AKASHIC

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Bạn có biết, tất cả thông tin của mỗi người trên Trái đất đều được ghi lại

tại một nơi gọi là


"Cuốn sách sinh mệnh" hay “Kho dữ liệu thông tin khổng lồ của vũ trụ”. Nó ghi lại tất cả tri thức,
thông tin của mọi sự vật từ lúc sinh ra, cho đến hiện tại và cả tương lai. Hơn nữa nó không phải
tồn tại ở một điểm, mà giống như mạng wifi bao trùm khắp vũ trụ , còn con người chúng ta thì
giống như những chiếc điện thoại di động, bất cứ lúc nào cũng có thể liên kết được, nhưng
chẳng qua do đại đa số chúng ta không biết mật khẩu là gì nên không kết nối được mà thôi.
Trên thực tế đã có một bộ phận người "đặc biệt" có thể kết nối được với kho dữ liệu khổng lồ
này, và rồi từ đó đạt được tri thức, thông tin vô hạn, thậm chí là cả ký ức về tiền kiếp của bất kì
ai, cùng với dự ngôn về tương lai nhân loại. Những nhà tiên tri lừng danh như: tiên tri mù Baba
Vanga, Edgar Cayce..đều nói những dự của mình là đến từ đây. Ngoài các nhà tiên tri, thì các
khoa học gia, nhà phát minh kiệt xuất như Nikola Tesla, nhà toán học vĩ đại nhất Ấn Độ trong
1000 năm trở lại đây Srinivasa Ramanujan họ cũng đều nói linh cảm của mình đến từ kho dữ
liệu này. Vậy rốt cuộc "Cuốn sách sinh mệnh", kho dữ liệu khổng lồ này là gì, và lý do tại sao
con người lại không có được mật mã kết nối với nó? Hôm nay chúng ta hãy cùng nói về, kho
dữ liệu khổng lồ đến từ thời không khác "BẢN GHI AKASHIC"

Trong sử thi Ấn Độ Mahabharata có nhắc đến một thực thể phi vật chất trong vũ trụ có tên là
"Bản ghi Akashic" (Akashic records). Có người cho rằng bản ghi Akashic tương ứng với A-lại-
da thức trong bát thức nói đến trong Phật giáo. Để tìm hiểu về bản ghi Akashic, chúng ta cần
phải bắt đầu từ một vị thiên tài toán học được cho là đã du hành từ tương lai mà đến, Srinivasa
Ramanujan. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ramanujan đã viết hơn 3.900 công thức và
mệnh đề toán học thần bí. Điều quan trọng nhất là, những công thức này đều không thông qua
bất cứ quá trình suy luận nào, và vì thế cũng từng khiến cho Ramanujan gặp phải những nghi
ngờ rất lớn, cho đến tận khi ông qua đời, mới hoàn thành một phần quá trình chứng minh công
thức. Vậy thì, không thông qua bất cứ suy luận nào, Ramanujan sao có thể viết ra được những
công thức huyền bí và sâu xa đến như vậy? Srinivasa Ramanujan sinh ngày 22/12/1887 trong
một gia đình Bà la môn đã suy tàn, gia tộc của ông là thuộc đẳng cấp cao nhất trong 'chế độ
chủng tính' ở Ấn Độ thời xưa, hay còn gọi là Bà la môn. Nhưng cuộc sống của Ramanujan lại
vốn không hề giàu có, thu nhập của người cha mỗi tháng chỉ có 20 rúp, hầu như không đủ để
nuôi cả gia đình. Ramanujan khi còn nhỏ vốn không bộc lộ tài năng hơn người của mình, mãi
cho đến năm 1898, sau khi bước vào trường trung học năm lên 11 tuối, Ramanujan mới bùng
phát niềm đam mê với toán học. Nhưng mấy năm sau, do học lệch môn toán, liên tiếp trong hai
năm liền Ramanujan đều không thi đỗ đại học. Đến năm 1906 ông mới miễn cưỡng được nhận
vào học tại một trường đại học địa phương. Những vẫn do niềm đam mê với toán học, các môn
học khác hầu như đều bị rớt, Ramanujan phải đối mặt với tình trạng bị trường đuổi học. Năm
1909, năm Ramanujan 21 tuổi đã từ bỏ đại học. Nhưng may mắn thay, qua người giới thiệu mà
ông đã tìm được công việc làm kế toán tại Văn phòng Ủy thác Cảng tại Madras. Một quan chức
tại văn phòng uỷ thác, ông Rao đánh giá rất cao tài năng toán học của Ramanujan, thậm chí
sẵn lòng trả lương hàng tháng, cho phép Ramanujan điểm tên nhưng không cần đi làm, chỉ cần
ở nhà chuyên tâm vào việc nghiên cứu toán học là được. Và cứ thế trong suốt mấy năm,
Ramanujan lần lượt viết ra những cuốn sổ toán học dày, hết quyển này đến quyển khác. Tuy
nhiên, do chưa từng chính thức học đại học, cũng chưa từng tiếp nhận giáo dục cấp đại học
chính thống, những thành quả nghiên cứu toán học này của Ramanujan đều không thể nào
được phát hành, và điều này đã từng khiến Ramanujan rất nản lòng. Năm 1913, Ramanujan
may mắn gặp được ngôi sao hi vọng của cuộc đời mình. Chỉ với với tâm lý thử xem thế nào,
Ông đã đem thành quả nghiên cứu của mình gửi cho nhà toán học học viện Trinity trường đại
học Cambridge, thành viên Hiệp hội Hoàng gia Anh quốc, Godfrey Harold Hardy, đồng thời
trong thư ông cũng nói rõ về tình trạng của mình. Ramanujan nói mình không thông qua giáo
dục từ trường đại học, chỉ học hết trung học mà thôi. Nhà toán học Hardy đã bị chấn động bởi
những công thức toán học thần bí mà Ramanujan viết trong thư. Ông thậm chí còn nói, chúng
tôi đều là học toán học, còn Ramanujan thì phát hiện và sáng tạo toán học. Và ngay sau đó ông
Hardy đã mời Ramanujan đến trường đại học Cambridge để trao đổi thêm. Năm 1914,
Ramanujan đến Cambdidge cùng với suy nghĩ, có lẽ mình đã ngày một gần giấc mơ hơn,
nhưng hiện thực đã dội cho ông một gáo nước lạnh. Hồi mới đến Cambridge, do công thức
toán học mà Ramanujan viết ra đều không thông qua bất cứ quá trình suy luận nào, nên vì thế
đã bị các nhà toán học truyền thống bài xích, thậm chí còn nói Ramanujan là kẻ lừa đảo đến từ
Ấn Độ. Luận văn mà ông nghĩ rằng có thể nhanh chóng được xuất bản, không những không thể
nào phát biểu mà còn bị bố trí đi học khoá chứng minh kiến thức toán học cơ bản. Điều này đã
khiến cho Ramanujan cảm thấy rất tức giận. Bên cạnh đó, ông Hardy cũng cảm thấy rất khó
hiểu, không thông qua bất cứ quá trình suy diễn logic nào, vậy thì Ramanujan làm thế nào có
được những công thức này đây? Và đoạn thoại của Ramanujan tiếp theo đây đã hoàn toàn lật
đổ thế giới quan của Hardy. Ramanujan nói, những công thức này vốn không phải do ông bỏ
rất nhiều công sức, tự mình suy ngẫm mà ra khi còn thức, mà do nhận được nhắc nhở của nữ
thần Ấn Độ Lakshmi từ trong những giấc mộng, rồi đột nhiên có linh cảm, và khi tỉnh dậy liền
viết lại những công thức đó. Những lời này của Ramanujan rõ ràng là hoàn toàn không hề có
chút thuyết phục nào đối với giới toán học đương thời. 

Trong mắt các nhà khoa học, những công thức này của Ramanujan, cũng giống như một kẻ
điên đang nói với bạn thứ mà anh ta cho là đạo lý bất biến vậy. Và khi bạn nói anh ta chứng
minh, thì anh ta lại nói linh tinh với bạn. Thế nhưng Hardy vốn không từ bỏ Ramanujan. Ông nói
với Ramanujan rằng, anh không cần chứng minh mọi công thức, cho dù chứng minh 1,2 công
thức trong đó cũng được. Bởi vì điều này cực kì quan trọng đối với con đường sự nghiệp học
thuật của Ramanujan sau này, có thể loại bỏ những tiếng nói nghi ngờ, và cũng có thể khiến
cho nghiên cứu của Ramanujan có được chỗ đứng vững chắc trong giới học thuật chính thống,
mở đường cho việc được lưu truyền trong thế hệ về sau. Cuối cùng, Ramanujan cũng bị ông
Hardy thuyết phục, bắt đầu không quản ngày đêm nghiên cứu quá trình hình thành những công
thức đó. Môi trường lạnh lẽo và ẩm ướt tại Anh khiến cho sức khoẻ của Ramanujan chẳng trụ
được bao lâu, cả một mùa đông Ramanujan ho liên tục, sau đó thậm chí còn mắc bệnh lao.
Cho dù đang mang bệnh, nhưng Ramanujan vẫn không ngừng suy luận và tính toán, chỉ trong
thời gian ngắn 5 năm, đã xuất bản 28 bài luận văn. Năm 1919, do tình hình bệnh nặng nên
Ramanujan đã quay trở về cố hương, chỉ vỏn vẹn một năm sau, ông đã vì bệnh mà qua đời tại
Madras khi mới chỉ 32 tuổi. Thông tin Ramanujan qua đời đã khiến cho cả giới toán học lúc đó
đều hụt hẫng, đặc biệt là ông Hardy. Thậm chí trong buổi tưởng niệm Ramanujan, ông còn nói:
Cái chết của Ramanujan là nỗi đau không thể chấp nhận được trong cuộc đời tôi. Trước khi
qua đời, Ramanujan từng để lại một công thức, gọi là "Mô phỏng hàm số theta". Đương thời,
không có bất cứ ai có thể hiểu được sự bí ẩn hàm chứa trong đó, sau này cùng với sự phát
triển không ngừng của khoa học, giới học thuật mới phát hiện có thể dùng 'mô phỏng hàm
theta' để nghiên cứu sự lây lan của tế bào ung thư và di chuyển của sóng thần. Năm 1973, nhà
toán học người châu Âu, Pierre Deligne lần đầu tiên chứng minh được 'mô phỏng hàm theta',
đồng thời vì thế mà nhận được Huy chương Fields (Fields Medal), tương đương giải thưởng
Nobel trong giới toán học. Vào những năm 90, có nhà vật lý học cho rằng, 'mô phỏng hàm
theta' có thể dùng để giải thích bí ẩn về hố đen vũ trụ, mà khi Ramanujan lần đầu tiên đề xuất
'mô phỏng hàm theta', còn sớm hơn Stephen Hawking phát biểu "Bức xạ hố đen" 50 năm. Năm
2000, tạp chí  "Time" của Mỹ đã bình chọn Ramanujan là nhân vật có sức ảnh hưởng nhất thế
kỷ 20, vinh danh ông là nhà toán học vĩ đại nhất Ấn Độ trong 1000 năm nay. Thế nhưng một vị
thiên tài toán học như vậy, lại nói rằng, những công thức mà mình viết là do nhận được từ trong
những giấc mơ.

Thật trùng hợp, người được xưng danh là "Người đặt nền móng cho khoa học hiện đại", Nikola
Tesla cũng nhiều lần công khai nhắc đến khả năng "Hình dung hoá" siêu phàm của mình. Ông
nói rằng mình có thể nhìn thấy rõ ràng mỗi chi tiết của vật thể trong tâm trí, không cần động đến
bất cứ mô hình, bản vẽ hay thí nghiệm nào, trước khi ông ấy bắt tay vào thí nghiệm, thì một cấu
trúc rõ ràng và hoàn chỉnh về thành phẩm đã hình thành trong tâm trí ông, quá trình thí nghiệm
chỉ là tái hiện lại hình ảnh trong tâm trí mà thôi. Rất nhiều phát minh và ý tưởng của Tesla, ví dụ
như dòng điện xoay chiều, vô tuyến điện, cuộn Tesla, đèn neon, điều khiển từ xa, v.v đều vượt
rất rất xa so với thời đại ông ở, thậm chí là đến ngày nay. Tesla cũng từng nói, đại não của tôi
chính là một chiếc máy thu, nơi vũ trụ kia có tồn tại một lõi, tất cả tri thức và năng lượng mà tôi
có được đều đến từ cái lõi đó. Trong cuốn sách "Thành tựu vĩ đại nhất của nhân loại" xuất bản
năm 1907 ông có đề cập, mọi vật chất mà có thể nhận thức được đều đến từ một loại vật chất
cơ bản. Loại vật chất cơ bản này vi tế đến mức vượt qua sự nhận thức của chúng ta, tràn đầy
cả không gian, có thể gọi là Akashic hay dĩ thái. Nó là nguồn sức sống mãnh liệt, sức sáng tạo
và nguồn năng lượng vô tận tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng. Einstein cũng từng nói,
"Không có phương pháp phù hợp logic nào để phát hiện mọi định luật cơ bản trong vũ trụ, chỉ
có linh cảm, có thể khiến chúng ta nhận thức được bản chất bên dưới bề mặt của sự vật".
(There is no logical way to the discovery of these elemental laws. There is only the way of
intuition, which is helped by a feeling for the order lying behind the appearance. Albert Einstein)

Trải nghiệm của những người như Ramanujan, Tesla,..dường như nói với chúng ta một điều,
rằng vũ trụ phức tạp hơn rất rất nhiều so với những gì chúng ta tưởng tượng. Và Akashic hay
dĩ thái mà Tesla nói đến, có lẽ nào chính là nguồn linh cảm mà những thiên tài này đang kết nối
được? Từ Akashic đến từ tiếng Phạn, ý của nó là "dĩ thái" hay "năng lượng nguyên thuỷ của vũ
trụ". Trong cuốn tiểu sử của triết học gia cổ Hy Lạp Apollonius  mang tên ”Life of Apollonius of
Tyana” có một câu chuyện như thế này, nói rằng Apollonius từng đến Ấn Độ, tại Ấn Độ có gặp
một nhà thông thái, ông hỏi nhà thông thái rằng, vũ trụ do cái gì cấu thành? Nhà thông thái nói,
là do nguyên tố cấu thành. Apollonius hỏi tiếp, là do nước, không khí, đất, lửa bốn nguyên tố
này tạo thành sao? Nhà thông thái đáp, không phải, là do năm loại nguyên tố tạo thành, ngoài
nước, không khí, đất, lửa còn có dĩ thái. Dĩ thái là bản chất của Thần, cũng giống như con
người cần hít thở vậy, và giới tự nhiên cũng cần dĩ thái để có thể phát triển khoẻ mạnh. Vì thế
dĩ thái là căn bản của mọi sự vật, là một dạng phi vật chất không nhìn thấy được. Mà Akashic là
một loại tập hợp tri thức thần bí ghi lại mọi thông tin vũ trụ được lưu trữ trong "dĩ thái". Nó giống
như một kho dữ liệu thông tin sinh mệnh khổng lồ, vừa bao gồm sơ đồ sinh mệnh của vũ trụ,
vừa ghi lại mọi trải nghiệm của mỗi sinh mệnh cá thể theo bản đồ sinh mệnh của mình ở thời
gian và không gian khác nhau. Cho đến đầu thế kỷ 20, Akashic còn được cho là "Mật tông của
phương Tây", rất ít người đi nghiên cứu sâu về nó. Thế nhưng kể từ khi vũ trụ mới sinh ra, thì
bản ghi Akashic cũng đã tồn tại rồi. Giữa thế kỷ 20, nhà tiên tri nổi tiếng Mỹ, Edgar Cayce có
bước đột phá rất lớn trong việc nghiên cứu Akashic, và cũng vì thế mà ông đã có được năng
lực thấu thị tương lai. 

Bản ghi Akashic

Edgar Cayce sinh năm 1877 tại Hopkinsville, bang Kentucky, Hoa Kỳ. Từ khi Cayce  còn rất
nhỏ, cha mẹ ông đã phát hiện ông có khả năng nhìn thấy một số "ảo tượng" mà người lớn
không thấy, và còn hay nói chuyện với không khí. Rất nhanh sau đó Cayce phát hiện bản thân
mình có một loại siêu năng lực, ông chỉ cần gối lên sách ngủ một chút, sau khi tỉnh dậy là có thể
nhớ được tất cả nội dung trong sách. Dựa vào năng lực siêu thường này, rất nhanh ông đã học
hết lớp tám, nhưng sau đó do điều kiện kinh tế của gia định hạn hẹp, Edgar Cayce không thể
tiếp tục đi học được nữa, mà phải ra ngoài đi làm phụ gia đình. Công việc đầu tiên của ông là,
làm thuê cho một cửa hàng bán sách, dựa vào năng lực siêu thường của mình, rất nhanh ông
đã nhớ hết tên mọi đầu sách, vị trí nằm ở đâu và giá bao nhiêu, giúp nâng cao hiệu suất bán
hàng nhanh chóng, vì thế mà Cayce đã trở thành ngôi sao bán hàng tại cửa tiệm sách. Nhưng
thời gian tốt đẹp chẳng được bao lâu, một ngày năm 1899, Edgar Cayce đột nhiên bị mắc
chứng bệnh viêm thanh quản rất nặng, nói không ra tiếng. Ông đi khám bác sĩ khắp nơi nhưng
đều không có hiệu quả, không thể nói được, công việc bán sách cũng mất, chỉ có thể tìm một
công việc ít phải nói là trợ lý nhiếp ảnh. Năm 1900, thuật thôi miên tại Mỹ rất thịnh hành, lúc đó
một chuyên gia thôi miên nổi tiếng, Mr. Hart khuyên Edgar Cayce có thể thử phương pháp thôi
miên giúp lấy lại giọng nói. Qua một vài lần thử nghiệm, Edgar Cayce sau khi tiếp nhận hướng
dẫn bước vào trạng thái hôn mê, thực sự đã khôi phục lại giọng nói bình thường, nhưng khi tỉnh
lại thì bệnh tình lại trở về như cũ. Dần dần, Edgar Cayce dường như đã mất đi niềm tin vào thôi
miên trị liệu. Nhưng đúng vào lúc này, một nhà thôi miên nghiệp dư, Layne,Al gợi ý có thể để
cho Edgar Cayce tự mình chủ đạo thôi miên, để thức tỉnh hoàn toàn tiềm ý thức của ông. Trong
lần thôi miên này, bác sĩ Layne hỏi Cayce, và để cho ông tự mình nói ra rốt cuộc cơ thể có vấn
đề gì, và nên điều trị như thế nào. Cayce nằm ngủ trên sofa nói rằng, bệnh họng này của ông
không phải bệnh thuộc thể chất, mà là về tâm lý. Tiếp sau đó, bác sĩ Layne bảo Cayce hãy thử
tăng tuần hoàn máu về họng, rất nhanh vùng da chỗ họng bắt đầu phát đỏ, phát nóng, sau vài
lần thí nghiệm như vậy, giọng nói mà Edgar Cayce mất gần một năm qua đã hồi phục hoàn
toàn. Hôm đó là ngày 31/03/1901, cũng đánh dấu ngày mà Cayce thực sự mở ra cánh cửa một
thế giới khác. Nghe xong trải nghiệm thần kỳ của Cayce, một cặp vợ chồng liền tìm đến ông, họ
có một cô con gái 6 tuổi tên Amy do bị mắc cảm cúm dẫn đến não bộ ngừng phát triển đã bốn
năm nay rồi. Thỉnh thoảng toàn thân cô bé co quắp, đã sáu tuổi rồi nhưng vẫn chưa biết gọi bố
mẹ. Bố mẹ của Amy đã đi thăm khám khắp nơi, tất cả bác sĩ đều nói không tìm được phương
pháp trị hiệu quả. Trong tình cảnh không còn cách nào khác họ đã liên hệ Edgar cayce, với tâm
lý thử xem thế nào mời ông đến khám cho Amy. Edgar Cayce đến nhà khám bệnh, trước khi
ông bước vào trạng thái thôi miên, cha mẹ của Amy hỏi ông rằng, ông không cần tiến hành một
số chẩn đoán y tế nào hay sao? Cayce nói, tôi không có bất cứ tri thức gì về mặt y học, tôi thậm
chí còn chưa từng học đại học, tôi không thể làm chẩn đoán y tế gì cả. Không khí lúc đó vô
cùng khó xử, nhưng hiệu quả thôi miên ngay sau đó đã làm chấn động cha mẹ của Amy. Edgar
Cayce nói, nguyên nhân thực sự khiến Amy phát bệnh là do, bốn năm trước, vài ngày trước khi
mắc bệnh cúm thì Amy đã từng bị ngã xe ngựa, bị thương đến tuỷ sống, và virus cúm lại lây
nhiễm vào vùng bị tổn thương, khiến não ngừng phát triển. Cha mẹ của Amy đã nhớ lại, bốn
năm trước khi Amy còn nhỏ đúng là đã có lần ngã như thế, và phương pháp điều trị mà Cayce
đưa ra cũng rất đơn giản, đó là phương pháp nắn xương. Thông qua vài tuần điều trị, Amy thực
sự đã có chuyển biến rất tốt, và lần đầu tiên gọi được bố mẹ. Trong mấy năm sau đó, khả năng
thôi miên diễn giải của Edgar Cayce đều dành để chữa trị cho bệnh nhân. Cho đến năm 1929,
mọi người mới phát hiện ra khả năng tiên tri thần kỳ của ông. Năm 1925, có người từng hỏi
Cayce về xu thế phát triển kinh tế trong tương lai. lúc đó, chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa
mới kết thúc, kinh tế Mỹ đang trên đà phát triển mạnh, nhưng Cayce nói, mấy năm sau, năm
1929, nền kinh tế thế giới sẽ phát sinh sự biến đổi cực kỳ lớn, tiền sẽ thất thoát khỏi tay người
dân. Quả đúng như vậy, tháng 10 năm 1929, thị trường chứng khoán Phố Wall sụp đổ, đại suy
thoái kinh tế nhanh chóng từ Mỹ quét đến khắp nơi trên thế giới, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng
vọt lên 25%. Ngoài ra, Edgar Cayce còn tiên tri thành công chiến tranh Nhật Bản xâm chiếm
Mãn Châu năm 1931, thời gian bắt đầu và kết thúc thế chiến hai, cái chết của tổng thống Mỹ
Roosevelt năm 1945, sự kiện giành độc lập của Ấn Độ, Israel lập quốc v.v. Khi mọi người hỏi
Edgar Cayce về nguồn của mọi thông tin này đến từ đâu, ông nói, một phần do ông đang diễn
giải về tiềm ý thức của mỗi cá thể, một phần khác đến từ 'Bản ghi Akashic', và ông cũng không
có cách nào liên kết và đọc bản ghi Akashic trong lúc tỉnh táo, và cũng không thể nào truyền thụ
được cho người khác cách mà ông đọc bản ghi Akashic. Mỗi lần sau khi bước vào trạng thái
thôi miên, Edgar Cayce sẽ truyền miệng lại những thông tin mà mình có được từ Akashic, học
trò của ông sẽ ghi chép lại những nội dung mà ông đọc được. Theo nghiên cứu của Edgar
Cayce, Akashic được hình thành bởi hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất là thời gian tồn tại của vũ
trụ, hoặc được gọi là "Bản đồ sinh mệnh Thần thánh", bản đồ này vô hình vô dạng, không thể
thay đổi, vĩnh viễn bất biến.
Bộ phận thứ hai là, tất cả mọi hoạt động và trải nghiệm của mọi linh hồn dựa vào cơ thể xác thịt
tại các lần chuyển sinh và thời gian khác nhau. Trong hơn 40 năm sau đó, Edgar Cayce liên tục
đưa bản thân mình tiến nhập vào một trạng thái xuất thần, cung cấp cho con người những
thông tin và dự ngôn chính xác. Và Edgar Cayce gọi quá trình này là diễn giải "Bản ghi chép
Akashic". Trong khi tiến hành quá trình diễn giải, ông có thể liên thông với mọi thông tin trong
Akashic, và ông cũng gọi Akashic là "Cuốn sách của sinh mệnh" Cả cuộc đời Edgar Cayce đã
để lại 15 nghìn lời diễn giải, trong đó có một số điều vẫn chưa thành hiện thực, và những diễn
giải chưa xảy ra này được cho là dự ngôn đối với tương lai nhân loại đến từ Akashic. Ví dụ
như, Edgar Cayce nhắc đến việc trong tương lai sẽ xuất hiện một phương thức trị liệu mới,
thực hiện chuyển đổi giữa các hệ thống năng lượng của linh hồn và thân thể. Điều này sẽ khiến
cho điều trị y tế hiện có nâng lên một tầng cao mới, đến lúc đó, khoa học và Thần học sẽ không
còn mâu thuẫn nữa, con người bắt đầu tiếp nhận quan điểm sự tồn tại của linh hồn, và cũng sẽ
không còn sợ cái chết nữa, sẽ dũng cảm đối diện với nó, và bắt đầu chào đón cuộc đời mới của
mình. Cùng với đó, ngày càng có nhiều người tin rằng, 'vạn vật nhất thể' là thực sự tồn tại. Nhất
hoa nhất thảo nhất mộc nhất diệp trên thế gian, giữa các vật thể sinh mệnh và phi sinh mệnh
đều tồn tại quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, thậm chí ngay cả đến nguồn gốc đều như nhau.
Cuối cùng, Edgar Cayce còn có một dự ngôn liên quan đến Trung quốc, nguyên văn là "Một
ngày nào đó trong tương lai, Trung Quốc sẽ trở thành cái nôi của tín ngưỡng cứu thế. Con
người sẽ nỗ lực thực hành đức tin trong cuộc sống, điều này nghe thì rất xa vời, thế nhưng
trong trái tim của Thần, thì chỉ một ngày mà thôi, ngày mai Trung quốc sẽ thức tỉnh!".
(This,here, will be day the cradle of Christianity as applied in the lives of men. Yea, It is far off as
man counts times, but only a day in the heart of God - for tomorrow China will awake”). 
Christianity nghĩa bề mặt trong tiếng Anh hiện đại là Cơ đốc hoặc tín ngưỡng Cơ đốc giáo. Thế
nhưng từ Cơ đốc (Christ) đến từ từ "Đấng cứu thế" (Mashiach) trong tiếng Do Thái, cũng chính
là từ "Cứu thế chủ" trong tiếng Anh. Vì thế câu này cũng được hiểu rằng, tương lai Trung quốc
có thể sẽ xuất hiện một tín ngưỡng mới. Chắc sẽ có người thắc mắc tại sao lại có nhiều nhà
tiên tri nói về Trung Quốc đến như vậy? Điều này rất có thể là do đất nước như Trung quốc rất
“đặc biệt”. Theo tạp chí văn hoá tôn giáo thế giới kỳ thứ nhất đăng từ tận những năm 1998, các
cuộc điều tra vào năm đó cho thấy trong tổng số 1,3 tỉ người trên toàn thế giới không tin vào tôn
giáo, thì có đến 1,2 tỉ người sống ở Trung Quốc. Người dân không dám lớn tiếng nói về tín
ngưỡng của mình ở những nơi công cộng.

Vậy về bản nguyên vũ trụ trong Akashic là gì? Trong những diễn giải của Edgar Cayce, có một
đoạn thuật lại phần miêu tả về nguồn gốc của nhân loại trong Akashic như sau, thời kỳ đầu thế
giới đều là bóng tối, không có khái niệm thời gian cũng không có khái niệm không gian, Sáng
thế chủ nói ở đây cần có ánh sáng, và rồi có ánh sáng. Mà ánh sáng nói ở đây không phải chỉ
ánh sáng mặt trời, mà là ánh sáng sinh mệnh của vũ trụ. Lúc đó, mỗi cá thể chúng ta đều là thể
ánh sáng tinh khiết, phi vật chất, sở hữu linh thể ý thức của Sáng Thế chủ, được gọi là "Nhân
loại thứ nhất" (First Root Race). Khoảng 1050 vạn năm trước, linh thể bắt đầu du lịch không
gian duy độ thứ ba là Trái đất đây, lúc đó chúng ta giống như những "thể tư tưởng" nhỏ bé bay
đi bay lại, cũng được gọi là "Nhân loại thứ hai" (Second Root Race). Và những "thể tư tưởng"
nhỏ bé này cũng khát khao được biểu đạt chính mình, vì thế đã kết hợp với núi non sông nước,
cá thú chim muông, trở thành những vật chủng nửa Thần nửa nhân như trong các Thần thoại
nói đến như người khổng lồ, người tí hon, kỳ lân, nàng tiên cá, Nhân sư mặt người, đầu chim
thân người..., cũng được gọi là "Nhân loại thứ ba" (Third Root Race). Khoảng 20 vạn năm
trước, năm chủng người mới với năm màu da khác nhau lần lượt xuất hiện tại Châu Á, Châu
Âu, Mu đại lục, Atlantis đại lục và Châu Phi. lần lượt đại diện cho năm loại cảm quan "Nghe"
(Châu Á), Nhìn (Châu Âu), Ngửi (Mu đại lục), "Ăn" (Atlantis), và "cảm giác", đây chính là con
người hiện nay, cũng được gọi là "Nhân loại thứ tư" (Four Root Race). Edgar Cayce nói, sau
này chúng ta còn xuất hiện "Nhân loại thứ năm", mà mỗi cá thể đều được sinh ra có mục đích,
để làm một linh thể, trở thành người đồng hành cùng với Sáng thế chủ. Vì thế bản chất mỗi linh
hồn trên Trái đất này cùng với Sáng thế chủ là thống nhất, cũng là bản chất của vũ trụ, đó chính
là "tình yêu". Nghe đến đây, có thể có người nghĩ giống như đang nghe bài học về đạo đức,
nhưng Cayce nói, tình yêu chính là điểm khởi đầu, là ánh sáng mà Sáng thế chủ nói đến, mỗi
linh hồn trên Trái đất đều có tiềm năng kết nối với bản ghi Akashic. thế nhưng tâm trí, kinh
nghiệm, bối cảnh cuộc sống và cả ý đồ của mỗi người đều sẽ ảnh hưởng đến sự diễn giải của
họ đối với bản ghi Akashic. Chỉ có khát vọng giúp đỡ người khác, suy nghĩ hoàn toàn vô tư mới
có thể diễn giải được bản ghi akashic một cách khách quan nhất. Trong bức thư mà Einstein
viết cho con gái có nói rằng, "Trong vũ trụ có tồn tại một loại sức mạnh cực lớn, cho đến nay
khoa học vẫn chưa khám phá ra giải thích hợp lý đối với nguồn năng lượng này. Năng lượng
này khoan dung và cai trị hết thảy, tồn tại đằng sau mọi hiện tượng trong vũ trụ, tuy nhiên con
người vẫn chưa thực sự nhận thức được ông. Sức mạnh của vũ trụ này chính là tình yêu,
nguồn năng lượng này có thể giải thích mọi việc, đồng thời đem đến ý nghĩa cho sinh mệnh". Vì
thế, mục đích thực sự của bản ghi Akashic rất có thể là để dẫn dắt mỗi linh hồn học được cách
yêu thương và chấp nhận vô điều kiện trong quá trình trải nghiệm trên Trái đất, cuối cùng hiểu
và thay đổi bản thân mình. Còn các bạn thì nghĩ thế nào? Theo bạn, “tình yêu” nói đến ở đây cụ
thể là gì? Nếu như sửa đổi bản thân mình để trở thành một người tốt thực sự thì đối với bạn
điều gì là khó nhất? Rất mong các bạn cùng chia sẻ suy nghĩ của mình ở phần bình luận phía
bên dưới vide nhé. Phần chia sẻ của chúng ta ngày hôm nay tạm dừng tại đây thôi, xin cám ơn
các bạn đã dành thời gian theo dõi, xin chào và hẹn gặp lại!

You might also like