Professional Documents
Culture Documents
Khái quát khí hậu huyện hải hậu
Khái quát khí hậu huyện hải hậu
Khái quát khí hậu huyện hải hậu
Khí hậu - thuỷ văn có quan hệ chặt chẽ với nhau và gắn kết với vị trí địa lý, địa hình, địa chất,
thổ nhường. Vị trí địa lý quyết định đến bức xạ nhiệt, gió, nhiệt độ. Bức xa nhiệt, gió, nhiệt độ
quyết định đến lượng bốc hơi nước và chế độ mưa. Lượng mưa và thuỷ chế của sông, thuỷ
triều tác động đến quá trình xâm thực, bồi đắp tạo thành địa hình, địa chất và thổ nhưỡng của
đất. Địa hình, địa chất (và tác động của con người) tác động đến mạng lưới thuỷ văn. Việc
nghiên cứu và nắm vững được quy luật diễn biến của khí hậu, thuỷ văn là một khâu không thể
thiếu trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Văn Lý 88 44,1 44,5 96,9 217,5 196,8 230,4 180 180,1 184,6 148,
TP Nam Định 78 39,2 43,9 97,6 202,1 185,9 222,5 174,1 178,2 174,6 145,
Số giờ nắng trong năm nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 1179,3 giờ bằng 67,8% tổng
giờ nắng trong cả năm, tháng 7 là tháng có giờ nắng nhiều nhất (230,4 giờ/tháng). Tháng có số
giờ nắng thấp nhất là tháng 2 và tháng 3 (44 - 45 giờ/tháng) trời nhiều mây, thường có mưa
phùn, ẩm ướt.
Số giờ nắng kéo dài, bức xạ nhiệt phong phú là điều kiện tốt để cây trồng tăng cường độ quang
hợp đạt năng suất cao, cũng là điều kiện thuận lợi cho ruộng muối ở Hải Hậu có năng suất cao
và trở thành vùng muối chính của Bắc Bộ.
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 3,7 3,7 3,8 3,8 4,2 4,1 4,4 3,3 3,4 3,7 3
TP Nam Định 2,4 2,3 2,0 2,3 2,4 2,3 2,4 2,0 2,2 2,5 2
Tốc độ gió trung bình mạnh nhất từ tháng 5 đến tháng 7 (trên 4m/s), tháng 7 là tháng có tốc độ
gió trung bình cao nhất (4,4m/s) trong năm. Tốc độ gió cực đại xuất hiện vào các tháng 7, 8, 9
lên tới 48m/s. Bão từ biển Đông thường hình thành từ tháng 6 đến hết tháng 9, bão thường đổ
bộ vào đất liền trong tháng 8 và tháng 9. Do là huyện ven biển nên hầu như các trận bão đổ bộ
vào đồng bằng Bắc Bộ, huyện Hải Hậu đều bị ảnh hưởng với tốc độ gió lớn nhất, tốc độ gió lên
tới cấp 12 và trên cấp 12 gây hậu quả thiệt hại nặng nề: vỡ đê, ngập úng, đổ nhà, đổ ngã cây
trồng… Theo nhât ký đại cương- Lịch sử xã Hai Trung ghi Iại thì từ giữa thế kỷ XIX đến 1945 Hải
Hậu đã có những trận bão lớn vào các năm 1781, 1809, 1829, 1838, 1840, 1844, 1847, 1856,
1867, 1884, 1887, 1889, 1892, 1897, 1903, 1904, 1910, 1916, 1921, 1926, 1927, 1929, 1937,
1940, 1943, 1944 nhiều năm có tới 5-6 trận bão, có năm 1 tuần 3 trận bão. Trước năm 1945 mỗi
khi có bão lớn đều gây mất mùa (chủ yếu là cây lúa mùa) gây đói kém, chết người, mất của..
.Ngoài bão xuất hiện từ biển Đông để bộ vào đất liền, trong tháng 5 và tháng 10 có sự chuyển
giao từ mùa khô sang mùa mưa và ngược lại từ mùa mưa sang mùa khô thường xuất hiện
những trân cuồng phong kèm theo giông tố ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và dân sinh.
TP Nam Định 16,7 17,3 19,8 23,5 27,3 29 29,3 28,6 28 24,9 21
Nhiệt độ trung bình năm 23o5 tương đương như các vùng khác trong đồng bằng Bắc Bộ. Nhiệt
độ trung bình tháng cao nhất là tháng 7 (29o4) và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là tháng 1
(16o5) biên độ nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 12 o9 cũng tương đương như
biên độ của các vùng khác của tỉnh Nam Định (TP Nam Định 12 o6). Tuy nhiên do ảnh hưởng của
biển nên nhiệt độ của các tháng mùa Đông và mùa Xuân có thấp hơn và nhiệt độ trung bình các
tháng mùa hè lại cao hơn so với các vùng đất sâu hơn trong nội địa.
NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ CAO NHẤT TRUNG BÌNH THÁNG VÀ NĂM (ĐỘ C
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 18,7 18,5 20,8 24,7 29,4 31,2 31,6 31,2 30,1 28 24
TP Nam Định 19,2 19,5 22,3 26,5 31 32,4 32,7 31,6 30,3 28 24
NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ THẤP NHẤT TRUNG BÌNH THÁNG VÀ NĂM (ĐỘ C
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 14,6 15,3 17,7 21,4 25,2 26,6 27,1 26,2 25 22,4 19
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 25,8 34 37,6 70,1 131,5 185,4 211,3 339,5 395,3 226,7 80
TP Nam Định 27,8 35 50,8 81,6 174,7 192,7 230,2 352,2 347,7 194,6 67
Sô liệu ghi chép cho thấy tổng lượng mưa hàng năm ở Hải Hậu tương đương như các vùng
trong tỉnh Nam Định và các tỉnh trong đồng bằng Bắc Bộ (Hải Hậu 1.759mm, TP Nam Định
1.757mm, tỉnh Hưng Yên 1.729mm, tỉnh Ninh Bình 1.828mm). Về lượng mưa trong tháng: Nếu
xếp các tháng có lượng mưa trên 100mm là các tháng có mưa nhiều thì các táng mưa nhiều là
từ tháng 5 đến hết tháng 10, tháng mưa nhiều nhất là tháng 9 (395,3mm) tháng 8 (339,5mm)
các tháng mưa ít là tháng 11 đến tháng 4 (các tháng mưa ít chỉ chiếm 5,3% tổng lượng mưa cả
năm).
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 9,2 13,3 15,1 11 9,7 12,1 9,8 15,2 16,2 13,8 9
Cả năm có 141 ngày có mưa.
Tháng 3 có 15,1 ngày có mưa nhưng lượng mưa chi có 37,6mm chính là thời kỳ mưa phùn, gió
bấc, ẩm ướt, nhiệt độ mát. Tháng 8, tháng 9 cũng là tháng có số ngày mưa nhiều trên 15 ngày
và là các tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm. Mưa lớn trong các tháng 8 và 9 gắn liền với
sự hình thành áp thấp nhiêt đới và bão trong khu vực biển Đông. Lượng nước mưa lớn nhất
trong một ngày của các tháng được trạm khí tượng Văn Lý do được như sau:
Tháng 1 2 3 4 5 6
Trận mưa lớn nhất được ghi lại vào ngày 26/09/1973 đạt 377,2mm.
Lượng mưa và thời gian mưa trong các tháng cũng cho thấy rõ là tháng 4 là tháng chuyển tiếp
từ mùa khô sang mùa mưa và tháng 11 là tháng chuyển tiếp từ mùa mưa sang mùa khô.
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 59,2 38,9 35,8 47,2 93 111,1 125,5 99,7 92,8 101,9 9
TP Nam Định 55,2 40,9 39,4 50,7 86,8 92,9 104,7 77,5 69,4 79,3 7
Hải Hậu nằm trong giải có lượng bốc hơi nước cao trên 900 mm/năm – vùng dọc theo bờ biển.
Lượng bốc hơi nước liên quan với chế độ nhiệt, chế độ mưa và chế độ bức xạ. Tháng 2, tháng 3
lượng bốc hơi nước thấp nhất bởi trời nhiều mây, có mưa phùn, số giờ nắng ít và nhiệt độ còn
thấp.
Các tháng 5,6,7,8,9 là các tháng có lượng bốc hơi nước cao (nhất là tháng 7, lượng bốc hơi là
125,5mm) là bởi các tháng này nắng nhiều, nhiệt độ cao, ít mây, gió mạnh. Tháng 10 và tháng
11 lượng bốc hơi nước còn cao là vì số ngày mưa đã giảm, nhiệt độ vẫn còn cao, trời quang, ít
mây và hanh khô.
Nếu tính những tháng có lượng bốc hơi nước cao hơn và tương đương với lượng mưa cùng
tháng thì các tháng 1,2,3,11,12 là các tháng mùa khô ở Hải Hậu. Mùa khô ở Hải Hậu kéo dài
hơn so với mùa khô ở các vùng sâu trong nội địa (TP Nam Định).
LƯỢNG MÂY TỔNG QUAN TRUNG BÌNH THÁNG VÀ NĂM (% bầu trời)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 7,9 9,1 9,2 8,5 7,2 7,6 7,5 7,9 6,7 6 6
TP Nam Định 7,8 9 9 8,3 7,3 8,2 7,7 8,3 7,1 6,3 6
LƯỢNG MÂY TỔNG QUAN TRUNG BÌNH THẤP NHẤT THÁNG VÀ NĂM (% bầu
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 7,5 8,7 8,7 7,3 4,9 4,4 3,4 4,4 4,5 4,9 5
TP Nam Định 7,6 9 9 7,7 5,2 4,5 3,6 4,2 4,6 4,6 5
Lượng mây tổng quan nhiều kéo dài từ tháng 1 đến tháng 9 (mây che trên 70% bầu trời) lượng
mây tầm thấp xuất hiện nhiều từ tháng 1 đến tháng 4 (mây che trên 73% bầu trời) cũng là tháng
ít mưa, nhiệt độ thấp. Lượng mây tổng quan và mây tầm thấp cực đại là tháng 2, tháng 3 (chiếm
97% bầu trời). Mây tầm thấp xuất hiện ít từ tháng 5 đến hết tháng 11 và ít nhất là tháng 7 (chiếm
36% bầu trời) trùng với tháng có số giờ chiếu nắng cao nhất (230,4 giờ/tháng) nhiệt độ không
khí cao nhất (29,4oC) và tốc độ gió trung bình cao nhất (4,4m/s) trong năm.
Chế độ không khí ở Hải Hậu
Độ ẩm tuyệt đối và độ ẩm tương đối trung bình của không khí trung bình hàng tháng và hàng
năm như sau:
ĐỘ ẨM TUYỆT ĐỐI TRUNG BÌNH CỦA KHÔNG KHÍ THÁNG VÀ NĂM (mb
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1
Văn Lý 16,3 17,4 20,5 25,5 31,1 33,3 33,7 33 30,9 26,3 2
TP Nam Định 16,4 17,7 21,3 25,8 30,5 32,6 33 32,9 30,8 26,1 2
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Văn Lý 85 89 92 91 86 83 82 84 84 82 81
TP Nam Định 85 88 91 89 85 83 82 85 85 83 82
Độ ẩm tuyệt đối (mb) liên quan và phụ thuộc vào nhiệt độ các tháng từ tháng 5 đến tháng 9:
nhiệt độ trung bình tháng trên 25"C, độ ẩm tuyệt đối cũng cao trên 30mb. Tháng 1 là tháng có
nhiệt độ trung bình thấp nhất (16o5) thì cũng là tháng có độ ẩm tuyệt đối thấp nhất (16,3mb).
Tháng 3, tháng 4 và tháng 9, tháng 10 độ ấm tuyệt đối từ 21-26 mb biếu hiện rõ tính trung gian
chuyển tiếp giữa mùa lạnh sang mùa nóng và từ mùa nóng sang mùa lạnh. Độ ẩm tương đối
được tính bằng % lượng nước hiện có trong không khí so với lượng nước tối đa mà không khí
có thể chứa được trong điều kiện nhiệt độ thời điểm đó, lượng nước tối đa mà không khí có thể
chứa được lại phụ thuộc vào hiện trạng của mưa, lượng bức xạ và lượng mây. Những ngày có
mưa, nhiều mây, bức xạ thấp thì độ ẩm tương đối cao. Các tháng 2-3-4 do ảnh hưởng của mưa
phùn, lượng mây nhiều, ánh sáng ít, độ ẩm tương đối đạt trên dưới 90%. Tháng 8, tháng 9 cũng
có độ ẩm tương đối có trị số cao 84%. Hai giai đoạn là tháng 3- tháng 4, tháng 8- tháng 9 trùng
với thời gian lúa xuân và lúa mùa đứng cái, làm đòng trong điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ thích
hợp, rất thuận tiện cho sâu và bệnh phát sinh, phát triển và gây hại - đặc biệt là bệnh khô vằn,
đạo ôn và sâu cuốn lá. Tháng 10, 11, 12 là các tháng cuối mùa thu đầu mùa đông: trời quang, ít
mưa, nhiệt độ giảm thấp nên độ ẩm thấp (81 - 82%) gây cảm giác trời khô hanh, tháng 6, tháng
7 khí hậu chuyển sang mùa mưa, nhưng nhiệt độ không khí tăng cao, số giờ chiếu nắng nhiều
dẫn đến giới hạn của lượng nước có trong không khi tăng cao nên ẩm độ tương đối giảm.
7 220 -5 175
8 230 0 150
9 205 10 160
10 240 -5 200
Mực nước cao cực đại tại cống Múc I là 300mm (ngày 27/9/2005). Các tháng nước thấp là tháng
2, 3, 4.
Nước sông Ninh Cơ chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. Độ mặn 1‰ có thể đi sâu vào nội địa tới
37km, độ mặn 4‰ có thể vào nội địa trung bình 10,5km.
Dọc theo tuyến sông là tuyến đê bảo vệ có 19 cống và cửa sông lấy và tiêu nước.
Sông Sò
Sông Sò là chi nhánh của sông Hồng, đầu nguồn ở thị trấn Ngô Đồng huyện Giao Thuỷ. Sông có
chiều dài 22,7km, đoạn qua huyện Hải Hậu là 6,5km đi qua xã Hải Nam, Hải Phúc và đổ ra biển
Đông tại cửa Hà Lan. Đoạn sông qua Hải Hậu là ranh giới tự nhiên của huyện Hải Hậu và huyện
Giao Thuỷ. Sông Sò ít uốn lượn, đoạn qua Hải Hậu là đoạn cuối sông, nước mặn luôn xâm nhập
vào nên ít có tác dụng trong tưới nước.
Các chi nhánh chính của sông Ninh Cơ trên địa bàn cung cấp nước cho huyện Hải
Hậu
Sông Rộc
Sông Rộc bắt nguồn từ cống Rộc xã Xuân Ninh đổ ra cống Quang Nam. Sông Rộc chảy qua xã
Xuân Ninh, Hải Vân, Hải Nam, Hải Hà, Hải Phúc, Hải Lộc. Sông có 2 nhánh chính là Rộc 3 và
Lộc Tân. Sông chảy từ Bắc xuống Nam với chiều dài 13km. Trên hệ thống có 58 kênh cấp hai
lấy nước và tiêu cho 2469 ha đã canh tác của các xã phía Đông huyện Hải Hậu.
Sông Rộc là sông tự nhiên hình thành cùng với khai hoang lấn biển, được mở rộng nạo vét và
đào mớí thêm để có sông Rộc như ngày nay.
Hệ thống sông Múc
Sông Múc cổ
Sông Múc cổ là sông tự nhiên có từ lúc khai hoang mở đất. Sông bắt nguồn từ cống Múc cổ
(phia Tây làng Phạm Rỵ hiện nay) chảy xuyên qua làng Pham Rỵ về xóm Phú Cường (xóm cố
đầu tiên đất Quần Anh xưa) chảy xuống qua cầu Đông lượn ra Nghĩa Chủng (Hải Trung) ra khu
cây Đa ba gốc vòng sau chùa xã Hạ ra Đông Cường, lượn sau chùa Tùng Lâm (khu vực xã Hải
Bắc hiện nay) ngược lên cánh đồng Trung khu (xóm 16 Hải Trung).
Sông Múc có vị trí quan trọng trong việc khai hoang mở đất thời kỳ đầu tứ tổ khai khẩn đất Quần
Anh. Vì vậy các bậc tiền bối đã bỏ nhiều công sức đào đắp, mở rộng, cải tạo để khai thác triệt để
dòng sông phục vụ cho khai hoang, dẫn nước thau chua rửa mặn, phục vụ cho cấy trồng và lấy
nước sinh hoạt. Như việc bỏ cống Múc cổ xây cống Múc mới, về phía Đông làng Phạm Rỵ (nay
là Âu Múc I) đào sông mới nối từ cống mới vào sông Múc cổ. Năm 1939 Pháp bỏ cống Múc cũ
xây cống mới (nay là cống Múc I). Đồng thời đảo đoạn từ Nghĩa Chủng ra Yên Định, nối với
sông Xẻ Đông ra thị trấn Cồn.
Hệ Múc II
Hệ Mức II bắt nguồn từ sông Ninh Cơ qua cống Múc II và Âu Múc II (giáp danh giữa xã Hải
Trung và xã Xuân Ninh (huyện Xuân Trường). Hệ Múc II có 2 đoạn: đoạn đào mới 1985 từ cống
Múc II đến cầu Mộng Chè (Hải Trung) dài 2,7km và đoạn 2 là sông Múc cũ từ cầu Mông Chè
đến thị trấn Thịnh Long. Hệ Múc II có chiều dài 26km đi qua các xã Hài Trung, Hải Bắc, Yên
Định, Hải Phương, Hải Hưng, Hải Quang, Hải Tây, Hải Tân, TT Cồn, Hải Xuân, Hải Hoà, TT
Thịnh Long và đổ ra cống 1-5. Hệ Múc II có 3 nhánh lớn: Múc 1, cuối Múc và Múc 3. Hệ thống
sông Múc II có 90 kênh cấp II làm nhiệm vụ cấp nước tưới và tiêu có 6.335 ha đất canh tác
(50% đất canh tác) của huyện Hải Hậu.
Hệ Múc I
Hệ Múc l lấy nước từ sông Ninh Cơ qua cửa cống Múc I và Âu Múc l thuộc địa phận xã Hải
Trung. Hệ Múc I có 2 đoạn: đoạn l từ cống Múc I đến Nghĩa trang liệt sỹ Hài Trung là đoạn sông
Múc I cũ. Đoan từ nghĩa trang Hải Trung xuống Trực Phú là đoạn đào mới năm 1986. Sông có
chiêu dài 12,7km chảy từ Hải Trung qua Hải Anh, Hài Minh, Trực Đại, Trực Thái, Trực Cường,
Trực Phú. Hệ Múc II cắt ngang qua các sông Đối, sông Thốp, sông Trệ, sông Trực Cường. Hệ
Múc I bổ sung 40% tổng lượng nước tưới cho hệ thống thủy nông Hải Hậu, tưới cho 5.117 ha
đất canh tác của các xã phía Tây của Hải Hậu và 6 xã của huyện Trực Ninh.
Toàn bộ hệ thống sông Múc là xương sống cùa hệ thông thuỷ nông Hải Hậu. Các cửa lấy nước
nằm sâu trong nội địa vì thế có thể chủ động lấy nước được quanh năm, tăng lượng nước có
chất lượng cao phục vụ cho thâm canh cây trồng, cải tạo thau chua rửa mặn, nâng độ phì cho
đất.
Sông Đối
Sông Đối lấy nước của sông Ninh Cơ qua cống Đối. Cống Đối ở vị trí giáp danh giữa xã Hải Anh
và xã Hải Minh. Sông Đối đã qua các xã Hải Anh, Hải Minh, Hải Đường, Hải Phú, Hải Ninh. Trên
sông Đối có 55 sông cấp 2, sông nhận nước từ cống Đối và Hệ Múc I tưới tiêu cho 2.390 ha đất
canh tác vùng giữa huyện Hải Hậu.
Sông Trệ
Sông Trệ lấy nước từ sông Ninh Cơ qua cống Trệ. Sông có chiều dài 17,25km chảy qua các xã
Hải Minh, Trực Đại, Hải Đường, Trực Thắng, Hải Phong. Sông Trệ nhận nước từ cống Trệ và
Hệ Múc I. Hệ thống sông Trệ có 28 kênh cấp 2 lấy nước và tiêu nước cho 1800 ha đất canh tác.
Sông Thốp
Sông Thốp lấy nước từ sông Ninh Cơ qua cống Thốp tại địa bàn xã Trực Đại, sông có độ dài
10,1km chảy qua các xã Trực Đại, Trực Thắng, Hải Phong. Hệ thống sông Thốp có 35 sông cấp
2. Sông Thốp nhận nước từ cống Thốp và Hệ Múc I để tưới tiêu có 1.842 ha trong khu vực.
Thủy triều và việc khai thác quy luật thủy triều ở Hải Hậu
Thuỷ triều là quy luật lên xuống của nước biến bởi sự tương tác của lực hút giữa mặt trăng và
mặt đất. Vòng quay của trái đất theo quy luật, mặt trăng quay quanh trái đất cũng theo quy luật,
cho nên thuỷ triều lên xuống vơi đầy tại một vùng biển cũng theo quy luật. Thủy triều vùng biển
Hải Hậu nằm trong vùng quy luật triều của biển phía Bắc biển Đông - chế độ nhật triều – mỗi
ngày có 1 lần nước lên và 1 lần nước xuống, tuy nhiên đã kém điển hình bởi vì trong tháng có
mấy ngày xuất hiện 2 lần thuỷ triều lên và 2 lần thuỷ triều xuống. Độ cao triều biển Hải Hậu
thuộc vùng triều lớn của biển Việt Nam. Độ cao triều cực đại đo được tại Văn Lý là 3,88 m (ngày
24/10/1964). Các tháng 9-10-11-12 là tháng có độ cao thuỷ triều lớn. Các tháng 2-3-4 là tháng
có độ cao thủy triều thấp. Kỳ nước kém xảy ra 2-3 ngày sau ngày mặt trăng qua mặt phẳng xích
đạo mực nước lên xuống ít, có khi không thay đổi, những ngày này thường có 2 lần nước lên 2
lần nước xuống nên gọi là ngày nước sinh.
Hải Hậu có 2 nguồn nước trái chiều nhau. Thuỷ triều đâng, nước tràn vào đất liền, tiến sâu vào
các cửa sông. Nước từ thượng nguồn theo sông chảy ra biển. Khi nước triền dâng lên, nước
sông bị ứ đốn lại và dâng cao. Độ cao của nước sông lúc này phụ thuộc độ cao của nước triều
và nước nguồn. Thuỷ triều lên xuống theo quy luật dân đến độ cao của nước trong sông cũng
cao thấp theo quy luật. Mùa mưa nguồn nước từ thượng nguồn đổ về nhiều, mực nước sông
cao hơn. Mùa khô nước nguồn ít, độ cao nước sông thấp hơn và nước mặn thường tiến sâu vào
nội địa.
Từ tổng kết kinh nghiệm năm này qua năm khác, lợi dụng quy luật lên xuống của thủy triều, của
nước sông, tổ tiên xưa đã xây dựng lên lịch con nước để bảo nhau lấy nước, giữ nước, tiêu
nước trên đồng ruộng.
6 - 12 7 - 21 Tý (23h - 1h) Sử
Như vậy trong 1 năm có 26 lần con nước, các con nước kế tiếp nhau trước sau là 14 ngày. Từ
ngày sinh con, nước lớn dần rồi lại thấp dần tới chu kì con nước mới.
Dựa trên quy luật của lịch con nước, người nông dân chủ động ngày giờ để dẫn nước vào
ruộng, giữ nước, thay tiêu nước lấy phù sa, thau chua rửa mặn. Đây cũng là một kĩ thuật tưới
nước đặc thù của sản xuất lúa của một huyện ven biển.
Có thuỷ triều, có nước nguồn, có quy luật như lịch con nước, đồng đất Hải Hậu tận dụng quy
luật này để chủ động tưới tiêu tự chảy. Nhưng khi triều lên, nước biển tiến sâu vào đất liền, trên
sông Ninh Cơ độ mặn 1‰ có thế vào sâu theo sông tới 37 km, biên độ mặn 4‰ vào sâu 10,5km
(4‰ là giới hạn mặn đối với cây lúa) thì nếu như không có hệ thống đê biển, đê sông, các cống
tiêu nước, dẫn nước đầu nguồn vững chắc thì với độ cao của thủy triều như thế Hải Hậu luôn
luôn bị đe doạ là vùng ngập mặn.
Bình luận Khái quát khí hậu - thủy văn Hải Hậu
Xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả nhiệm kỳ 2020-2025, Hải Hậu tập trung vào 3
khâu đột phá: Khai thác có hiệu quả các tiềm năng, nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư để
xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nhanh công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nông thôn mới xã Hải Châu (Hải Hậu) (Ảnh chụp trước ngày 27-4-2021).
Thực hiện hiệu quả 3 khâu đột phá
Đồng chí Đỗ Hải Điền, Chủ tịch UBND huyện cho biết: Mục tiêu phấn đấu năm 2021, Hải Hậu đạt huyện nông
thôn mới (NTM) nâng cao; năm 2025 đạt huyện NTM kiểu mẫu “sáng - xanh - sạch - đẹp để phát triển bền vững”
- Đó là yêu cầu của tỉnh cũng là nguyện vọng của toàn thể Đảng bộ, quân và dân Hải Hậu. Đây là nhiệm vụ lớn,
xuyên suốt trong cả nhiệm kỳ. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy, xứng đáng với niềm tin và kỳ vọng của tỉnh,
ngay đầu nhiệm kỳ, Huyện ủy đã ban hành 4 nghị quyết chuyên đề, đề án cụ thể. Theo Chủ tịch UBND huyện
Đỗ Hải Điền: Để phát triển kinh tế nhanh và bền vững theo mô hình đa cực, khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế
biển, huyện đã rà soát điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng huyện đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050,
trong đó tích hợp đầy đủ và đồng bộ các quy hoạch cấp huyện có liên quan đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển
trước mắt cũng như lâu dài. Tổ chức lập quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, nhất là các vùng
nuôi ven biển; đồng thời đề xuất xây dựng các dự án đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản
cho các vùng nuôi tương ứng. Lập quy hoạch phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ phát triển Khu kinh
tế Ninh Cơ và Nhà máy Nhiệt điện BOT Nam Định I. Đề xuất quy hoạch và triển khai xây dựng Khu công nghiệp
ven biển Hải Lộc - Hải Đông - Hải Lý. Đầu tư hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển. Tạo mọi điều kiện thuận lợi
để nhà đầu tư sớm hoàn thành xây dựng tuyến đường quốc lộ ven biển đi qua địa bàn huyện kết hợp với đầu tư
phát triển hạ tầng giao thông của huyện đảm bảo kết nối hài hòa. Huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực từ
xã hội hóa để thúc đẩy lộ trình nâng cấp thị trấn Thịnh Long thành đô thị trung tâm ven biển của tỉnh theo hướng
phát triển du lịch, dịch vụ vận tải biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản.
Phát triển các ngành kinh tế biển thế mạnh. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển các loại hình du
lịch hợp lý. Phấn đấu đến năm 2023 hình thành các khu du lịch và tua du lịch kết nối: Hải Đông - Nhà thờ đổ Văn
Lý - Thịnh Long, khu di tích lịch sử cầu Ngói - chùa Lương, làng nghề Hải Minh... Phát triển công nghiệp đóng
tàu và các nghề phụ trợ để đến năm 2025 toàn huyện phát triển đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá lên thành 7
chiếc với công suất trên 800CV, tải trọng trên 1.000 tấn. Phát triển nhanh diện tích nuôi công nghiệp theo
VietGAP, đảm bảo đến năm 2025 đạt trên 1.000ha. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ, thiết bị phát
triển các mô hình nuôi và sản xuất con giống thủy sản ứng dụng công nghệ cao, ứng dụng quy trình thực hành
nuôi tốt, an toàn sinh học, an toàn thực phẩm. Hình thành các chuỗi liên kết bền vững từ sản xuất - khai thác -
chế biến - xuất khẩu.
Năm 2021 và cả nhiệm kỳ, Hải Hậu thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nội dung tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Trong đó, huyện xác định các sản phẩm chủ lực, thế mạnh gồm: Lúa chất lượng cao, lúa đặc sản, thịt lợn, thịt và
trứng gia cầm, tôm, cây dược liệu và các sản phẩm thủy sản chế biến. Trên cơ sở đó lập quy hoạch phát triển
các ngành hàng, sản phẩm nông nghiệp chủ lực; khuyến khích tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung, các chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chủ lực và nhân rộng các chuỗi liên
kết hiệu quả. Phát triển sản phẩm OCOP mới, đảm bảo mỗi xã, thị trấn có ít nhất 1 chuỗi liên kết hiệu quả, bền
vững và có ít nhất 1 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên; đồng thời nâng cấp một số sản phẩm OCOP hiện có
để đạt tiêu chuẩn 5 sao. Tiếp tục chuyển đổi nhanh, hiệu quả cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch. Xây
dựng và nhân rộng nhanh mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, an toàn. Ứng dụng nhanh,
đồng bộ cơ giới hóa vào các khâu sản xuất chủ yếu.
Để phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, huyện điều chỉnh quy hoạch các cụm công nghiệp Hải Phương,
Thịnh Long; tiếp tục lập, phê duyệt và kêu gọi đầu tư để thực hiện quy hoạch chi tiết các cụm công nghiệp: Hải
Đông, Hải Xuân. Khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản phục vụ tiêu dùng nội
địa và xuất khẩu; ưu tiên công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ, các lĩnh vực sản xuất công nghiệp thân
thiện với môi trường trên cơ sở tiếp cận công nghệ mới, công nghệ cao. Thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng,
hoàn thiện cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp làng nghề Hải Vân, cụm công nghiệp Hải Xuân và vận động các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đầu tư cải tạo môi trường làng nghề Hải Minh. Định hướng, đề xuất kêu gọi đầu
tư FDI xây dựng mới một số khu, cụm công nghiệp phụ trợ sản xuất linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu cho các
ngành công nghiệp.
Tăng cường công tác quản lý đất đai và bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp.
Chỉnh trang, nâng cấp toàn diện cảnh quan môi trường theo tiêu chí “sáng - xanh - sạch - đẹp” đáp ứng yêu cầu
xây dựng NTM nâng cao, kiểu mẫu. Nhân rộng nhanh các mô hình phong trào quần chúng về bảo vệ môi trường
hiện có như phân loại, xử lý rác thải tại nguồn, tuyến đường kiểu mẫu, thắp sáng đường quê, cảnh quan môi
trường từ gia đình đến xóm, từ xóm đến xã thường xuyên xanh - sạch - đẹp. Hoàn thành nâng cấp tất cả khu xử
lý rác thải tập trung cấp xã theo hướng thân thiện với môi trường. Lựa chọn địa điểm, lập quy hoạch và tổ chức
xây dựng từ 1 đến 2 khu xử lý rác thải tập trung cấp huyện hoặc các khu liên xã.
Nông thôn mới xã Hải Hưng (Hải Hậu).
Huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc
Đồng chí Trần Minh Hải, Bí thư Huyện ủy Hải Hậu chia sẻ: Từ thực tiễn triển khai xây dựng NTM kiểu mẫu “sáng
- xanh - sạch - đẹp để phát triển bền vững”, Đảng bộ huyện Hải Hậu nhận thấy kết quả mới chỉ là bước đầu, còn
nhiều nội dung chưa đáp ứng được mong mỏi, nguyện vọng của nhân dân và yêu cầu của Đảng bộ tỉnh đặt ra
với địa phương. Trong đó đặc biệt là nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ môi trường, nâng cao thu nhập
để phát triển bền vững. Với quyết tâm chính trị cao, phấn đấu xây dựng mỗi vùng quê Hải Hậu đều trở nên đáng
sống, trong thời gian tới, Đảng bộ huyện Hải Hậu chú trọng khai thác giá trị truyền thống, đặc trưng riêng có, sự
vận dụng sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương làm nên sức mạnh cộng đồng. Trước hết,
khơi dậy nét đẹp, truyền thống văn hóa “Tứ tính, Cửu tộc” được hình thành từ hơn 500 năm trước, truyền thống
42 năm là điển hình văn hóa thông tin cấp huyện của cả nước để tạo nên sức mạnh cộng đồng, động lực, làn
sóng trong phong trào thi đua xây dựng NTM giữa hộ gia đình với nhau, giữa các xóm (TDP), sự hòa thuận của
đồng bào lương giáo trong từng khu dân cư và việc xây dựng NTM đã trở thành nhu cầu hàng ngày, nét đẹp văn
hóa của đại đa số người dân Hải Hậu. Làm tốt công tác xã hội hóa, khơi dậy, động viên sức mạnh của cả huyện,
các chức sắc tôn giáo, con em xa quê quan tâm ủng hộ vật chất và tinh thần trong xây dựng NTM nâng cao, kiểu
mẫu. Phải quán triệt cụ thể hóa chỉ đạo của cấp ủy cấp trên thành các chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ của cấp
mình đúng, trúng, phù hợp với thực tiễn và tính khả thi cao. Có sự thống nhất, quyết tâm chính trị cao của cấp
ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chương trình.
Công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân
dân, để người dân ở nông thôn nhận thức rõ: Xây dựng NTM là làm cho chính mình, nhân dân là người hưởng
thụ; người dân ở nông thôn phải là chủ thể chính trong xây dựng và thụ hưởng thành quả NTM. Phát huy vai trò
hạt nhân lãnh đạo của tổ chức đảng; vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng
đầu cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể tạo niềm tin, sức lan tỏa, chỗ dựa vững chắc cho nhân dân làm theo. Chủ
động, sáng tạo lựa chọn bước đi, cách làm phù hợp, lựa chọn khâu đột phá vào các tiêu chí khó; tiêu chí chủ
đạo quyết định trong xây dựng NTM và trong phát triển kinh tế - xã hội vừa đáp ứng yêu cầu chung vừa phải phù
hợp với phong tục tập quán để người dân đúng là chủ thể thực hiện. Coi trọng phát huy dân chủ, đồng thuận của
nhân dân trong quá trình thực hiện các chương trình, kế hoạch (trong 2 năm 2019, 2020 Hải Hậu đã có 100%
xã, thị trấn tổ chức đối thoại với nhân dân); chăm lo phát triển toàn diện, đồng bộ kinh tế - văn hóa xã hội, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Với tinh thần đổi mới, đoàn kết, dân chủ, sáng tạo, trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân; tranh thủ thời
cơ, phát huy mọi nguồn lực, nhất là những kết quả, bài học kinh nghiệm của nhiệm kỳ 2015-2020; kiên quyết
khắc phục những yếu kém, khuyết điểm, hạn chế, Đảng bộ, quân và nhân dân huyện Hải Hậu quyết tâm khắc
phục khó khăn, thách thức, xây dựng Hải Hậu đạt huyện NTM kiểu mẫu, xứng đáng với truyền thống lịch sử, văn
hoá của “Vùng biển sáng Anh hùng”./.