mở hội, lại bày chè thơm, quả tươi, đồ
chơi làm phần thưởng. Thấy Bảo Cầm mặc áo đỏ đứng cạnh hoa mai lộng
lẫy quá, bà lập tức ra lệnh cho Tích Xuân phải họa lại cảnh tượng đó bằng
được, để cô cháu thừ ra chẳng biết vẽ sao. Nhân dịp cây hải đường trổ
hoa trái mùa, bà đòi bày tiệc thưởng hoa dù cảnh nhà đang khó khăn.
Ngay cả khi gia đình đã lụn bại đến cùng kiệt, bà vẫn khăng khăng tổ
chức sinh nhật cho cháu dâu là Bảo Thoa, và giận dỗi khi mọi người tỏ vẻ
buồn! Như một đứa trẻ hay đòi hỏi, Giả mẫu muốn tất cả những ước
muốn (nhiều khi là ích kỉ của bà) được thực thi, bất chấp hoàn cảnh thực
tế có cho phép hay không.

Một buổi xem hát của Giả mẫu cùng con cháu
Thứ hai, Giả mẫu lớn tuổi song cách bà đối xử với con cháu lại không
công bằng như một người từng trải lẽ ra phải thế. Có con yêu, con ghét
cũng là thường tình, song Giả mẫu dường như không buồn giấu giếm sự
thiên vị của mình. Khi bà cưng ai (Bảo Ngọc, Tương Vân, Bảo Thoa,…)
thì đối xử với họ như thiên thần, khi bà hắt hủi ai thì người đó phải chịu
ấm ức. Sự lệch lạc trong cách Giả mẫu chia sẻ tình cảm không qua mắt
được các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng. Cô nàng Phượng Thư cũng ỷ
mình được Giả mẫu yêu chiều nên mới có thể pha trò trêu bà, mặc dù
trong sự đùa cợt có hàm ý nói Giả mẫu biệt đãi Bảo Ngọc:
– Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế nào không được, còn ai dám nói?
Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho bữa tiệc vừa vui vừa
nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có hai mươi lạng
bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu phải
bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi
tròn, thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà
thử nghĩ xem, ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú
Bảo rước bà lên Ngũ Đài Sơn thôi à? Sao cái gì bà cũng ki cóp để dành
cho chú ấy! Chúng cháu tuy không đáng được dùng của này, nhưng bà
cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc
rượu và bày trò chơi không?
Thế nhưng đối với ông cả Giả Xá thì khác. Mẹ yêu em trai Giả Chính hơn
ông ta, lại yêu con trai Giả Chính (Bảo Ngọc) hơn con trai ông ta (Giả
Liễn). Sự uất ức của Giả Xá được giấu rất kín, thậm chí chưa chắc Giả Xá
đã dám tự thừa nhận với bản thân. Người đọc chỉ thấy nỗi niềm của Giả
Xá được hé lộ qua câu chuyện vui ông ta kể nhân một buổi tiệc:
– Một nhà có một đứa con rất là hiếu thuận. Không may bà mẹ bị bệnh,
tìm thầy chạy thuốc các nơi không được. Người con mời ngay một bà biết
châm cứu đến. Bà này không biết xem mạch, chỉ bảo là bệnh tâm hỏa,
châm một mũi là khỏi thôi. Người con sợ quá, hỏi: “Tim mà gặp phải sắt
thì chết, châm thế nào được?” Bà lang nói: “Không cần phải châm vào
tim, chỉ châm vào bên hông là được rồi”. Người con nói: “Hông cách tim
xa, châm vào đó khỏi thế nào được?” Bà lang nói: “Không việc gì đâu.
Anh không biết thiên hạ làm bố mẹ, nhiều tim rất là thiên lệch.”
Mọi người nghe nói đều cười lên. Giả mẫu cũng phải uống nửa chén
rượu, ngồi một lúc rồi cười bảo:
– Nếu ta được bà lang ấy châm cho một cái thì cũng tốt đấy.
Giả Xá nghe vậy, biết là mình nói sỗ sàng để Giả mẫu nghi ngờ, liền
đứng dậy cười, dâng chén mời Giả mẫu rồi nói lảng sang chuyện khác.
Giả mẫu cũng không tiện nhắc, lại làm luôn tửu lệnh.
A hoàn Uyên Ương cắt tóc vì không muốn làm nàng hầu cho ông cả Giả
Xá. Vốn đã không ưa đứa con trai này, Giả mẫu vì việc này lại càng lạnh
lùng với ông ta hơn
Đối với Đại Ngọc thì còn bi kịch hơn thế, bởi khi mới về nhà họ Giả nàng
được Giả mẫu vô cùng thương yêu. Chính truyện đã viết:
Nay nói Lâm Đại Ngọc từ khi đến phủ Vinh, được Giả mẫu thương yêu
muôn phần, ăn ở đi đứng, nhất nhất đều như Bảo Ngọc, ngay Nghênh
Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.
Lần đầu Đại Ngọc gặp bà ngoại, được cưng chiều xiết bao
Thế nhưng vật đổi sao dời, Đại Ngọc dần rớt khỏi vị trí được cưng chiều
trong tim Giả mẫu. Giả mẫu không thẳng thắn hắt hủi cô cháu gái, nhưng
thái độ lạnh lùng, xa cách của bà đủ khiến tâm hồn nhạy cảm của Đại
Ngọc rỉ máu. Đại Ngọc lại càng không thốt ra nửa lời oán trách, nhưng
nỗi ê chề, tủi hổ chất chứa trong tâm nàng không có chỗ giải toả đã hóa
thành một cơn ác mộng, khiến cho người đọc không khỏi xót xa thương
cảm:
Đại Ngọc vội vàng qùy xuống, ôm lấy chân Giả mẫu mà nói:
– Bà cứu cháu với! Về Nam thì chết cháu cũng không về. Vả lại đó là kế
mẫu không phải mẹ đẻ cháu. Cháu xin ở đây với bà thôi.
Nhưng thấy Giả mẫu mặt mày lạnh lùng cười nói:
– Cái đó không can gì đến ta.
Đại Ngọc khóc nói:
– Bà ơi, sao lại thế?
– Làm vợ kế cũng tốt, lại được thêm một bộ đồ nữ trang.
– Cháu ở đây với bà, quyết không tiêu pha quá đáng đâu, chỉ xin bà cứu
cháu.
– Không ăn thua đâu! Làm con gái nhất định là phải đi lấy chồng, cháu
còn bé không biết đấy thôi, không thể ở đây mãi được đâu cháu ạ.
– Cháu ở đây tình nguyện làm người con hầu làm lấy mà ăn, cũng cứ vui
lòng, xin bà làm chủ cho.
Thấy Giả mẫu không nói gì cả. Đại Ngọc lại ôm lấy Giả mẫu mà khóc:
– Bà ơi xưa nay bà rất từ bi, lại rất yêu cháu, sao đến khi nguy cấp bà lại
bỏ cháu đi như thế? Cháu tuy là cháu ngoại bà, đã cách một tầng, nhưng
mẹ cháu là con đẻ của bà, bà nghĩ đến mẹ cháu xin bà bênh vực cho cháu
với.
Đại Ngọc vừa nói vừa đâm đầu vào lòng Giả mẫu, khóc lóc thảm thiết.
Nghe Giả mẫu gọi: “Uyên Ương, mày đưa cô đi nghỉ, nó quấy tao mệt
quá”.
Lần cuối Giả mẫu gặp Đại Ngọc trước khi nàng qua đời, khi nàng bộc
bạch “bà thật hoài công thương cháu,” Giả mẫu tỏ ra vô cùng khó chịu
Vậy thì nhà họ Giả có một bà cụ thích vui chơi hội họp, trong đám con
cháu có thiên vị đứa này đứa kia, đôi lúc còn trẻ trung yêu đời đến mức
“chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc” (hồi 40.) Xét cho cùng, đấy cũng
không phải bi kịch gì lớn lắm. Vấn đề của gia đình này nằm ở chỗ: từ ông
trưởng tộc cho đến đứa hầu, đều răm rắp làm theo mọi ý nguyện của bà.
Mọi ý muốn to nhỏ của bà đều được coi là thánh chỉ. Nói có sách mách
có chứng, tôi có thể chỉ ra vô số trường hợp Giả mẫu được o bế chiều
chuộng như một “Lão phật gia.”
Giả mẫu hỏi Bảo Thoa thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo
Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già, thích nghe những vở hát vui nhộn, thích
ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái gì Giả mẫu thường thích, kể ra
một lượt. Giả mẫu lại càng vui.
Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm. Từ chối mãi không được,
Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả mẫu vui lắm,
lại bảo Phượng Thự. Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười đùa,
nên chấm ngay vở “Lưu Nhị đương ỳ”. Giả mẫu lại càng vui.
Giả mẫu đã già, nhưng sở thích “vở hát vui nhộn, ăn đồ nhừ ngọt” của bà
rõ ràng là ám chỉ cho tính cách trẻ thơ. Bảo Thoa tính tình khôn ngoan đã
sớm nắm rõ điều này, đó là lý do nàng dễ dàng chiếm được cảm tình Giả
mẫu, trở thành một ứng cử viên nặng ký cho ngôi vị nguyên phối của Bảo
Ngọc.
Giả Chính vội cười:
– Vâng, xin chịu phạt; nếu đoán đúng, xin bà thưởng cho.
– Cái ấy cố nhiên.
Rồi giả mẫu đọc luôn:
– Con khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố tên một thứ quả).
Giả Chính biết ngay là quả vải, nhưng cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy
thứ rồi mới đoán đúng. Giả mẫu lại thưởng cho mấy thứ. Sau Giả Chính
lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:
– Mình thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng
đắn. (Đố một thứ đồ dùng).
Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả
mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền nói:
– Đó là cái nghiên.
Giả Chính cười nói:
– Bà đoán một lần đúng ngay.
Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn hầu vâng lời mang hết khay lớn,
khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là đồ mới đẹp, để dùng vào
ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui.
Đây là một đoạn đặc biệt thú vị. Chỉ là một trò đố vui giữa người nhà thôi
mà đã lắm trò giả vờ như vậy! Xuất phát từ lòng hiếu thảo, Giả Chính đã
vô tình đối xử với Giả mẫu như một đứa trẻ cần được che chở, lại lôi kéo
cả Bảo Ngọc vào. Hành vi bợ đỡ Giả mẫu rõ ràng có tính chất “cha truyền
con nối,” nên không có gì lạ khi nó bao trùm luôn cả câu chuyện. Qua sự
kiện này, việc người nhà họ Giả bao che, giấu giếm, lừa dối Giả mẫu khi
gia cảnh suy sụp không còn đáng ngạc nhiên nữa. Đến tận khi gia tộc gặp
cảnh kiệt cùng nhất, Giả mẫu mới ngỡ ngàng:
Giả mẫu thấy chức tước của cha ông để lại bị cách mất, con cháu đang
bị giam, chờ ngày tra hỏi. Hình phu nhân và Vưu thị đêm ngày khóc lóc.
Phượng Thư bê ̣nh tình nguy cấp, tuy có Bảo Ngọc, Bảo Thoa ở bên cạnh,
nhưng chỉ có thể khuyên giải chứ không thể chia nỗi lo âu được. Vì thế,
đêm ngày phiền muộn, lo trước nghĩ sau, nước mắt không bao giờ khô.
[…]
Giả mẫu nghe nói hoảng hốt, chảy nước mắt, và nói:
– Làm sao thế? Nhà mình mà đến nông nỗi ấy à. Ta tuy chưa từng trải,
nhưng nghĩ bên nhà ta ngày trước so với bên này còn hơn gấp mười.
Cũng chỉ vì lo tô điểm hảo bộ mặt bề ngoài, nên sau mấy năm không xảy
ra việc như ở bên này. Nhưng cũng đã suy sụp. Không đầy hai năm là
sạch cả! Theo như anh nói, thì nhà mình không thể chèo chống được một
vài năm nữa à.
Giả mẫu thắp hương giữa sân, cầu trời khấn Phật cho nhà họ Giả tai qua
nạn khỏi.
*
(Còn tiếp)
*

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

15:29 Thursday,11.10.2018 Đăng bởi:  Anh Nguyễn


@Quang Nguyễn: Bạn có thể vào mấy links này, kết hợp lại cũng khá đủ bộ
ảnh.  
http://www.sohu.com/a/160487449_682363 
http://blog.sina.com.cn/s/blog_4bc866bd01013sp5.html 
http://blog.sina.com.cn/s/blog_5f2c83f50102ve95.html

7:56 Wednesday,10.10.2018 Đăng bởi:  Quang Nguyễn


Chào bạn Anh Nguyễn. Mình đã đọc hết cả series bạn viết về Hồng Lâu
Mộng và rất tâm đắc với phân tích và kiến giải của bạn. Mình cũng để ý thấy
bạn chọn tranh rất sát với bài. Cảm giác những bức minh họa này là cùng một
tác giả. Mình rất thích nét vẽ và bố cục của những bức này.  Trình độ tiếng
trung của mình lại hạn chế chưa thể tự tìm kiếm trên mạng được. Xin hỏi bạn
có thể cho mình link để mình có thể tự xem và thưởng thức được không.
Mình cảm ơn bạn rất nhiều.

Giả mẫu (phần 3): may còn được người viết về cuối rủ lòng thương 03.
11. 16 - 11:02 pm
Anh Nguyễn

(Tiếp theo phần 1 và phần 2)


Như đã nói ở phần trước, Giả mẫu tính tình trẻ con chưa nguy hại bằng
việc người nhà dung túng điều đó. Nếu Giả mẫu chỉ ngồi một chỗ tĩnh
dưỡng, thi thoảng bày cuộc vui chơi thì có lẽ cũng chưa đến nỗi. Điều
đáng nói là Giả mẫu còn trực tiếp nhúng tay, gây ảnh hưởng đến việc vận
hành của gia tộc. Thử nghĩ mà xem, một người già dù có minh mẫn sáng
suốt đến mấy cũng khó có đủ trí lực để quyết định những việc lớn trong
nhà, nữa là một bà cụ nông nổi như Giả mẫu. Việc này để lại nhiều hậu
quả nghiêm trọng.
Thứ nhất, trong nhà, Giả mẫu yêu thích và giao phó hết việc nhà cho
Phượng Thư cũng bởi nàng có cái miệng giỏi bông đùa, biết cách làm Giả
mẫu bật cười. Nàng lại khéo đón ý, đưa đẩy, bày trò, tỷ như lúc mời già
Lưu vào nói chuyện với Giả mẫu… Phượng Thư lợi dụng sự yêu chiều,
tin cậy của Giả mẫu để lạm quyền, góp phần đưa nhà họ Giả lâm vào
cảnh bi đát thế nào thì không cần nói nữa.

Già Lưu kể chuyện để mua vui cho Giả mẫu

Thứ hai, Giả mẫu quá yêu chiều Bảo Ngọc đến mức bất chấp cả những
quy tắc ứng xử thông thường. Bảo Ngọc từ nhỏ đã sống ở cạnh các chị
em, điều này đến khi cậu ta lớn vẫn không thay đổi. Giả Chính, Nguyên
Xuân đều thấy điều này không hợp tình hợp lý, nhưng mấu chốt là họ vẫn
muốn chiều ý Giả mẫu, thế nên mới có cảnh một cậu công tử dọn vào Đại
Quan viên ở với một dàn tiểu thư:
(Nguyên Xuân) Lại nghĩ đến Bảo Ngọc không như các anh em khác, từ bé
đến lớn vẫn ở luôn với đám chị em; nếu không cho sang đây, sẽ làm cho
cậu ta buồn, mà Giả mẫu và Vương phu nhân cũng không được vui. Vậy
nên cho Bảo Ngọc ở luôn đấy mới phải.
Giả Chính chẳng ưa Bảo Ngọc, nhưng không có nghĩa ông ta hoàn toàn
phó mặc đứa con trai này. Trong lòng Giả Chính luôn canh cánh nỗi lo sợ
Bảo Ngọc sẽ đi vào con đường sai, vì thế ông thường xuyên tìm cách uốn
nắn Bảo Ngọc mỗi khi có cơ hội. Nhưng sự dạy dỗ của ông luôn vướng
phải sự cản trở của Giả mẫu. Khi Giả Chính bắt Bảo Ngọc làm một việc
đơn giản (đặt câu đối), ông cũng không dám giữ cậu ta lại lâu vì sợ Giả
mẫu “không yên lòng”. Mỗi khi Giả Chính tìm gọi Bảo Ngọc thì một tấn
trò hề sẽ xảy ra như sau:
Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, mất vui, ngồi ngẩn ra một lúc, rồi uốn éo níu
chặt lấy Giả mẫu, không chịu đi.
Giả Mẫu an ủi:
– Của quí của bà này! Cháu cứ đi, đã có bà. Cha cháu không dám làm
rầy rà cháu đâu.
Giả mẫu nói xong, gọi hai bà già đến dặn: “Đưa cậu Bảo sang, và chớ
để ông làm cho cậu ấy sợ”.
Lần duy nhất Giả Chính dùng đòn roi để răn đe Bảo Ngọc thì vấp phải sự
cản trở quyết liệt bằng… nước mắt của Giả mẫu. Kết quả là Giả Chính,
Giả Xá sợ Giả mẫu khóc lóc sinh ốm, vừa tốn công lại mất của, quá trình
dạy con của Giả Chính lại một lần nữa trở thành công cốc công cò. Ngay
cả khi Bảo Ngọc bị ốm, bị đau, nỗi lo đầu tiên của Vương phu nhân
không phải sự an nguy của con trai mà là sợ Giả mẫu biết! Sự nâng niu
của Giả mẫu với Bảo Ngọc khiến cậu ta bị Giả Hoàn căm ghét, rồi bị dì
Triệu thuê phù thủy hãm hại đã đành, nó còn tạo ra một khoảng cách
không thể cứu vãn với Giả Chính, khiến Bảo Ngọc mãi mãi không thể
trưởng thành về mặt nhận thức. Mà đây lại là niềm hy vọng của cả nhà họ
Giả! Đủ biết Giả phủ người tuy nhiều nhưng đã không còn ai nữa rồi.

Giả mẫu tức giận doạ bỏ về phương Nam khi Bảo Ngọc bị đánh (Bảo
Ngọc nằm vắt trên ghế, lưng rướm máu)
Cuối cùng, văn hóa sùng bái cá nhân (Giả mẫu) trong xã hội nhỏ (Giả
phủ) đã tạo nên sự chia rẽ không hề nhỏ. Trong số những người xu nịnh,
chiều chuộng Giả mẫu, mấy ai thực sự yêu quý bà? Số đông vây quanh
Giả mẫu chỉ vì muốn nâng cao địa vị bản thân, nhân đó o ép người khác.
A hoàn Uyên Ương lúc sống gắn bó với Giả mẫu, lại tự tử sau khi Giả
mẫu qua đời, nhưng lý do thực là nàng sợ Giả Xá không còn úy kị mẹ già
sẽ nhân đó làm ô uế thân nàng. Những kẻ bị “ra rìa” lại càng không tránh
khỏi bị cô lập, ghẻ lạnh, thậm chí ngược đãi (Hình phu nhân, Vưu nhị
thư). Ta thấy một gia tộc bề thế, giàu có, “tứ đại đồng đường,” nhưng bên
trong rặt những mưu mô, xảo trá, đố kỵ lẫn nhau, chẳng hề thấy tinh thần
đoàn kết hay sự quan tâm thực lòng. Dù Giả mẫu không hoàn toàn chịu
trách nhiệm trong việc này, nhưng khi hệ thống thưởng-phạt và bộ máy
vận hành của một gia tộc đều dựa trên sự chiếu cố của một bà lão thì gia
tộc đó chỉ là hữu danh vô thực.
Giả mẫu lạnh nhạt với Hình phu nhân
Cuối truyện, Giả mẫu đã “bù đắp” lại cho gia đình lụn bại bằng cách phân
phát hết tài sản ki cóp cho con cháu. Có thể nói đây là một sự chuộc tội
nhằm cân bằng lại những thiếu sót trong tính cách của nhân vật này:
Giả mẫu gọi Hình phu nhân và Vương phu nhân cùng bọn Uyên Ương
mở rộng đổ hộp lấy ra hết cả những đồ vật dành dụm từ khi làm dâu đến
nay, lại gọi bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Trân đến chia cho từng phần rõ
ràng. Giả mẫu cấp cho Giả Xá ba ngàn lạng và nói:
– Số bạc hiện có ở đây, anh đem đi hai ngàn làm tiền tiêu để một ngàn
cho chị ấy tiêu riêng. Đây có ba ngàn lạng cho cháu Trân, nhưng chỉ
được đưa đi một ngàn lạng, để lại hai ngàn lạng cho vợ cháu giữ lấy. Ai
nấy tự lo lấy sinh sống. Nhà cửa thì ở chung với nhau, cơm nước thì ăn
riêng. Việc hôn nhân của con Tư sau đây cũng là việc của ta. Tội nghiệp
con Phượng lo liệu bấy lâu bây giờ sạch không, cũng cho nó ba ngàn
lạng, giao cho nó giữ lấy không cho cháu Liễn tiêu. Giờ đây nó còn ốm
mê mệt thì bảo con Bình đến mà nhận về. Đây là xiêm áo của cha ông để
lại cả áo quần và đồ trang sức của ta dùng khi còn nhỏ, nay ta không
dùng đến. Đồ đàn ông thì bảo ông Cả, cháu Liễn, cháu Trân, cháu Dung
đem ra mà chia nhau. Đồ đàn bà thì bảo bà Cả, vợ cháu Trân và con
Phượng đem mà chia nhau. Đây có năm trăm lạng bạc giao cho cháu
Liễn, sang năm đưa linh cữu con Lâm về Nam.
Giả mẫu phân phát xong, lại nói với Giả Chính:
– Anh nói còn mắc nợ người ngoài, việc đó cũng không thiếu được. Anh
bảo đem số vàng này bán đi mà trả cho người ta. Đó là bọn chúng nó
phá mất của ta đấy. Anh cũng là con ta, ta không hề có thiên vị. Bảo
Ngọc đã nên cửa nên nhà, những vàng bạc và đồ vật còn lại đây ước
chừng mấy ngàn lạng, đều đã cho nó cả. Vợ cháu Châu xưa nay ăn ở
hiếu thuận với ta, thằng chắt Lan cũng tốt, ta cũng chia cho mẹ con nó ít
nhiều. Thế là công việc của ta xong xuôi.
Bọn Giả Chính thấy Giả mẫu phân xử sáng suốt như thế, đều quỳ xuống
khóc và nói:
– Tuổi già như thế, bọn chúng con chưa có chút gì hiếu thuận. Giờ đây
lại chịu ơn của người thế này. Thật bọn chúng con lấy làm xấu hổ!
Giả mẫu phân phát của để dành cho các con. Hoạ sĩ thật khéo khắc hoạ
vẻ suy sụp gầy yếu của Giả mẫu, trái ngược hẳn sắc thái tươi tắn đầy đặn
của bà trong những bức tranh trước
Phải nói người viết đã rủ lòng thương Giả mẫu, vẫn để cho bà được lần
cuối sưởi ấm trong sự kính trọng (lần này mới tự đáy lòng) của con cháu.
Chúng ta cũng vì cử chỉ đẹp ấy mà quên đi những sai lầm của Giả mẫu.
Nếu không vì chi tiết này, có lẽ hình ảnh của Giả mẫu đọng lại trong
người đọc chỉ là sự tủi hổ của tuổi già!

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

13:16 Sunday,13.11.2016 Đăng bởi:  NMH
Việc nhà được giao cho Phượng Thư không chỉ vì cưng chiều mà còn có lý
do vì nàng ta là vợ chính thức của Giả Liễn, người cháu trai sẽ thế tập chức
Vinh công (theo ý em thì hiện tại chức này do Giả Xá đang thế tập). 
Việc yêu thương không đồng giữa Giả Xá và Giả Chính cũng dễ hiểu: 
- Giả Chính là con nhỏ 
- Giả Chính trang nghiêm, đoan chính hơn 
- Giả Chính học giỏi hơn và làm quan. Chức quan của Giả Xá là thế tập. 
- Vợ Giả Chính (Vương phu nhân) môn đăng hộ đối hơn và giỏi giang hơn. 
- Con Giả Chính đều có mặt ưu việt hơn, hay ít nhất là có chuyện để khoe với
các bậc cự phú khác: đứa sinh ra ngậm ngọc, đứa xinh đẹp đức hạnh làm
nguyên phi. Nhất là vế sau. Đây là chỗ dựa ít nhất là về danh tiếng và tinh
thần cho phủ Vinh hơn phủ Ninh.
Giả Nghênh Xuân (phần 1): rúc đầu vào sách, bịt mắt bưng tai 01. 12. 16
- 7:41 am
Anh Nguyễn

“Giả phủ tứ xuân” trong Hồng Lâu Mộng giống như một bộ tranh tứ quý:
Nguyên Xuân phong lưu quý phái, Nghênh Xuân văn nhã ôn nhu, Thám
Xuân sắc sảo khôn ngoan, Tích Xuân thanh tịnh khác đời. Thế nhưng chữ
đầu của bốn cái tên hợp lại (Nguyên Nghênh Thám Tích – 元迎探惜) lại
hài âm với cụm từ “đáng phải thở than” (Nguyên Ưng Thán Tức – 原应叹
息) đủ thấy cuộc đời họ trước sau đều không có hậu.
Trong bốn cô Xuân thì Nghênh Xuân là người có tính cách hiền lành
nhất. Những tưởng ông trời sẽ rộng lòng cho nàng được bình an, nhưng
Nghênh Xuân lại chết trong cô đơn và đau đớn. Số phận Nghênh Xuân
quả thật dễ khiến người ta chán ngán và mất niềm tin vào cuộc đời.
.
Nghênh Xuân là con gái của ông cả Giả Xá với nàng hầu, lại là phận nữ,
thế nên địa vị của nàng kém xa người anh cùng cha khác mẹ Giả Liễn và
cô vợ đanh đá Vương Hy Phượng. Nhưng điều đó không khiến Nghênh
Xuân phải bận lòng. Trong ba người chị em họ của nàng, Nguyên
Xuân “số đẻ bọc điều” nhưng lại muốn từ bỏ sự xa hoa, Thám Xuân là
con phượng hoàng cao quý bất mãn với số phận, Tích Xuân coi tất cả
danh lợi đều là không. Chỉ có Nghênh Xuân thực sự hài lòng với những
gì mình có, không hề buông lời ca thán. Ngay từ vẻ bên ngoài, Nghênh
Xuân đã tạo cho người đối diện cảm giác gần gũi dễ chịu:
Cô thứ nhất, người nở nang, tầm thước, nước da nõn nà, má đỏ hồng hào
như quả vải tươi, mũi loáng như xoa mỡ, tính nết ôn hòa kín đáo, thoạt
nhìn đã thấy mến.
Đại Ngọc mới đến gặp các chị em, Nghênh Xuân là cô cao nhất trong ba
cô áo đỏ bên trái
Bề mặt Giả Phủ tưởng chừng sóng yên gió lặng nhưng bên trong đầy cạm
bẫy. Từ tiểu thư bà lớn đến con hầu người ở đều giành giật, đấu đá, trên
đội dưới đạp hòng nâng cao địa vị. Đến cả Đại Ngọc cao quý là thế vẫn
ngấm ngầm so sánh ghen tuông với Bảo Thoa, Tương Vân. Riêng
Nghênh Xuân đứng ngoài tất cả. Giả Xá và Hình phu nhân thờ ơ bỏ bê
nàng, nàng cũng không màng tới. Các chị em trong Đại Quan viên đều có
tài riêng: Đại Ngọc, Bảo Thoa văn hay chữ tốt, Tích Xuân có năng khiếu
hội hoạ, Thám Xuân tính toán khôn ngoan,… riêng Nghênh Xuân mờ
nhạt. Mỗi khi tụ tập thi xã nàng thường lép vế, khi Quý phi truyền các chị
em làm câu đố gửi vào cung nàng cũng xếp hạng chót. Thế nhưng
Nghênh Xuân cũng không vì thế mà ấm ức phiền muộn. Dường như
Nghênh Xuân đã đạt đến mức “vô vi.” Sau đây là nhận xét của bọn người
dưới về Nghênh Xuân:
Còn cô Hai thì gọi đùa là “cô hai gỗ”, châm kim vào người cũng không
biết “ái” lên một tiếng.
[…] Nghênh Xuân… một người thì có xác không hồn, tự mình không
trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được.

Nghênh Xuân thường đươc mô tả nho nhã dịu dàng, tay cầm sách đọc
Nghênh Xuân lựa chọn cách sống như vậy, thật ra cũng chẳng có hại gì
tới ai. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, thấy nàng như con cừu
non yếu đuối nên kẻ dưới bèn tự tung tự tác. Dấu hiệu “có vấn đề” đầu
tiên là khi bà vú nuôi của Nghênh Xuân ăn cắp đồ trang sức của nàng để
đi đánh bạc.
Vì vú nuôi bị tội, Nghênh Xuân trong bụng khó chịu, thấy mẹ đến, liền ra
mời vào. Uống nước xong, Hình phu nhân nói:
– Con đã lớn rồi, vú nuôi của con làm bậy như thế, sao con không răn
bảo. Hiện giờ người ta đều tử tế cả, riêng người nhà mình là xấu thôi.
Thế là nghĩa thế nào?
Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo, một lúc mới thưa:
– Con đã bảo bà ấy hai lần, nhưng bà ấy không nghe, con cũng chẳng
biết làm thế nào cả. Vả chăng bà ấy là vú nuôi, chỉ có bà ấy bảo được
con thôi, chứ con không thể bảo được bà ấy.
Hình phu nhân nói:
– Nói nhảm! Con có điều không phải thì vú ấy bảo con; nhưng vú ấy
phạm pháp, thì con phải lấy tư cách là cô mà răn bảo. Nếu vú ấy không
nghe, con trình mẹ biết mới phải. Bây giờ vỡ lở ra, người ngoài biết, còn
ra làm sao nữa! Hơn nữa vú ấy là nhà gá bạc, cũng đã nói khôn nói
khéo, mượn trâm vòng quần áo của con đi cầm để làm tiền vốn. Con là
người nhẹ dạ cả nể, chắc đâu không giúp đỡ ít nhiều. Nếu bị vú ấy lừa
mất, thì ta một đồng không có, rồi đây ngày tết, con lấy gì mà ăn mặc?
Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo không nói gì cả.

Nghênh Xuân lúc nào hình như cũng đọc sách.


Thừa dịp vú nuôi Nghênh Xuân bị tội, Hình phu nhân bèn tranh thủ nói
xấu một loạt từ Giả Liễn, Phượng Thư, Thám Xuân, nhân tiện chửi xéo cả
dì Triệu. Hình phu nhân vốn là người nhỏ nhen, đứa hầu bên cạnh lại thừa
dịp đổ thêm dầu vào lửa:
[…]
Hình phu nhân thấy vậy cười nhạt:
– Rút cuộc, chỉ có anh con, chị dâu con là tiếng tăm lừng lẫy thôi! Cậu
hai Liễn! Mợ Phượng! Cả hai làm trời làm đất, việc gì cũng thu xếp đâu
vào đấy, nhưng có một cô em thì lại chả để ý gì đến. Nếu như con ta đẻ
ra, thôi thì mặc kệ chúng. Nhưng con lại không phải con đẻ của ta. Con
với anh con, dù khác mẹ, vẫn là cùng cha, phải nên chăm sóc lẫn nhau
một chút, đừng để người ngoài chê cười. Ta nghĩ, việc đời khó mà liệu
định được. Con là con nàng hầu của ông Cả, con Thám Xuân là con nàng
hầu của ông Hai. Hai đứa đều như nhau cả. Mẹ con đã chết rồi. Nhưng
kể ra, mẹ con còn giỏi gấp mười dì Triệu, đáng lẽ con cũng phải hơn con
Thám Xuân mới phải.
Một người đứng hầu bên cạnh thừa dịp nói:
– Cô tôi hiền lành phúc hậu, có đâu như cô Ba là người mồm mép láu
lỉnh, làm em lại cứ đành hanh. Biết chị như vậy, cô ấy chẳng vị nể chút
nào.
Hình phu nhân nói:
– Anh chị ruột còn như vậy, trách gì người ngoài.
.
Một đoạn ngắn ngủi ấy đủ cho ta thấy tình trạng hằn thù ganh ghét, “thập
diện mai phục” trong Giả phủ như thế nào, nhưng Nghênh Xuân vẫn kiên
quyết đứng ngoài. Đỉnh điểm của vụ lùm xùm này là khi nhà bà vú
Nghênh Xuân to gan… kiện ngược lại Nghênh Xuân, vu oan rằng nàng
vay tiền của họ. Chứng kiến sự láo xược đó không ai khỏi tức đầy trong
ruột, nhưng Nghênh Xuân lại vẫn bình chân như vại. Đoạn sau thật là một
vở bi hài kịch:
Ngờ đâu nàng dâu vú nuôi Nghênh Xuân là vợ Ngọc Trụ, vì mẹ chồng có
tội, đến nhờ Nghênh Xuân xin hộ. Thấy họ đương nói chuyện mất dây
vàng, nên chưa vào vội. Biết Nghênh Xuân ngày thường là người nhu
nhược, nên chúng không coi vào đâu.
[…]
Nghênh Xuân nói:
– Chị ơi, chị đừng có nghĩ mơ hồ như thế! Nếu đợi tôi đi xin hộ, thì chờ
đến sang năm cũng chẳng ăn thua gì. Vừa rồi chính chị Bảo và cô Lâm
đến xin hộ, cụ còn chẳng nghe nữa là nữa tôi. Tự tôi đã thấy ngượng rồi,
lại đi mua thêm lấy cái ngượng nữa sao?
[…]
Vợ Ngọc Trụ thấy Nghênh Xuân dứt khoát từ chối, Tú Quất nói lại đanh
thép, không biết trả lời ra sao, bị bẽ mặt quá, nhưng biết rõ Nghênh Xuân
xưa nay là người dễ dãi, liền quay lại bảo Tú Quất:
[…]
Nghênh Xuân nghe thấy vợ Ngọc Trụ nói lộ việc riêng của Hình phu
nhân, liền gạt đi, nói:
– Thôi, thôi! Không đòi được dây vàng về thì thôi, chị đừng có vơ quàng
vơ xiên làm ầm lên nữa. Tôi cũng chẳng cần đến dây vàng. Nếu các bà có
hỏi, tôi chỉ nói là đánh mất, cũng chẳng can hệ gì đến chị. Chị về nghỉ
thôi.
Rồi cô ta sai Tú Quất đi pha nước. Tú Quất tức giận, nói:
– Cô tuy không sợ, nhưng còn cháu đây để làm gì? Họ đã làm mất đồ vật
của cô, lại còn nói bậy là cô tiêu tiền của họ, bây giờ phải khấu trừ đi.
Nếu bà Hai hỏi cô tại sao tiêu hết bấy nhiêu tiền và cho là chúng cháu
nhờ bão bẻ măng, ăn bớt xén gì chăng? Như vậy sao được.
Tú Quất vừa nói vừa khóc. Tư Kỳ nghe thấy không chịu được cố gượng
dậy, bênh vực Tú Quất, hỏi vặn lại vợ Ngọc Trụ. Nghênh Xuân không can
nổi, đi lấy quyển “Thái thượng cảm ứng thiên” ra xem.

Nghênh Xuân đọc cuốn sách “Thái thượng cảm ứng thiên”
“Thái thượng cảm ứng thiên” là pho sách dạy chúng sinh bỏ ác hướng
thiện, câu đầu tiên như sau: Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác
chi báo, như ảnh tùy hình. (Họa và phúc đều không có cửa mà là do lòng
người tự gây, làm ác thì gặp họa, làm lành thì được phúc, sự báo ứng như
hình đi với bóng, không sai một mảy may.) Nghênh Xuân tin vào quy luật
rạch ròi trong sách, nàng cho rằng chỉ cần mình một lòng hướng thiện ắt
sẽ được báo đáp như vậy. Mỗi khi có chuyện xảy ra, phản ứng duy nhất
của Nghênh Xuân là bưng tai bịt mắt, không nghe không thấy, chúi vào
đọc sách như con đà điểu rúc đầu trong cát. (Thám Xuân nhìn qua cửa sổ,
thấy Nghênh Xuân ngồi tựa trên giường xem sách, như không nghe thấy
gì. Thám Xuân cũng buồn cười). Nếu Thám Xuân không xắn tay vào can
thiệp thì chẳng ai biết sự việc sẽ đi tới đâu. Sau khi mọi việc đã được giải
quyết êm đẹp, Nghênh Xuân vẫn điềm tĩnh như không:

Nghênh Xuân đọc sách khi bị bọn người dưới bắt nạt, Thám Xuân đến
can thiệp
Nghênh Xuân vẫn ngồi xem “Thiên cảm ứng” với Bảo Thoa, không để ý
đến những câu nói của Thám Xuân. Thấy Bình Nhi nói thế, liền cười:
– Chị hỏi tôi à, tôi cũng chẳng có cách gì cả. Họ làm bậy thì họ phải chịu
lấy tội, tôi không thể xin hộ được. Tôi chẳng đi xin ai và cũng chẳng
trách họ là được rồi. Những vật ăn cắp, đưa trả thì tôi nhận, nếu không
trả tôi cũng chẳng cần. Các bà có hỏi, tôi che chở được thì phúc cho họ,
nếu không giấu nổi, tôi cũng không biết làm sao được. Không có nhẽ vì
họ mà tôi lại dối trá các bà, tất là phải nói thẳng ra. Các chị cho tôi là dễ
tính, không biết quyết đoán, có cách gì chu toàn được mọi mặt, không để
các bà giận thì tùy các chị định liệu, tôi cũng thây kệ.
Mọi người nghe nói đều bật cười. Đại Ngọc cười nói:
– Thật là “hùm sói đã ngồi trên thềm nhà vẫn còn nói chuyện nhân quả”.
Nếu chị Hai là đàn ông thì những người trong nhà này cai quản thế nào
được họ?
Nghênh Xuân cười:
– Đúng đấy! Biết bao nhiêu là đàn ông cũng còn như thế, huống chi là
tôi.
Những cô gái trong Hồng Lâu Mộng đều là hạng phong lưu thoát tục,
không dính vẩn đục mà còn thấy Nghênh Xuân ngô nghê đến tức cười, thì
đủ biết sự hiền lành của nàng đến đâu. Câu nói của Đại Ngọc tưởng vô
tình nhưng thực ra lại là điềm báo trước cho cuộc hôn nhân của Nghênh
Xuân, bạn đọc nên lưu ý chỗ này.
(Còn tiếp)

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

10:41 Thursday,1.12.2016 Đăng bởi:  Siêunoob
Cô Nghênh Xuân này giờ Tây họ classify là introvert Anh Nguyễn ạ :).

Giả Nghênh Xuân (phần 2): hiền quá khó mà gặp lành 03. 12. 16 - 7:40
am
Anh Nguyễn
(Tiếp theo phần trước)

Nghênh Xuân
Tào Tuyết Cần không chỉ dụng công đặt tên cho bốn cô Xuân, mà còn
chú ý cả tên … bốn a hoàn phục vụ nữa. Người hầu thân tín của Nguyên
Xuân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân lần lượt là Bảo Cầm, Tư
Kỳ, Thị Thư, Nhập Họa, ghép thành Cầm-Kỳ-Thi-Họa là bốn thú vui tao
nhã của các tiểu thư con nhà quý tộc. Chữ Kỳ trong tên Tư Kỳ vừa là cờ
(vì thế mà trong bản dịch tiếng Anh tên nàng là Chess,) vừa đồng âm với
chữ kỳ trong kỳ lạ. Khác hẳn với người chủ yếu đuối, Tư Kỳ có tính cách
mạnh mẽ không nhường ai, nhưng lại một mực trung thành với Nghênh
Xuân. Tình thầy trò khăng khít trong truyện giữa Nghênh Xuân-Tư Kỳ
giống của chị em hơn là chủ tớ. Nhìn bên ngoài, Tư Kỳ dường như lấn át
cả chủ, nhưng trên thực tế đó là sự bảo vệ. Về sau Tư Kỳ tư tình với anh
họ nên bị đuổi khỏi Giả phủ, Nghênh Xuân từ đó mất đi một chỗ dựa.
Thử nghĩ mà xem, vú nuôi phản bội, người hầu thân tín bị đuổi đi, cha
ruột hờ hững, mẹ đã qua đời, một người nhút nhát như Nghênh Xuân làm
sao có thể tự chủ? Bi kịch hôn nhân của nàng chỉ là chuyện một sớm một
chiều mà thôi.
Giả Xá đã hứa gả Nghênh Xuân cho nhà họ Tôn. Họ Tôn người ở phủ
Đại Đồng, ông cha xuất thân quan võ, là môn sinh của hai phủ Vinh,
Ninh ngày trước, kể ra cũng là chỗ thân. Hiện giờ nhà họ Tôn chỉ có một
người ở Kinh tập chức chỉ huy, người ấy tên là Tôn Thiệu Tổ, mặt mũi
khôi ngô, thân thể hùng tráng, theo nghề cung mã, giao thiệp tinh khôn,
chưa đầy 30 tuổi, nhà lại giàu có, hiện đương hậu bổ ở bộ binh để đợi
thăng chức.
Giả Xá thấy anh ta chưa có vợ, lại là con cháu nhà thế gia, nhân phẩm
và gia thế cũng đều xứng đáng, nên chọn làm giai tế. Việc này cũng đã
trình Giả mẫu. Giả mẫu không bằng lòng, nhưng nghĩ việc vợ chồng là tự
ý trời, cha nó đã đứng làm chủ thì việc gì phải dây vào cho lắm chuyện?
Vì thế chỉ nói “biết rồi”, ngoài ra không tỏ ý gì nữa.
Giả Chính xưa nay vẫn ghét nhà họ Tôn, tuy là chỗ thế gia, chẳng qua
ông nó ngày trước hâm mộ thế lực phủ Vinh, phủ Ninh, có những việc
không thu xếp được, phải đến xin làm môn hạ, chứ không phải là dòng
dõi thi thư. Ông ta đã khuyên ngăn mấy lần, nhưng Giả Xá không nghe,
nên đành phải chịu.

Nguyên Xuân chịu bất hạnh khi lấy chồng


Những người lớn trong nhà đã phủi tay bỏ mặc Nghênh Xuân từ đó.
Nghênh Xuân xuất giá theo chồng, Tử Lăng Châu quạnh quẽ đìu hiu chỉ
có Bảo Ngọc lâu lâu nhớ chị ra thăm chốn cũ. Tôn Thiệu Tổ là người thế
nào?
Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã dọn cơm chiều cho bọn bà già
và người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả. Nghênh Xuân mới khóc
nức nở, ngồi ở trong buồng Vương phu nhân, kể lể những nỗi uất ức:
“Tôn Thiệu Tổ một mực ham gái mê say cờ bạc rượu chè, bao nhiêu đàn
bà con gái ở trong nhà bị nó hiếp dâm gần khắp lượt. Cháu mới khuyên
nó vài ba lần, nó mắng cháu là hạng ‘đàn bà ghen tuông’. Nó lại nói cha
cháu mượn của nhà nó năm nghìn bạc định ăn không, nó đến hỏi hai ba
lần không trả. Nó lại còn trỏ vào mặt cháu nói: ‘Mày đừng có lên mặt bà
với tao! Bố mày đã lấy của tao năm nghìn bạc, đem mày gạt cho tao đấy.
Coi chừng tao đánh một trận, tống cổ xuống nhà dưới mà nằm! Ngày
trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều chuộng làm
thân. Nói đúng ra thì tao với bố mày ngang hàng nhau, giờ lại dúi đầu
tao, bắt tao tụt xuống một bực. Không thể có thông gia như thế được, để
người ta nhìn vào lại cho là nhà tao chạy theo thế lợi'”.
Đây là câu thơ mô tả Tôn Thiệu Tổ:
Người đâu hung ác lạ lùng
Khác gì giống sói ở vung Trung San
Bấy lâu tình ái quên tràn
Kiêu dâm chỉ việc mê man tháng ngày
Bảo Ngọc thương xót chị lấy phải chồng hung ác nên van xin mẹ can
thiệp. Vương phu nhân chỉ đáp rằng: “Con gái lấy chồng cũng như bát
nước đã bị đổ. Đã là con gái ai chẳng phải đi lấy chồng; đã về nhà người
ta thì bên nhà gái còn nhìn ngó gì được, cái đó chẳng qua là do số phận
nó thế, được người chồng tốt thì hay, nhưng gặp phải đứa xấu cũng đành
chịu vậy, người ta hay nói: “Lấy gà phải theo gà, lấy chó phải theo chó.”
Tôn Thiệu Tổ đánh Nghênh Xuân
Đến đây cần phải bàn một chút về hệ thống hôn nhân trong Hồng Lâu
Mộng. Như chúng ta đã biết, ở Kim Lăng có bốn gia đình danh gia vọng
tộc Giả Sử Vương Tiết, trong đó nhà họ Giả là đứng đầu. Theo học giả
Eugene Cooper đã chỉ ra trong nghiên cứu Patterns of Cousin Marriage
in Rural Zhejiang and in Dream of the Red Chamber, những người đàn
ông thuộc chi trưởng trong nhà họ Giả đều lấy vợ là tiểu thư của ba gia
tộc còn lại. Bốn thế hệ con dâu trong Hồng Lâu Mộng lần lượt thuộc họ
Sử (Giả mẫu), họ Vương (Vương phu nhân và Phượng Thư), họ Tiết (Tiết
Bảo Thoa). Chỉ cần chiếu theo thứ tự đó cũng đủ thấy Đại Ngọc hoàn
toàn không có cơ hội trở thành vợ của Bảo Ngọc. Ngược lại, những người
con gái trong nhà họ Giả lại đều kết hôn với những người nằm ngoài bốn
họ trên. Nguyên Xuân được tuyển vào cung, Thám Xuân gả cho một viên
võ quan ở xa, Nghênh Xuân lấy con trai nhà họ Tôn, chỉ riêng Tích Xuân
đến tuổi lấy chồng khi gia cảnh mạt vận nên ở vậy đi tu theo đúng ý
nguyện của nàng. Tất cả đều có lý do của nó.
Nói một cách ngắn gọn, khi gả con trai, cái mà nhà họ Giả nhắm đến là
tài sản. Những nàng dâu thuộc họ Sử, họ Tiết, họ Vương, không chỉ mang
về món hồi môn béo bở mà còn là chỗ dựa vững chắc về tài chính nhỡ có
lúc nhà họ Giả sa cơ lỡ vận. Tuyển vợ từ ba gia tộc giàu có là cách nhà họ
Giả quy tụ hết tiền của về một mối. Ngược lại, khi gả con gái, cái mà nhà
họ Giả nhắm đến là quan hệ. Vì vậy những bậc trưởng bối trong nhà khi
ấn định chuyện trăm năm của con gái thường chọn những gia đình quyền
thế ở xa, thậm chí càng xa càng tốt. Đó là cách họ mở rộng phạm vi
quyền lực thông qua hôn nhân. Ta có thể thấy điểm tương đồng trong
những câu chuyện gả công chúa cho phiên bang để đổi lấy hòa bình trong
lịch sử Trung Quốc. Thế nên đừng tưởng “môn đăng hộ đối” là đơn giản,
bản thân cái gì “đăng,” cái gì “đối” cũng rất lắm vấn đề.
Theo quan niệm của người Trung Quốc (cũng như của Việt Nam), con
gái là con người ta, vì một khi đã xuất giá thì lập tức trở thành người nhà
chồng. Con dâu thì ngược lại, họ trở thành những người giữ tay hòm chìa
khóa, quán xuyến mọi việc trong nhà. Ta có thể thấy điều này rất rõ
trong Hồng Lâu Mộng: quyền lực trong Giả phủ chủ yếu nằm trong tay
những người đàn bà ngoại tộc (Giả mẫu, Vương phu nhân, Phượng Thư).
Trong khi đó mấy cô tiểu thư mang họ Giả hầu như không nhúng tay vào
các việc trong nhà, ngoại trừ Thám Xuân có thể hiện bản lĩnh tí chút. Vai
trò người phụ nữ được phân định rạch ròi dựa trên địa vị con gái-con dâu
của họ, tất nhiên ở từng hạng mục lại chia ra chi trưởng-chi thứ, vợ cả-vợ
lẽ, v.v,…Con dâu mang của cải về nên được lãnh nhiệm vụ cai quản tiền
bạc, còn con gái đằng nào cũng gả đi nên chỉ cần tập trung làm đẹp, may
vá thêu thùa, điểm thêm chút tài năng là được.
.
Những cô tiểu thư trong Giả phủ, vì thế, chẳng khác nào những món hàng
được bày bán, chỉ chờ ngày “xuất xưởng”. Họ là những con tốt được
người lớn dùng để đổi lấy địa vị và uy quyền, còn bản thân họ có hạnh
phúc trong hôn nhân không thì nào ai quan tâm đến. Số phận của Nghênh
Xuân thế là đã được an bài. Người họ Giả xót xa thương cảm cho nàng
nhưng không phẫn nộ hay tìm cách trả thù nhà họ Tôn, bởi việc nàng bị
Tôn Thiệu Tổ hành hạ đến chết chỉ là một thứ tổn thất ngoài dự kiến
(collateral damage). Là một người đàn bà trong xã hội phong kiến, dù là
một người đàn bà quý tộc đi chăng nữa, thì sướng khổ phụ thuộc chủ yếu
vào may mắn mà thôi. “Thân em như hạt mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra
ruộng cày”. Ra ruộng cày còn đỡ, đằng này Nghênh Xuân rơi vào móng
vuốt của loài hùm sói.
Hình tượng Nghênh Xuân và Tôn Thiệu Tổ
Đây là lá số tiền định của Nghênh Xuân:
Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt một mỹ nữ, định ăn thịt. Dưới
có câu:
Rõ ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm cho hoa liễu thân này,
Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.
Sói Trung Sơn (Trung Sơn lang) là một nhân vật phản diện trong truyện
cổ Trung Quốc, được dùng để chỉ hạng người độc ác, ăn cháo đá bát. Ông
Đông Quách cứu nó khỏi tay thợ săn, nó lại trở mặt đòi xơi tái ông. Loài
sói thường gắn với những gì xấu xa, dữ tợn, trong văn học phương Tây
cũng có chó sói lớn Big Bad Wolf ăn thịt cô bé quàng khăn đỏ và ba chú
heo con. Dùng sói Trung Sơn để miêu tả bản chất đê hèn, cục súc, lật
lọng của Tôn Thiệu Tổ thật là chuẩn. Trở về trước, trong lời nói đùa của
Đại Ngọc đã có dự báo về số phận của Nghênh Xuân. “Hùm sói đã đến
thềm nhà” dùng để chỉ cuộc hôn nhân bất hạnh với Tôn Thiệu Tổ đã sắp
xảy ra, nhưng Nghênh Xuân vẫn nhất nhất tin rằng chỉ cần giữ mình trong
sạch, thiện lương sẽ được hưởng phúc. Đúng như trong Hồng Lâu Mộng
khúc, tình cảnh của Nghênh Xuân là “Hỉ oan gia.” (Gặp oan gia không
đáng mừng mà lại mừng). Trong vòng chưa đầy một năm, ăn không đủ
no, mặc không đủ ấm, ốm không có thuốc, thường xuyên bị hành hạ,
đánh đập, chửi bới, Nghênh Xuân đã từ trần.
Thán phương hồn diễm phách,
Nhất tái đãng du du.
(Một năm duyên đã bẽ bàng
Hồn thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.)

Nghênh Xuân
Nếu theo quan điểm hiện đại, tích cực kiểu “tính cách tạo nên số phận,”
thì chính sự thụ động, nhu nhược của Nghênh Xuân đã góp phần đẩy
nàng đến kết cục không may. Thế nhưng nói cho cùng, ở trong xã hội
của Hồng Lâu Mộng, cho dù Nghênh Xuân có vùng vẫy thế nào chăng
nữa cũng khó thoát khỏi sự ấn định của gia tộc. Câu đố ứng với thân phận
của nàng chính là cái bàn tính:
Trời chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,
Người xoay trời đứng cũng không xong,
Tại vì tính toán quanh co mãi,
Mà số âm dương vẫn chửa thông!
Có lẽ bởi những câu chuyện như Nghênh Xuân mà có câu “người tính
không bằng trời tính” chăng? Nữa là không tính gì cả…
Ý KIẾN - THẢO LUẬN

22:09 Friday,16.12.2016 Đăng bởi:  Frederic Cacao


Cảm ơn Anh Nguyễn. Trong Hồng Lâu Mộng mình không hào hứng với
nhân vật Nghênh Xuân cho lắm (không ưa cả Tư Kỳ), nhưng khi đọc bài
phân tích này, những chi tiết về việc gia tộc họ Giả tuyển vợ theo tài sản, gả
con theo quan hệ, Tư Kỳ đanh đá để bù lại Nghênh Xuân,... thực là thú vị.

Tàn xuân bàn chuyện Nguyên Xuân 03. 03. 16 - 7:07 am


Anh Nguyễn
.
Đầu năm ngắm trăm hoa đua nở lại lần giở đọc về những bông hoa
trong Hồng Lâu Mộng, ngẫm nghĩ thấy truyện và đời vẫn rất giống nhau.
Cành đào thắm mang về trưng ngày Tết giờ đã tàn, rụng lác đác, chỉ chờ
ngày tiễn ra… bãi rác một cách không kèn không trống, nào khác phận
người. Trong Hồng Lâu Mộng cũng có một mỹ nhân sinh đúng vào ngày
mùng một tháng Giêng, tươi đẹp rực rỡ như hoa đào, tiếc thay mãn khai
chẳng được bao lâu thì “nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương” –
đó chính là Giả Nguyên Xuân. Trong mười hai thoa của Hồng Lâu
Mộng thì Nguyên Xuân là người có địa vị cao nhất, quan hệ huyết thống
gần gũi với Bảo Ngọc nhất, cuộc đời vinh hoa phú quý nhất, nhưng cái
chết lại đột ngột và mập mờ nhất. Vì thế Nguyên Xuân đáng được bàn
tới.
Trong Giả phủ tứ xuân thì Nguyên Xuân đứng đầu – nàng là người lớn
tuổi nhất, mà cái gỉ gì gi khác cũng… nhất luôn. Các cô gái trong Hồng
Lâu Mộng khi nhắc tới Nguyên Xuân thường tấm tắc khen ngợi có pha
chút ghen tị vì “đến ngày sinh của chị ấy cũng hơn người ta.” Nguyên
Xuân là con gái của Vương phu nhân và Giả Chính, hơn Bảo Ngọc chừng
mười tuổi. Từ nhỏ Nguyên Xuân đã kề cận bên Giả Mẫu, đến khi lớn lại
được tuyển vào cung làm Nữ sử. Sau vài năm, Nguyên Xuân được thăng
làm Hiển Đức phi, coi giữ cung Phượng Tảo, hưởng sự sủng ái của hoàng
thượng. Nguyên Xuân vì thế là kim thoa duy nhất hầu như không sinh
sống trong Giả phủ trong suốt chiều dài Hồng Lâu Mộng, và xuất hiện
cũng rất ít. Đây đương nhiên là ý đồ của tác giả – nhà văn cố tình tạo nên
hình ảnh Giả quý phi cách biệt với thường nhân, một kiểu mẫu lý tưởng
mà mọi người chỉ dám đứng từ xa mà ngưỡng vọng.

.
Tuy vậy, thật sai lầm nếu cho rằng Nguyên Xuân chiếm một vị trí mờ
nhạt trong Hồng Lâu Mộng. Với Bảo Ngọc, Nguyên Xuân vừa là chị vừa
là mẹ. Đoạn sau đã nói rõ:
Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo
Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao,
mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi
người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào. Khi
Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền
khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ. Tuy là chị em,
nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn
tin cho cha mẹ: “Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm
thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất
trắc, làm cho cha mẹ lo buồn”.
Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút
nào.
Đối với những con người trong Giả phủ, Nguyên Xuân là chỗ dựa lớn
nhất về địa vị trong bộ máy phong kiến, là niềm tự hào lớn của gia tộc.
Lần duy nhất Nguyên Xuân được phép vua cho về thăm nhà đã khiến họ
Giả xây dựng một Đại Quan viên tốn kém vô số vàng bạc – nơi này về
sau trở thành sân khấu diễn ra những câu chuyện hỉ nộ ái ố của tất cả các
nhân vật chính trong truyện. Cái chết của Nguyên Xuân thì kéo theo sự
sụp đổ không thể cưỡng được của Giả phủ.
Như đã nhấn mạnh, Nguyên Xuân là người đàn bà có vị trí cao nhất trong
số những nhân vật của Hồng Lâu Mộng. Trước tiên hãy xem qua bài
chính sách nói về Nguyên Xuân:
Bảo Ngọc vẫn không hiểu, muốn hỏi cho ra, nhưng biết rằng tiên cô
chẳng chịu tiết lộ cơ trời, muốn cất sổ đi, nhưng lại tiếc, liền giở xem
những trang sau, thì thấy vẽ một cái cung, trên cung treo một quả phật
thủ. Có đề bài thơ:
Sau tuổi hai mươi đã trải đời,
Kìa hoa lựu nở cửa cung soi.
Ba xuân nào được bằng xuân mới,
Thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.
Trong lời sấm này, tác giả Tào Tuyết Cần đã sử dụng biện pháp song
quan để ám chỉ nhân vật Nguyên Xuân. Quả phật thủ tiếng Hán Việt gọi
là “hương duyên,” chữ duyên (yuan) đồng âm với chữ Nguyên trong tên
của Nguyên Xuân (Yuan Chun). Cái cung biểu tượng cho âm mưu, bạo
lực, và sự bấp bênh, lại đồng âm với chữ cung trong cung đình – là nơi
Nguyên Xuân ở. “Sau tuổi hai mươi đã trải đời” nói rõ việc Nguyên
Xuân được vinh hiển từ rất sớm. Hoa lựu đỏ rực là biểu tượng của phú
quý, phồn vinh. “Ba xuân nào được bằng xuân mới” hàm ý rằng Nghênh
Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân không thể so sánh với Nguyên Xuân về số
phận may mắn. “Thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi” báo trước Nguyên
Xuân qua đời vào cuối năm Dần đầu năm Mão, nhưng cũng có ám chỉ về
những âm mưu độc địa trong cung cấm.
Khi Nguyên Xuân được phép về thăm nhà và chứng kiến bao tiền của
công sức đổ ra để tạo nên một cảnh tượng “khói thơm nghi ngút, bóng
hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, 
lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong
lưu phú quí, nói không xiết được!”, phản ứng của nàng không phải vui
sướng, hãnh diện, hài lòng, mà là “lẳng lặng thở dài: “Xa hoa quá”.
Nguyên Xuân là vị quý phi sống trong cung, vốn đã chẳng lạ gì với gấm
vóc lụa là mà còn như vậy thì đủ hiểu sự hào nhoáng tột đỉnh của Đại
Quan viên đến mức nào!

Nguyên Xuân khi gặp mặt người thân


Tới đây phải nghỉ chân uống chén trà để nói về một triết lý của người
Trung Quốc: vật cực tất phản (wu ji bi fan), viết đầy đủ là: vật cực tất
phản, lạc cực tất bi, thái hợp tất ly, thế thịnh tất suy. Đại ý của triết lý này
nghĩa là những điều tốt đẹp trong cuộc sống mà cố tình đẩy đến mức cực
độ thì cũng đều có kết cục xấu. Vui sướng, giàu có, tốt đẹp đến mấy cũng
nên dừng lại đúng lúc, nếu không thì trạng thái vui-đẹp-tốt-giàu ấy sẽ bị
đảo ngược. Trong Hồng Lâu Mộng ta thấy rõ điều đó: nhà họ Giả giàu có
vinh hoa đến đỉnh cao rồi lụi tàn, Lâm Đại Ngọc tài hoa phát tiết rực rỡ
thì chết yểu, Vương Hy Phượng quyền biến hơn người nhưng kết cục bi
thảm. Trong Hồng Lâu Mộng có một đoạn Tần Khả Khanh hiện hồn về
báo mộng với Phượng Thư để nhắc nhở:
Câu tục ngữ “Trăng tròn rồi khuyết, nước đầy thì tràn”, và “Trèo cao tất
ngã đau”, chắc thím cũng đã hiểu. Nhà ta giàu sang lừng lẫy non trăm
năm nay, một ngày kia “Hết vui đến buồn”, đúng như câu tục ngữ: “Cây
đổ khỉ vượn tan”, chẳng hóa ra phụ cái tiếng dòng họ thi thư lâu đời hay
sao?
[…]
Bĩ chán thì phải thái, vinh chán thì phải nhục, xưa nay vẫn quanh quẩn
như thế, sức người có giữ được mãi đâu! Nhưng đang lúc thịnh, ta nghĩ
cách đề phòng lúc suy, thì cũng có thể giữ lâu được. Hiện giờ mọi sự điều
ổn, chỉ có hai việc là chưa xuôi, nếu biết xếp đặt ngay thì sau này sẽ
không phải lo.
[…]
Nếu chỉ nhìn trước mắt cho là vinh hoa mãi mãi mà không tính đến mai
sau, thì không phải là kế lâu dài. Rồi đây chẳng bao lâu nữa sẽ có một sự
vui mừng khác thường, thực là: “lửa nóng sôi dầu, hoa tươi cài gấm!”
Nhưng đó chỉ là cuộc phồn hoa nháy mắt, vui sướng một thời, đừng nên
quên câu: “tiệc vui cũng tàn!” Nếu không lo xa từ giờ, sau này hối cũng
vô ích!
Nên nhớ rằng bài học đằng sau “vật cực tất phản” không phải là tránh né
sự giàu sang, tiền tài, sung sướng, mà là nhìn trước ngó sau, biết được
giới hạn để tính toán lâu dài! Tần Khả Khanh khi báo mộng cho Vương
Hy Phượng đã dặn dò tất cả những điều đó, thậm chí còn báo trước việc
quý phi về thăm nhà – “vui mừng khác thường, phồn hoa nháy mắt”,
nhưng chỉ như nước đổ lá khoai. Không những Phượng Thư không tỉnh
ngộ mà còn tiêu xài hoang phí hơn, mưu mô xảo quyệt hơn, dần dà đưa cả
nhà họ Giả xuống vực. Ngoài Khả Khanh, trong Hồng Lâu Mộng còn có
những tiếng nói của lý trí khác (voice of reason) như Bảo Thoa khuyên
Đại Ngọc đừng tự hủy hoại bản thân, Tập Nhân phân tích phải trái cho
Bảo Ngọc, nhưng tất thảy đều không có tác dụng. Số phận của các nhân
vật mang tính cực đoan (Đại Ngọc, Bảo Ngọc, Phượng Thư) rốt cuộc đều
đi vào ngõ cụt.

Nguyên Xuân đề biển ở Đại Quan viên


Trở lại Nguyên Xuân, nàng là con người có ý thức rõ ràng về vấn đề “vật
cực tất phản.” Từ lời khuyên cha mẹ về việc răn dạy Bảo Ngọc “nghiêm
nhưng đừng nghiêm quá” tới nhắn nhở gia đình “Giữ lấy sức khoẻ, không
nên thương nhớ” và “Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm nhà, thì
không nên bày vẽ xa xỉ như thế này”, đã cho thấy sự khôn ngoan, nhìn xa
trông rộng của Quý phi, điều mà cả nhà họ Giả không có ai bằng được.
Bản thân Nguyên Xuân cũng hoàn toàn không phải người đam mê cửa
vàng lầu ngọc, đền quế cung lan – nàng ưa thích cuộc sống bình an bên
cạnh người thân, không bị khoảng cách xa xôi về địa lý và khoảng cách
xa hơn của địa vị. Những giọt nước mắt của Nguyên Xuân khi gặp bà,
gặp mẹ cho thấy rất rõ ràng:
Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:
– Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà,
nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc
nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?
Lòng người muốn vậy, nhưng ý trời không cho phép. Nguyên Xuân mong
mỏi hướng tới sự hòa hợp, quân bình, nhưng kể cả ngày sinh nhật của
nàng đã được thiên định là đầu bảng, trội hơn tất cả mọi người. Vào cung
làm phi là một điều trái với nguyện vọng của Nguyên Xuân, một phần vì
nàng muốn kề cận gia đình, nhưng phần lớn hơn là trách nhiệm quá nặng
nề! Hoàng cung là một nơi trá nguỵ bậc nhất thiên hạ, Nguyên Xuân là
một cô gái trẻ vừa “làm bạn với vua như chơi với hổ,” vừa phải đề phòng
các âm mưu đầy rẫy xung quanh, lại còn gánh vác trọng trách nặng nề
bảo toàn cho địa vị nhà họ Giả ở ngoài cung! Dù thân ở lầu son gác tía,
Nguyên Xuân cũng không hề được sung sướng như các chị em trong phủ
(và nhiều người đọc) lầm tưởng. Bài “Hận vô thường” ứng với Nguyên
Xuân trong “Hồng Lâu Mộng khúc” đã nói rõ:
Đương vui chợt đã buồn ngay,
Chợt nhìn mọi việc thôi rày bỏ qua
Hồn thơm dằng dặc bay xa
Non cao trời rộng đây là quê hương
Tìm nơi báo mộng gia nương
Suối vàng con đã lỡ đương thần hôn
Mau mau lùi bước là hơn.
Lại trở về vấn đề “vật cực tất phản”, trong hội đố đèn, câu đố của Nguyên
Xuân đã gây cho Giả Chính nhiều nỗi lo lắng đau lòng, vì nó mang điềm
rất gở.
Yêu ma hồn vía còn chăng
Thân như lụa cuốn hơi bằng sấm ran
Ai nghe thấy cũng hết hồn
Ngoảnh đầu nhìn lại tro tàn khói bay.
Đây là câu đố rất hay về cái pháo. Giữa ngày tết Nguyên tiêu mà Quý phi
lại nhắc tới “yêu ma”, “hồn vía”, “tro tàn”, “khói bay” thì quả thật không
lành. Tại sao Tào Tuyết Cần lại chọn cái pháo để nói về Nguyên Xuân?
Vì Nguyên Xuân sinh đúng mùng một Tết – một ngày may mắn sum vầy
đầu năm khi người ta đốt pháo để ăn mừng. Tiếng pháo nổ thật vui biết
bao, nhưng chỉ là cái vui trong khoảnh khắc, còn sau đấy là xác pháo
hồng sẽ vương vãi đầy mặt đất. Sự đối lập giữa cái vui cực độ và cái thê
lương cực độ ấy chính là điềm báo “vật cực tất phản” trong số phận của
Nguyên Xuân, khiến cho cha của nàng không khỏi buồn rầu sợ sệt. Ở
trường hợp này, tác giả để chính Nguyên Xuân tự chọn lấy lời sấm, cho
thấy rằng dù khôn ngoan đến mấy nàng cũng không thể thoát khỏi bàn tay
sắp đặt của tạo hoá. Nguyên Xuân, ở một chừng mực nào đó, đã hiểu và
chấp nhận số mệnh của mình.

Nguyên Xuân trên giường bệnh sắp chết, Giả Mẫu và Vương phu nhân
vào cung thăm
Thế nhưng chi tiết thú vị nhất về Nguyên Xuân lại là một đoạn mà nhiều
người bỏ qua. Đoạn đó nằm ở hồi mười chín:
Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười hai ca nữ.
Một lúc thấy chấm bốn vở:
1. Hào yến,
2. Khất sảo,
3. Tiên duyên,
4. Li hồn.
Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên cao, lanh
lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa trang,
nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ.
Bốn vở hát do chính Nguyên Xuân chọn có ý nghĩa không thể xem
thường, nhưng việc tìm hiểu rõ nguồn gốc từng vở thật là một việc mò
trăng đáy nước, bởi trong truyện không có nói rõ. Sau một hồi mò mẫm,
đối chiếu các tài liệu ít ỏi bằng… tiếng Anh (như cuốn Another
Phenomennology of Humanity của Xunwu Chen), tôi tạm kết luận bốn vở
hát đó có lai lịch như sau (bạn nào hiểu biết hơn về vấn đề này xin chỉ
giáo thêm):
– Hào yến: Đây là tác phẩm khó xác định nguồn gốc nhất. Theo tôi, cảnh
này được lấy từ vở Nhất bổng tuyết (Yi peng xue), một câu chuyện về sự
phản bội, gian trá, sự trung thành và hy sinh xoay quanh chiếc chén ngọc
trắng như tuyết, hiện tại chưa được dịch ra tiếng Việt. Có tài liệu lại cho
rằng cảnh này lấy từ vở Mẫu Đơn đình – đoạn Thái thú Đỗ Bảo đãi tiệc.
Quả thật khó để biết chính xác, bởi những buổi hào yến (bữa tiệc hào
hoa) trong lịch sử và văn học Trung Quốc có rất nhiều. Điểm chung của
hai bữa tiệc lớn trong Nhất bổng tuyết và Mẫu Đơn đình là cảnh tượng
náo loạn, tan rã, suy sụp diễn ra ngay sau giai đoạn cực thịnh.
– Khất sảo: có thể chắc chắn cảnh này lấy từ vở kịch Trường Sinh
Điện của nhà soạn kịch Hồng Thăng viết từ thời Thanh sơ, lấy cảm hứng
từ Trường Hận Ca của nhà thơ Bạch Cư Dị và Mưa ngô đồng của Bạch
Phác đời Nguyên. Vở kịch ca tụng tình yêu lý tưởng của Đường Minh
Hoàng với Dương Quý Phi, tuy có chê trách đức vua hoang dâm vô độ
khiến triều đình hủ bại, nhưng trên hết vẫn tỏ ý xót thương Quý phi. Vở
kịch còn có ý ủng hộ rõ ràng với tiền triều (đời Minh) nên có thể nói là
cùng mạch với tư tưởng Phản thanh phục Minh.
Giả Nguyên Xuân
– Tiên duyên: may mắn thay, có thể truy tìm nguồn gốc chính xác cảnh
này từ câu chuyện của chàng Lư Sinh. Câu chuyện trên đầu tiên xuất hiện
trong “Chẩm trung ký”là cuốn tiểu thuyết truyền kỳ đời Đường nói về
quá trình vinh hoa suy tàn của đời người, mang đậm tư tưởng hư vô của
Đạo gia và vô thường của Đạo Phật. Truyền rằng vào đời Đường Thái
Tông, có một đạo sĩ tên là Lữ Ông chu du tới Hàn Đan và ở trong một
nhà khách nọ. Trong thời gian đó có một người trẻ tuổi tên là Lư Sinh
cũng thường tới nhà khách đó để giết thời gian. Sau khi gặp Lữ Ông, Lư
Sinh kể chuyện mình sinh ra không gặp thời như thế nào cho Lữ Ông
nghe. Một lúc sau, Lư Sinh ngủ gật. Lữ Ông với tay lấy từ sau lưng ra
một chiếc gối ruột rỗng bằng gốm đưa cho Lư Sinh mượn. Lư Sinh đón
chiếc gối và ngủ ngay lập tức. Trong giấc mơ anh ta thấy mình đi tới một
ngôi nhà lộng lẫy, người chủ ngôi nhà đó nhìn thấy Lư Sinh quần áo
chỉnh tề liền mời anh ta vào trong và tiếp đãi rất ân cần, cho tiền, đồng
thời lại gả con gái cho Lư Sinh. Lư Sinh được ghi tên trên bảng vàng và
làm đến chức tể tướng. Nhưng sau đó Lư Sinh gặp phải chuyện phiền
phức và bị giáng xuống làm tri huyện. Ba năm sau anh ta lại được triệu về
kinh, và không lâu sau được phục chức tể tướng. Đúng vào lúc anh ta
đang ở đỉnh cao của danh vọng, mọi chuyện đều như ý thì bị người khác
vu cho tội mưu phản và bị bắt. Trước khi vào ngục, Lư Sinh nói với vợ:
“nhớ lại khi xưa lúc ta còn mặc áo vải đi lang thang trên phố Hàn Đan,
tuy nghèo khổ nhưng lại tự do, và ăn thấy ngon miệng, ngủ cũng ngon
giấc. Nhưng nay thì chẳng còn gì nữa”. Sau đó Lư Sinh tuy được miễn tội
chết , nhưng vẫn bị lưu đày tới vùng biên cương. Mấy năm sau được
chứng minh là vô tội, Lư Sinh lại được mời về kinh làm tướng , còn năm
đứa con trai đều làm lên chức quan to. Khi về già Lư Sinh muốn cáo lão
về quê song Hoàng thượng không cho, Lư Sinh buồn rầu mà chết. Trải
qua từng đấy thăng trầm thì Lư Sinh tỉnh giấc, mở mắt ra vẫn thấy Lữ
Ông ngồi bên cạnh, nồi kê cũng vừa chín tới, tất cả vẫn như cũ.
“Ôi ! Thì ra là một giấc mộng!” – Lư Sinh thốt lên.
“Đời người vốn dĩ là một giấc mộng mà” Lữ Ông nói.
Kể từ đó người ta có cụm từ “giấc mộng hoàng lương,” hay giấc mộng kê
vàng để chỉ sự phù du của kiếp người.
– Ly hồn: Con gái Trương Dật nhà Đường, có sắc đẹp. Lúc đó Trương
Dật hẹn gả cho cháu ngoại là Vương Trụ, vì thế hai người vẫn quyến
luyến nhau. Đến lúc lớn, Trương Dật đem gả cho người khác. Thiến
Nương và Vương Trụ uất ức lắm. Sau Vương Trụ đi thuyền vào kinh, nửa
đêm Thiến Nương chợt nhảy qua thuyền rồi rủ nhau trốn vào đất Thục, ở
đấy năm năm đẻ được hai con. Khi về thăm nhà, Trương Dật trông thấy
sợ lắm, vì con gái mình bị ốm đã mấy năm nay ở trong buồng. Khi
Vương Trụ và Thiến Nương đến nhà, người con gái ấy đương nắm ở
trong buồng chạy ra đón, thì hợp ngay với Thiến Nương thành một; sau
người ta thường dùng chữ “Thiến Nương ly hồn” để tả người con gái vì
tình mà chết.
Bốn câu chuyện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tìm hiểu về
Nguyên Xuân nói riêng và Hồng Lâu Mộng nói chung. Theo Chi Nghiễn
Trai, Hào yến ám chỉ nhà họ Giả giàu có xa hoa rồi sẽ có lúc nhà tan cửa
nát, trở nên nghèo khó. Khất sảolà ẩn dụ về mối duyên của Nguyên Xuân
(Dương Quý phi) và hoàng thượng (Đường Minh Hoàng) tuy đẹp đẽ đấy
mà cũng mong manh dễ vỡ. Tiên duyên báo trước cuộc gặp mặt giữa Giả
Bảo Ngọc và Chân Bảo Ngọc. Ly hồn ứng với cái chết vì tình của Đại
Ngọc. Nhưng theo tôi, cả bốn câu chuyện còn có những ý nghĩa nhất định
liên quan đến cuộc đời của Nguyên Xuân. Cũng giống như Bảo Ngọc và
Đại Ngọc, Nguyên Xuân xuất thân là tiên (Tiên duyên) được Không
Không đạo sĩ và Diểu Diểu chân nhân mang xuống trần. Khi về thăm nhà,
trước cảnh tượng hào hoa mỹ lệ mà mọi người bày ra, nàng đã có một
giây phút “flashback” về kiếp trước của mình:
Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang,
mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và
đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới
này.
Sau khi đầu thai, vì mối duyên từ kiếp trước, Nguyên Xuân trở thành chị
ruột của Bảo Ngọc. Khi lớn lên, nàng vào cung, phục vụ hoàng thượng
(Khất sảo) hưởng đủ mọi vinh hoa phú quý (Hào yến). Nhưng cuộc vui
nào cũng đến lúc tàn, người con gái đẹp đã chết yểu (Ly hồn) vì một cách
ám muội (có học giả cho rằng Quý phi bị đầu độc trong cung). Tất cả
những vở kịch được chọn đều có chứa đựng triết lý “vật cực tất phản” –
có lẽ từ trong tiềm thức, Nguyên Xuân đã dự cảm được những điều không
lành chầu chực sau lớp vỏ hào nhoáng của tiền tài, danh vọng, tình dục,
nhưng nàng không thể cưỡng lại bánh xe của lịch sử. Rốt cuộc Giả phi
đẹp đẽ, thông thái, sang trọng cũng thành một nắm xương tàn, chẳng khác
nào Dương quý phi bị Đường Minh Hoàng ép thắt cổ rồi chôn vội bên
đường, hiện giờ nơi hạ lạc chính xác ở đâu cũng không ai biết.
Nguyên Xuân
Có nhiều học giả cho rằng hình mẫu Nguyên Xuân được Tào Tuyết Cần
mô tả chính là lấy từ hai người cô làm vương phi cho vua Khang Hy, còn
hoàng đế không lộ mặt trong Hồng Lâu Mộng chính là Càn Long. Dù giả
thuyết đó có bao nhiêu phần trăm sự thực thì cũng khó phủ nhận sự tinh
tế tuyệt đỉnh trong ngòi bút của ông. Hình tượng và số phận Nguyên
Xuân khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ về cái đẹp và sự
phù du mong manh của xã hội quý tộc tư sản.

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

13:50 Saturday,9.2.2019 Đăng bởi:  Dust
Cho là Nguyên Xuân không cưỡng được số phận, phải chịu mệnh yểu nhưng
lại nói họ Giả suy bại bởi Phượng Thư, những Bảo Ngọc, Đại Ngọc chịu
phận khổ là bởi tự mình chuốc lấy. Tác giả có phải đã quá cảm tính đối với
nhân vật mình thích và không thích rồi không :)) như vậy đâu còn là phân
tích, chỉ là biểu đạt thích và không thích ai mà thôi

2:28 Saturday,11.8.2018 Đăng bởi:  Trang Mai Quý


Bạn @Sơn Nguyễn nhắc mình mới để ý.  Này gọi là sạn rồi
Diệu Ngọc: miễn cưỡng diệt dục, sư chả phải sư, tục không phải tục 18.
12. 15 - 6:16 am
Anh Nguyễn

Diệu Ngọc trong Hồng Lâu Mộng là một nhân vật có thân phận cực kì
đặc biệt. Trong 80 hồi đầu nàng chỉ ra mặt chính thức trong có hai hồi 41
và 76. Người đọc khi nghĩ tới nàng thường chỉ có “à, ni cô xinh đẹp
trong Đại Quan Viên”, nhưng ít ai nhận ra rằng nàng là có trái tim nồng
cháy chỉ kém Bảo Ngọc và Đại Ngọc.
Cuộc đời Diệu Ngọc là một cuộc đấu tranh vật lộn với cám dỗ, số phận
của nàng bi thảm suy cho cùng cũng chỉ tại một chữ “tình”. Một ni cô,
theo lẽ thường đã rũ bỏ hết tục lụy mà lại đa tình đến vậy sao?
Vài lời về thân thế của Diệu Ngọc:
Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô
này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân
thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để
tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú
và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng,
người lại đẹp.
Mới nghe qua, tưởng chừng Diệu Ngọc là một tấm gương sáng trong Phật
môn, nhưng nhìn kỹ thì không hẳn. Một, mục đích tu hành của Diệu Ngọc
không vì đam mê kinh kệ, càng không vì yêu mến cửa thiền, mà để cầu
sức khỏe – một mục đích mang tính cá nhân và… chẳng liên quan gì đến
Phật pháp lắm. Hai là, người đi tu phải “một hạt gạo cũng nhặt bỏ mồm,
một sợi tơ cũng khoác che thân” nhưng Diệu Ngọc lại có đến ba, bốn kẻ
hầu người hạ, vẫn giữ lối sống con nhà tiểu thư. Ngoài ra, đã tu hành thì
nên coi mọi thứ là không, thân thể chỉ là cái túi da, nhưng Diệu Ngọc vẫn
gắn bó với mái tóc của mình. Bộ tóc mây mượt mà là nét đẹp của người
phụ nữ, Diệu Ngọc rõ ràng vẫn còn sân si với đời nên không nỡ từ bỏ
nhan sắc của mình. Nhìn một cách rộng hơn, mái tóc mỗi người biểu
tượng cho sợi dây liên kết với thế giới trần tục. Khi Liễu Tương Liên và
Uyên Ương thề dứt bỏ tình ái đều cắt tóc. Bảo Ngọc khi đi tu thì cạo trọc
đầu. Diệu Ngọc thân nhờ cửa Phật nhưng vẫn giữ mái tóc, chứng tỏ nàng
ta vẫn “chân trong chân ngoài,” chưa một lòng một dạ với việc tu hành,
đúng như Hình Tụ Yên nhận xét, “Thực đúng như tục ngữ nói: ‘Sư không
phải sư, tục không phải tục, gái không phải gái, trai không phải trai’,
chẳng ra nghĩa lý gì cả! “

Tranh vẽ Diệu Ngọc khá giống miêu tả trong truyện: “Thấy Diệu Ngọc
đầu đội mũ Diệu Thường, mình mặc áo trừu màu nguyệt bạch, bên ngoài
khoác áo cà sa dài bằng đoạn xanh viền biên, lưng thắt dây tơ màu thu
hương. bên dưới mặc cái quần là trong, có vẽ màu mực nhạt, tay cầm
chuỗi tràng hạt.”
Điều đáng nói thứ hai về Diệu Ngọc là tính cách kiêu kỳ, cao ngạo. Diệu
Ngọc tự nghĩ mình là con gái nhà quan, không chịu lời hiệu triệu của kẻ
khác, khiến Vương phu nhân phải đích thân viết thư mời mới chịu đến,
bản thân lại ưa sạch sẽ đến mức bệnh hoạn. Xin đọc đoạn sau:
Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc
đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười
nói:
– Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.
Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong
nhà, Giả mẫu nói:
– Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc
tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một
chén rồi đi.
Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu
Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng “vân
long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng
lên.
[…]
Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ
đi theo. Diệu Ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở
trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc
lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười
nói:
– Các cô uống trà riêng đấy à?
Hai người đều cười nói:
– Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.
Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở
ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:
– Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.
Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không
dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai,
trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác” (2), bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết
chân phương “Vương Khải trân ngoạn”(3); lại có một hàng chữ nhỏ nữa
viết “Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí
phủ”(4). Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng
như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ “điểm tế kiều” (5)khắc lối
triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén
ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
– Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng” (6), sao hai cô được dùng đồ
cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?
Diệu Ngọc nói:
– Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm
ra được cái đồ tục này!
– Tục ngữ nói “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì nhưng đồ vàng
ngọc châu báu đều cho là tục cả.
Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc
trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:
– Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được
không?
– Uống hết được.
– Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe
người ta nói: “Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ
hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu
con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì
nữa.
Diệu Ngọc mời trà mọi người
Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc
cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm
nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc
nghiêm nét mặt nói:
– Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì
tôi không mời đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
– Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.
Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”.
Đại Ngọc hỏi:
– Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?
Diệu Ngọc cười nhạt:
– Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết
ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn
Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn
xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ
uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa
năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?
Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng
không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói
với Diệu Ngọc:
– Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ
ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày.
Người thấy có được không?
Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:
– Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì
tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang
ngay đi.
– Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói
chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.
Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm
lấy rồi nói:
– Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng
nước rửa nhà, có được không?
– Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài
cửa thôi, đừng mang vào đây.
– Đúng thế.
Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:
– Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.
Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại,
đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.
Tranh vẽ Diệu Ngọc cầm chén ngọc xanh
Đoạn này quả thật rất thú vị. Ở hồi 40, khi Giả mẫu đến thăm Hành Vu
uyển của Bảo Thoa thì thấy: “Những cỏ lạ dây tiên, càng lạnh bao nhiêu
thì lại càng xanh tốt bấy nhiêu…Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh
không có một thứ đồ chơi nào cả.” Tào Tuyết Cần vốn khéo mượn cảnh
để nói người, ông tả Hành Vu uyển để khắc hoạ đươc tính cách lãnh đạm
của Bảo Thoa. Ở đây thì ngược lại, Diệu Ngọc tuy là ni cô nhưng “hoa
tươi cây tốt” trong nhà thì có “khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ
vàng ‘vân long hiến thọ’, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm
màu”, loè loẹt chẳng khác gì nhà trưởng giả. Rồi Diệu Ngọc không để bà
già uống chén của mình, nhưng lại uống cùng chén với Bảo Ngọc, chứng
tỏ nàng đã có cảm tình đặc biệt với cậu ta. Diệu Ngọc tu nhưng chỉ là
tu… ngoài miệng chứ còn lâu đạt đến độ tiêu diêu thoát tục. Thế nhưng
nàng ta lại rất thích tỏ ra hơn đời, rằng ta đây thanh sạch hơn người, cư
xử khác thường. Sự giả dối của Diệu Ngọc không qua được mắt Bảo
Thoa, nên nàng không ưa Diệu Ngọc cũng phải. Cả Lý Hoàn cũng từng
nói là ghét Diệu Ngọc. Sự kỳ thị của Diệu Ngọc với già Lưu tội nghiệp
càng khiến người đọc thấy Diệu Ngọc cao quý thì ít mà hợm hĩnh thì
nhiều. Già Lưu là một bà già nghèo khổ nhưng tấm lòng rất trong sạch,
tuy nhiên Diệu Ngọc chỉ nhìn thấy vẻ ngoài lam lũ của bà mà coi thường;
đây là chỗ chưa giác ngộ của nàng ta.
Bi kịch thật sự của Diệu Ngọc bắt đầu khi nàng ta bắt đầu động lòng
phàm trần. Bảo Ngọc chính là làn gió xuân thổi vào mặt ao phẳng lặng
của nàng. Những người không tin rằng Diệu Ngọc có một tâm hồn yêu
đương cuồng nhiệt chỉ cần nhìn vào loài hoa biểu trưng cho nàng. Đại
Ngọc nhìn hoa đào rụng thì thương hoa rồi liên tưởng đến thân phận của
mình mà làm bài “Táng hoa từ“, màu hồng nhạt của hoa ứng với tâm tình
thiếu nữ vừa rung động của cô lâm. Diệu Ngọc thì sao?
Bảo Ngọc đi đến dưới dốc núi vừa vòng qua chân núi, đã ngửi thấy mùi
hương lạnh. Quay lại, am Lũng Thúy của Diệu Ngọc ngay đó có mấy
chục cây hồng mai, đỏ thắm như son, chiếu xuống màn tuyết càng thêm
chói lọi, trông rất đẹp mắt.
Trong Hồng Lâu Mộng một bông hoa một chiếc lá cũng có tình là vậy.
Diệu Ngọc tuy thân ở chốn tu hành lạnh lẽo (tuyết) nhưng cảm xúc trai
gái trong lòng nàng đã bắt đầu trỗi dậy cuồng nhiệt chẳng khác nào
những cây hồng mai rực rỡ kia, không cách nào ngăn nổi. Màu hồng mai
đỏ đậm hơn màu hoa đào là hàm ý rằng Diệu Ngọc còn khao khát yêu
đương hơn Đại Ngọc. Tên Diệu Ngọc có nghĩa là viên ngọc kì diệu,
nhưng chữ Ngọc (玉) lại đồng âm với chữ Dục (慾). Tào Tuyết Cần gửi
Diệu Ngọc vào chốn thiền môn, nhưng vẫn để nàng mang trong mình dục
vọng. Khi Bảo Ngọc nằm mộng tới Thái Hư ảo cảnh có thấy gặp bốn
nàng tiên – Si Mộng tiên cô, Chung Tình đại sĩ, Dẫn Sầu kim nữ, Độ Hận
bồ đề. Bốn người này chính là hiện thân trên trời của bốn tiểu thư bầu bạn
với Bảo Ngọc dưới cõi trần: Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Diệu
Ngọc. Danh hiệu “Độ Hận bồ đề” chính dành cho người đi tu Diệu Ngọc.
Mọi người chơi tuyết, làm thơ, ngắm hồng mai
Các chị em trong Đại Quan viên đã bắt Bảo Ngọc đi “phỏng Diệu Ngọc
khất hồng mai.” Tào Tuyết Cần không mô tả cuộc gặp gỡ xin cành hồng
mai của Bảo Ngọc với Diệu Ngọc ra sao, người đọc chỉ có thể… đoán
mò. Nhưng một điều chắc chắn: sau cuộc gặp gỡ lần thứ hai đó, tình cảm
Diệu Ngọc dành cho Bảo Ngọc đã phát triển lên một tầng cao mới, khiến
nàng ta đường đột gửi thiệp mừng sinh nhật Bảo Ngọc.
Tình Văn vội nhấc cái nghiên ra, thấy một tờ thiếp, đưa cho Bảo Ngọc
xem, một tờ giấy hoa tiên màu phấn hồng, có viết: “Người ngoài cửa là
Diệu Ngọc kính chúc ngày sinh nhật”. Bảo Ngọc xem xong, nhảy lên hỏi:
– Ai nhận được giấy này lại không cho tôi biết?
Nếu người đọc hiện đại tặc lưỡi, “có sao đâu nhỉ?” thì xin hãy nhớ đó là
thời nào, trật tự phong kiến ra sao, và Diệu Ngọc là ai! Diệu Ngọc tự
xưng là “người ngoài cửa,” ý rằng mình nằm ngoài cuộc sống xô bồ,
nhưng tâm hồn nàng thì lại ngập tràn hình ảnh Bảo Ngọc. Chỉ có cậu
ngốc Bảo Ngọc mới khờ khạo cho rằng “cô ấy không phải là người trong
đám trần tục, mà là đứng ngoài cuộc đời” chứ Hình Tụ Yên là người kín
đáo hiểu đời thì đã biết tỏng:
Tụ Yên nghe vậy, đưa mắt ngắm nghía Bảo Ngọc một lúc, cười bảo:
– Tục ngữ nói: “Tai nghe không bằng mắt thấy”, không trách được Diệu
Ngọc lại đưa cái thiếp này cho cậu, cũng không trách được năm ngoái cô
ấy cho cậu cành hoa mai.
Tụ Yên biết rõ đầu đuôi Diệu Ngọc tự xưng “người ngoài cửa” vì yêu
thích hai câu thơ “Cửa sắt nghìn năm dầu vững chắc, Đốt bùn một nắm
cũng chôn vùi.” nhưng một khi được diện kiến tướng mạo phong lưu của
Bảo Ngọc, Tụ Yên hiểu ngay Diệu Ngọc đã đem lòng tương tư cậu ta. Cái
nghiệp của Diệu Ngọc là đi tu mà chưa trót đời, yêu người mà không dám
nói. Tình cảnh hôm nàng cùng hoạ thơ với Đại Ngọc và Tương Vân diễn
tả rất hay nội tâm Diệu Ngọc:
“Diệu Ngọc cười nói:
– Thấy các người thưởng trăng, lại nghe tiếng sáo thổi, tiện đường tôi
cũng đến đây ngắm cảnh nước trong trăng sáng một chút.
[…]
Hai người cầm lấy xem, thấy Diệu Ngọc làm tiếp:
Đỉnh vàng nghi ngút huơng nồng, 
Long lanh châu ngọc như lồng màu son. 
Nghe tiêu gái góa nỉ non, 
Ôm chăn nhờ có a hoàn ủ cho. 
Màn không, phượng những thẫn thờ, 
Bình phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.
[…]”
Trong Đại Quan viên có am Thủy Nguyệt là nơi các ni cô tình tứ với Giả
Cần, là nơi Trí Năng hẹn hò cùng Tần Chung. Thuỷ Nguyệt là bóng trăng
trong nước, nhìn thì đẹp đẽ nhưng không có thực, ngoài ra động cái là tan
vỡ. Trăng trên bầu trời, bóng trong làn nước, tuy nhìn thấy, nhưng mò
không thấy. Rốt cuộc vẫn là không. Tu hành như Diệu Ngọc chẳng khác
nào tìm trăng đáy nước. Nửa đêm nàng vẫn chưa ngủ, lại ra ngoài ngắm
trăng gió vẩn vơ, phải chăng có tâm sự gì kín đáo? Nếu bạn đọc nghĩ tôi
quá đa nghi thì xin mời đọc bài thơ Diệu Ngọc làm sau đó. Một ni cô mà
lại nhắc đến đỉnh vàng, hương nồng, châu ngọc, phấn son, lại thấy chăn
gối lạnh đến mức thẫn thờ, nỉ non ai oán thì có lẽ ni cô đó nên hoàn tục
sớm thôi!
Cành hồng mai đi trước, thiệp sinh nhật theo sau. Đến khi giáp mặt Bảo
Ngọc lần cuối cùng, Diệu Ngọc đã không còn có thể che giấu được tình
cảm của mình.
Vừa nói, vừa chào Diệu Ngọc, lại cười hỏi:
– Cô Diệu không mấy khi ra khỏi cửa thiền, hôm nay có duyên nợ gì lại
xuống trần chơi thế?
Diệu Ngọc nghe nói bỗng dưng đôi má ửng đỏ, cũng không trả lời, chỉ
cúi đầu xuống nhìn bàn cờ.
Bảo Ngọc tự nghĩ mình láu táu quá, liền cười và nói lấy lòng:
– Con nhà tu hành thật không giống như bọn người trần tục chúng tôi.
Trước hết là giữ lòng cho yên tĩnh; yên tĩnh thì thông minh; thông minh
thì sáng suốt.
Bảo Ngọc nói chưa xong, thấy Diệu Ngọc nhè nhẹ ngước mắt lên, nhìn
Bảo Ngọc một cái, rồi lại cúi đầu xuống, đôi má dần dần ửng đỏ. Bảo.
Ngọc thấy cô ta không để ý gì đến mình, liền thẫn thờ ngồi xuống một
bên.
Tích Xuân còn muốn đánh cờ nữa, Diệu Ngọc chậm chạp nói:
– Chốc nữa hãy đánh.
Cô ta liền đứng dậy sửa lại xiêm áo rồi lại ngồi xuống, vơ vẩn hỏi Bảo
Ngọc:
– Cậu ở đâu lại đây?
Bảo Ngọc đang cố chờ Diệu Ngọc lên tiếng hỏi để chống chế câu nói của
mình lúc trước, bỗng lại nghĩ: “Hay là câu hỏi của Diệu Ngọc có mưu
mô gì chăng?” Liền đỏ mặt lên, nói không ra lời. Diệu Ngọc mỉm cười
đoạn nói chuyện với Tích Xuân. Tích Xuân cũng cười, nói:
– Anh Hai này, điều đó có gì khó trả lời? Anh lại không nghe người ta
thường nói: “Ở chỗ mình mà đến” à? Thế mà cũng đỏ mặt lên, giống
như thấy người lạ ấy?
Diệu Ngọc nghe câu ấy, nghĩ thầm đến bộ dạng mình lúc vừa rồi, động
lòng nóng má, tất nhiên là má cũng đỏ, cô ta cảm thấy ngượng, liền đứng
dậy nói:
– Tôi đến lâu rồi, phải về am đây.

Diệu Ngọc
Đến đoạn này thì Bảo Ngọc có khờ đến mấy chắc cũng phải chột dạ.
Cảnh tượng éo le vừa rồi khiến Tích Xuân đã ngầm hiểu và trong bụng có
sự so sánh rằng mình đi tu thì hợp lý hơn nhiều. Tích Xuân sau này nghĩ:
“Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình
lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có
tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch
không.” Sau đó Bảo Ngọc đưa Diệu Ngọc ra về, trên đường hai người lại
tình cờ nghe bản đàn não nùng đến mức đứt dây của Đại Ngọc, (“Định
sẵn chừ, hoài công lo lắng, Sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong
trắng“) khiến Diệu Ngọc “thất sắc, đứng dậy vội vàng chạy đi.” Có thể
nói những lời này đã chạm đến chỗ sâu kín trong tâm sự của Diệu Ngọc,
lại cộng thêm sự có mặt của Bảo Ngọc, khiến tâm thần cô ta bị kích động
mạnh mẽ. Đêm hôm đó Diệu Ngọc về Chùa đọc kinh phật, nhưng ác thay
lại có hai con mèo động tình ở đâu đến gù nhau, khiến cô ta bị khêu gợi.
Chả trách ông Lâm Ngữ Đường đã khinh bỉ gọi Diệu Ngọc là người đàn
bà cuồng dâm.
Diệu Ngọc sực nhớ lời nói Bảo Ngọc lúc ban ngày, bỗng thấy động lòng
nóng tai, vội vàng ổn định lại tâm thần, đi vào buồng thiền, lại lên
giường ngồi. Nhưng khốn nỗi thần hồn bất định, hình như muôn ngựa
ruổi rong, rồi cảm thấy như là cái giường cứ lắc lư, thân mình không còn
ở trong am nữa. Cô thấy có rất nhiều vương tôn công tử đòi cưới mình
làm vợ; lại thấy có nhiều bà mối lôi lôi kéo kéo, đẩy mình lên xe, mà
mình thì không chịu đi. Một chốc lại thấy kẻ cướp, kẻ trộm cầm dao vác
gậy đến bức bách mình. Diệu Ngọc đành phải khóc rầm lên và kêu cứu.
Bọn ni cô, đạo bà trong am nghe tiếng, đều thắp đèn đuốc tới xem, thì
thấy Diệu Ngọc hai tay duỗi ra, miệng sè nước bọt. Họ vội vàng gọi tỉnh
lại, thấy hai mắt Diệu Ngọc trừng lên, hai má đỏ thắm, miệng mắng:
– Tao có bồ tát phù hộ, bọn kẻ cướp chúng bay dám làm gì?

Diệu Ngọc bị tâm hỏa bốc lên đến mức phát cuồng
Mọi người nghĩ Diệu Ngọc bị âm hồn quấy nhiễu, ai ngờ chính tâm ma
của cô ta là ngọn núi lửa phun trào, cuốn Diệu Ngọc vào vòng xoáy dục
vọng. Căn bệnh của Diệu Ngọc được miêu tả mang nhiều tính ẩn dụ hơn
là bệnh thật. Ông thầy lang bảo Diệu Ngọc bị “tà hỏa nhập vào tim”, hoả
là lửa, chính là ý nói Diệu Ngọc có trái tim nóng bỏng.
Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra
nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:
– Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu,
tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.
Cuối cùng số phận của Diệu Ngọc đã lọt vào tay ai? Số phận Diệu Ngọc
đến hồi kết ở chương “Sống đầy oan nghiệt. Diệu Ngọc bị giặc cướp đi.”
Nhan sắc xinh đẹp mà nàng ra sức bảo vệ đã khiến một tên cướp động
lòng khi nhìn trộm nàng đánh cờ cùng Tích Xuân. Không kìm được, y
bèn dùng muội hương lẻn tới am Lũng Thúy để bắt cóc nàng.
Lúc bấy giờ Diệu Ngọc vẫn tỉnh táo, chỉ không cử động được, nghĩ bụng:
“Nó muốn giết mình chăng? Nhưng đã quyết liều mạng, nên cũng không
sợ”. Nào ngờ tên kia giắt dao vào sau lưng, giơ tay ra, nhẹ nhàng ôm
Diệu Ngọc dậy, đùa cợt một hồi rồi cõng lên trên lưng. Lúc bấy giờ Diệu
Ngọc mê man ngây ngất. Thương thay! Một người con gái trong sạch, bị
kẻ cướp dùng muội hương làm cho mê mẩn, để mặc cho nó trêu đùa. Tên
giặc kia cõng Diệu Ngọc đến bên tường sau vườn, dùng thang dây leo
qua. Bên ngoài đã có đồ đảng của nó đem xe chờ sẵn. Người kia để Diệu
Ngọc vào trong xe, ngoài treo một chiếc đèn lồng có dấu hiệu quan chức
rồi vội vàng đi đến cửa thành. Lúc ấy chính là giờ mở cửa. Quan coi
thành chỉ nghĩ là người có việc quan đi ra ngoài nên cũng không kịp tra
hỏi. Ra khỏi thành rồi, tên kẻ cướp giục ngựa đi, chừng hai mươi dặm,
đến một nơi cùng bọn đồ đảng gặp mặt rồi chia đường đi về miền biển
Nam Hải. Không biết sau khi Diệu Ngọc bị cướp đi, có cam chịu nhơ
nhớp hay không chịu khuất phục mà chết, chẳng rõ ra sao, khó lòng đoán
ra được.
Diệu Ngọc bị kẻ cướp bắt cóc
Theo như ông Dư Anh Thời đã nhận xét, “Diệu Ngọc là một người thanh
sạch đệ nhất trong thế giới lí tưởng Đại Quan Viên, và sau khi thế giới đó
tan vỡ lại là người lưu lạc vào chốn ô uế nhất của thế giới hiện thực.”
Trong Hồng Lâu Mộng người ta đồn đại “Diệu Ngọc động lòng tình dục,
bỏ đi theo người” liệu có oan uổng? Bảo Ngọc thì đau buồn, phân vân tự
hỏi: “Con người như thế, thường tự xưng là “Người ngoài cửa”, sao mà
kết cục lại như thế?” Thái độ của những người khác trong Giả phủ với
Diệu Ngọc thì không mấy tốt đẹp:
– Hôm trước nghe nói sư phụ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy đã đi theo
người ta phải không?
– Câu nói ấy ở đâu ra thế? Ai nói coi chừng sẽ bị cắt lưỡi đấy? Người ta
bị kẻ cướp bắt đi, sao lại nói bậy như vậy?
– Sư phụ Diệu Ngọc là người kỳ quặc, chúng tôi sợ cô ta bày đặt ra thôi.
Trước mặt cô, nói ra thì không tiện, chứ cô ta có phải như bọn quê mùa
chúng tôi đâu. Chúng tôi chỉ biết tụng kinh niệm Phật, sám hối cho người
khác, và cũng tu lấy thiện quả cho mình.
Nhưng đã tu thì phải tu cho đứng đắn. Sư phụ Diệu Ngọc cứ cho mình tài
giỏi hơn chúng tôi, cứ chê bọn chúng tôi là tục. Biết đâu có tục mới có
“duyên lành”. Còn mình, rốt cuộc lại gặp phải điều khổ lớn!
Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô
giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ mong có một người
trong phủ đến trông coi.Mọi người nói:
– Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta, chẳng
phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy
chính là cô ta không!
Giả Hoàn nói:
– Chắc là cô ta!
– Sao cậu biết được?
– Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ, nhưng
hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không
thèm nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng! Giả Vân nói:
– Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà trong am
ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.”
Lá số tiền định của Diệu Ngọc đã định cho nàng là viên ngọc quý lấm
bùn:
“Muốn sạch mà không sạch
Rằng không chửa hẳn không
Thương thay mình vàng ngọc
Bùn lầy sa vào trong.”
Số phận Diệu Ngọc là phải chịu ô nhục, vừa không thể giữ tấm thân trong
sạch, vừa không thể giữ tâm hồn không vướng bụi trần, miễn cưỡng diệt
dục, yêu Bảo Ngọc mà lại thất thân với kẻ cướp, cuối cùng lênh đênh
không biết về đâu. Hoàn cảnh sống nơi phồn hoa, chết trong loạn lạc này
có chút điểm tương đồng với Tào Tuyết Cần. Ông chỉ miêu tả Diệu Ngọc,
nhường phần phán xét nàng cho người đọc. Nhưng một thân phận bị giày
xéo phũ phàng làm vậy, chúng ta nỡ lòng nào không thương xót sao?
Ý KIẾN - THẢO LUẬN

19:39 Saturday,19.12.2015 Đăng bởi:  Nina
Một lần nữa cám ơn bạn Anh Nguyễn, đúng là những chi tiết mà người đọc
thông thường như mình rất dễ bỏ qua, nhưng bạn đã cho thấy ý nghĩa khác
hẳn!

Giả Chính: dấu chân trên tuyết của tình phụ tử 12. 11. 15 - 7:58 am
Anh Nguyễn

Nếu Đại Quan viên là vườn địa đàng thì Bảo Ngọc là Adam duy nhất ở
giữa vô vàn Eve. Giới phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng là những đóa hoa
muôn hồng ngàn tía, mười hai chiếc thoa vàng mỗi người mỗi vẻ khiến
người đọc say mê không dứt. Giới đàn ông trong Hồng Lâu Mộng thì
ngược lại: đa số đều ti tiện, bạc bẽo, vô tình. Một trong những người đàn
ông “ít xấu” nhất trong Hồng Lâu Mộng là Giả Chính, cha đẻ của Bảo
Ngọc, song ấn tượng của người đọc với ông ta đại đa số khá mờ nhạt.
Hành động đáng nhớ nhất của Giả Chính trong toàn bộ câu chuyện có lẽ
là lúc ông đánh Bảo Ngọc một trận thừa sống thiếu chết. Tuy nhiên thông
qua nhân vật Giả Chính người đọc có thể ngộ ra nhiều triết lý của Tào
Tuyết Cần về tư tưởng Khổng Mạnh, bởi vì Giả Chính là một nhà Nho
điển hình.

Giả Xá (trái), Giả Chính (phải)


Giả Chính và Giả Xá là hai anh em ruột. Giống như Cain và Abel trong
Kinh thánh, hai anh em nhà họ Giả được xây dựng theo motif trái ngược,
người này là đối trọng của người kia. Giả Xá là con người xảo trá, tham
lam, hiếu sắc. Giả Chính thì “từ bé ham học, được ông yêu, muốn cháu
thi đỗ làm quan.” Khi lớn lên, Giả Chính được thăng làm Viên ngoại
lang, con gái lớn Nguyên Xuân được tuyển vào cung làm Hiển Đức phi,
coi giữ cung Phượng Tảo. Con trai là Bảo Ngọc thì đẹp đẽ, là hòn ngọc
trong mắt Giả mẫu. Những tưởng cuộc đời Giả Chính thế đã là viên mãn.
Thế nhưng kết thúc của Giả Chính lại không được như ý: sự nghiệp tiêu
tan, gia đình ly tán. Bởi vì sao? Hay lại đổ tại số phận?
Nguồn cơn gây nên những nỗi khổ của Giả Chính chỉ do số phận một
phần, phần còn lại do chính bản thân Giả Chính, hay nói rộng ra là tư
tưởng Khổng Mạnh bó buộc khiến con người ta không được sống theo xu
hướng tự nhiên. Nếu Giả Xá tiêu biểu cho việc để cái tôi tung hoành đến
mức lấn át đạo lý, thì Giả Chính là một trường hợp đè nén bản tính con
người. Chữ “Chính” trong tên của ông có hai nghĩa, vừa là cai trị, khuôn
phép (như chính quyền, nhiếp chính), vừa là chính trực. Người xưa hay
nhắc đến mấy việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong mấy việc
đó, may ra chỉ có giữ mình trong sạch là Giả Chính làm tròn. Giả Chính
quả thực ngay thẳng, nhưng là cái ngay thẳng cứng nhắc và ngô nghê.
Việc nhà và việc nước ông đều không thể nào “chính”, đó là sự oái oăm
của nhân vật này.

Tranh vẽ Giả Chính


Trước nói về việc nước.
Giả Chính xưa nay làm quan ở kinh, chức lang trung cũng là chức quan
rảnh. Dù có lúc ra làm quan ở ngoài nhưng lại là giáo chức, không liên
quan gì đến việc cai trị. Vì thế những điều xấu xa như khấu bớt lương
gạo, bóp nặn dân đen, tuy có nghe người ta bàn tán, nhưng bản thân
chưa hề trải qua, chỉ một lòng muốn làm ông quan tốt. Ông ta liền cùng
bọn giúp việc bàn bạc, yết thị nghiêm cấm những điều xấu xa kia, và hiểu
thị hễ tra ra thì sẽ trình quan trên trị tội. Ban đầu mới đến, quả nhiên bọn
lại dịch đều sợ, liền dùng đủ cách để xoi bói, kiếm chác, nhưng lại gặp
phải Giả Chính là người cố chấp. Bọn người nhà theo hầu Giả Chính lúc
ở kinh không hề được chút lợi lộc gì cả, trông mong mãi mới được chủ
nhà bổ nhậm quan ngoài, bèn mượn tiếng để vay nợ sắm sửa áo quần cho
có thể diện. Họ cứ nghĩ hễ đến chỗ làm quan là sẽ kiếm chác dễ dàng.
Không ngờ Giả Chính có cái thói ngây ngô, thật thà muốn trừng trị
những thói tệ, các quan châu huyện đưa lễ vật đến ông ta nhất thiết
không nhận.
Giả Chính không nhận hối lộ, đương nhiên bọn người dưới không có cửa
làm ăn. Kẻ có ý xấu bụng lại ngờ Giả Chính muốn bóp nặn thật nhiều nên
làm ra vẻ chảnh choẹ. Kết quả là bọn lính hầu vùng vằng hờn giận nghỉ
hết, để cho Giả Chính một mình trơ thổ địa ra đấy. Giả Chính ngậm ngùi
nhận ra rằng làm một người chính nhân quân tử giữa một xã hội đầy rẫy
tiểu nhân là một việc rất khó. Kể từ đó Giả Chính để cho một kẻ điêu
ngoa là Lý Thập cai quản công việc. Đây là một hành động “nuôi ong tay
áo.”
Từ đó, Lý Thập làm mưa làm gió, cấu kết trong ngoài kéo bè kéo cánh
lừa phỉnh Giả Chính làm việc, quả nhiên việc gì cũng chu đáo, việc gì
cũng vừa lòng. Vì thế Giả Chính chẳng những không nghi, mà lại tin cậy.
Lúc đó cũng có mấy nơi phát giác, nhưng quan trên thấy Giả Chính chất
phác trung hậu, nên cũng không tra xét. Riêng có bọn môn khách giúp
việc giấy tờ là nhìn xa thấy rộng, gặp dịp cũng có đem lời khuyên can.
Nhưng Giả Chính không tin, nên cũng có người từ việc mà đi; cũng có
người thân thiết với Giả Chính thì ở trong giúp đỡ. Nhờ vậy việc chuyên
chở xong xuôi, không bị thiệt hại và quá thời hạn.
Sự nghiệp của Giả Chính thế rồi tiêu tùng, nếu không có Bắc Tĩnh Vương
ra tay can thiệp thì chắc đã bị tù mọt gông. Về việc này quả thực không
thể trách Lý Thập, bởi không có hắn ta thì cũng sẽ có Lý Tam, Lý Tứ lợi
dụng Giả Chính làm càn.
Giả Chính tuy rằng dạy con có phép, trị nhà rất nghiêm, nhưng một là họ
to, người nhiều, trông nom không xuể, hai là Giả Trân là cháu trưởng
phủ Ninh, hiện đương tập chúc, bao nhiêu việc đều thuộc chi trưởng
trông nom hết, ba là việc công, việc tư bề bộn, mà tính Giả Chính lại
khoáng đãng, không thích chăm lo việc đời, lúc nhàn rỗi, thư thái chỉ
đánh cờ, xem sách, ngoài ra không để ý đến việc gì.
Việc nước đã không xong, việc nhà ông cũng hết sức mù mờ. Những việc
dối trá, hoang phí, cho vay nặng lãi, vv,… do hai vợ chồng Giả Liễn-
Phượng Thư gây ra, ông đều không hay. Giả Trân thì “quyến rũ con nhà
thế gia đánh bạc, cường chiếm vợ lương dân làm lẽ, người ta không theo,
liền áp bức người ta chết”, Giả Chính cũng không hề biết mảy may!
Người đọc đến đây không khỏi thắc mắc: Giả Chính là một con người
thông minh, tại sao lại để cho bao nhiêu việc tày trời diễn ra ngay dưới
mũi mình? Tôi nghĩ lý do chính là bởi Giả Chính có một niềm tin mù
quáng vào Nho giáo, ông nghĩ rằng ai ai cũng tam cương, ngũ thường
(nhân lễ nghĩa trí tín) như mình! Trên thực tế, lý thuyết thì màu xám còn
cây đời mãi mãi xanh tươi, phàm là con người thì đều có dục vọng. Xã
hội mà Giả Chính sống là một xã hội ca tụng đạo Khổng, ra rả những điều
hay lẽ phải, nhưng thực tế ai cũng chăm chăm thu vén cho mình, sống
chết mặc bay. Giả Chính những tưởng mình là “xu hướng chung,” ai ngờ
lại là nằm trong nhóm “dân tộc thiểu số.” Sự sụp đổ của nhà họ Giả có
thể gọi là một ví dụ của “tragedy of the commons”, nhưng cũng một phần
do sự yếu kém trong quản lý của Giả Chính.
Nhà họ Giả bị tịch biên gia sản, niêm phong nhà cửa
Thế nhưng bi kịch lớn nhất của Giả Chính nằm ở mối quan hệ với con trai
ông ta – Giả Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc không phải là con trai duy nhất của Giả Chính. Trước cậu ta có
Giả Châu – người con trai ngoan ngoãn đã chết non. Có thể trong tiềm
thức, Giả Chính luôn so sánh Bảo Ngọc và Giả Châu, phần nào dẫn đến
cảm giác xa lạ và thất vọng. Mầm mống gây nên sự không ưa của Giả
Chính đối với Bảo Ngọc bắt đầu từ khi cậu ta còn thơ bé:
Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới
đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu
nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính
không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm.
Nếu nhìn nhận sự kiện này dưới góc độ duy lý, liệu việc Giả Chính căn
cứ sự yêu ghét với đứa trẻ ngây thơ dựa trên một trò chơi vô hại có hợp lý
không? Một người bình thường, nếu vốn có lòng thương con, kể cả nó có
phạm tội tày trời cũng không vì thế mà chán ghét. Đằng này Bảo Ngọc
lúc đó chỉ là đứa bé một tuổi. Dẫu sự kiện “chọn phấn sáp, trâm vòng”
được cài đặt nhằm báo trước tính cách nâng niu phụ nữ của Bảo Ngọc, ta
có thể suy đoán Giả Chính rõ ràng đã có định kiến về Bảo Ngọc, ngoài ra
còn ương ngạnh cố chấp. Trong gia đình, thái độ của con trẻ thường là
hình ảnh phản chiếu lại cách đối xử của cha mẹ chúng.  Khi tiếp xúc với
Bảo Ngọc, Giả Chính không đơn thuần là nghiêm khắc mà rõ ràng là căm
ghét. Bảo Ngọc vì thế lại càng sợ sệt cha. Mối quan hệ này chỉ có khả
năng trở nên xấu đi chứ không có tốt lên.
Thấy Bảo Ngọc đến chào và nói xin đến trường học, Giả Chính cười
nhạt:
– Mày nói đến hai chữ đi học làm tao xấu hổ chết đi được. Cứ như ý tao
thì mày đi chơi là đúng hơn. Coi chừng đấy, đừng đứng bẩn đất tao, dựa
bẩn cửa tao!
Giả Chính nhìn ra, thấy con trai vú nuôi Bảo Ngọc là Lý Quí, bèn hỏi:
– Ngày thường theo hầu nó đi học, thấy nó học đến sách gì rồi? Hay là
chỉ học những câu lếu láo, những lối ngỗ nghịch tinh ranh? Lúc nào rỗi,
ta sẽ lột da mày và sửa tội cho cái thằng hư thân kia!
Giả Chính quát to:
– Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được
mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép
mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười
đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?
– Kể ra cũng chẳng hại gì, không cần phải đổi. Nhưng xem thế đủ biết nó
không chăm lo việc chính, chỉ thích những lời văn trai lơ phù phiếm thôi.
Ông ta quát to một tiếng:
– Đồ súc sinh, sao không bước đi!
Tham vọng của Giả Chính là biến Bảo Ngọc thành một nhà Nho chân
chính – đi học thành tài, không ham nữ sắc, nói cách khác là một bản sao
thu nhỏ của ông. Nhưng Bảo Ngọc làm trái ngược tất cả. Đó là một cái
vòng luẩn quẩn: con hư – cha ghét-con càng chống đối-cha càng ghét. Có
thể nói Bảo Ngọc có một mặc cảm Oedipus điển hình. Oedipus giết cha
lấy mẹ. Bảo Ngọc thì sợ cha và quấn quít mẹ. Trạng thái tâm lý này của
Bảo Ngọc ứng vào mọi quan hệ xã hội của cậu – Bảo Ngọc chán ngán,
không tin tưởng giới đàn ông, cậu tránh xa những tên phàm phu tục tử
trong phủ, ngược lại tìm sự yêu thương an ủi từ những người phụ nữ,
trước hết là Giả mẫu, Vương phu nhân và các chị em, rồi cả những a
hoàn. Những người đàn ông thân cận với Bảo Ngọc như Tần Chung,
Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương đều có xu hướng đồng tính. Khi bị
cha hành hạ, phản xạ đầu tiên của Bảo Ngọc là cầu cứu mẹ và bà. Những
chị em ruột thì cùng chung tay viết chữ để giúp cậu nộp đủ số bài Giả
Chính đòi. Các a hoàn thì bao che, dỗ dành, an ủi. Có thể nói Bảo Ngọc
đã ly khai khỏi giới tính của mình, cũng là chối bỏ mối dây liên kết với
người cha. Sự uỷ mị, thiếu tính nam nhi khí khái đó là không thể chấp
nhận với Giả Chính. Trong tư tưởng của ông, Bảo Ngọc là một kẻ phản
bội tư tưởng Nho giáo.
Người kia quát to “Đứng lại”, Bảo Ngọc giật nảy mình, ngẩng đầu lên
nhìn, té ra là Giả Chính. Bảo Ngọc lạnh hẳn người đi, đành chắp tay
đứng bên cạnh.
Giả Chính nói:
– Mày làm sao mà cúi đầu ủ rũ như vậy? Vừa rồi ông Vũ Thôn đến chơi,
muốn gặp mày, gọi mãi mày mới chịu đến. Khi đến thì ăn nói toàn là
những chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt, không có một chút khoát đạt lưu loát
nào. Tao xem mày vẻ mặt lúc nào cũng đầy rẫy những lo phiền, tình dục.
Bây giờ làm gì mày lại than dài thở ngắn? Như thế này vẫn chưa được
đủ, chưa được hả dạ hay sao?
Bảo Ngọc vốn tay lém lỉnh. Nhưng vì lúc này thương nhớ Kim Xuyến quá,
đang băn khoăn không thể chết theo nó được nên cha quở mắng thế nào
cũng mặc, cứ đứng đờ người ra.
Giả Chính đáng ra cũng không bực. Nhưng thấy Bảo Ngọc sợ quá, ăn nói
khác hẳn ngày thường, nên đã nổi giận đôi phần. Giữa lúc ấy có người
gác cửa vào trình:
– Có người bên phủ Trung Thuận Thân Vương xin vào hầu cụ lớn.
[…]
Quan trướng phủ cười nhạt:
– Không phải làm gì cả, chỉ xin ngài nói cho một câu là xong. Trong phủ
chúng tôi có một con hát đóng vai nữ tên là Kỳ quan, mấy hôm nay không
thấy về, cho đi tìm cũng không thây nó ở đâu. Chúng tôi phải cho người
đi dò các nơi. Ở trong thành mười người thì tám người nói: Gần đây nó
chơi thân với cậu em ngậm ngọc ở đây. Vì tôn phủ không phải như các
nhà thường, nên không dám thiện tiện đến bắt. Bởi vậy hạ quan phải vào
trình đức Vương. Ngài nói: “Con hát khác mất trăm đứa cũng không cần,
nhưng tên Kỳ quan này là người cẩn thận, chắc chắn, biết lựa dịp ứng
đáp, rất hợp ý già này, không thể nào bỏ nó được”. Vì thế, chúng tôi đến
nhờ ngài bảo cậu Hai cho tên Kỳ quan về, để thỏa lòng Vương gia chúng
tôi thiết tha mong đợi, và chúng tôi cũng đỡ phải đi tìm vất vả.
Nói xong, hắn liền vái một cái.
Giả Chính nghe nói, vừa sợ vừa giận, liền cho gọi Bảo Ngọc, Bảo Ngọc
không biết là việc gì, vội chạy ra ngay.
Giả Chính hỏi:
– Thằng đáng chết kia! Mày ở nhà đã không chịu học hành thì thôi, lại
còn dám càn bậy, làm những việc trái phép à? Tên Kỳ quan là người hầu
thân của đức vua Trung Thuận. Mày là hạng người hèn hạ, dám quyến rũ
nó, làm vạ lây đến ta!
Bảo Ngọc nghe nói giật mình, vội thưa:
– Thực con không biết việc này! Ngay hai chữ “kỳ quan” con cũng chẳng
hiểu là cái gì, huống chi lại buộc cho con tiếng quyến rũ nữa.
Nói xong rồi khóc.
Người nhà Trung Thuận vương đến đòi Tưởng Ngọc Hàm
[…]
Giả Chính nghe xong, tức quá, mắt trợn lên, mồm xệch ra, vừa tiễn viên
quan trưởng phủ ra, vừa ngoái lại quát Bảo Ngọc: “Không được đi đâu!
Trở về tao sẽ bảo mày!” Đưa viên quan kia ra rồi, Giả Chính quay về,
thấy Giả Hoàn dẫn mấy tên hầu nhỏ rối rít chạy đến. Giả Chính quát:
– Đánh chết những đứa kia đi cho tao!
[…]
Giả Hoàn nói khẽ:
– Đẻ con nói: “Hôm nọ anh Bảo ở nhà mẹ con, kéo chị a hoàn là Kim
Xuyến định cưỡng gian nhưng không được, rồi đánh chị ấy một trận, chị
ấy tức quá đâm đầu xuống giếng chết!”
Chưa nghe dứt lời, Giả Chính giận quá, mặt xám lại, quát to: “Lôi thằng
Bảo Ngọc đến đây!” Ông ta vừa nói vừa chạy vào thư phòng, quát lên:
– Hôm nay ai còn đến ngăn, thì ta sẽ mang hết cả mũ áo, cân đai và gia
tài giao cho người ấy với thằng Bảo Ngọc. Ta đành chịu là người có tội,
cạo trọc mớ tóc phiền não này đi, tìm đến nơi thanh vắng để khỏi nhục
đến tiền nhân, vì đã đẻ đứa con ngỗ nghịch này!
Những môn khách và người hầu thấy Giả Chính như thế, biết ngay là vì
ông ta giận Bảo Ngọc, nên ai nấy đều trợn mắt lè lưỡi, chạy đi ra ngoài
cả. Giả Chính thở hồng hộc, ngồi ưỡn người trên cái ghế tựa, nước mắt
giàn giụa, quát lên mấy tiếng: “Lôi thằng Bảo ra đây! Mang thừng gậy
ra đây! Đóng hết cả các cửa lại! Hễ đứa nào mà báo tin cho nhà trong
biết, thì ta đánh chết ngay lập tức!”
Bọn người hầu thấy vậy, đành phải vâng lời đứng yên. Có mấy người
chạy đi bắt Bảo Ngọc.
[…]
Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc, mắt đỏ ngầu lên, không kịp hỏi đến
những tội, như đi ra ngoài thì đùa bỡn bọn chèo hát, trao tặng của riêng,
ở trong nhà thì bỏ học hành, cưỡng gian đầy tớ gái của mẹ, chỉ thét:
“Khóa miệng nó lại, đánh cho chết đi!”
Bọn người hầu không dám trái lệnh, đành phải dằn Bảo Ngọc xuống cái
ghế dài, cầm gậy to, đánh độ mười cái. Bảo Ngọc biết rằng mình có van
cũng chẳng tha nào, đành khóc rống lên. Giả Chính cho là đánh khẽ quá,
đá thằng cầm gậy, rồi giật lấy gậy, đánh thật mạnh mấy cái.
Bảo Ngọc xưa nay chưa từng chịu đau đớn như thế bao giờ, lúc đầu còn
biết đau, khóc ầm lên; đến sau hơi thở dần dần yếu đi, kêu không ra
tiếng. Những môn khách thấy thế, sợ xảy ra chuyện không hay, liền chạy
cả đến khuyên ngăn. Nhưng Giả Chính khi nào chịu nghe? Ông ta nói:
– Các người hỏi xem những việc nó làm có đáng tha hay không? Tội ở
các người ngày thường cứ hay nuông nó để nó hư hỏng thế này, lại còn
đến khuyên ngăn à. Mai đây nó phạm tội giết cha giết vua, thì các người
còn can vào lối nào?
Mọi người thấy câu nói dữ ấy, biết là Giả Chính bực lắm rồi, liền nhao
lên đi tìm người vào báo nhà trong.
Vương phu nhân nghe nói, không kịp đến trình Giả mẫu, liền mặc áo, bất
chấp có người hay không, vịn vào một a hoàn xăm xăm chạy thẳng vào
thư phòng. Bọn môn khách và người hầu đều tránh không kịp.
Giả Chính đương muốn đánh nữa, thấy Vương phu nhân đến, cơn giận
lại càng như lửa cháy đổ dầu thêm. Cái gậy cứ lia lịa vụt xuống càng
nhanh càng mạnh. Hai đứa đè Bảo Ngọc vội buông tay ra. Bảo Ngọc đã
nằm sóng sượt, không cựa quậy được nữa.
[…]
Giả Chính cười nhạt:
– Thôi đừng nói những câu ấy nữa. Đẻ ra cái giống ác nghiệt này, thì tôi
cũng mang tội bất hiếu rồi! Ngày thường hễ tôi quở phạt nó lần nào, là y
như có người đến bênh nó. Chi bằng nhân ngày hôm nay kết liễu cái đời
thằng chó chết này đi để khỏi tai vạ về sau.

.
[…]
Giả Chính thấy thế, lại nước mắt ròng ròng chảy xuống. đương lúc nhốn
nhao, thì a hoàn vào trình: “Cụ đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã nghe ở
ngoài cửa sổ có tiếng nói run run:
– Đánh chết ta trước đã, rồi hãy đánh chết nó, thế là yên chuyện!
Giả Chính thấy mẹ sang, vừa hoảng sợ vừa thương xót, vội chạy ra đón.
Giả mẫu vịn vào một a hoàn đi đến, đầu lắc lư, hơi thở hổn hển.
[…]
Giả mẫu nghe nói nhổ toẹt một cái nói:
– Ta mới nói có một câu, anh đã không chịu được, thế thì anh vác gậy
đánh vùi đánh dập thằng Bảo như thế kia, liệu nó có chịu được không?
Anh nói rằng anh dạy dỗ con cái để làm rạng vẻ ông cha thế thì ngày
trước cha anh đã dạy anh như thế nào?
Nói xong, tự nhiên nước mắt ròng ròng, Giả Chính gượng cười nói:
– Xin mẹ đừng thương cảm làm gì, chỉ vì lúc nãy con nóng tính quá. Từ
giờ trở đi con không dám đánh nó nữa.
Giả mẫu cười nhạt:
– Anh không cần giận lây với tôi. Nó là con anh, muốn đánh thế nào anh
cứ đánh. Chắc rằng mẹ con bà cháu chúng tôi ở đây chỉ làm phiền anh
thôi, chi bằng xa anh ra là hết chuyện.
Nói xong liền sai người: “Sắp sẵn kiệu, ta cùng bà mày và thằng Bảo đi
về Nam Kinh ngay”… Người nhà đành phải vâng lời.
[…]
Trên là một đoạn dài, tôi xin trích những phần quan trọng để giúp người
đọc hình dung một cách tương đối toàn vẹn quang cảnh sự việc. Đây là
phần có tính chất bước ngoặt trong mối quan hệ cha con. Có một số điểm
cần lưu ý:
– Giả Chính tức giận vì Bảo Ngọc quyến rũ tên người hầu của đức vua
Trung Thuận (Tưởng Ngọc Hàm.) Lý do ở đây không phải vì Bảo Ngọc
có khuynh hướng tình yêu đồng giới (chuyện nam giới quý tộc cặp kè với
các con hát nam mỹ miều là chuyện khá phổ biến) mà bởi Bảo Ngọc có
gan đụng chạm đến “tài sản” của một người có địa vị rất cao. Đây là một
hành động có màu sắc đảo lộn tôn ti trật tự – điều Giả Chính không thể
nào chấp nhận.
– Trong tiềm thức Giả Chính có nỗi sợ Bảo Ngọc “giết cha giết vua.” Tôi
không biết Tào Tuyết Cần có biết đến truyền thuyết về Oedipus hay
không, nhưng có lẽ nỗi dè chừng nghi kỵ của người cha với con trai ruột
của mình, như Cronus với Zeus, là một nỗi sợ căn bản của nhân loại?
– Người Trung Quốc nghiêm khắc với con cái, nhưng lại chiều chuộng
cháu. Có lẽ áp lực nuôi dạy con cái nên người theo tiêu chuẩn Khổng
Mạnh quá khắc nghiệt, nặng nề, khiến cho người cha không thể và không
dám bộc lộ lòng thương yêu với con, để lâu ngày dẫn đến chai sạn đi. Chỉ
đến khi được giải phóng khỏi nghĩa vụ đó họ mới có thể bày tỏ tình cảm
dồn nén với cháu mình. Trong một gia đình, người cha nghiêm khắc,
người bà từ bi là một hình ảnh đẹp, nhưng ở đây cả hai trạng thái đó đã bị
đẩy đi quá xa: Giả Chính biến thành một ông thần ác, còn Giả mẫu chiều
chuộng cháu quá đà, cái tình yêu dạt dào đối với cháu của Giả mẫu biến
tướng thành sự ích kỉ và nhẫn tâm với người khác (ruồng rẫy Đại Ngọc.)

Giả Chính đánh đòn Bảo Ngọc


Có nhiều tranh cãi về 40 hồi cuối của Hồng Lâu Mộng. Bản thân tôi cũng
có nhiều điểm lấn cấn về 40 hồi này, nhưng cách xử lý mối quan hệ cha
con giữa Giả Chính-Bảo Ngọc ở đây tôi cho là toàn vẹn. Nhìn trên bề
mặt, Giả Chính đã hoàn toàn thất bại dưới tư cách một người cha nói
riêng và một nhà Nho nói chung. Nhưng chỉ bằng một đoạn ngắn ngủi
trong hồi cuối cùng, Giả Chính đã làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của
người đọc:
Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu ở chỗ
vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói
thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền
chỉ để lại một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định
cho người đi bộ đem về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng
bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người
trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần, mình khoác chiếc áo đi mưa bằng
lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và sụp xuống lạy. Giả
Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy để hỏi.
Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính
còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà
chính là Bảo Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi:
– Có phải Bảo Ngọc không ?
Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi:
– Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ này ?
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến đầu
thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói:
– Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à ?
Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất trơn, vội
vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ
nghe một người nào trong bọn họ hát:
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;
Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với ?
Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang !
Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy nữa.
Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu
nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi:
– Mày có trông thấy ba người vừa rồi không ?
– Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu cũng chạy.
Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.
Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng tuyết tùng
mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về.
[…]
Giả Chính thở dài:
– Chúng mày không hiểu rõ ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ có phải
ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu ? Bảo Ngọc khi
sinh ra, ngậm viên ngọc… cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không
tốt, chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị
hòa thượng và vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy
đến nói về sự linh thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm
nặng, vị hòa thượng đến, cầm viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc
lành; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa
ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong bụng ta lấy làm lạ.
Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao tăng tiên
đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt
cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ!
Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa:
– Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì không nên
đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi ?
– Các người biết sao được ? Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên
núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng. Các
ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu; nhưng hễ nó để
bụng đến thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó
cũng không giống người ta !
Ông ta nói xong, lại than thở.
Lúc này Bảo Ngọc đã ngộ ra trước sau, rũ bỏ bụi trần và lòng si, trở lại
bản thể của mình là hòn đá. Việc Bảo Ngọc đi thi đỗ làm rạng danh tổ
tiên là một hành động mang tính chất tượng trưng – sự báo hiếu cuối cùng
của Bảo Ngọc với cha mẹ. Cùng lúc đó, Giả Chính thoát khỏi lớp vỏ cứng
nhắc lạnh lẽo – tình cảm với đứa con trai rốt cuộc đã sưởi ấm trái tim Giả
Chính, biến ông ta từ một “hòn đá” thành một người cha đích thực. Hồng
Lâu Mộng là một câu chuyện tình viết bằng nước mắt. Nhưng mấy chữ
ngắn ngủi: “Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo.” khiến tôi
xúc động hơn những bài thơ bi luỵ trong truyện. Đối với tôi, cảnh tượng
kinh tâm động phách nhất trong Hồng Lâu Mộng không phải là lúc Đại
Ngọc mất hay Bảo Ngọc đi tu, mà là khi Giả Chính chạy theo ‘nghịch tử’
trên tuyết trong một nỗ lực tuyệt vọng. Người xưa bảo ‘Phóng hạ đồ đao,
lập địa thành Phật’ có nghĩa là buông dao đồ tể thì lập tức thành Phật.
Chỉ trong một giây phút, Giả Chính đã giác ngộ. Ông ta đã được cứu rỗi
bởi tình yêu.

Giả Chính chạy theo Bảo Ngọc trên tuyết


Hồng Lâu Mộng khép lại ở đây. Người đọc không biết, người viết cũng
không cách nào biết được số phận của các nhân vật sẽ tiếp diễn ra sao.
Giả Chính đã gần sáu mươi tuổi, quá già để “xét lại” nhân sinh quan của
bản thân mình. Có lẽ Giả Chính sẽ không bao giờ hiểu rằng chính hệ tư
tưởng Nho giáo đè nén tự nhiên là thứ bóp (gần) chết quan hệ cha con của
ông và Bảo Ngọc. Tình cảm cha mẹ dành cho con cái là thứ tự nhiên nhất
trên đời, nó không thể bị chịu sự sai khiến của bất kỳ thứ giáo lý nào,
cũng không thể bị dập tắt.  Những dấu chân trên tuyết của Giả Chính còn
mãi trên trang sách Hồng Lâu Mộng là minh chứng cho sức sống mạnh
mẽ của tình thương đó.
*

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

9:04 Monday,23.11.2015 Đăng bởi:  An bùi


Mình cảm nhận không như bạn với góc nhìn về tình cha con. Giả Chính và
Bảo Ngọc là sự nghiêm khắc để ác đi phần ẻo lả thiên bẩm của Bảo Ngọc
cùng với sự nâng niu chiều chuộng quá mức của cánh phụ nữ xung quanh. Sự
nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng không hề ác cảm, căm ghét ...', nhưng ẩn chứa
sự tự hào của ông về nét tài hoa hơn nguời của Bảo Ngọc .... Giả Chính đúng
là thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh ....

17:54 Sunday,15.11.2015 Đăng bởi:  Bộc tuệch


"Giả Chính đã gần sáu mươi tuổi, quá già để “xét lại” nhân sinh quan của bản
thân mình. Có lẽ Giả Chính sẽ không bao giờ hiểu rằng chính Hệ Tư Tưởng
Nho giáo đè nén tự nhiên là thứ bóp (gần) chết quan hệ cha con của ông" tác
giả Anh Nguyễn đã đi một trận khủng khiếp qua các thể loại bão tuyết từ đầu
bài để tới một kết luận quan trọng (với bố cháu đây - kẻ mừng hú vì Soi cũng
múc câu này ra để cover bài). Những dấu chân của Nguyễn tác giả trên tuyết
là minh chứng cho 1 cái, moa xin vụng về minh họa, là tiếp cận hệ thống,
khiến cho cả độc giả lẫn các nhân vật của HLM hẳn phải chịu cứng đứ đừ
đừ). Nhưng làm như vây mệt lắm cơ, thời này người ta thích tàu nhanh, dù đi
tắt đón đầu một trân... vẫn thấy mình ở bến cũ lơi xưa (nước đang pt).
Đọc Hồng Lâu Mộng: Tần Khả Khanh – kẻ lẳng lơ trong mộng 29. 10.
14 - 5:53 pm
Anh Nguyễn

Cảnh vườn Đại Quan Viên (tranh không rõ tác giả)


Lời nói đầu: Trong số Tứ đại danh tác, chỉ có duy nhất Hồng Lâu Mộng
vinh dự có cả một ngành học riêng nghiên cứu về nó.
“Hồng học,” hay Redology (theo tên tiếng Anh Dream of the Red
Chamber) đã được khởi xướng từ ngay khi Tào Tuyết Cần còn sống và
đang viết Hồng Lâu Mộng! Trong số những nhà Hồng học nổi tiếng có
Lỗ Tấn, Trương Ái Linh, Vương Côn Luân (Chủ nhiệm Ban cố vấn cho
bộ phim Hồng lâu mộng năm 1987,)…
Hồng Lâu Mộng là niềm tự hào văn chương cực lớn của Trung Hoa, một
pho bách khoa toàn thư về thi ca, hội họa, âm nhạc, ẩm thực, kiến trúc, lễ
nghi,… Người Trung Quốc có câu: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu
Mộng, độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (tạm dịch: Mở miệng ra mà
không nói đến “Hồng Lâu Mộng” thì có đọc hết cả sách cũng uổng phí!).
Mao Trạch Đông cũng từng nói:
”Mỗi người nên đọc cuốn tiểu thuyết này 5 lần trước khi muốn đưa ra
bất kì một nhận xét gì về nó. Dẫu đã từng được cày nát qua nhiều thế kỉ,
cuốn sách với hơn 600 nhân vật độc đáo và đa dạng Hồng Lâu Mộng vẫn
là một kho chứa nhiều điều bí ẩn.”
Tình hình tài liệu nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng ở Việt Nam vẫn còn ít
ỏi và kém phổ cập, người Viết lại không biết tiếng Trung Quốc để có thể
tiếp cận các văn bản Hồng học, nên chỉ muốn viết ra những điều tự mình
ngẫm nghĩ và thu lượm bằng tiếng Anh. Nếu có thiếu sót hoặc trùng lặp,
rất mong được những người yêu Hồng Lâu Mộng chỉ giáo thêm, mục
đích để cùng nhau hiểu thêm về một tác phẩm kinh điển của văn học thế
giới.
*
Một minh họa cho Tần Khả Khanh ở sách Hồng Lâu Mộng
Trong số Kim Lăng thập nhị thoa chính sách (mười hai cô gái đầu bảng ở
Kim Lăng – hiện giờ là Nam Kinh), Tần Khả Khanh là người có thân thế
mơ hồ nhất, ra đi cũng sớm nhất (từ hồi thứ mười ba.) Sự xuất hiện của
nhân vật này ngắn ngủi đến mức nhiều người không nhớ ra Tần Khả
Khanh là ai trong số hơn 400 nhân vật của Hồng Lâu Mộng. Nhưng thật
vô cùng thiếu sót nếu phủ nhận sự phức tạp và ngòi bút tinh tế của Tào
Tuyết Cần trong việc mô tả nhân vật này, thậm chí nhà Hồng học Lưu
Tâm Vũ còn đề xuất Tần học – chi nghiên cứu riêng về Tần Khả Khanh.
Cuộc sống và cái chết của Tần Khả Khanh có rất nhiều điều bí ẩn. Điều
khiến nhiều người ngờ vực nhất là mối quan hệ loạn luân giữa Khả
Khanh và bố chồng là Giả Trân, mặc dù không có một lời nào
trong Hồng Lâu Mộng khẳng định chắc chắn điều đó. Trong bài viết này
chúng ta hãy cùng xem lại một lượt những đầu mối của tác giả để xác
định tính thật hư của giả thuyết trên.
*
Tần Khả Khanh xuất hiện từ hồi thứ năm, qua con mắt của chàng trai mới
lớn Giả Bảo Ngọc, với vai trò là cháu họ.
Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ trưa. Giả mẫu định sai người
đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ Tần, vội cười nói:
– Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo nghỉ rồi, xin cụ yên lòng, cứ
giao chú ấy cho cháu là được.
Giả Bảo Ngọc sau đó được Tần thị (Khả Khanh) dẫn đến một căn phòng
có bức vẽ Nhiên lê đồ và câu đối khuyên răn chăm học. Là kẻ lười biếng,
ghét thi thư, cậu ta không thích, nằng nặc không chịu ngủ. Tần thị liền
dẫn cậu ta tới buồng ngủ riêng của mình. Hành vi này không hẳn là
thương phong bại tục, song cũng không tề chỉnh. Văn hóa Trung Quốc
giới hạn quan hệ giới tính ngay cả trong gia đình cũng rất khắc nghiệt, có
câu “chị dâu em chồng không được nói chuyện với nhau.” Tác giả khéo
léo để người hầu lên tiếng bày tỏ sự không đồng tình, nhưng Tần thị liền
mau chóng gạt đi.
Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già nói:
– Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu dâu?
Tần thị cười nói:
– Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy đã lớn đâu mà phải e dè?
Tần Khả Khanh qua nét vẽ họa sĩ Trung Quốc
Cần phải nhớ rằng, trong toàn bộ câu chuyện, đây là lần đầu tiên Giả Bảo
Ngọc vào buồng ngủ của một người phụ nữ mà không phải bà và mẹ ruột.
Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đời Bảo Ngọc, bởi nó là
sàn diễn để gặp nàng tiên Thái Hư ảo cảnh, người đánh thức bản năng
đàn ông trong người chàng ta. Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, trừ phòng
ngủ của chính Bảo Ngọc, có lẽ đây là căn phòng ngủ được miêu tả kỹ
càng và khêu gợi nhất.
Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng có mùi
thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn ra, nói ngay:
– Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa “Hải đường xuân thụy” của
Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời
Tống:
Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.
Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên đời Đường. Một bên
bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến đã đứng lên múa, trên mâm để quả
dưa mà An Lộc Sơn đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng trước kê một
cái giường báu của công chúa Thọ Xương nằm ở điện Hàm Chương, mắc
cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương dệt ra.
Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:
– Ở đây tốt! Ở đây tốt!
Tần thị cười:
– Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.
Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi đã giặt,
và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa.
Bằng ngòi bút, Tào Tuyết Cần vẽ nên một căn phòng có cả hương và sắc,
đầy những chi tiết gợi cảm. Dường như phòng ngủ của Tần Khả Khanh là
một địa điểm hoàn hảo để trải nghiệm những cảm xúc mê mệt. Những mỹ
nhân được nêu lên trong đoạn trên gồm những ai? Chỉ cần một cái liếc
mắt cũng đủ thấy: Triệu Phi Yến, Dương Quí Phi, Võ Tắc Thiên, Tây
Thi. Không ngẫu nhiên mà họ toàn là những “hồng nhan họa thủy,” làm
tan nát bao vương triều. Chẳng những thế, Dương Quí Phi và Võ Tắc
Thiên còn là hai mỹ nhân nổi tiếng vì có quan hệ bất chính với bố chồng.
Ngoài ra, tuy Tào Tuyết Cần cố tình không nói rõ, các nhà Hồng học đã
chỉ ra bức vẽ “Hải đường xuân thụy” không phải vẽ hoa hải đường ngày
xuân như tên gọi, mà vẽ một người đàn bà quần áo lả lơi nằm ngủ ngày.
Là cậu bé mới lớn, dĩ nhiên Bảo Ngọc thích bức vẽ đó hơn bức tranh
“khuyến học” Nhiên lê đồ. Có thể nói một cách hình tượng rằng qua việc
chọn lựa này, Bảo Ngọc đã không vượt qua được thử thách đầu tiên của
dục vọng. “Người làm sao của chiêm bao làm vậy,” trong Hồng Lâu
Mộng điều này càng rõ hơn: nơi ở của một người chính là hiện thân tính
cách người đó, như Đại Ngọc có Tiêu Tương quán sầu bi, Bảo Thoa có
Hành Vu uyển thoáng đãng. Buồng ngủ của Tần Khả Khanh như vậy,
nàng ta không thể là người đoan chính mẫu mực.
Tần Khả Khanh trong phòng ngủ
Đoạn sau mới thật là gây bất ngờ. Được ấp ủ trong những thứ chăn gối đã
từng được các mỹ nhân sờ mó, ôm ấp, hít ngửi mùi thơm của Tần Khả
Khanh, Bảo Ngọc nhanh chóng đi vào “giấc mơ ướt” đầu tiên trong đời.
Điều đáng nói là chính Tần Khả Khanh là người dắt tay cậu ta vào cõi
mơ.
Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ say. Tưởng như Tần thị còn
đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần Thị đi đến một chỗ
lan can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong veo,
không có một tí dấu vết bụi trần.
Và sau đó, tiên cô đã gả cho Bảo Ngọc một nàng tiên có tên Kiêm Mỹ,
tên chữ là Khả Khanh, vừa đẹp như Bảo Thoa, vừa dịu dàng như Đại
Ngọc. Đây là người đầu tiên “mây mưa” cùng cậu Bảo. Cái tên “Kiêm
Mỹ” có nghĩa là được cả hai cái đẹp, tác giả lại nhấn mạnh thêm bằng
việc chỉ ra cô ta là người kết hợp tinh túy của Đại Ngọc và Bảo Thoa. Cái
tên Khả Khanh là tên tục của Tần thị, cả nhà Giả phủ không ai biết,
nhưng tác giả dùng giấc chiêm bao để nói lên rằng: Tần Khả Khanh chính
là người bạn tình lý tưởng trong tiềm thức Bảo Ngọc. Freud sẽ nói gì về
điều này? Quả thật là “Một hồi mộng kín chờ ai đấy? Nghìn thuở tình
ngây một tớ thôi.” Kể từ đó, nhân vật Tần Khả Khanh đã nhuốm màu dục
tính. Tuy nhiên để đi đến kết luận Tần Khả Khanh gian dâm với bố
chồng, ta cần đi tiếp một vài chương nữa.

Bảo Ngọc dan díu với nàng tiên trong mơ


*
Đến hồi bảy, Giả Bảo Ngọc và Vương Hy Phượng sang thăm phủ nhà
Tần thị. Khi ở đó, chúng ta được giới thiệu với Tiều Đại, một người nô
bộc cũ của Ninh quốc công. Trước đã từng được trọng dụng, song về già,
Tiều Đại dần trở nên ngang ngạnh, ngỗ ngược, phát ngôn không nể nang
ai.
Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào
chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm
lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những
giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào ‘Tiểu thúc’, nào ‘Ba
hôi’, loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy
giấu vào trong ống áo nữa!”
“Tiểu thúc” là gì? Là em chồng nằm với chị dâu. “Ba hôi” là gì? Là bố
chồng nằm với con dâu. Tiều Đại chỉ xuất hiện đúng một lần, vai trò của
y trong Hồng Lâu Mộngkhông có gì ngoài thốt lên những lời buộc tội sự
bất luân của phủ Ninh. Tác giả thậm chí còn cố tình nhét tên Giả Trân vào
đoạn này để người đọc “không chệch đi đâu được.” Liệu có thể gạt đi, coi
là những lời Tiều Đại nói càn lúc say rượu chăng? Nên nhớ rằng, Hồng
Lâu Mộng tưởng chừng toàn ghi chép những chuyện vụn vặt không đầu
không cuối, song thực ra không có chi tiết nào là thừa. Tào Tuyết Cần để
cho Tiều Đại ngang nhiên thốt ra những câu nhưng thế, không thể không
có ẩn ý. Trong gia đình nhà Giả Trân, cặp bố chồng-con dâu duy nhất mà
ta biết là Tần Khả Khanh-Giả Trân. Xem ra, mối quan hệ này không
trong sáng lắm, đến nỗi kẻ trong truyện cũng bàn tán, xì xào. Tào Tuyết
Cần đã mượn lời một người nô bộc hèn mọn để nói bóng gió về nội tình
nhà Giả Trân.

Một tưởng tượng về Tần Khả Khanh


*
Những hồi sau có thể tóm tắt như sau: Tần Thị ốm, rồi chết. Gia đình tổ
chức đám ma linh đình. Một cái chết đơn giản? Không hẳn. Theo ý nhiều
người, Tào Tuyết Cần đã khéo léo giấu đi một câu chuyện đen tối hơn
giữa những con chữ: Tần Khả Khanh thực sự có quan hệ với bố chồng, bị
hai tỳ nữ phát hiện, nên tự tử chết. Lúc chết còn có mang thai hai tháng.
Các dẫn chứng sau cho thấy giả thuyết này không hoang đường như ta
tưởng.
*
Bài tiếp theo: 5 dẫn chứng về mối quan hệ “mờ ám” của Tần thị trong
phủ
*

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

8:45 Monday,21.5.2018 Đăng bởi:  Sơn Nguyễn


Ý kiến về Tiều Đại: 
'Ba hôi' thì Tiều Đại có thể chứng kiến, chứ 'tiểu thúc' thì chỉ mình Bảo Ngọc,
Tập Nhân, và các đọc giả biết mà thôi.  Ngay cả Tần thị cũng không biết.  Do
vậy, để câu này Tiều Đại nói hơi vô lý, ngoại trừ 'tiểu thúc' hàm ý không phải
Bảo Ngọc, và như vậy thì là ai? Giả Thuỵ? Giả Tường?  Hoặc giả Tiều Đại
thấy Bảo Ngọc vào phòng của Tần thị, và theo ông, bao nhiêu đó cũng đủ cho
Tần thị ngoại tình.   
Tiều Đại xuất hiện thêm lần nữa ở một chương 105: 
Giả Chính đi ra ngoài xem, thấy là Tiều Đại, liền hỏi: 
- Tại sao anh lại chạy đến đây! 
Chương 111, lúc Uyên Ương tìm cách tự tử, thấy Tần Khả Khanh, rõ ràng
Tần Khả Khanh treo cổ chết, chớ không phải bị bệnh: 
- Việc này cũng có duyên cớ, để tôi nói với chị sẽ rõ. Nguyên trong cung
Cảnh Ảo, tôi vốn đứng đầu trong lớp chung tình, trông coi duyên nợ gió
trăng. Khi xuống trần gian, phải làm người tình nhân thứ nhất, để đưa bọn
con gái si tình mau mau về ty tình. Vì thế tôi phải treo mình trên xà nhà thắt
cổ . Nhưng tôi hiểu rõ tình đời thoát ra bể ái, về với trời tình; nên tuy si tình
trong Thái hư ảo cảnh, không có người trông coi. Nay nàng tiên Cảnh Ảo đã
lấy chị xung vào, thay tôi trông coi ty ấy. Cho nên sai tôi đi dẫn chị đến đây. 

8:02 Saturday,17.12.2016 Đăng bởi:  admin
Đây là comment của Anh Nguyễn cho bài này nhưng gửi nhầm vào bài khác.
Soi xin gắn lại vào bài này cho đúng:
@Hương: "chú trẻ" này chính là ... Bảo Ngọc. Tần Khả Khanh lại dính đến
Bảo Ngọc á? Rất có thể đấy nhưng Tào không viết rõ ra. Sao lại không viết
rõ? Vì ...bố bảo không được. Hôm nào mình sẽ viết một bài về vụ này, mời
bạn đọc.

5 dẫn chứng về mối quan hệ “bất chính” của Tần thị 31. 10. 14 - 6:09 am
Anh Nguyễn

Tiếp theo bài 1
… Tần Thị ốm, rồi chết. Gia đình tổ chức đám ma linh đình. Một cái chết
đơn giản? Không hẳn. Theo ý nhiều người, Tào Tuyết Cần đã khéo léo
giấu đi một câu chuyện đen tối hơn giữa những con chữ: Tần Khả Khanh
thực sự có quan hệ với bố chồng, bị hai tỳ nữ phát hiện, nên tự tử chết.
Lúc chết còn có mang thai hai tháng. Các dẫn chứng sau cho thấy giả
thuyết này không hoang đường như ta tưởng.

Tranh của Gai Qi (1816) vẽ một cảnh trong Hồng Lâu Mộng

5 dẫn chứng, xếp từ ít “đáng nghi” nhất:


1. Dẫn chứng một: thái độ của mẹ chồng Tần Khả Khanh.
Mẹ chồng Tần Khả Khanh là Vưu thị, qua lời nói có vẻ rất thương yêu
con dâu. Ta hãy xem đoạn bà ta nói chuyện với Kim thị về bệnh tình Tần
thị:
Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát yến sào rồi mới về đây. Thím tính thế
có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không có thầy thuốc nào hay. Nghĩ
đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm. Thím có biết ai chữa
thuốc giỏi không?
Thật là mối quan hệ mẹ chồng-con dâu kiểu mẫu! Cũng không quá khó
tin, vì tác giả đã thiết lập cho Tần Khả Khanh là con người dịu dàng khéo
léo, rất được lòng người. Song khi con dâu chết thì bà ta thế nào? Không
xuất hiện lấy một lần. Tác giả khéo léo để cho Vưu thị “bị bệnh dạ dày tái
phát, ốm liệt giường,” không thốt ra một câu một chữ nào về con dâu nữa.
Ngay cả trong đám tang Khả Khanh, Vưu thị vẫn ốm nằm trong buồng!
Tác giả nhắc đến điều này ba lần, ắt phải có dụng ý. Sự IM LẶNG và
VẮNG MẶT của Vưu thị tương phản rõ rệt với nỗi ai oán, gào khóc xé
ruột gan của ông bố chồng. 

Giả thuyết: Vưu thị phát hiện mối quan hệ nhơ nhuốc của chồng và con
dâu, nhưng phải giữ thể diện, nên không thể làm rùm beng, đành chọn
cách nghiến răng giấu mặt.
2. Dẫn chứng hai: thái độ của chồng Tần Khả Khanh.
Tần Khả Khanh là vợ của Giả Dung, cháu của Phượng Thư. Hồng Lâu
Mộng xác lập Giả Dung là một thanh niên bảnh bao, khéo nói, lại rất hay
đùa bỡn phụ nữ. Tuy nhiên trong toàn bộ câu chuyện, ta không hề thấy
một giây phút ân cần nào giữa hai vợ chồng. Cách Tào Tuyết Cần viết
khiến Giả Dung giống như một người câm điếc khi có mặt vợ vậy. Ngược
lại, khi Giả Dung ở cùng Vương Hy Phượng, anh ta lả lướt, lúng liếng,
sống động, nhấm nháy. Thái độ “đầu mày cuối mắt” của hai người không
qua được mắt chồng Phượng Thư là Giả Liễn, càng không qua được mắt
bạn đọc. Giả Dung và Vương Hy Phượng ngọt ngào với nhau thế nào?
Xin xem đoạn Giả Dung đến mượn Phượng Thư cái bình phong pha lê:
Giả Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:
– Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo nói, lại bị
một trận đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.
– Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà cháu
bao nhiêu đồ đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.
Phải chăng Phượng Thư cố tình nói kháy, ví Khả Khanh là “đồ đẹp” nhà
Giả Dung, còn nói móc chàng ta tham lam, cái gì cũng muốn “cuỗm về”?
Chắc hẳn vậy, bởi chỉ vài câu sau, ta có đoạn văn đầy tình ý:
Phượng Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi :
– Cháu Dung hãy trở lại đây.
Mấy người bên ngoài gọi theo:
– Cậu Dung hãy trở lại.
Giả Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.
Phượng Thư cứ lẳng lặng uống nước, rồi ngẩn một lúc rồi mặt tự nhiên
đỏ bừng lên, cười nói:
– Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ đương có
người, ta chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.
Sao má nàng ta lại đỏ, sao lại không dám nói chỗ đông người mà hẹn đến
cơm chiều xong gặp lại? Không cần nói cũng đoán được. Và khi Tần Khả
Khanh chết thì sao? Xin thưa, trong ba chương nói về cái chết và đám
tang của vợ, Giả Dung cũng không xuất hiện lấy một lần! Anh ta chỉ xuất
hiện qua lời của ông bố, vì Giả Trân muốn mua cho con một chức quan
để viết lên tờ phướn cho đẹp. Rõ thật đáng sợ chưa! Cũng như trên, sự
lãnh đạm, vô tình, thậm chí bạc tình của Giả Dung đối nghịch rõ rệt với
sự thương tiếc của Giả Trân. Đây không thể là một mối quan hệ vợ chồng
bình thường được. Không những thế, sau khi vợ chết, anh ta liền mau
chóng đi lấy vợ khác, lại tằng tịu cả với hai người em gái của Vưu thị.

Giả thuyết: Hoặc Giả Dung thờ ơ khiến Tần Khả Khanh ngoại tình, hoặc
Tần Khả Khanh gian dâm khiến Giả Dung chán ghét vợ. 
Phượng Thư

3. Dẫn chứng ba: thái độ của bố chồng Tần Khả Khanh


Đương nhiên đã tìm cách chứng minh Tần Khả Khanh thông gian với Giả
Trân thì không thể nào bỏ qua sự “quá đà” của nhân vật này. Ai
đọc Hồng Lâu Mộng chắc cũng phải cảm thấy “gờn gợn” vì sự vồ vập
thái quá của Giả Trân đối với nàng dâu. Cũng như Giả Dung thờ ơ với vợ
mình, Giả Trân cũng thờ ơ với Vưu thị, song lại hết sức hết lòng với Tần
Khả Khanh. Gia đình Tần Khả Khanh không giàu có, về mặt môn đăng
hộ đối không thể sánh với nhà họ Giả, song nàng ta được hết mực cưng
chiều như nàng công chúa, thậm chí em trai là Tần Chung cũng được tự
do ra vào trong phủ, đi học cùng Bảo Ngọc. So ra mà nói, Tần Chung còn
được đối xử tốt hơn cả Giả Hoàn – em cùng cha khác mẹ của Bảo Ngọc.
Sự phân biệt này là do đâu? Nếu chỉ vì Tần Khả Khanh tốt tính, tận hiếu
với bố mẹ chồng, thì xem ra cũng chưa đủ. 
Hãy xem một số ví dụ.
Khi Tần Khả Khanh bị ốm, Giả Dung thõng tay không can dự, còn bố
chồng là Giả Trân thì xông xáo đi tìm thầy thuốc. So với thái độ thờ ơ, vô
tâm với đàn bà trong nhà của Giả Kính, Giả Chính, Giả Xá, Giả Liễn thì
thật khác một trời một vực! Đến khi Tần thị chết rồi, ông ta thế nào?
Giả Trân khóc sướt mướt, nói với bọn Giả Đại Nho:
– Tất cả lớn bé trong nhà, bè bạn gần xa, ai cũng khen con dâu tôi khôn
ngoan hơn con trai nhiều. Nay nó mất đi, đủ biết nhành trưởng này lụn
bại mất!
Nói xong lại khóc, mọi người khuyên giải:
– Người đã chết rồi, khóc cũng vô ích, ông nên lo liệu ngay việc ma chay
là hơn.
Giả Trân đập tay, nói:
– Lo liệu gì! Chẳng qua có bao nhiêu tiền làm hết bấy nhiêu thì thôi!
Giả Trân thấy cha không nhìn đến tiền bạc, thì tha hồ phung phí. Lúc tìm
áo quan, nghe Tiết Bàn gạ gẫm, liền mua ngay loại gỗ quý nhất, vốn chỉ
dành cho bậc vương công. Có một câu vô cùng đáng nghi:
Giả Trân nghe nói, cảm tạ luôn mồm, sai cưa ra và gắn sơn ngay. Giả
Kính khuyên:
– Người thường thì không nên dùng thứ này, tìm thứ gỗ tốt là được.
Giả Trân không thể chết thay cho Tần thị, khi nào lại chịu nghe.
Giả Trân lại còn “thương xót quá không ăn uống được,” rồi “đang ốm, lại
vì quá thương xót, nên chống gậy bước vào.” Nếu một người không biết
đầu đuôi câu chuyện, chỉ đọc mấy câu trên, ắt tưởng Giả Trân là tình nhân
của Tần Khả Khanh, chứ nào phải cha con chồng! Qua những chương
sau, ta lại càng thấy rõ bộ mặt của Giả Trân. Ông ta cùng con trai Giả
Dung có quan hệ bất chính với hai cô em gái của Vưu thị, thậm chí ngay
lúc để tang cha ruột còn mở xới đánh bạc, thuê kỹ nam trẻ tuổi về chơi
bời. Tư cách của Giả Trân quả thực rất đáng khinh bỉ.

Giả thuyết: không cần nói cũng hiểu quan hệ của Giả Trân-Tần Khả
Khanh không phải mối quan hệ cha con bình thường.
4. Dẫn chứng bốn: thái độ hai người hầu gái của Khả Khanh
Đến đây lại phải nhờ đến ông Du Bình Bá, một trong những nhà Hồng
học kỳ cựu, lỗi lạc. Các tác phẩm nghiên cứu của ông đã mở ra một con
đường mới của phái Tân Hồng học, đổi lại bản thân ông phải chịu không
ít gian nan trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Trong phần bàn về cái chết
của Tần Khả Khanh, ông có nêu lên một thuyết mới lạ, nhờ phân tích
đoạn dưới đây:
Thấy Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu vào cột chết theo,
câu chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen ngợi. Giả Trân
cho làm ma theo lễ “cháu gái”, cũng rước linh vào gác Đăng Tiên trong
vườn Hội Phương. Lại có một a hoàn tên là Bảo Châu, thấy Tần thị
không có con, xin làm con nuôi giữ tang lễ như con đẻ. Giả Trân mừng
lắm, cho gọi là tiểu thư. Bảo Châu theo lễ con gái chưa gả chồng ngồi
bên linh cữu khóc than thảm thiết.
Mới đọc qua, không có gì lạ. Nhưng một chữ “cũng” trong câu “Thấy
Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu vào cột chết theo, câu
chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen ngợi.” khiến ta phải
ngẫm nghĩ. Khi tôi kiểm tra lại, chữ “cũng” này có mặt trong cả nguyên
bản tiếng Trung và bản dịch tiếng Anh nên không thể là do lỗi của dịch
giả. Có thể bảo, ừ thì a hoàn cùng chết theo chủ, nhưng phải chăng Tào
Tuyết Cần ngụ ý rằng Tần Khả Khanh đã tự vẫn trước? A hoàn thứ hai
xin làm con nuôi, vì sao? Theo thuyết của Du Bình Bá, chính hai a hoàn
này đã chứng kiến cảnh gian díu của Tần Khả Khanh với Giả Trân, dẫn
đến việc Tần Khả Khanh xấu hổ tự sát. Vì quá hối hận, một a hoàn tự tử,
a hoàn kia xin làm con nuôi để chuộc tội. Nếu không có gì bất thường,
một a hoàn sao dễ làm con nuôi nhà chủ được, kể cả chủ có quy tiên đi
chăng nữa! Sự “mừng lắm” của Giả Trân càng khiến ta phải nghi ngờ. Ở
cuối hồi 15, a hoàn Bảo Châu còn không chịu về lại phủ, quyết ở lại chùa
Thiết Hạm. Hoặc cô ta bị Giả Trân đe dọa, tống đi xa khuất mắt, hoặc
chính cô ta sợ về phủ Giả nhiều cạm bẫy, tóm lại, chi tiết này cũng thật
kỳ lạ.

Giả thuyết: hai nữ tỳ này góp phần không nhỏ dẫn tới kết cục thảm
thương của Tần Khả Khanh.
Tranh của Gai Qi (1816) vẽ một cảnh trong Hồng Lâu Mộng

5. Dẫn chứng năm: cuốn sổ Kim lăng thập nhị thoa chính sách
Đây là bằng chứng quan trọng nhất. Khi Bảo Ngọc lạc vào Thái Hư ảo
cảnh, có được nàng tiên mở tủ cho xem cuốn sổ ghi số mệnh mười hai cô
gái đẹp trong truyện. Lần lại, có thể đoán ra số phận từng người một. Ví
dụ:
Giàu sang cũng thế thôi.
Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,
Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.
Là Sử Tương Vân
Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người đều yêu mến bực cao tài,
Một theo hai lệnh, ba thôi cả
Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.
Là Vương Hy Phượng
Than ôi có đức dừng thoi,
Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai treo đai ngọc giữa rừng
Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?
Đích thị là Lâm Đại Ngọc
Thế nhưng trong quần thoa đó, không ai có số phận hợp với mỹ nhân cuối
cùng:
Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ nhân treo cổ tự tử. Có mấy câu
phán:
Trời tình, bể tình là mộng ảo,
Mà tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Chiếu theo bài thơ này, thì Tần Khả Khanh là phù hợp nhất. Trong những
chị em còn lại, không có ai tự tử. Cái chết của Tần Khả Khanh lại là cái
chết đột ngột. Theo tiên lượng của thầy thuốc, nàng ta có thể cố trụ qua
mùa đông, hơn nữa căn bệnh của Tần Khả Khanh (triệu chứng giống ho
lao), không phải căn bệnh có thể đột tử qua đời. Chính vì thế mà khi nghe
tin nàng chết, cả phủ đều “bàng hoàng, không ai tin là thật.” Phượng Thư
nghe tin thì “thất kinh, toát mồ hôi, ngẩn người ra một lúc,” Giả Bảo
Ngọc thì “vội vùng trở dậy, ruột đau như cắt, không ngờ ọe một cái, khạc
ra một cục máu.” Nếu cái chết của Tần Khả Khanh không quá bất ngờ thì
phản ứng của mọi người không thể dữ dội như vậy! Do đó nói Khả
Khanh chết vì bệnh là vô lý. Trước khi mất, Tần Khả Khanh còn có các
triệu chứng giống như đã mang thai. Vấn đề này được các bà các cô trong
phủ suy đoán không ít, thậm chí Vưu thị còn bảo ít nhất một thầy thuốc
bảo rằng cô ta có bầu. Vì vậy có thể loại bỏ khả năng Tần Khả Khanh bị
lên cơn bệnh đột ngột mà chết. Ngược lại, trường hợp Khả Khanh có thai
với bố chồng, lại bị người hầu phát hiện, quẫn trí tự sát rất có thể đã xảy
ra.
Tần Khả Khanh
Lại xét câu “Trời tình, bể tình là mộng ảo.” Nhân vật Khả Khanh trong
giấc mơ Thái hư ảo cảnh của Bảo Ngọc chính là cái tôi thứ hai của Tần
Khả Khanh (alter ego), cô ta cũng là đối tượng si mê trong mộng của Bảo
Ngọc – một sự kéo dài từ tình yêu của Bảo Ngọc với chị ruột của cậu ta,
Nguyên Xuân. Khả Khanh trong mơ và Khả Khanh ngoài đời tuy hai mà
một, tuy một mà hai. Cái “tình” của Khả Khanh “thật” ở cõi diêm phù
này cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi.
Lại xét câu “Mà tội dâm kia cũng bởi tình.” Trong mười hai thoa, chỉ có
duy nhất mỹ nhân này bị gắn chữ “dâm.” Trừ Tần Khả Khanh, mười một
người kia, có kẻ độc ác, có kẻ vô tình, nhưng thật khó dùng chữ “dâm” để
gán cho bất kỳ ai trong họ. Chính bởi chữ “dâm” này mà Tần Khả Khanh
bị xếp hàng gần bét trong mười hai thoa, chỉ hơn có Giả Xảo Thư. Lật
lại Hồng Lâu Mộng nguyên cảo còn có đề mục “Tần Khả Khanh dâm
táng Thiên Hương Lầu” ở hồi mười ba, lúc Khả Khanh qua đời cơ mà!
Đủ thấy ý Tào Tuyết Cần đã cho số phận Tần Khả Khanh không thoát
khỏi chữ “dâm,” dù sống hay chết.
Xét hai câu cuối:
Đầu têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”.
Để dễ phân biệt, bên Giả Chính, Giả Bảo Ngọc là phủ Vinh, còn bên Giả
Trân, Giả Dung là phủ Ninh. Hai câu này có thể hiểu rằng: Bảo Ngọc “hư
hỏng” quan hệ với nàng Khả Khanh trong mộng, xong cái nghiệp của
nàng ta là do phủ Ninh gây ra. Nếu không vì Giả Trân “đầu têu” làm nhơ
nhuốc nàng thì nàng đã không trở thành một “dâm nữ” và phải tự kết liễu
cuộc đời.
Kết thúc lại, khúc hát Hồng Lâu Mộng của Tần Khả Khanh nói rõ hơn
hết:
Xuân đi hương vẫn còn rơi,
Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì ai ?
Nhà suy bởi tại Kính rồi,
Nhà tan trước hết tội thời tại Ninh.
Gây nên oan trái vì tình.
Em trai Tần Khả Khanh là Tần Chung rồi cũng chết vì trót yêu cô tiểu Trí
Năng. Tên của hai chị em, Tần Thị – Tần Chung lại đồng âm với Tình
Thủy (đầu) – Tình Chung (cuối), nên có thể coi họ là hai đầu của quang
phổ tình ái vậy. Cái chết của Tần thị, Tần Chung, và Giả Thụy là những
“câu chuyện cảnh giác” đầu tiên của Hồng Lâu Mộng, ám chỉ bóng gió
đến những bi kịch còn ở phía trước. Tần Khả Khanh là một nhân vật
mang tính biểu tượng hơn là thực tế, vừa như Vệ Nữ, vừa là kẻ đầu tiên
hy sinh vì tình trong truyện.
Kết luận: dựa trên những dẫn chứng trên, có thể kết luận mười phần chắc
đến tám, chín về sự thật đằng sau cuộc đời, số phận, và cái chết của Tần
Khả Khanh. Tuy nhiên những tầng lớp vô cùng tinh tế của Hồng Lâu
Mộng luôn là thử thách lớn cho những kẻ đam mê. Người viết xin được
nhận sự góp ý, tranh luận của người đọc để chúng ta cùng phân tích,
khám phá thêm tác phẩm này một cách trọn vẹn nhất có thể.
*
Ý KIẾN - THẢO LUẬN

11:24 Sunday,4.2.2018 Đăng bởi:  NMH
Ngày xưa đọc HLM mấy lần vẫn không hiểu mỹ nhân treo cổ tự tử trong
KLTNT Chính sách là người nào. 
Đoán tới đoán lui nghĩ là Vưu Nhị Thư  (căn theo 2 câu cuối) mà ngẫm lại
vẫn thấy không ổn vì: 
- Vưu Nhị Thư có ghi rõ là "nuốt vàng hóa kiếp" 
- Không rõ vì sao Vưu Nhị Thư xứng đáng được đưa vào Chính sách 
Đọc bài này mới vỡ ra.

8:03 Monday,30.1.2017 Đăng bởi:  Lily Nguyen


Tôi xin bổ sung một chi tiết khẳng định Tần Khả Khanh đã treo cổ tự tử. Đó
là đoạn Uyên Ương tìm cách tự tử sau khi Giả mẫu qua đời. Cô ta vào cái
buồng nhỏ thì thấy hình bóng Tần Thị bày cho cách chết bằng cách treo cổ.
Sau đó "hồn thiêng" chị ta đi theo và gọi "mợ cả Dung ơi đợi tôi với" ...
Hai chị em nhà họ Vưu: càng lăng loàn tợn càng đau vì tình 12. 11. 14 -
6:16 am
Anh Nguyễn

Hồng Lâu Mộng tuy là bức tranh gấm màu rực rỡ thêu vòng trong vòng
ngoài, càng ngắm càng sâu, song sợi chỉ tơ xuyên suốt tác phẩm là nghiệp
chướng của ái tình. Ngoại trừ Giả Mẫu ra, gần như cái chết nào trong
chuyện cũng là chết vì tình. Ở bài trước ta đã bàn đến cái chết của Tần
Khả Khanh, “Trời tình, bể tình là mộng ảo. Mà tội dâm kia cũng bởi
tình.” Sang bài này, ta sẽ xem xét đến số phận hai chị em họ Vưu. Sở dĩ
gộp chung lại vì tác giả cố ý cho họ làm chị em, vận mệnh của họ vốn
không thể tách rời, ngay cả nguyên do đẩy họ đến cái chết cũng cùng một
gốc rễ.
Hồng Lâu nhị Vưu (tranh minh họa sách Hồng Lâu Mộng (?), không rõ
tác giả)
Vưu nhị thư và Vưu tam thư là hai cô em gái của Vưu thị, vợ hai Giả
Trân bên phủ Đông. Giả Trân còn có một người con trai lớn là Giả Dung,
chồng Tần Khả Khanh. Hai bố con này là người thế nào? Dâm ô, xấu xa,
ăn chơi, bệ rạc, đủ trò không gì không làm, xem ra còn tệ hơn cả Tiết
Bàn. Hai cô em gái Vưu thị cũng không phải loại vừa, vừa xinh đẹp
phong lưu, lại lẳng lơ phóng đãng. Lần đầu họ xuất hiện trong truyện đã
đùa cợt cùng Giả Dung:
Hắn vờ làm bộ run sợ, ôm đầu lăn xả vào lòng dì Hai xin tha tội. Dì Ba
quay mặt đi, nói:
– Chờ chị về sẽ mách cho nó!
Giả Dung cười, quỳ xuống giường xin tha tội, làm cho cả hai người cười
ồ lên. Giả Dung lại vồ nắm sa nhân của dì Hai để ăn. Dì Hai nhai bã sa
nhân đầy mồm nhổ toẹt vào mặt, hắn thè lưỡi liếm hết. Bọn a hoàn thấy
trái mắt, đều cười, nói:
– Cậu vừa có tang, bà ngoại lại mới ngủ. Hai cô tuy trẻ tuổi nhưng đều là
bậc dì. Cậu không coi bà ra gì à! Khi ông về bà sẽ mách, liệu cậu chạy
đằng nào cho thoát!
Đúng như Giả Liễn dự đoán, hai chị em họ Vưu đều có quan hệ bất chính
với anh rể và cháu trai. Nhưng nếu nhà văn còn bóng gió chuyện của Tần
Khả Khanh, thì đối hai chị em họ Vưu thì Tào Tuyết Cần tung hê hết ra.
Nét đẹp của họ cũng khác hẳn với vẻ băng thanh ngọc khiết của các cô
tiểu thư trong phủ Giả:
Dì Ba tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài, vén tóc mai lên, chỉ mặc một cái
áo lót đỏ, nửa kín nửa hở, cố ý để lộ bộ ngực trắng nõn ra, dưới mặc
quần xanh, đi giày đỏ, trông rất lộng lẫy. Lúc đứng lúc ngồi, khi vui khi
giận, không có một phút nghiêm trang, đôi khuyên cứ lủng lẳng như đánh
đu; dưới ánh đèn, trông càng tỏ ra mày liễu xanh rờn, môi son đỏ chót,
đôi mắt như nước mùa thu, lại uống mấy chén rượu, càng thêm lẳng lơ
khêu gợi.
Thế nhưng điều khó ngờ nhất đã xảy ra. Hai chị em Vưu nhị thư, Vưu
tam thư nếu cứ “ngoan ngoãn” làm “gái hư” thì đã đành. Họ sẽ được liệt
vào hạng xấu xa vô loài, tác giả cũng không cần tốn thêm bút mực để viết
về họ nữa. Vấn đề là họ lại vướng vào lưới tình, yêu thật sự, si mê thật
sự! Đây là sự khởi đầu của hai tấn bi kịch.
Người mà Vưu nhị thư đem lòng yêu là ai? Chính là Giả Liễn.
Giả Liễn (tranh không rõ tác giả, thuộc loại fanart của Hồng Lâu
Mộng?)
Từ đầu truyện, hình ảnh Giả Liễn trong mắt độc giả vốn không được sáng
sủa cho lắm. Chàng ta là kẻ thích mèo mỡ, nếu không vì sợ lọ “dấm
chua” của Phượng Thư, ắt đã ăn chơi thỏa thích gấp mười. Tuy nhiên lúc
nào hở ra được vợ cho ngủ riêng (khi Xảo Thư bị bệnh đậu mùa, phải
kiêng chẳng hạn) là chàng ta chạy ngay đi tìm gái. Khi hai người mới gặp
nhau, trai có ý mà gái cũng không vừa, tưởng đâu chỉ là chuyện gió trăng
mà thôi. Nhưng ai ngờ lộng giả thành chân, Giả Liễn lén lút đưa Vưu nhị
thư về làm vợ lẽ, đối xử chân tình thắm thiết. Lại mua cho nàng ta một
gian nhà nhỏ, đặt tên là Tiểu Hoa Chi, ở giữa phủ Ninh và phủ Vinh. Như
ta đã nhấn mạnh ở bài trước, nơi ở của nhân vật có gắn bó mật thiết với
số phận của họ. “Tiểu Hoa Chi” – cành hoa nhỏ bị kẹp giữa hai tòa phủ,
chẳng mấy chốc sẽ nát bấy. Tương lai của Vưu nhị thư ắt không lành. 
Vưu nhị thư gặp Giả Liễn, đây chính là đoạn “gái buồn rầu đề thơ ngũ
mỹ, trai lẳng lơ tặng ngọc cửu long” trong truyện
Giả Liễn quyến rũ Vưu nhị thư
Vưu nhị thư đã quen cảnh “dập dìu lá gió cành chim”. Phượng Thư thì
ghen tuông, tàn nhẫn, khiến Giả Liễn cảm thấy ngột ngạt khó thở, lúc
điên lên còn rủa cô ta chết đi. Mối quan hệ của Giả Liễn và Vưu nhị thư,
tưởng là mạt cưa mướp đắng gặp nhau mà thôi, ai ngờ lại khiến họ trở
nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Dường như chỉ trong mối quan hệ này,
hai người mới nếm trải tình yêu thật sự. Lần này tác giả đã nhân hậu cho
Vưu nhị thư được nếm trải cảm giác ngọt ngào của tình cảm đôi lứa, rũ
bỏ lớp áo hư hỏng, lại khiến Giả Liễn biến thành một người chồng mẫu
mực, độ lượng, không còn vẻ khinh bạc trước kia. Tương lai thật tươi
sáng, hứa hẹn. Mấy câu sau đây, ngắn ngủi mà đủ ý đã diễn tả sự thay đổi
tích cực của họ:
Chị Hai lại là người đa tình, cho Giả Liễn là người nương tựa suốt đời
của mình, việc gì cũng chăm sóc hỏi han. Chị Hai lại có vẻ dịu dàng hòa
thuận, không những mọi việc bàn bạc không dám lộng quyền mà dáng
điệu và lời nói việc làm cũng hơn hẳn Phượng Thư. Nhưng đã trót lỡ
bước mắc phải một chữ “dâm” rồi, thì bao nhiêu điều hay cũng vứt đi cả.
Giả Liễn lại nghĩ: “Ai không có điều lầm lỗi? Nhưng biết lỗi mà sửa đổi
đi thì tốt”. Cho nên hắn không nhắc đến việc dâm lúc trước, chỉ kể điều
hay bây giờ thôi, thành ra hai người một lòng một dạ, dính như keo sơn,
thề cùng sống chết với nhau, còn để ý gì đến Phượng Thư và cô Bình
nữa.
Bởi vậy mới nói, tình yêu có thể cứu chuộc con người! Sau khi Vưu nhị
thư tìm được ý trung nhân Giả Liễn, lại đến lượt Vưu tam thư. Hai chị em
xinh đẹp này được chính Bảo Ngọc khen là một đôi “vưu vật”(nghĩa là đồ
quý, lại chơi chữ “Vưu” là họ của họ.) Theo lời kể của Tào Tuyết Cần,
Vưu tam thư không những đẹp hơn cả chị, mà tính tình cũng đanh đá, ghê
gớm, sắc sảo hơn chị gấp nhiều lần. Theo kiểu “không đẹp được thì cho
xấu luôn,” không những không ngượng ngập về tội “hư” của mình, nàng
ta còn lấy đó làm cớ để ngang ngược, khêu gợi, vênh vang. Nàng ta mắng
Giả Trân rất thẳng: “Anh đừng lú lấp ruột gan, tưởng chừng tôi không
biết việc trong nhà các anh hay sao? Lần này anh em nhà anh định vung
một ít tiền thối ra, coi chị em chúng tôi là đĩ thõa để mua vui.”

Vưu tam thư mắng Giả Trân (hình minh họa trong sách Hồng Lâu Mộng)
Hãy xem nàng ta đày đọa mấy ông tướng nhà họ Giả thế nào:
Chị Ba ngày nào cũng kén chọn thức ăn đồ mặc, đã đeo bạc lại muốn đeo
vàng, có hạt châu lại đòi ngọc báu; ăn ngỗng xong lại đòi mổ vịt; có điều
gì không bằng lòng, liền hất cả mâm đi. Quần áo không vừa ý thì bất cứ
lụa là mới may cũng lấy kéo cắt vụn ra, vừa xé vừa mắng. Rút cục bọn
Giả Trân có được ngày nào vừa ý đâu? Trái lại phải tiêu trộm mất bao
nhiêu là tiền.
Đó là cách Vưu tam thư đối xử với những tên đàn ông bạc bẽo. Nàng
không ngại gì khi lợi dụng lại họ. Công khai, thách thức, ngang nhiên
lắm. Nói gì thì nói, rõ ràng nàng ở thế của kẻ chiến thắng, dù là theo kiểu
không còn gì để mất. Nhưng khi nàng bắt đầu mong muốn xây dựng gia
đình với người trong mộng thì lại khác hẳn. Hạt giống tình gieo từ năm
năm trước, giờ được tưới bởi hy vọng nên nở bừng ra. Nàng trở nên đứng
đắn, lễ độ, cốt cách không kém gì các tiểu thư con nhà gia giáo. Người
đọc lại càng biết rõ, sự thay đổi của Vưu tam thư thực sự bắt nguồn từ
bên trong, tuyệt đối không phải giả dối lừa người… Thậm chí nàng còn
bẻ gãy cái trâm, thề nếu trái lời thì số phận cũng như cái trâm vậy.
Giống như Vưu nhị thư, Vưu tam thư lột xác nhờ tình yêu. Vưu nhị thư
còn bảo với Giả Liễn: “Dì ấy đã nói: người ấy một năm không đến, thì
chờ một năm; mười năm không đến thì chờ mười năm. Nếu người ấy chết
đi, thì dì ấy đành cắt tóc đi tu, ăn chay niệm phật, chứ quyết không lấy ai
nữa.”
Người mà Vưu tam thư yêu là ai? Chính là Liễu Tương Liên, một chàng
trai trẻ tuổi, đẹp đẽ, con nhà dòng dõi thi thư. Tuy nhiên Liễu Tương Liên
lại là kẻ vô tình. Giả Liễn có nhận xét rất chuẩn xác về anh ta: “Em không
biết, chàng trai Liễu này là người rất phong nhã, nhưng bụng rất lạnh
nhạt, đối với nhiều người không có tình nghĩa gì cả.”
Liễu Tương Liên (một tác phẩm fanart của Hồng Lâu Mộng?)
Vưu tam thư cầm kiếm Uyên Ương – quà làm tin của Liễu Tương Liên.
Trai gái xưa yêu nhau tặng nhau mớ tóc, khăn tay, viên ngọc, riêng Liễu
Tương Liên thì tặng thanh kiếm lạnh lẽo lại có sát khí, đó là một điềm
không lành.
Lần đầu tiên Liễu Tương Liên xuất hiện ở hồi bốn mươi bảy, tại một bữa
tiệc có nhiều anh em trong họ Giả. Tiết Bàn, vốn mắc bệnh “Long
Dương” (đồng tính) nhìn thấy chàng ta là đã chết mê chết mệt, hẹn ra
ngoài thành gặp. Liễu Tương Liên liền giả cách đồng ý, nhân đó nện cho
Tiết Bàn một trận thừa sống thiếu chết vì cái tội dám tán tỉnh mình.
Nói xong, lại lấy roi ngựa, đánh ba bốn chục roi vào lưng và đùi.
Tiết Bàn đã gần tỉnh rượu, đau quá không chịu nổi, kêu lên một tiếng “úi
chao”. Tương Liên cười nhạt nói:
– Mới có thế thôi! Tao cứ tưởng mày dạn đòn!
Vừa nói vừa kéo chân trái Tiết Bàn dìm xuống bãi sậy, bùn lấm be bét,
đầy người, lại hỏi:
– Mày đã biết tay tao chưa?
Tiết Bàn không trả lời, chỉ nằm gục xuống rên hừ hừ. Tương Liên lại vất
roi đi, nắm tay đấm mấy quả. Tiết Bàn kêu rối rít lên:
– Xương tôi gãy cả rồi! Tôi biết em là người đứng đắn, chỉ vì tôi nghe
người ta đồn nhầm đấy thôi!
– Không được kéo người ta vào. Mày chỉ được nói chuyện hiện giờ thôi.
– Hiện giờ tôi không có gì đáng nói cả? Chẳng qua em là người đứng
đắn, tôi trót nhầm đấy thôi!
– Phải nói nhũn nữa, tao mới tha cho.
Tiết Bàn rén hừ hừ, nói: “Bạn ơi”. – Tương Liên lại đấm cho một quả
nữa. Tiết Bàn kêu lên một tiếng, rồi nói: “Ông anh ơi” – Tương Liên lại
đấm luôn cho hai quả nữa. Tiết Bàn vội kêu lên “úi chao ơi”, rồi nói:
– Ông ơi! ông tha cho con là thằng mù không có mắt! Từ nay trở đi, con
kinh người, sợ lắm rồi.
– Mày phải uống hai ngụm nước bùn này đi!
– Nước này bẩn quá, con uống thế nào được?
Tương Liên lại giơ tay lên đấm. Tiết Bàn vội nói:
– Con xin uống… Con xin uống…
Sau khi bị đánh, ướt lóp ngóp, Tiết Bàn về gặp mẹ và em gái là Tiết Bảo
Thoa
Tiết Bàn là nhân vật thô bỉ, xấu tính bậc nhất trong truyện, ai ai cũng
ghét, đọc đến đoạn này, nhiều người không khỏi sướng đến mức hoa chân
múa tay. Nhưng ít ai dừng lại để tự hỏi xem:
Tiết Bàn có đáng bị Tương Liên đánh ác như vậy không? Nếu hắn ta
dùng sức hoặc quyền lực cưỡng ép Tương Liên thì đã đành, đằng này Tiết
Bàn đối với Tương Liên vô cùng tử tế, tôn trọng, thậm chí thích đến mê
muội. Vụ này tác giả khéo bố trí từ trước để vẽ lên đặc tính cơ bản của
Liễu Tương Liên: kiêu ngạo và vô tình. Đối với chàng ta, bất cứ tình cảm
nào của con người cũng là xấu xí, hèn kém, yếu đuối. Trong tâm trí của
Tương Liên, chữ “tình,” dù là tình yêu hay tình dục, tình nam hay tình nữ,
đều dơ bẩn, không xứng với địa vị, con người anh ta. Sau này khi Tiết
Bàn gặp nạn, Liễu Tương Liên lập tức ra tay cứu trợ, chứng tỏ cái anh ta
khinh ghét không phải con người Tiết Bàn, mà chính là tình cảm của hắn.
Sau khi nghe Vưu tam thư thổ lộ, Giả Liễn bèn gặp Liễu Tương Liên để
làm mối cho cô em vợ. Liễu Tương Liên đã định cưới Vưu tam thư,
nhưng khi vừa thoáng nghe Bảo Ngọc lỡ miệng nhắc đến xuất xứ của
Vưu tam thư, thái độ của anh ta thế nào?
Tương Liên nghe xong giậm chân nói:
– Việc này không xong rồi! Nhất định không thể lấy được! Trong phủ
Đông nhà anh, ngoài hai con sư tử đá ra, dù con mèo, con chó cũng
chẳng còn trong sạch nữa. Tôi không thèm làm anh chàng rùa đen đâu!
Bảo Ngọc nghe nói, đỏ bừng mặt.
Tình yêu của hai chị em họ Vưu trong sáng, mãnh liệt, song kết cục của
họ thì sao? Có thể tóm tắt rằng, Tào Tuyết Cần đã dùng tình yêu “rửa tội”
cho hai chị em nhà họ Vưu, song cũng đồng thời đẩy họ đến chỗ chết.
Vưu nhị thư là người con gái hiền dịu, không tâm kế sâu xa, chẳng mấy
chốc nàng đã ngây thơ nghe lời Phượng Thư, để bị đầy đọa cả thể xác lẫn
tâm hồn. Cành hoa nhỏ đã bị chim phượng xéo nát, cái thai bị mất, nàng
đành nuốt vàng mà chết, quả thực vô cùng đáng thương.

Vưu nhị thư nuốt vàng tự tử


Vưu tam thư thì bị Liễu Tương Liên từ chối, nàng đau đớn dùng cây kiếm
“Uyên” trong cặp “Uyên Ương” tự sát chết trước mặt người trong mộng.

Vưu tam thư rút kiếm uyên ương


Chim uyên ương là biểu tượng lứa đôi trong văn hóa Trung Quốc, cách
Vưu tam thư kết liễu cuộc đời do đó có tính biểu tượng rõ rệt. Chính là
tình yêu đã giết nàng, đâu phải tại Liễu Tương Liên lạnh lùng tàn nhẫn,
lãnh diện lang quân. Anh ta chỉ là một đại diện, biểu tượng cho cái gọi là
đàn ông “tử tế” trong xã hội. Vưu tam thư phải chết vì nàng đã đánh đồng
bản thể của mình vào tình yêu, khi tình yêu mất đi thì nàng không thể tồn
tại nữa. Đúng như Vưu nhị thư phải thừa nhận:” Người ta có ép buộc dì
ấy đâu, tự dì ấy tìm lấy cái chết.” Hai chị em họ, một người bị tình từ
trong phá ra, một người dùng cái chết để trả nợ tình, quả thực là hai “nữ
thánh” tử vì đạo, nếu đạo ở đây là tình ái.
Vưu tam thư tự sát
Sau cái chết của Vưu tam thư, Giả Liễn định ra lệnh trói Liễu Tương
Liên giải lên quan phủ đòi người, nhưng Vưu nhị thư ngăn lại
Ở đoạn cuối chương sáu mươi sáu, Liễu Tương Liên hội ngộ Vưu tam thư
trong giấc mơ, nàng nói: ”Thiếp lại từ trời tình, đi từ đất tình. Kiếp trước
đã lầm vì tình, kiếp này lại xấu hổ vì tình, nên mới được giác ngộ.” Câu
này thực đã tóm hết nội dung của Hồng Lâu Mộng vậy. Trong cõi
“mộng” đấy, quả thực không có kết cục tốt đẹp cho kẻ đa tình. Người đọc
ngậm ngùi chỉ biết lắc đầu thở dài, nhưng thế giới hiện thực liệu có thực
sự khác truyện kể chăng?

Ý KIẾN - THẢO LUẬN


18:25 Thursday,12.1.2017 Đăng bởi:  Anh Nguyễn
@Nguyễn Trọng Tấn: tất cả những cái bạn nói đều đúng. Có điều ở hồi 116
Bảo Ngọc có nằm mơ trở lại Thái Hư ảo cảnh, ở đó chàng ta đã gặp hoá thân
trên trời của các chị em (Uyên Ương, Tần thị, Đại Ngọc,...) Chính cuộc gặp
này mới dẫn đến sự giác ngộ mà bạn nói ở trên. Để hiểu rõ thêm về hai thế
giới song đôi trong Hồng Lâu Mộng, bạn có thể tìm đọc tiểu luận của giáo sư
Dư Anh Thời.

16:48 Thursday,12.1.2017 Đăng bởi:  Nguyễn Trọng Tấn


Chào bạn. Tại sao mình đọc Hồng lâu mộng kết thúc lại là Bảo Ngọc hóa
ngây theo kế đánh tráo của Phượng Thư lấy Bảo Thoa. Đại Ngọc đau buồn
đốt thơ rồi chết. Tương Vân lấy được người chồng tử tế nhưng người này lại
bệnh tật ốm đau. Họ Giả vì tra xét mà suy đồi nhưng sau rồi vẫn vực dậy
được. Bảo Ngọc giác ngộ, sau khi thi đậu thì cắt tóc đi tu. Sao ở trên bạn lại
kể một kết thúc khác vậy?

Người đàn bà ghen Hạ Kim Quế 02. 01. 15 - 6:44 am


Anh Nguyễn

Ông Nhật Chiêu từng phát biểu: “Nghệ thuật của Hồng Lâu Mộng trác
tuyệt ở chỗ nó tự nhiên như chính đời sống đến mức gần như “phi nghệ
thuật.” Hầu như không có dấu vết của công phu và nhân tạo. Vậy mà hễ
chạm vào nó là mê: Hồng mê.” Đã trót ghiền Hồng Lâu Mộng thì lâu lâu
lại phải giở ra đỡ nhớ, mà không giở ra thì thôi, đã giở là cắm đầu đọc
không nghỉ. Người trong giới yêu Hồng Lâu Mộng vì nó như kho tàng vô
tận, mỗi lần đọc lại “cảm” hơn một ít. Trải nghiệm cuộc đời càng nhiều
thì lại càng dễ khóc cười với tác phẩm. Trong bài này tôi muốn phân tích
nhân vật phụ Hạ Kim Quế để tìm hiểu một hiện tượng quen thuộc: sự
ghen tuông của phụ nữ.
Ai chưa từng trải qua ghen tuông? Kể cả không trực tiếp dính dáng chắc
cũng đã lọt tai vài câu chuyện đánh ghen đầu làng cuối phố. Nhưng phải
nói thật là chị em bây giờ còn sướng hơn phụ nữ ngày xưa nhiều. Chế độ
phụ hệ ngày xưa cho phép đàn ông năm thê bảy thiếp, thấy bông hoa mới
và đẹp thì vô tư mang về nhà cắm vào lọ. Văn hóa Trung Quốc lại giáo
dục phụ nữ tốt “không ghen tuông,” càng khiến nhà trong lửa cháy bừng
bừng. Hoàng đế của Lưu Tống là Minh Đế thậm chí còn ra lệnh cho Ngu
Thông Chi viết cuốn Đố phụ ký (ghi chép về sự đố kị của phụ nữ) để
“giáo huấn” phụ nữ.
Ở đời, hễ cảm xúc tự nhiên mà bị can thiệp, ức chế thì lại càng méo mó
biến dạng. Thế nên phụ nữ Trung Quốc hồi xưa không ghen thì thôi, đã
ghen thì thật là kinh khủng. Ngoài các thủ đoạn triệt hạ đối thủ, có người
còn sẵn sàng quyết liệt lấy cái chết để phản đối. Tại sao người ta gọi đàn
bà ghen là “hũ giấm,” “giấm chua,””uống giấm?” Tất cả bắt nguồn từ
việc ông Nhiệm Khôi được vua Đường Thái Tôn thưởng cho hai cô hầu
xinh, vợ tức quá không chịu. Vua gọi vào bảo nếu cứ khăng khăng cay cú
thì uống rượu độc chết đi. Bà ta không ngần ngừ uống ngay. Hóa ra
không phải rượu độc mà chỉ là giấm. Nhà vua sợ quá đành phải lấy lại hai
nàng hầu. Quả thật đối với hạng người đến chết còn không sợ thì không
thể lấy cái chết ra mà dọa được.
Cái ghen của đàn bà trong Hồng Lâu Mộng biểu hiện thế nào? Hầu hết
những người vợ trong truyện đều tỏ ra an phận với chế độ một ông nhiều
bà, thậm chí còn “dễ thương” đến mức nài nỉ đi hỏi vợ bé cho chồng như
Hình phu nhân hỏi Uyên Ương cho Giả Xá!
Hình phu nhân thuyết phục Uyên Ương làm vợ bé cho chồng mình trong
chương “Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh, gái Uyên Ương thề dứt
bạn uyên ương”. (Toàn bộ hình trong bài lấy từ Internet)
Đối với những gia đình quý tộc, quan lại, chuyện đàn ông nạp thiếp là
đương nhiên, không có mới kì quặc. Ngay Lâm Đại Ngọc cũng chỉ ghen
tuông với Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân vì họ là đối thủ tranh ngôi vị “vợ
cả” của nàng, chứ với Tập Nhân – nàng hầu của Bảo Ngọc, nàng không
ghen. Một khi đã sinh ra trong nền văn hóa trọng nam khinh nữ thì tư
tưởng chồng chúa vợ tôi đã ngấm vào máu, lại thêm nhiều cặp vợ chồng
kết hôn chỉ để củng cố địa vị và quan hệ giữa hai dòng họ chứ tình yêu
nào có, nên điều này không đáng ngạc nhiên cho lắm.
Trong cả Hồng Lâu Mộng chỉ có hai bà ghen thật sự với các cô vợ bé,
ghen đến mức phát tiết thành hành động trả thù: Hạ Kim Quế và Vương
Hy Phượng. Tôi bàn về Hạ Kim Quế trước bởi ghen tuông chỉ là một khía
cạnh trong tính cách của Phượng ớt. Ngoài ra, Phượng ớt còn nhiều tội
“to” hơn, đáng bàn kĩ hơn ở bài sau. Hạ Kim Quế ngược lại là một bức
tranh biếm họa điển hình, một nhân vật mà tính cách chủ đạo là ghen
giống như nữ thần ghen tuông Invidia của La Mã vậy.
Tranh vẽ minh họa Hạ Kim Quế
Trước tiên xin nói sơ qua về nhân vật Hạ Kim Quế. Cô nàng này là tiểu
thư của nhà bán hoa quế họ Hạ, nhà giàu lại có nhan sắc nên “tôn mình
như Bồ Tát, coi người khác như bùn”. Là vợ cả Tiết Bàn nhưng xem
chừng lại ghê gớm, hung dữ hơn cả chồng, đối xử với người dưới thì độc
ác, mẹ chồng thì hỗn láo. Vì tên của nàng ta có chữ “kim” và chữ “quế”
nên hễ ai nhắc đụng tới là đánh tập tàn nhẫn. Xin thử phân tích mà coi,
hoa quế có đặc điểm gì? Xinh xắn, thơm tho, và nở… vào mùa đông! Hoa
quế mà nở mùa hè (hạ) thì nhất định là hoa quế rởm rồi, dù có dát vàng
(kim) đi chăng nữa! Tào Tuyết Cần cũng mô tả Hạ Kim Quế “bề ngoài thì
tươi đẹp như bông hoa, nhưng bên trong lại có tính nóng nảy như sấm
sét”. Cái tính xấu và giả tạo của Hạ Kim Quế vậy là được hàm ý ngay từ
cái tên. Lại để ý họ của Tiết Bàn mà xem: chữ tiết đồng âm với chữ tuyết.
Tuyết mà gặp mùa hè thì chịu sao thấu! Bảo sao “Tiết Bàn cũng không
biết làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy
phải con yêu tinh ấy.”
Hạ Kim Quế hành hạ Hương Lăng
Hạ Kim Quế ghen với Hương Lăng, nàng hầu của Tiết Bàn. Hương Lăng
địa vị, gia cảnh đều kém Hạ Kim Quế, ghen như thế là có lý không? Thú
thực là có lý. Người Trung Quốc thường nói: thê không bằng thiếp, thiếp
không bằng tỳ (nàng hầu,) nàng hầu không bằng kỹ nữ. Đã là thê thì phải
đảm bảo bốn điều: vợ hiền, mẹ tốt, dâu thảo, nghiêm phụ. Lại phải
khuyên răn chồng lập công danh, không được quyến rũ chồng để lơ là
nghiệp lớn, chậm trễ báo hiếu cha mẹ. So với thê, vai trò của thiếp nhẹ
hơn nhiều. Vì thế tình trạng các ông chồng sủng ái thiếp hơn thê là một
“vấn nạn” có thật mà thê phải đương đầu. Sự đề phòng, dè chừng của Hạ
Kim Quế với Hương Lăng còn lớn hơn bởi dĩ Hương Lăng đã làm nàng
hầu cho Tiết Bàn, chăm sóc Tiết phu nhân từ rất lâu rồi. Đoạn sau cho
thấy rõ sự thù ghét sủi tăm dưới bộ mặt tươi tỉnh của Hạ Kim Quế:
Một hôm, Kim Quế ngồi rỗi nói chuyện phiếm với Hương Lăng, hỏi đến
cha mẹ quê quán, thì Hương Lăng đều nói đã quên mất cả. Kim Quế
không bằng lòng, cho là có ý nói dối, rồi hỏi:
– Hai chữ “Hương Lăng” ai đặt cho đấy?
– Cô Bảo đặt cho đấy.
– Ai cũng nói cô Bảo thông, nhưng chị xem cái tên này thì thật là không
thông.
– Mợ nói cô Bảo không thông, là vì mợ chưa bàn luận với cô ấy thôi. Cứ
kể ra sức học của cô ấy thì ngay ông lớn bên phủ Giả cũng thường khen
đấy.
Kim Quế nghe thấy nói thế, ngoảnh mặt đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt
nói:
– Khi hoa ấu nở có mùi thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa
thơm khác sẽ để nào chỗ nào? Thực là rất mực không thông.
Hương Lăng nói:
– Không những hoa ấu thơm, ngay đến lá sen, gương sen cũng đều có
một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy không thơm bằng mùi hoa, nếu
khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu khó thưởng thức, thì
cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa súng, lá
lau, gốc sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy
cũng làm cho người ta tỉnh táo nhẹ nhàng.
– Theo như cô nói, thì hoa quế, hoa lan thơm không ra gì à?
Hương Lăng đương lúc hăng, quên cả kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:
– Mùi thơm của hoa lan hoa quế thì hoa khác không thể bì được.
Nói chưa dứt câu thì a hoàn của Kim Quế tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào
mặt Hương Lăng mắng:
– Cô đáng chết! Sao dám gọi tên mợ ra?
Hương Lăng chợt nghĩ ra, băn khoăn ngượng nghịu vội cười thưa:
– Tôi trót buột miệng, xin mợ đừng để ý.
Kim Quế cười nói:
– Làm gì có chuyện ấy. Cô thực cẩn thận quá. Nhưng tôi nghĩ chữ
“Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một chữ khác, không biết cô có
bằng lòng hay không?
Hương Lăng cười nói:
– Sao mợ lại nói thế? Ngay thân tôi bây giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi
một chữ tên mà mợ lại hỏi tôi có bằng lòng hay không? Như thế tôi đâu
dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt tên cho tôi chữ ấy.
Kim Quế cười nhạt:
– Cô nói cũng đúng đấy, nhưng chỉ sợ chị Bảo để bụng thôi.
Hương Lăng cười thưa:
– Mợ chưa biết, lúc trước mua tôi về, cốt để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt
cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi sang hầu cậu và bây giờ có mợ về đây, lại
càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa. Vả chăng cô ấy là người hiểu
đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?
– Cô đã nói thế thì chữ “hương” không ổn bằng chữ “thu”. Vì mùa thu
thì củ ấu, hoả ấu mọc nhiều, như thế chẳng có gốc tích hơn chữ “hương”
hay sao?
– Thôi tôi xin nghe lời mợ.
Từ đấy Hương Lăng đổi tên là Thu Lăng. Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.
Khi đọc lướt có thể cho rằng, Hạ Kim Quế chẳng qua bắt nạt Bảo Thoa
không được nên tìm cách xỏ xiên, phủ nhận cái tên Bảo Thoa đặt cho
Hương Lăng mà thôi. Nhưng việc đổi tên đấy còn có hàm ý khác. Hoa
lăng là củ ấu, nhưng chữ “lăng” còn có nghĩa lăng mộ, kết hợp với chữ
“thu” lại càng mang ý nghĩa chết chóc, tiêu cực. Ý đồ nham hiểm của Hạ
Kim Quế muốn ám hại Hương Lăng đã được tác giả báo trước từ câu
chuyện đổi tên tưởng chừng vô thưởng vô phạt này.
Hạ Kim Quế gài cho Hương Lăng bước vào đúng lúc Tiết Bàn đang sàm
sỡ Bảo Thiềm, khiến Tiết Bàn tức giận đánh đập Hương Lăng
Kế đó, Hạ Kim Quế bắt đầu kế hoạch cô lập Hương Lăng và Tiết Bàn,
cắn răng dùng Bảo Thiềm làm mồi, bụng bảo dạ sẽ “xử lí” Bảo Thiềm
sau. Hạ Kim Quế lại tự làm hình nhân thế mạng, gài tội cho Hương Lăng,
quậy tung cả nhà Tiết phu nhân. Đỉnh điểm của quá trình tranh đấu mang
hơi hướng… Byzantine này là lúc Hạ Kim Quế định quyến rũ cậu em
chồng Tiết Khoa, bị Hương Lăng vô tình phá bĩnh. Từ đấy, Hạ Kim Quế
quyết chí diệt trừ Hương Lăng bằng được.
Sự ghen tuông của Hạ Kim Quế không chỉ tác động đến Hương Lăng,
Tiết Bàn, Bảo Thiềm, Bảo Thoa, Tiết phu nhân, mà còn gây ấn tượng
mạnh mẽ cả với người ngoài cuộc: Bảo Ngọc. Trong Đại quan viên, hay
thế giới lý tưởng của Bảo Ngọc, các chị em đều phong nhã, thướt tha, đối
đãi với nhau tử tế. Theo cái lý của Bảo Ngọc, Hạ Kim Quế xinh xắn như
đóa hoa, ắt không thể cư xử như ác quỷ. Đứng trước một sự việc mà cậu
ta không có khả năng lý giải (Hạ Kim Quế là bông hoa rởm,) Bảo Ngọc
rơi vào trạng thái buồn bực. Cậu bèn tìm sự cố vấn của Vương Nhất
Niêm, một lương y – lang băm khéo mồm:
Vương Nhất Niêm sợ quá không chờ Bảo Ngọc hỏi lại, liền nói:
– Xin cậu cứ kể rõ bệnh ra.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi hỏi thấy có thứ cao nào dán khỏi được bệnh ghen của đàn bà
không?
Vương Nhất Niêm vỗ tay cười nói:
– Việc ấy thì chịu thôi, không những không có bài thuốc, mà tôi cũng
không nghe ai nói đến bao giờ.
– Như thế thì thuốc cao ấy cũng chả ra cái gì.
– Không có thuốc cao chữa bệnh ghen, chỉ có thứ thuốc uống may ra
chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không thể khỏi ngay được.
– Thuốc gì? Cách uống thế nào?
Thuốc ấy gọi là thuốc “chữa ghen”: lấy một quả lê mùa thu hạng tốt, hai
đồng cân đường, một đồng cân trần bì, ba bát nước, sắc đến khi lê chín
thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và cứ ăn đi ăn lại mãi thì khỏi.
– Như thế chả đáng bao nhiêu, chỉ sợ không chắc đã có công hiệu.
– Một thang không khỏi thì uống mười thang, hôm nay không khỏi thì
ngày mai uống tiếp, năm nay không khỏi thì sang năm. Vì ba vị thuốc này
đều nhuận phế khai vị, không hại đến người. Vừa ngọt lừ, khỏi ho, lại dễ
uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người cũng phải chết, chết rồi
thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.
Bảo Ngọc và Dính Yên đều cười và mắng:
– Thật là đồ đầu trâu bẻm mép.
Lê mùa thu đã ngọt, sên nước đường lại càng ngọt, dùng cái ngọt để áp
chế giấm chua, thật là logic làm sao. Nhưng phải chờ chết đi mới có công
hiệu, tóm lại vòng vèo chỉ để nói rằng ghen là căn bệnh mãn tính không
có thuốc chữa! Bài thuốc chữa ghen – “liệu đố thang” đó tưởng chỉ là một
câu chuyện cười mua vui, nhưng thực tế diễn biến những hồi sau đã xảy
ra đúng y như vậy. Bệnh ghen của Hạ Kim Quế chấm dứt khi Hạ Kim
Quế tìm cách đầu độc Hương Lăng, cuối cùng lại giết chính mình. Khi Hạ
Kim Quế chết, “lỗ mũi con mắt đều chảy máu, đang vật vã giữa đất, hai
tay cào bụng, hai chân giãy đành đạch” khiến Tiết phu nhân chết khiếp.
Điều tra ra, Hạ Kim Quế nấu bát canh đổ thạch tín, định để Hương Lăng
ăn, nhưng Bảo Thiềm đã vô tình đánh tráo lại, khiến Hạ Kim Quế trở
thành tự mình hại lấy mình. Người viết khéo để cho chính Hạ Kim Quế
và Bảo Thiềm – một nạn nhân kiêm đồng phạm trong “tội ghen” của Hạ
Kim Quế – chịu trách nhiệm hoàn toàn trong vụ ám sát ngược này. Nào
phải thạch tín hại chết cô ta mà chính là căn bệnh ghen tuông mới là thủ
phạm vậy. Vì ghen tuông mà chết, chết là hết ghen, thật gọn ghẽ.

Hạ Kim Quế ngộ độc thạch tín


Phân tích kĩ hơn, có thể thấy cách mô tả có phần nghiệt ngã, khắt khe của
người viết với Hạ Kim Quế đã phản ánh phần nào tư tưởng của thời đại.
Việc nạp thiếp được lễ giáo phong kiến cho phép, nên thê thường rút về
“tuyến hai,” tìm cách áp bức, hành hạ, thậm chí mưu sát thiếp như Hạ
Kim Quế. Hành động ghen tuông này đương nhiên bị giới đàn ông phản
đối cật lực, thậm chí người đàn ông thương hoa tiếc ngọc nhất
trong Hồng Lâu Mộng là Giả Bảo Ngọc cũng không thông cảm nổi. Vì
thế việc Hạ Kim Quế bị đem ra làm cái bung xung xấu xí, làm “câu
chuyện cảnh giác” để khuyên phụ nữ không ghen tuông âu cũng phù hợp
với mạch tư tưởng của Hồng Lâu Mộng. Ghen chưa chắc đã là tình,
nhưng ghen chắc chắn là một sản phẩm phụ của tình, do vậy tội ghen bị
trừng phạt, suy đi tính lại, cũng là bởi tình mà ra. Hạ Kim Quế vì thế cũng
có thể liệt vào những nạn nhân chết vì tình trong Hồng Lâu Mộng. Tuy
vậy, tội ghen khiến Hạ Kim Quế phải đứng “đội sổ” trong Kim Lăng thập
nhị thoa phó sách, xếp sau hai chị em nhà họ Vưu, Uyên Ương, Bình Nhi,
Trí Năng, và kẻ thù số một – Hương Lăng.

Ý KIẾN - THẢO LUẬN

17:03 Friday,26.1.2018 Đăng bởi:  Anh Nguyễn


@Anh Thư: Không cần phải sóng gió mới được biên vào bạn ạ.  Theo tiên cô
thì "Trong các ti chứa toàn sổ sách của tất cả con gái trong thiên hạ từ trước
và sau này, anh người trần mắt thịt không thể biết được" và "Con gái trong
tỉnh anh rất nhiều, nhưng đây chỉ biên những người nào cần biên thôi. Hai tủ
để hai bên là hạng thứ nhì. Những hạng tầm thường thì không cần biên vào."
Vì thế số phận long đong hay sung sướng cũng không ảnh hưởng gì việc có
được đưa vào các danh sách hay không, điều này chẳng có gì là gượng ép.  
Yếu tố để xếp hạng các thoa có thể chia thành năm loại chính: nhan sắc, tài
năng, khí chất, xuất thân, vị trí. Ví dụ: chính sách đa phần gồm các tiểu thư
con nhà hào môn, trong đó đứng đầu là Lâm Đại Ngọc - người con gái hoàn
mỹ nhất, đứng thứ hai là Bảo Thoa. Hai chị em họ Nguyên Xuân, Thám Xuân
thanh nhã, quý phái nổi trội được xếp tiếp theo. Nghênh Xuân, Tích Xuân tuy
là tiểu thư thuộc Giả phủ nhưng tài năng, khí chất kém xa Tương Vân, Diệu
Ngọc nên chịu xếp sau. Các phu nhân có chồng thì không bằng thiếu nữ nên
chịu sau nữa. Tần Khả Khanh cực đẹp nhưng vì tội "dâm" nên chịu sau rốt.  
Phó sách gồm các tiểu thư hạng nhì, vợ bé, tình nhân chứ chưa đến lượt các
nàng hầu. Hương Lăng đẹp người đẹp nết, sau làm vợ cả Tiết Bàn, lại là con
gái của Chân Sĩ Ẩn nên đứng nhất. Uyên Ương tuy là người hầu nhưng là của
Giả mẫu nên thứ hạng cao hơn các người khác, lại suýt làm vợ bé của Giả Xá
(tuy từ chối) nên vẫn được xếp vào danh sách. Vưu thị tầm thường lại là vợ
của Giả Trân dâm dật, hèn nhát nên xếp áp chót. Hạ Kim Quế tính cách độc
ác, thủ đoạn tàn bạo nên dù đẹp và con nhà quyền quý vẫn đứng bét.  
Hựu phó sách gồm các nàng hầu hạng nhất, bốn người đầu tiên là của Bảo
Ngọc, sau đó tới hầu Đại Ngọc, rồi Bảo Thoa. 
Tam phó sách gồm 12 con hát của Giả phủ. Trong xã hội phong kiến thì con
hát bị coi là tầng lớp thấp kém, lẳng lơ, xướng ca vô loài, thân không tự chủ.
Vì thế Phương Quan không thể có mặt trong Hựu phó sách, nhưng lại đứng
đầu Tam phó sách vì có nhan sắc đẹp đẽ, tính cách khác thường.  
Tứ phó sách gồm các nàng hầu hạng nhì, đa phần có khuyết, ví dụ Tư Kỳ (đi
lại với anh họ,) Nhập Hoạ (phạm tội bị đuổi đi,) Con Ngốc (ngớ ngẩn.) Nói
chung cả tam phó sách và tứ phó sách đều là thêm thắt cho đầy đủ chứ về
đẳng cấp thì không thể so sánh với ba danh sách kia.  
  

13:34 Friday,26.1.2018 Đăng bởi:  Nguyễn Anh Thư


Cảm ơn Soi đã nhiệt tình cung cấp thông tin rất đầy đủ. 
Tôi chỉ thắc mắc Tiết Bảo Cầm, Lý Ỷ và Lý Văn  đâu có gặp sóng gì mà lại
có trong danh sách nhỉ? Hình Tụ Yên lấy Tiết Khoa, so với thời còn con gái
sướng hơn trước nhiều, nếu đưa vào có phần  gượng ép. 
Tôi thấy vẫn nên để Phương Quan vào danh sách Hựu phó sách vì cô bé được
nhà văn ưu ái miêu tả kỹ về dung mạo và tính tình chỉ sau Tập Nhân với Tình
Văn thôi...

Mượn món cà xào “xa xỉ” nói về ẩm thực thực-hư 29. 11. 14 - 10:18 pm
Anh Nguyễn
Cảnh yến tiệc trong phủ Giả
Nhà Hồng học Chu Nhữ Xương đã từng phát biểu:”Hồng Lâu
Mộng chính là chiếc chìa khóa dùng để khám phá văn hóa Trung Quốc.”
Đây không phải là nói ngoa. Từ thơ ca, nhạc họa, đến kiến trúc, phục
trang,… đều được Tào Tuyết Cần mô tả thật tề chỉnh, quyết không hàm
hồ.
Người Trung Quốc lại có câu: “Với nhà vua thì nhân dân là trời, với nhân
dân thì miếng ăn là trời.” Ẩm thực Trung Hoa vốn nổi danh thế giới –
người nước này tán tụng nó, say mê nó, ám ảnh vì nó. Vì thế bàn
về Hồng Lâu Mộng không thể không nhắc đến khía cạnh ẩm thực. Trong
Tứ đại danh tác thì Hồng Lâu Mộng trội hơn hẳn về khoản này. Thủy
Hử chẳng hạn cũng có chuyện ăn uống song các tráng sĩ Lương Sơn Bạc
đa phần chỉ có rượu thịt thô hào, không thể bì với hai phủ Ninh, Vinh.
Món ăn biểu trưng tinh thần Hồng Lâu Mộng mẫu mực nhất có lẽ là món
cà được Phượng Thư dọn ra mời già Lưu. Tác giả rất tinh tế trong việc để
một bà già nông dân nghèo khổ làm “giám khảo” cho món ăn này thay vì
các tiểu thư, bà lớn vốn ê hề của ngon vật lạ.
Giả mẫu cười nói:
– Gắp cà xào cho bà ấy ăn.
Phượng Thư vâng lời, gắp miếng cà xào đưa vào mồm già Lưu, cười nói:
– Ngày nào bà cũng ăn cà, giờ thử nếm xem món cà ở đây chúng tôi làm
có ngon hay không?
Già Lưu cười nói:
– Đừng đánh lừa tôi, nếu cà mà ngon thế này, thì chúng tôi chỉ giồng cà
thôi, không cần giồng các thứ ăn khác.
Mọi người cười nói:
– Cà thật đấy, chúng tôi không nói dối bà đâu.
Già Lưu lấy làm lạ nói:
– Cà thật đấy à? Tôi ăn từ nãy đến giờ, vẫn không biết mùi gì cả! Mợ gắp
ít nữa cho tôi, đến miếng này tôi nhai kỹ xem.
Phượng Thư lại gắp một miếng đưa vào mồm già Lưu. Nhai một lúc lâu,
già Lưu cười nói:
– Cũng hơi có mùi cà, nhưng không phải là cà. Mợ bảo cách cho tôi, khi
về tôi cũng học nấu món ăn này.
Phượng Thư cười nói:
– Có khó gì đâu cứ đến tháng tư tháng năm, bà hái cà về gọt vỏ bỏ núm,
chỉ lấy ruột thôi, đem thái nhỏ như sợi tóc, phơi thật khô. Sau đó bắt một
con gà mẹ, ninh ra nước và hấp cà lên, xong đem ra phơi, chín lần phơi,
chín lần hấp, lại đem phơi thật khô, rồi bỏ vào trong lọ sứ bịt thật kín.
Khi ăn sẽ lấy một thìa trộn với thịt gà xào mà ăn.
Già Lưu lắc đầu lè lưỡi nói:
– Phật tổ ơi! Thế thì phải hết đến non chục con gà mới nấu được một bát.
Chẳng trách ngon là phải!
Tranh vẽ cảnh già Lưu lần đầu tiên đến phủ Giả. Người Trung Quốc có
câu thành ngữ “Lưu lão lão tiến Đại Quan viên,” để chỉ cảnh người ngơ
ngác, ú ớ khi vào môi trường lạ.
Ai đọc tới đoạn này cũng phải lắc đầu lẽ lưỡi như già Lưu vì độ xa xỉ,
thậm chí suy đồi (decadent) của giới quý tộc Trung Quốc. Nói vậy không
sai, nhưng không tránh khỏi chỉ biết một mà không biết hai. Tôi trước đây
cũng nghĩ đơn giản như thế, sau may mắn được đọc cuốn The Last
Chinese Chef của Nicole Mones mới ngộ ra nhiều điều. Đối với người
Trung Quốc, ẩm thực không chỉ là để thỏa mãn cái bụng mà còn được gửi
gắm vào những triết lý và tham vọng nghệ thuật của họ.
Món ăn ngon lành, thơm tho, trình bày đẹp đẽ cũng chỉ đáng liệt vào hàng
xoàng nếu không có thêm một tầng ý nghĩa. Người đầu bếp tài năng phải
như thầy thuốc để nắm được trạng thái cảm xúc của thực khách, thậm chí
bắt được “tâm bệnh” của họ để tạo ra những món ăn có tác dụng điều hòa
tâm-sinh lý. Ví dụ gừng và hẹ có tác dụng giải thoát đau thương, nên
dùng để nấu ăn cho người tuyệt vọng. Người đầu bếp lại phải có trí tuệ và
kiến thức tinh tế để món ăn trở thành công cụ văn hóa, không kém văn
thơ nhạc họa. “Thực” có hai nghĩa: vừa là đồ ăn, vừa là hiện thực. Đỉnh
cao ẩm thực là phải biến cái “thực” thành một thứ “hư” (illusion), hoặc
biến “hư” thành “thực.”
Thế nào là “hư”? Là dùng xảo thuật đánh lừa thị giác, khứu giác, thậm
chí xúc giác. Là những thực phẩm đơn giản được nâng tầm lên thành xa
xỉ (như món cà), hoặc những thực phẩm trân quý ngụy trang thành tầm
thường (như yến sào). Là đĩa trái cây khi ăn hết để lộ ra bài thơ, hoặc
món lòng lợn tưởng như ô uế được lồng vào nhau để khi cắt ra nở xòe
như bông hoa. Là đồ ăn quý đựng trong chén bát mẻ, hoặc món bánh ngô
nướng bếp củi mà Từ Hy thái hậu dùng khi chạy loạn. Là món “Đông Pha
nhục” được nhà thơ Tô Đông Pha sáng tạo trong cảnh bần cùng, hoặc
thuật trị nước rút từ ẩm thực của Y Doãn – đầu bếp hóa thành thừa
tướng. Ẩm thực phân tử(molecular gastronomy) mới mẻ của phương Tây
cũng dựa trên nguyên lí đánh lừa người xem, về mặt công nghệ rất thú vị,
song theo thiển ý của tôi, về chiều sâu văn hóa vẫn chưa thể sánh bằng
ẩm thực của người Trung Quốc.

Một thí dụ về ẩm thực phân tử: Món súp “hồ cá Nhật”, nước súp nghe
đâu là nước dùng nấu với ít trà lài và hoa quýt để tạo mùi thơm dễ chịu,
“nòng nọc” thực ra là mầm của hạt đậu phộng, hoa là củ cải trắng xắt
mỏng. Người thực hiện: Đầu bếp Ferran Adrian
Trong cuốn The Last Chinese Chef, Sam Liang có chuẩn bị một món ăn
mang đậm tinh thần món cà Hồng Lâu Mộng: anh luộc ba mươi cân cua
lấy nước dùng, chắt lấy, rồi luộc đậu phụ trong chất tinh túy đó. Những
miếng đậu phụ khi được dọn ra nhìn chẳng khác gì đậu trắng bình
thường, nhưng khi thực khách cắn vào mới thấy vị ngon mãnh liệt.
Lần khác, Sam Liang luộc gà, lột bộ da không rách tí ti, rồi lại nhồi vào
các loại rau; nhìn thì đúng là con gà luộc đấy nhưng cắt ra lại không phải.
Người ăn cảm khái không chỉ vì hương vị mà còn vì triết lý: không thể
xem mặt mà bắt hình dong, đánh giá con người dựa trên vẻ ngoài. Già
Lưu là bà nông dân có địa vị hèn kém, nhưng về cuối truyện già Lưu là
người có nhân cách cao đẹp, cứu vớt Giả Xảo Thư – con gái Phượng Thư
khỏi bị đi bán. Già Lưu chính là hiện thân của món cà vậy.
Khi nhìn tổng thể, lại càng thán phục kỳ tài của tác giả. “Hồng lâu
mộng”, tóm lại cũng là một giấc mộng mà thôi. Không phải ngẫu nhiên
mà Tào Tuyết Cần cho tất cả các sự việc diễn ra trong phủ Giả: nào ai
biết việc nào là thực (chân), việc nào là hư (giả?) Giả Bảo Ngọc chẳng
hạn cũng chỉ là một viên ngọc quý “giả”, là hòn đá vô tích sự không được
vá trời. Đọc Hồng Lâu Mộng mà chỉ phân tích cái thực, không đánh giá
cái hư là thiếu sót căn bản, trầm trọng. Giáo sư đại học Harvard Dư Anh
Thời (Ying-shih Yu) đã viết một cuốn sách mang tính đột phá phân tích
về hai thế giới tồn tại song song trong Hồng Lâu Mộng. Hiểu về sự việc
trong truyện chỉ là bước đầu, hiểu  được ẩn ý, ngụ ngôn trong đó mới thật
là khó. Nắm bắt tinh thần “tưởng vậy mà không phải vậy” là rất quan
trọng để hiểu được Hồng Lâu Mộng một cách toàn diện. Ngay từ hồi thứ
nhất của truyện đã có câu:
Giả bảo là chân, chân cũng giả,
Không làm ra có, có rồi không.
Trong mười bảy cuộc luận chiến của Hồng học, vấn đề địa điểm vẫn gây
tranh cãi. Rốt cuộc Giả phủ nằm ở đâu? Nếu nói là Kim Lăng (Nam
Kinh) thì lại không phải thủ đô của nhà Thanh (Bắc Kinh). Phủ Giả nằm
ở đâu mà mùa hè có cua (miền biển), mùa đông lại có thịt nai (miền
tuyết)? Theo thuyết “hai thế giới”, tốt nhất ta hãy coi Giả phủ là một thế
giới ẩn dụ, Đại Quan viên như một địa đàng (Eden) chỉ tồn tại trong giấc
mộng của hòn đá. Lại theo ông Trang Tử, đời và mộng vốn không tách
biệt như ta tưởng. Bởi vậy món cà trong Hồng Lâu Mộng không nên hiểu
theo nghĩa đen. Trên thực tế, cà rất mềm, có thể hấp rồi phơi, phơi rồi hấp
chín lần mà không nát bét được không? Món cà này mang tính biểu
tượng, ngụ ngôn, giống như phượng hoàng, kỳ lân, kim đan, đào tiên hơn
là món ăn có ở trần thế. Đúng như đã có người nhận xét, người Trung
Quốc không phải những nhà thơ mê ăn uống, mà là những thực khách
biết làm thơ!

Già Lưu thưởng thức món cà trước mặt Giả Mẫu dưới sự dẫn dắt của
Phượng Thư

Món cà trong Hồng Lâu Mộng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong đầu óc
người Trung Quốc. Khi đọc truyện chưởng của Kim Dung đến những
đoạn ăn uống, không khỏi cảm thấy quen quen. Trong cuốn Phá giải Kim
Dung ngụ ngôn (Giải mã tiểu thuyết Kim Dung), Vương Hải Hồng,
Trương Hiểu Yến cho rằng Kim Dung đại lão gia đã chịu ảnh hưởng rõ
rệt của món cà khi mô tả tài nghệ nấu nướng của Hoàng Dung qua đoạn
sau:
Đêm ấy Hoàng Dung quả nhiên xào một bát cải trắng, chưng một đĩa
đậu hủ cho Hồng Thất công ăn, rau cải chỉ có đọt non, dùng mỡ gà xào
chân vịt, như thế cũng được, nhưng đĩa đậu hủ kia mới không phải tầm
thường, trước hết là mổ một cái chân giò sấy ra, khoét hai mươi bốn cái
lỗ tròn, đem đậu hủ vò thành hai mươi bốn viên nhồi vào rồi đem hấp,
đến khi chín rồi mùi thơm của thịt giò đã thấm vào đậu hủ, cái chân giò
thì bỏ đi không ăn. Hồng Thất công ăn một miếng, tự nhiên vô cùng ngây
ngất. Món đậu hủ này cũng có một cái tên đặt theo thơ Đường, gọi
là Hăm bốn lỗ cầu trăng sáng chiếu, nếu Hoàng Dung không có công phu
gia truyền Lan hoa phất huyệt thủ, mười ngón tay nhẹ nhàng linh xảo,
vận kình như có như không, thì chỗ đậu hủ tươi kia rời khỏi tay là nát
bét, làm sao có thể viên thành hai mươi bốn viên tròn? Công phu này tinh
tế khó khăn, thật không kém gì khắc chữ lên hạt gạo, chạm hạt đào làm
thuyền.
(Mở ngoặc chút: “Hăm bốn lỗ cầu trăng sáng chiếu” là chỉ một cây cầu ở
Dương Châu có hai mươi bốn lỗ, trăng sáng chiếu xuống tạo thành một
cảnh đẹp nổi tiếng. Đại Ngọc khi nhớ quê cũng hoài niệm về cây cầu này.
Cuốn Phá giải Kim Dung ngụ ngôn cũng là tác phẩm Kim học (ngành
nghiên cứu về Kim Dung) rất đáng đọc).
Một số món trong Hồng Lâu Mộng được các nhà hàng ngày nay làm lại:
Món cà chua nằm trong thực đơn “Hồng Lâu Mộng” của nhà hàng
Crystal Jade Jiang Nan
Món mướp đắng nằm trong thực đơn “Hồng Lâu Mộng” của nhà hàng
Crystal Jade Jiang Nan
Món củ cải vàng nằm trong thực đơn “Hồng Lâu Mộng” của nhà hàng
Crystal Jade Jiang Nan
*
Gửi bác Phúc Bồ: về Xuân Cung Đồ và cái “hư” trong Hồng Lâu
Mộng 21. 11. 15 - 7:58 am
Anh Nguyễn

Ngày hôm trước, bác Phúc Bồ có nhắc đến cái túi thơm thêu hình trai gái
trong Hồng Lâu Mộng. Bạn nào thích đọc truyện lấy bối cảnh Trung
Quốc thời xưa chắc thỉnh thoảng sẽ thấy nhắc đến món này. Trong Lộc
Đỉnh Ký, Vi Tiểu Bảo lôi ra mấy tấm Xuân Cung Đồ khiến Đa Long chúi
mũi vào, Vi Tiểu Bào thừa cơ đánh tráo tù nhân Mao Thập Bát.
Trong Gót sen ba tấc, lúc Qua Hương Liên đi lấy chồng bà nội dúi cho cô
đôi hài có thêu hình nam nữ bằng chỉ đen, chỉ đỏ để cháu gái cùng xem
với chú rể. Minh sử cho biết Gia Tĩnh (Vào năm Gia Tĩnh triều Minh…)
cũng là một người nghiện thị dâm – nhà vua ra lệnh cho lò gốm Cảnh
Đức Trấn làm ra những món chén uống trà ngự dụng, khi đổ nước sôi vào
sẽ hiện hình nam nữ ái ân. Xuân Cung Đồ đạt đến cực thịnh ở cuối thời
nhà Minh. Thể loại tranh Shunga (tranh xuân) tương tự của người Nhật
cũng bắt nguồn từ Xuân Cung Đồ Trung Quốc.
Một bộ Xuân Cung Đồ có nhiều hình minh hoạ hướng dẫn, gọi là “pillow
book” – sách gối đầu giường?
Xuân nghĩa là… mùa xuân, ẩn dụ cho sex, vì mùa xuân là mùa trai gái
hợp hoan, nên có câu “lòng xuân phơi phới”. Cung là… cung điện, gọi
thế cho có vẻ quý tộc và đỡ thô thiển. Ngoài ra, vua chúa, quan lại đều có
năm thê bảy thiếp, những câu chuyện kì bí về đời sống phòng the của họ
có sức hấp dẫn đặc biệt với tầng lớp thị dân, nên bối cảnh của Xuân Cung
Đồ thường mượn dáng vẻ trong cung là vì vậy. (Cũng như thời nay chúng
ta theo dõi tin tức về giới hoàng thân quốc thích và siêu sao, tin tức càng
dính dáng chút mùi sex càng bán chạy). Đồ là bức vẽ, như trong đồ hình,
đồ họa.

Tranh vẽ trên mặt trong của lọ thủy tinh đựng thuốc lá


Xuân Cung Đồ có nhiều thể loại phong phú, từ tranh giấy, tranh thêu, cốc
tách sứ, hộp sơn mài, giày dép, hộp thuốc lá,… Tuy nhiên Xuân Cung Đồ
vẽ trên giấy hoặc lụa vẫn được ưa chuộng hơn cả vỉ nhỏ nhắn, dễ dàng
cuộn lại mang đi hoặc… giấu đi trong ống tay áo, dưới gối. Ngày nay
hiếm có Xuân Cung Đồ nguyên bản, vì rất nhiều tác phẩm đã bị phá hủy
trong chiến tranh, cách mạng Văn hóa, và bởi những nhà Nho cổ hủ (như
ông Giả Chính). Đó là một điều đáng tiếc, vì qua những tác phẩm này
chúng ta có thể học được không ít về y phục, kiến trúc, lễ nghi,… thời
xưa.
Bàn chân nhỏ xíu của đàn bà có sức quyến rũ đặc biệt với người Trung
Quốc. Tục bó chân ở Tàu là một phong tục dã man, giết chết ít nhất 10%
trẻ em gái trước tuổi vị thành niên. Thế nhưng gót sen… bốc mùi vẫn
được sùng bái cho đến hết đời nhà Thanh, thậm chí người ta đi xin hỏi
cưới chỉ xem chân chứ không xem mặt. Nhắc đến sự gợi cảm của người
phụ nữ, đa số chúng ta liên tưởng tới bộ ngực căng đầy, eo nhỏ xinh xinh,
đôi môi mọng,… nhưng bàn chân mới là bộ phận khiến người đàn ông
Trung Hoa hồi xưa mê mẩn. Thế mới thấy tiêu chuẩn cái đẹp quả thật là
một thứ “social construct”. Nói đến đây tôi chợt nghĩ đạo diễn Quentin
Tarantino (một kẻ mê bàn chân phụ nữ) ắt là sinh nhầm thời và nhầm
quốc gia.

Tranh tố nữ Trung Hoa – thiếu nữ thêu hài hoa sen


Ngày nay ta coi việc bó chân là một tàn dư văn hóa, một hủ tục đáng sợ,
nhưng thời xưa người Trung Quốc lại coi những dân tộc không bó chân là
kém văn minh. Đối với họ, việc sờ mó bàn chân là hành vi tính dục tối
gợi cảm. Lý Lạp Ông liệt kê 48 cách âu yếm bàn chân. Lâm Ngữ Đường,
tác giả cuốn Sống đẹp, đã học đến bậc tiến sĩ ở Harvard, nhưng vẫn ủng
hộ việc bó chân. Trong Kim Bình Mai có đoạn Tây Môn Khánh cố tình
làm rơi đũa để sờ mó bàn chân Phan Kim Liên. Càng hấp dẫn thì lại càng
bị cấm kị, vì thế trong nhiều bức Xuân Cung Đồ thậm chí phụ nữ có lõa
thể thì bàn chân cũng không để lộ. Một câu hỏi lớn trong Hồng học khiến
nhiều học giả tranh cãi là: các nữ nhân trong Hồng Lâu Mộng có bó chân
hay không?

Nữ giới trong Xuân Cung Đồ vẫn không cởi bỏ hài và vải bó chân
Bàn về cái “hư” của Hồng Lâu Mộng chắc phải mất một cuốn sách, hay ít
ra là một luận án thạc sĩ văn học. Theo cảm nhận còn hời hợt của tôi, thì
trong Hồng Lâu Mộngcái đẹp của tính dục tỉ lệ nghịch với sự phô trương.
Tác giả và Giả Bảo Ngọc coi những cuộc dâm loạn của Giả Trân, Giả Xá
như hành vi lợm giọng của những con vật. Nhân vật Tiết Bàn với những
trò bậy bạ với cả trai lẫn gái bị mọi người chán ghét, coi thường. Những
chuyện xấu xa tồi bại như Tần Khả Khanh quan hệ với bố chồng, lũ ni cô
ở am Thủy Nguyệt tơ tình được nguỵ trang khéo léo nhưng rồi vẫn có
ngày vỡ lở và bị trừng phạt. Đại Ngọc không xem Xuân Cung Đồ nhưng
đọc sách “gió trăng” như Tây Sương Ký đã bị Bảo Thoa trách cứ. Giả
mẫu cũng không quên giáo huấn lũ con cháu khi nghe hát về cách cư xử
đúng đắn của bậc tiểu thư.
Trở lại câu chuyện con Ngốc nhặt được túi tú xuân ở hồi 73. Việc này
gây nên một vụ náo loạn từ trên xuống dưới ở Giả Phủ, khiến Thám Xuân
nổi giận đùng đùng, chả khác nào một vụ “cách mạng Văn hóa” nho nhỏ.
Trong một chừng mực nào đó, nó báo trước sự suy tàn, rệu rã của nhà họ
Giả cả về vật chất lẫn tinh thần. Ông Hạ Chí Thanh so sánh việc này với
sự xuất hiện của con rắn trong Eden. Sau khi loài rắn xuất hiện thì Adam
và Eve mắc tội bị đọa xuống trần. Như đã nói ở bài trước, Đại Quan viên
chính là hiện thân dưới hạ giới của “Thái Hư ảo cảnh,” một vườn địa
đàng nơi trần thế. Bất chấp những sự việc bẩn thỉu diễn ra trong hai phủ
Ninh, Vinh, Đại Quan viên là một khu vườn cấm tuyệt đối tinh khiết, cái
tình giữa Bảo Ngọc và các chị em luôn dừng ở lễ chứ không khi nào đi
quá giới hạn. Nhưng sự xuất hiện của túi tú xuân đã phá tan sự trong sạch
đó, báo trước khí số nhà họ Giả tới hồi cạn kiệt. “Adam” Bảo Ngọc và
các “Eve” tiểu thư lần lượt người thì chết, người bị bắt cóc, người mất trí,
người bỏ đi tu, người lấy chồng xa, người bị ngược đãi,… Ở đây, tính dục
chính là một thứ “nguyên tội”, là nơi bắt nguồn nỗi thống khổ của các cư
dân Đại Quan viên – một nhân gian thu nhỏ.
Bảo Ngọc hưởng lạc thú ở Thái hư ảo cảnh
Bất chấp điều đó, Tào Tuyết Cần hoàn toàn không lên án tính dục, ông
vẫn mô tả nó với tất cả những cung bậc từ lãng mạn đến thô phàm. Từ hồi
thứ năm, Tào Tuyết Cần đã để cho Bảo Ngọc vui vầy với nàng tiên trong
giấc mộng, rồi lại nếm mùi đời với Tập Nhân ngoài đời thực. Nhưng
trong truyện của ông, tuyệt đỉnh của tính dục nằm ở sự ẩn ý, là chiếc vòng
đeo sát vào bắp tay mũm mĩm của “Dương Quý Phi” Bảo Thoa khiến Đại
Ngọc phát ghen, là thắt lưng đỏ kết nối nhân duyên Tập Nhân-Tưởng
Ngọc Hàm, hay kín đáo hơn là cành hồng mai Diệu Ngọc tặng cho Bảo
Ngọc. Ân ái với nhau chưa chắc đã là có tình – tình nằm ở một cái chạm
tay, một ánh nhìn, và cao hơn cả là ở trong lòng, trong suy nghĩ hướng về
nhau.
Cặp đôi trời sinh Bảo Ngọc – Đại Ngọc
Nàng tiên trong giấc mộng đã nói với Bảo Ngọc: “Dâm dù một lẽ, nhưng
ý thì khác nhau. Những kẻ hiếu dâm trên đời chẳng qua là ưa sắc đẹp,
thích múa hát, đùa bỡn không chán, ‘mây mưa’ bừa bãi không chừng, chỉ
sợ thiên hạ không đủ mỹ nữ để cung thú vui chốc lát cho mình, đó là
những hạng ngu xuẩn, chỉ biết thú vui bề ngoài thôi. Như anh, khi mới
sinh ra đã mang một mối si tình, chúng ta gọi thế là ‘ý dâm’. Hai chữ ‘ý
dâm’ chỉ có thể hiểu ngầm trong lòng, chứ không thể nói ra miệng được”.
Trong Hồng Lâu Mộng, một chiếc lá, một bông hoa cũng tràn đầy tình ý.
Có lẽ đấy mới thật sự là đẹp, mà cũng thật là “hư” vậy 🙂
*

Ý KIẾN - THẢO LUẬN


9:32 Friday,13.1.2017 Đăng bởi:  Đại Ngu
Nhà tui thì có bộ 'Hồng Lâu Mộng' từ lúc tui còn bé tí. Cũng giở ra đọc mót
một vài đoạn nhưng đọc tuần tự thì không có hứng. Không phải vì nó không
hay mà vì kiến văn của mình còn sơ lậu, chưa đủ tầm để thưởng thức. Mà
quan niệm của tui là với văn chương nghệ thuật thì không nên ép uổng. Nếu
đọc không vào thì không nên cố nhằn để ra vẻ mình là người sành sỏi thông
thái. Biết đâu khoảng chục năm nữa khi mình bớt thô lậu tục tằn thì đọc mới
vào. Có nhiều quyển ngày xưa (thời còn là sinh viên) tôi đọc thử mà có vào
đâu, thấy như bò nhai rơm hay đàn gảy tai trâu ấy. Nhưng khi đã có những
vấp ngã trong cuộc đời, kiến văn được mở rộng và sâu sắc hơn thì đọc lại
cũng những quyển ấy lại thấy rất hay!!!

Tôi nghĩ "Hồng Lâu Mộng" của Tàu cũng thuộc loại kinh điển như "Truyện
Kiều" của Việt Nam ấy. Số phận những nhân vật từng thét ra lửa một thời,
gây bao tai bay vạ gió cho thiên hạ rồi rốt cục cũng chả ra gì. Ác giả rồi lại ác
báo, đúng như 2 câu Kiều:

Những người bạc ác TINH MA


Mình làm mình chịu ai mà thèm thương!

Kết cục kẻ thì chết thảm, kẻ thì SỐNG NHỤC!!! :)

10:46 Thursday,21.1.2016 Đăng bởi:  Nina
Cám ơn bạn Anh Nguyễn rất nhiều. Thực sự, nhờ có bài này mình mới hiểu,
tại sao việc con Ngốc nhặt được túi tú xuân lại là sự kiện náo loạn thế. Có lẽ
ngày xưa lúc đọc Hồng lâu mộng mình còn ngố quá, nên chưa hiểu :)
Giả Thám Xuân: con phượng hoàng sinh trong ổ quạ 18. 12. 14 - 6:25 am
Anh Nguyễn

Giả Thám Xuân – tranh minh họa trong sách Hồng Lâu Mộng
Trong số những cô gái của Hồng Lâu Mộng, Giả Thám Xuân là cô gái có
cá tính cứng cỏi nhất trong mười hai thoa, song vẫn giữ được khí chất cao
đẹp của một vị thiên kim tiểu thư. Cái mạnh mẽ của Thám Xuân thật
đường hoàng, hơn hẳn Vương Hy Phượng chỉ được cái khôn vặt, nham
hiểm, trên đội dưới đạp. Vương Hy Phượng cũng rất thú vị, người ta
muốn ghét nàng cũng không ghét nổi, muốn yêu nàng lại càng khó hơn,
song con phượng hoàng thực sự trong Hồng Lâu Mộng là Giả Thám
Xuân. Tào Tuyết Cần dụng công mô tả những mặt đối lập của nhân vật
này, lại bày đặt những đầu mối giúp người đọc đoán được số phận nàng.
Giả Thám Xuân là cô ba trong “Giả Phủ Tứ Xuân”, về thứ tự nàng xếp
sau Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, trên Tích Xuân. Lần đầu Giả Thám
Xuân xuất hiện đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Lâm Đại Ngọc:
Cô thứ hai, vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt
sắc, lông mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khác thường, trông như
thoát hẳn trần tục.
Trong bốn cô Xuân, trừ Nguyên Xuân đã vào cung không kể, nàng là cô
gái đẹp nhất, thường được xếp chung với nhóm Đại Ngọc, Bảo Thoa,
Tương Vân, Bảo Cầm. Không chỉ đẹp, Thám Xuân còn có khí độ vô cùng
đặc biệt. Thám Xuân có con mắt tinh đời, khiếu thẩm mỹ rất tốt. Những
đồ vật xa hoa nàng không coi vào đâu, ngược lại chỉ thích những thứ bình
dị mà tinh xảo. Đoạn nàng nhờ Bảo Ngọc mua đồ chơi diễn tả rất khéo
điều này:
– Mấy tháng nay em có dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi
nào ra chơi phố, thấy có bức chữ hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh
mua hộ mang về cho em.
– Thỉnh thoảng anh cũng có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành,
ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ, xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng,
ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có chỗ vất; rồi đến các thứ
vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.
– Ai cần gì đến những thứ ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng
cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc, cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp,
em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích cả. Họ coi những thứ này như của
báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.
– Nếu em thích những cái ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho
người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ mua được hàng xe.
– Bọn người nhà biết gì? Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục,
thì mua nhiều về cho em.

.
Thám Xuân có sở trường thư pháp. Khuê phòng của nàng được Tào lão
gia miêu tả tinh tế mà vẫn phóng khoáng, thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp,
trong sáng:
Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa.
Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa
nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của
cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút;
bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng
cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo
một bức họa “Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương. Hai bên treo hai câu
đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công: Phong lưu cảnh đượm màu mây
khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn,
trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày
mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái
khánh Tị Mục bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.
Khuê phòng như vậy, Giả Thám Xuân đương nhiên là người có năng
khiếu văn chương. Vẫn biết Đại Ngọc, Bảo Thoa có tài làm thơ, nhưng
phải nhờ đến Thám Xuân ra tay tập hợp, Đại Quan Viên mới có Hải
Đường thi xã. Bảo Ngọc cũng phải bất ngờ thốt lên “không ngờ em Ba
phong nhã thế.”

Các chị em mở thi xã trong Đại Quan viên


Loài cây ưa thích của Thám Xuân chính là cây ba tiêu (cây chuối), nên
nàng tự xưng là Tiêu hạ khách, phong cách đặc biệt ấy khiến mọi người
đều trầm trồ khen hay. Hình tượng cây chuối trong thơ ca cổ điển Trung
Quốc vừa có khí độ quân tử, lại có duyên ngầm kín đáo, rất hợp với Thám
Xuân. Những bức họa mô tả nàng do vậy thường vẽ Thám Xuân tay cầm
sách, có khi ngồi cạnh tàu ba tiêu. Chính Thám Xuân đã từng tuyên bố
nếu nàng sinh ra là đàn ông, hẳn đã tự lập được công danh rạng rỡ.
.
Vì những nét đẹp kể trên, Thám Xuân còn được mệnh danh là “cô Ba hoa
hồng”. Đầy tớ của Phượng Thư đã giải thích nguyên do như sau: “Hoa
hồng vừa đỏ vừa thơm, ai mà chẳng phải yêu, có điều lắm gai thôi.” Quả
vậy, không những trong số các cô gái ở vườn Đại Quan nàng ghê gớm
nhất, mà ngay cả những người hầu dày dạn và các bà phu nhân cũng phải
dè chừng Thám Xuân. Khi Phượng Thư bị ốm, Thám Xuân thay nàng
trông nom việc nhà cửa. Bọn người hầu tưởng có thể qua mặt cô tiểu thư
non nớt nên định nhờn mặt, xong bị nàng sửa đâu ra đấy, không dám ngo
ngoe. Thái độ của các nô tài, nô tì trong phủ Giả đối với Phượng Thư có
bảy phần sợ sệt, ba phần căm ghét, còn đối với Thám Xuân là bảy phần
kính trọng, ba phần sợ sệt. Phượng Thư cũng biết tính nàng khác hẳn mọi
người nên hết sức tôn trọng, không dám khiến nàng mếch lòng. Một lần
các bà già đi khắp vườn Đại Quan tra xét, lục rương hòm a hoàn để truy
tìm một vật cấm. Vợ Vương Thiện Bảo là một bà già ngu xuẩn, nghĩ
Thám Xuân là cô gái yếu đuối nên có ý coi thường, định làm nhục nàng
để lên mặt với bọn người dưới. Lập tức bà ta bị đòn đau:
Mụ cho Thám Xuân chỉ giận một mình Phượng Thư thôi, không can gì
đến mụ, nên muốn nhân đó làm bộ, liền đi lên trước mọi người, kéo vạt
áo Thám Xuân, cố ý giơ lên một cái cười hì hì nói:
– Ngay trong mình cô tôi cũng khám cả rồi, chẳng thấy gì cả.
Phượng Thư thấy mụ làm thế vội nói:
– Già đi thôi, đừng giở trò rồ dại nữa.
Chưa dứt lời thì nghe “bốp” một tiếng, vợ Vương Thiện Bảo bị Thám
Xuân tát một cái vào mặt. Thám Xuân nổi giận, trỏ vào vợ Vương Thiện
Bảo hỏi:
– Mày là hạng gì dám nắm lấy áo tao. Chẳng qua tao nể mặt bà, thấy
mày cũng đã có tuổi, nên mới gọi mày là già, mày lại chó cậy chủ nhà,
càng ngày càng bậy, dám lên mặt với tao à! Mày cứ tưởng tao cũng dễ
tính như cô mày, mặc cho chúng bay khinh rẻ, mày nghĩ thế là nhầm rồi!

Giả Thám Xuân tát vợ Vương Thiện Bảo


Tính cách Thám Xuân cương cường như vậy có một phần rất lớn là do
hoàn cảnh xuất thân của nàng. Thám Xuân là em gái của Bảo Ngọc,
nhưng chỉ cùng cha. Mẹ Bảo Ngọc là Vương phu nhân, vợ cả của Giả
Chính. Mẹ đẻ Thám Xuân là dì Triệu, vợ bé. Theo tôn ti trật tự của xã hội
phong kiến, không những con gái không bằng con trai mà con vợ bé cũng
không bằng con vợ cả. Có nhiều trường hợp thê “cướp” con trai của thiếp,
thiếp cũng đành nuốt nước mắt chấp nhận. Kể cả con của thiếp nhận thê
làm mẹ, chỉ coi thiếp như người hầu kẻ hạ, thiếp cũng phải chịu. Nhưng
dì Triệu lại là người đàn bà ti tiện, xấu xa, luôn bày kế hãm hại Bảo
Ngọc, ghét cả Thám Xuân, nên sự thông cảm của người đọc dành cho bà
ta hầu như rất ít. Những hành vi, lời nói tục tĩu của dì Triệu gây cho
Thám Xuân không ít tức giận và xấu hổ. Nàng đẹp, thông minh, được Giả
mẫu yêu thương, nhưng sự tôn trọng mọi người dành cho nàng luôn bị đe
dọa bởi bà mẹ đẻ địa vị thấp kém, lại hay gây chuyện. Bởi tinh thần ức
chế nên nàng khó tính, chua cay, hay nói lời cay đắng. Theo như lời thằng
Hưng nói, “Đáng tiếc là cô ấy lại không phải bà Hai đẻ ra, thực là
‘phượng hoàng đẻ trong tổ quạ’”, thật là nhận xét chuẩn xác. Dì Triệu
cũng tự ý thức được điều đó nên khi Thám Xuân sắp đi lấy chồng, bà ta
liền nói kháy:
Dì Triệu vừa nghĩ vừa chạy đến bên Thám Xuân mừng cho cô ta, và nói:
– Cô ơi! Cô là người sắp bay cao rồi. Về nhà chú rể tất nhiên là tốt hơn ở
đây, chắc cô cũng bằng lòng. Tôi sinh ra cô bấy lâu, chưa hề nhờ được
gì, dù cho tôi có bảy phần xấu, cũng còn ba phần tốt, đừng có đi rồi cô
bỏ quên ngay tôi.
Thám Xuân nghe nói chẳng có nghĩa lý gì cả, nên chỉ cúi đầu làm việc,
không nói nửa lời.
Trong mắt dì Triệu, Thám Xuân là con phượng hoàng sắp bay khỏi cái tổ
quạ, khiến cho bà ta vừa hậm hực, vừa nhẹ nhõm. Song số phận của
Thám Xuân không chỉ gắn với hình ảnh chim phượng, mà còn cả cái diều
nữa. Trong truyện, cái diều xuất hiện ba lần để ám thị tương lai của nàng.
Lần thứ nhất là trong sổ tiền định ở Thái Hư ảo cảnh:
Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một vùng bể lớn, một cái thuyền lớn,
trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau bức họa có bốn câu:
Chí cao tài giỏi có ai bì,
Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.
Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.
Hai người thả diều trong tranh ứng vào Giả Chính và Vương phu nhân –
cha và mẹ cả của Thám Xuân. Việc cho Thám Xuân đi lấy chồng xa
chính là quyết định của họ. Đây là lá số tiền định chính thức của nàng.

.
Lần thứ hai, ở hội thi đố đèn:
Giả Chính lại xem câu đố của Thám Xuân:
Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,
Thanh minh là tiết dong chơi hợp thì.
Mỏng manh một sợi du ti,
Biệt ly đừng có trách gì gió đông.
                              (Đố một đồ chơi)
Giả Chính nói:
– Đó là cái diều.
Lúc đó, Giả Chính lo buồn vì những câu đố đèn do các chị em đặt ra đều
báo hiệu việc không lành. Quả vậy, Nguyên Xuân đố cái pháo nổ tan
tành, về sau chết trẻ, Tích Xuân đố cái đèn đại hải treo cửa Phật, cuối
cùng xuất gia đi tu. Thám Xuân đố cái diều, số phận nàng là phải rời khỏi
quê hương.
Lần thứ ba, ở lần các chị em chơi thả diều. Sự ám thị lần này được diễn tả
rất thơ mộng. Những lần đọc trước tôi đều bỏ qua đoạn này, bây giờ mới
thấy dụng ý của tác giả:
Thám Xuân đương định cắt dây cái diều phượng hoàng của mình, chợt
nhìn thấy một cái diều phượng hoàng đang bay lên trời, liền nói:
– Không biết cái kia của ai?
Mọi người đều nói:
– Cô cứ cắt cái của cô đi, xem nó quấn lại với nhau thế nào?
Nói xong, thấy cái diều phượng hoàng này dần dần bay sát lại chập vào
cái diều phượng hoàng kia. Mọi người đương định rút dây lại, thấy cái
diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều
thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên
lưng chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:
– Để cho cái này quấn vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn vào nhau
mới thích.

Quả nhiên cái diều chữ “Hỷ” quấn vào hai diều phượng hoàng. Ba cái
cứ đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi vù vù bay đi cả. Mọi người đứng xem vỗ
tay cười:

– Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại đâm ngay
vào?
Bảo Ngọc thả diều cùng các tiểu thư trong cung
Đoạn văn ngắn nhưng ý nghĩa hàm súc thật tuyệt diệu. Cái diều phượng
hoàng của Thám Xuân là sự kết hợp cả hai biểu tượng gắn với nàng: chim
phượng và chiếc diều. Tác giả lại cho một chiếc diều lạ từ đâu bay tới,
kèm thêm chữ “Hỷ,” ba diều cuốn vào nhau rồi bay đi biệt tăm, chính ngụ
ý rằng Thám Xuân sẽ kết hôn với người phương xa, theo chồng đi mất.
Đám cưới là đại hỷ, chim phượng (trống) và chim hoàng (mái) thì biểu
tượng cho đôi lứa truyền thống, ví dụ như khúc Phượng Cầu Hoàng của
Tư Mã Tương Như.
Ở hồi sáu mươi ba, Thám Xuân lại rút được thẻ hoa hạnh, “Ai rút được
thẻ này, tất lấy được chồng sang.” Số phận của Thám Xuân vậy là chắc
chắn. Ở cuối sách, nàng được gả vào một gia đình quan chức ở miền biển
xa, được đối xử rất tử tế.
Bi kịch của Thám Xuân cũng nhè nhẹ thôi, chỉ là phải xa gia đình, không
được cốt nhục sum vầy. Khúc “Hồng Lâu Mộng” tương ứng với nàng như
sau:
PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục phân ly)
Đường xa mưa gió một chèo,
Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây,
Phân chia hai ngả từ nay,
Dám mong giữ được ngày ngày bình yên,
Con đi xin chớ lo phiền.

Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu Hồng Lâu Mộng, 40 hồi sau ai chấp bút
vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Do đó nhiều nhà Hồng học cho rằng kết thúc
này quá tích cực theo kiểu “happy ending,” không hợp với mạch truyện.
Nhưng dựa trên những “lá số tiền định” trên, kết cục của Thám Xuân có
thể nói là rất chính xác và đúng với ý đồ của Tào Tuyết Cần.
*
Về Hồng Lâu Mộng:
- Đọc Hồng Lâu Mộng: Tần Khả Khanh – kẻ lẳng lơ trong mộng
- 5 dẫn chứng về mối quan hệ “bất chính” của Tần thị
- Hai chị em nhà họ Vưu: càng lăng loàn tợn càng đau vì tình
- Mượn món cà xào “xa xỉ” nói về ẩm thực thực-hư
- Giả Thám Xuân: con phượng hoàng sinh trong ổ quạ
- Người đàn bà ghen Hạ Kim Quế
- Tiết Bảo Thoa: Từ món thuốc giá băng đến mối lương duyên lạnh lẽo
- Đại Ngọc-Tình Văn: tuy hai mà một
- “Hận Phượng Thư, mắng Phượng Thư, không thấy Phượng Thư lại nhớ
Phượng Thư”
- Giả Chính: dấu chân trên tuyết của tình phụ tử
- Gửi bác Phúc Bồ: về Xuân Cung Đồ và cái “hư” trong Hồng Lâu Mộng
- Diệu Ngọc: miễn cưỡng diệt dục, sư chả phải sư, tục không phải tục
- Đại Ngọc vs Bảo Thoa: viên ngọc đen vs chiếc thoa vàng, ai hơn ai
kém?
- Giả Bảo Ngọc: “một nửa đàn ông là đàn bà”, lại là “nửa dôi”
- Tàn xuân bàn chuyện Nguyên Xuân
- Giả mẫu (phần 1): đầu tiên là chuyện giàu sang
- Giả mẫu (phần 2): đứa trẻ bất chấp và thiên vị
- Giả mẫu (phần 3): may còn được người viết về cuối rủ lòng thương
- Giả Nghênh Xuân (phần 1): rúc đầu vào sách, bịt mắt bưng tai
- Giả Nghênh Xuân (phần 2): hiền quá khó mà gặp lành
- Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 1): đè nén sống đời vờ nhạt nhẽo
- Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tiếng hão đành vui phúc về già
- Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 1): sự thôi thúc của phần con
- Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tấm gương mê gái có chết
cũng (nên) soi
- Về Giả Thụy của Hồng Lâu Mộng (phần 3): bài học cảnh giác về “si”,
về “sắc” cho… Bảo Ngọc
- Hồng Lâu Mộng: bi kịch của đàn ông thấy mình đầu thai thành đàn bà
- Tiết Bảo Thoa (phần 1): “lãnh mỹ nhân” giấu kín trái tim nóng
- Tiết Bảo Thoa (phần 2): Trong nóng, ngoài lạnh, thắng cả Lãnh Hương
Hoàn
- Tiết Bảo Thoa (phần 3): Con sâu chủ động chui vào với hoa
- Đại Ngọc và mệnh Mộc: sống như cây và chết cũng như cây
- Bảo Thoa và mệnh Kim: hoa mai ấm trong tuyết lạnh
- Phượng Thư và mệnh Hỏa (phần 1): Nội vụ hai tay hai dao
- Phượng Thư và mệnh Hỏa (phần 2): máu đỏ của nam tính
- Bảo Ngọc và mệnh Thổ (phần 1): 
Hiền như đất, gieo rắc yêu và khổ
- Bảo Ngọc và mệnh Thổ (phần 2): 
Là gương nên không thể cùng người
- Về những cái tên trong Hồng Lâu Mộng (phần 1)
- Căn phòng “dâm tình và chết chóc”: Phần 1 – Từ bức tranh trên tường
- Căn phòng “dâm tình và chết chóc”: Phần 2 – Từ mâm vàng tới quả
dưa
- Căn phòng “dâm tình và chết chóc”
Phần 3 – Từ giường báu tới màn châu

Chia sẻ:               
Ý KIẾN - THẢO LUẬN
Ý KIẾN - THẢO LUẬN
12:54 Tuesday,5.9.2017
Đăng bởi:  ĐẠI NGU
Phượng Thư một đời làm nhục người nên cuối cùng chết trong nghèo khó cô
độc. Cái đó có gọi là ÁC GIA ÁC BÁO không vậy. Chả cần chờ đến kiếp sau
nhi! Mà trả thế chưa ăn thua, kiếp sau sẽ còn phải trả tiếp!!! :)))))))))))
 
(SOI: Bạn Đại Ngu sửa bàn phím máy tính nhé, hình như bị hỏng nút chữ "r"
nên các cmt đều phải sửa lại chính tả nhiều :-))
14:41 Thursday,31.8.2017
Đăng bởi:  KHÁCH QUA ĐƯỜNG
Bởi tinh thần ức chế nên nàng khó tính, chua cay, hay nói lời cay đắng.
Không đồng ý với đoạn này lắm. Có thể nói Thám Xuân là người có tính
cách mạnh mẽ và khoáng đạt như một trang nam nhi.  Khuê phòng của nàng
là một minh chứng rõ nét nhất: Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở
đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có
các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và
các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như
Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên
Tây treo một bức họa "Yên vũ đồ" của Mễ Tương Dương. Hai bên treo hai
câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công: Phong lưu cảnh đượm màu mây
khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên
cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục
quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị
Mục bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ. 
Khi Giả Mẫu trách mắng Vương phu nhân vì Giả Xá muốn lấy Uyên Ương,
không ai dám hé răng chỉ có nàng là người dám lên tiếng và Giả Mẫu đã phải
"tâm phục khẩu phục"" trước lý lẽ sắc bén của nàng.  Điều này còn thể hiện ở
đoạn nàng khuyên mẹ đẻ "thích thì chơi đùa với bọn hầu nhỏ, không thích thì
lánh xa chúng nó, đừng có tức giận để rồi lại thành trò cười cho mọi người".
Cũng chính vì khoáng đạt nên dù rất thông minh nàng cũng không nhận ra
âm mưu tinh quái của Phượng Thư với dì Hai trong khi Bảo Thoa và Đại
Ngọc lại hiểu ngay được hoàn cảnh của cô này.

8:17 Saturday,5.12.2015
Đăng bởi:  MOMO
Anh Nguyễn có thể tiếp tục viết loạt bài về Hồng Lâu Mộng không? Đọc rất
hay ạ.
23:46 Saturday,20.12.2014
Đăng bởi:  SƯƠNG
KennedyHua phân tích hay quá, nhưng theo mình hiểu Anh Nguyễn nói cái
bi kịch của Thám Xuân là bi kịch trong khuôn khổ khi người con gái còn ở
phủ (còn sang nhà chồng rồi thì phận gái coi như quên đi, hoàn toàn tính theo
phận nhà chồng). Trong khuôn khổ phủ (và vừa tức thời rời phủ được vài
dặm ngựa đi), thì rõ ràng Thám Xuân là còn sướng, chứ Lâm Đại Ngọc thổ
huyết (ho lao) mà chết, Vưu tam thư chết thảm, Vương Hy Phượng khổ nhất
phải chứng kiến cảnh nhà sa sút, chết thì bó chiếu (hehe, mình đọc lâu rồi
quên rồi, kiến thức về mấy cô chết này toàn là lấy từ... bài của Anh Nguyễn).
Đấy là mình hiểu như thế về hai chữ "nhè nhẹ" của bài...
Cảm ơn KennedyHua nhe. Nhân tiện nói luôn mình đúng là..., ngày ấy đọc
40 hồi sau mà không phát hiện ra sự lệch gì, vẫn thấy hay như thường :-)))
22:08 Saturday,20.12.2014
Đăng bởi:  KENNEDYHUA
40 hồi sau của Hồng Lâu Mông vốn không do Tào gia chấp bút nên kết thúc
theo kiểu phục hưng là quá gượng gạo ... chứ tuân theo dòng chảy của 80 hồi
trước thì số phận của Thám Xuân không hề nhè nhẹ như tác giả viết đâu.

Trong Giả phủ tứ Xuân thì đã an bài 1 quy luật là "Tam xuân nan cập sơ xuân
cảnh", nghĩa là ba cô xuân còn lại không thể sánh bằng cô xuân đầu. 

Theo truyện ta thấy Nguyên Xuân sướng nhất, là được hưởng vinh hoa phú
quý, vào cung làm quý phi được sủng ái đến mức cho phép quay về nhà thăm
cha mẹ dù chỉ 1 lần. Chiếu theo lý thì 3 nàng Xuân còn lại sau này trưởng
thành có sang có giàu thế nào cũng không thể vượt hơn. Và chúng ta thấy rõ,
3 nàng còn lại thì chỉ có Thám Xuân là được gả vào vương phủ, điều này là
hợp lý vì cấp độ vương gia không thể so với Hoàng Đế. Riêng hai cô Xuân
còn lại thi quá bi thảm ...

Nữ nhi trong HLM định sẵn bạc mệnh, cô nào càng đẹp thì phận càng mỏng.
Dĩ nhiên Giả phủ Tứ xuân không thể ngoại lệ. Nguyên Xuân chết sớm vì
bệnh thì xem ra là có số phận cũng bạc nhưng xem ra mới đúng nhè nhẹ so
với các chị em khác. Chứ số mệnh của Thám Xuân theo các nhà Hồng học
khảo cứu thì khổ hơn rất nhiều: tuy gả vào vương phủ giàu sang, nhưng chỉ
được vài ngày là nhà chồng bị họa giáng xuống, bị tịch thu gia sản mất hết
quyền lực cả nhà phải bị lưu đày ra miền biển xa không biết ngày nào mới
được quay về thành Kim Lăng nữa kìa.

Tình tiết Thám Xuân vinh quy quay về thăm nhà ở 40 hồi sau là do người
khác viết tiếp nên không muốn bàn đến.
21:28 Thursday,18.12.2014
Đăng bởi:  PHẠM NGỌC HÙNG
Thám Xuân phải biệt ly khi nhà họ Giả có vẻ đang thịnh nhưng thực ra là
thoát được kiếp nạn trong gang tấc. Ngay sau đó, tai hoạ ập xuống nhà họ Giả
sau cái chết của Nguyên Xuân, tất cả đều bị số phận dập vùi phũ phàng. Hình
ảnh Vương Hy Phượng sau khi chết vì đói rét, bị bó chiếu hở đầu ra ngoài khi
kéo lê trên tuyết cứ kéo dài mãi trong phim, thật thảm thương...
21:10 Thursday,18.12.2014
Đăng bởi:  KK
Bạn này cực hay, cô đóng Thám Xuân trong phim HLM thì tuy không đạt
lắm, nhất là đoạn hất tay bà hầu dám soát người trông chưa đủ"uy", nhưng
khuôn mặt, thần sắc đúng như mình hình dung về Thám Xuân, mặt hơi vuông
chữ điền và phong tư rất khác người, thiên về trí tuệ hơn là yêu kiều tình cảm
như bọn chị em khác.

You might also like