Professional Documents
Culture Documents
TÂY TIẾN hienntt7
TÂY TIẾN hienntt7
(1)Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Hoàng Cầm, (2)Có những ngày tháng không thể quên, cái
Phạm Tiến Duật đã tạo nên những nốt nhạc gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào
bi tráng góp vào bản hợp xướng đậm chất hùng lãng mạn cũng không thể quên.May mắn
bi hùng về sự trường tồn bất tử của những thay, giữa những ngày tháng không thể quên
người lính cầm súng đứng lên đấu tranh ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như
bảo vệ Tổ quốc. Đến với Quang Dũng ta lại Tây Tiến của Quang Dũng. Thật ra số phận
tiếp tục được thưởng thức một khúc tráng của Tây Tiến cũng khá truân chuyên. Đã có
ca về người lính cụ Hồ dặm trường hành lúc Tây Tiến được trích dẫn như một dẫn
quân trong cuộc đấu tranh chính nghĩa chứng để phê phán cái xu hướng gọi là “tiểu tư
phản đế, phản phong đầy nhụê khí. Trong sản” trong thơ kháng chiến nhưng rồi Tây
nhiệt tình sục sôi của những chàng Vệ quốc Tiến cuối cùng được nhớ lại như một kỷ niệm
quân ấy, ta thấy sự hào hoa phong nhã của đẹp của kháng chiến, một tiếng thơ bi tráng
những chàng trai thanh niên trí thức xếp của một nền thơ
bút nghiên lên đường nhập ngũ. Tình cảm
nhớ nhung về mảnh đất đã đến, con người
đã quen, đồng đội đã cũ được thể hiện đẹp
đẽ, tráng lệ thông qua thi phẩm “Tây Tiến”
THÂN BÀI:
-Quang Dũng là một hồn thơ hào hoa, lãng Tây Tiến là đoàn quân được thành lập vào
mạn, phóng khoáng, hồn hậu. Ông là con năm 1947, hoạt động chủ yếu ở biên giới
người đa tài: làm thơ, soạn nhạc, vẽ tranh... Việt- Lào, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào đánh tan sinh lực địch, bảo vệ biên giới
Việt-Lào.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên
- Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên, học
được Quang Dũng sáng tác vào năm 1948 sinh (trong đó có Quang Dũng), chiến đấu
tại Phù Lưu Chanh (Hà Đông). Tác phẩm trong những hoàn cảnh gian khổ, vô cùng
được in trong tập “Mây đầu ô” thiếu thốn về vật chất.
KHỔ 2:
Tây Tiến là đoàn quân của những người lính trẻ, đáp lại tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc đã sẵn sàng rời những mái trường để lên đường Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Mang
theo cùng những ý chí sắt đá, mộng ước chiến chinh là những tâm hồn tinh tế bẩm sinh của
những chàng trai ra đi từ Hn băm sáu phố phường. Sau những giờ phút chiến chinh dặm
trường, họ trở về với cuộc sống đời thường với thơ ca và âm nhạc, tạm gác lại những sục sôi
căm hờn là những trái tim hào hoa tình tứ, lãng mạn đa tình.
ĐOẠN 3:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc Nếu cần sự độc đáo thì mấy từ “không mọc tóc” đã đạt đến
tóc chỗ tột cùng của độc đáo, nhưng như thế thì có chân thật
Quân xanh màu là dữ oai hùm” không? Hình ảnh anh bộ đội có trở nên quái đản không?
Không! Bởi vì, đây là hình ảnh anh “vệ trọc” nổi tiếng một
thời, hình ảnh như một dấu ấn không thể phai của những
chàng trai từ thành phố, từ dưới các mái trường “xếp bút
nghiên” bước vào chiến đấu, với một lòng yêu nước hoàn
toàn vô tư và một chút lãng mạn của một khách chinh phu
và một tráng sĩ “gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. Hình
ảnh anh bộ đội trong cái năm đầu tiên của kháng chiến ấy
có thể hoàn toàn thoát được hình ảnh người anh hùng mà
văn thơ lãng mạn đã tạo nên, cả từ “Chinh phụ ngâm” của
Đặng Trần Côn hay “Chí anh hùng” của Nguyễn Công Trứ.
Mà đã có “đoàn binh không mọc tóc” thì tất nhiên cũng có
được “quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Hơn nữa cái vẻ “dữ
oai hùm” ấy cũng hoàn toàn tương xứng với một ý thơ của
đoạn đầu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Người lính Tây tiến phải hành quân chiến đấu trong 1
địa bàn rất rộng và vô cùng hiểm trở. Thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì gian khổ mà người
lính Tây tiến phải chịu đựng, phải vượt qua càng lớn lao,
chồng chất bấy nhiêu. Và trong hoàn cảnh khó khăn, gian
khổ và ác liệt ấy,vẻ đẹp tâm hồn của cùng ngời sáng hơn
bao giờ hết. Vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến đã
được bộc lộ rất rõ qua 2 câu thơ:“Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Trong những
chiến sĩ Tây tiến, những mộng ước chiến chinh, những khát
vọng và lí tưởng chiến đầu luôn luôn thôi thức, giục giã và
được biểu hiện bằng trạng thái cụ thể: “mắt trừng gửi
mộng qua biên giới”. Từ “trừng” đã thể hiện rõ cái nội lực,
cái ý chí quyết tâm của người lính. Song hành với mộng
ước chiến chinh ấy là nỗi nhớ mong quê hương, nhớ người
thân:“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Có thể nói câu
thơ đã giúp ta hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn của những ngừoi lính
Tây Tiến. Họ là những chàng trai vừa có chí lại vừa rất có
“Mắt trừng gửi mộng qua biên tình. Mặc dù cuộc sống chíên đấu rất gian khổ, mặc dù
giới đang ở nơi viễn xứ “hoang vu, heo hút nhưng những người
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
lính Tây tiến đêm đêm vẫn mơ, vẫn nhớ về Hà Nội với
những “dáng kiều thơm”. Có lẽ những tình cảm rất mộng
mơ ấy đã nâng đỡ tinh thần của những người lính, giúp cho
họ vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chúng ta đã biết phần
đông những chiến sĩ Tây Tiến là học sinh, sinh viên, trí
thức ra đi từ Hà Nội. Bởi thế trong nỗi nhớ quê hương của
họ, một “dáng Kiều thơm” – dáng vẻ duyên dáng, thanh
lịch của những người thiếu nữ Hà Thành hiện lên là một
điều dễ hiểu. Hai câu thơ đã bộc lộ vẻ đẹp rất riêng của
người lính Tây Tiến - những chàng trai Hà thành hào hoa,
lãng mạn. Họ không chỉ giản đơn là những con người mang
trong mình khát vọng chiến đấu mãnh liệt mà trong họ còn
có những rung động, những tình cảm tinh tế, mộng mơ. Họ
có thể oai nghiêm dữ tợn trước quân thù, ngang tàng đến
phớt đời trước những gian nguy thử thách. Nhưng sâu thẳm
trong tâm hồn họ vẫn vẹn nguyên bao cảm xúc mộng mơ,
bao khát vọng tình yêu và hạnh phúc. Câu thơ khiến ta liên
tưởng đến hai câu của Nguyễn Đình Thi: Những đêm dài
hành quân nung nấu/ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Trong nỗi nhớ niềm mơ của những người lính Tây Tiến có
sự thống nhất giữa tình cảm chung và niềm khao khát riêng
tư. Cái chung làm cho cái riêng trở nên cao cả, cái riêng
làm cái chung trở nên sâu sắc.
Lính Tây Tiến còn là những người có lý tưởng sống,
chiến đấu cao đẹp. Và một khi chiến đấu vì mục đích
cao cả thì cái chết với họ cũng nhẹ tựa lông hồng. Là
một hồn thơ hào hoa, lãng mạn song QD cũng không né
tránh hiện thực. Nhà thơ không chỉ miêu tả cuộc sống chiến
đấu đầy gian khổ của người lính Tây Tiến mà còn nhìn
thẳng vào sự thật, miêu tả những cái chết của họ
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời Có thể nói, đoạn thơ miêu tả cái chết của những người
xanh lính Tây Tiến là đoạn thơ khá hiếm hoi. Chặng đường hành
quân của đoàn quân Tây Tiến là một miền biên cương xa
xôi. Người chiến sĩ Tây tiến đã ngã xuống và phải tạm thời
nằm lại ở nơi núi rừng haong vắng ấy. Những nấm mồ của
chiến sĩ đã trải dài dọc theo con đường hành quân của binh
đoàn Tây Tiến: Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Câu thơ thể
hiện nỗi xót xa vô hạn của nhà thơ trước cái chết của đồng
chí, đồng đội thân yêu. Nét đặc sắc của đoạn thơ này là tuy
nói về cái chết mà không chỉ một mà là nhiều cái chết song
đoạn thơ không gợi cho ta cảm giác bi lụy mà để lại trong
ta cảm xúc bi tráng. Miêu tả cái chết, QD đã làm nổi bật vẻ
đẹp bi tráng của người lính. Có được thành công đó là vì:
Nhà thơ đã dùng một loạt từ Hán Việt: “biên
cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “độc hành”…do đó đã tạo được
không khí thiêng liêng, trang trọng, tôn nghiêm thêm
những nấm mồ người lính.Nhà thơ nói đến cái chết, nhấn
mạnh đến cái chết thương tâm là để tô đậm thêm lẽ sống
cao đẹp của những ngưòi chiến sĩ. Những chàng trai trẻ ấy
đã quyết tâm dâng hiến đời mình cho Tổ Quốc, cho tiếng
Ta thấy phảng phất trong hình ảnh gọi “quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Cái chết của họ là
thơ này âm hưởng lãng mạn của
một biểu hiện cảm động sự dâng hiến cao đẹp ấy. Câu thơ
những ngày đầu kháng chiến
chống Pháp. Khi ấy đất nước ta “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã mang đến cho ý
đâu đâu cũng vang lên tiếng hát thơ một vẻ đẹp lãng mạn hào hùng. “Đời xanh” là tuổi trẻ,
hào hùng của những đoàn quân là quãng đời đẹp nhất, quý giá nhất của mỗi con người,
cảm tử: nhất là khi “đời người chỉ sống có một lần” và “tuổi trẻ
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi/ chẳng hai lần thắm lại” (Xuân Diệu). Dù biết ra đi lúc cuộc
Nào có mong chi đâu ngày trở về/ đời đang “xanh”, cuộc đời trai vô cùng quý giá “đời mặn
Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi/ nồng hứa hẹn biết bao hoa” (Tố Hữu) nhưng những người
lính Tây Tiến vẫn “ chẳng tiếc”, họ quyết tâm dâng hiến
Ra đi, ra đi thà chết chớ lui.
những đời xanh ấy cho Tổ Quốc. Cái hào hùng lãng mạn
mang đậm chất trượng phu ấy đã thấm vào những câu thơ
của QD.
Nhìn thẳng vào cái bi, cái mất mát, QD đã phát hiện
ra vẻ đẹp kì diệu của những người lính Tây Tiến ngay trong
cái chết. Những chàng trai ấy đã ngã xuống trong tư thế
Áo bào thay chiếu anh về đất lẫm liệt, hào hùng, giữa một không gian, âm hưởng hoành
Sông Mã gầm lên khúc độc hành” tráng. Sự thực đoàn quân Tây Tiến sống và chiến đấu trong
hoàn cảnh vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Khi những người
lính Tây Tiến hy sinh, đồng đội chôn cất họ chỉ với tấm áo
bạc màu dãi dầu sương gió vẫn mặc hàng ngày. Vậy mà
trong mắt của nhà thơ, thi thể họ như được bọc trong tấm
áo bào sang trọng. Cách nhìn, cách phát biểu của nhà thơ
cũng xuất phát từ cái tráng ấy. Riêng chi tiết thực này:
người tử sĩ được mai táng trong chính quần áo của mình
(không có cả chiếu), Quang Dũng đã nói khác đi. Nhà thơ
không nói “áo” mà nói “áo bào”, và khi nói “áo bào” thì ta
không còn nghĩ đến “áo” nữa mà nghĩ đến một cái gì đẹp
và hùng tráng hơn rất nhiều. Nói “áo bào” không phải là thi
vị hóa hay “tiểu tư sản”, “mộng rớt” như có người đã nói.
Người tráng sĩ thời phong kiến coi “da ngựa bọc thây” là
một niềm vinh quang thì với người lính bảo vệ đất nước
ngày nay, “áo bào thay chiếu anh về đất” là một hình ảnh
đầy sức mạnh ngợi ca.
. Và ở đây, nói về sự hy sinh, QD đã dùng hình ảnh “anh về
đất”. Ra đi, với Quang Dũng, là sự trở về, trở về với đất
Mẹ thân yêu, cũng có thể hiểu là hành động tựu nghĩa của
người anh hùng. Cách diễn đạt đó gợi cho ta cảm nhận cái
chết rất nhẹ nhàng. Cách nói này cũng là để những người
lính “hóa thân vào dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước
muôn đời” (Đất nước/ Nguyễn Khoa Điềm).
Tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng có tiếng gầm
của sông Mã Tiếng, là tiếng khóc của thiên nhiên, là điệu
nhạc vĩnh quyết, là khúc ca bi hùng tiễn đưa người lính vào
cõi vĩnh hằng. Cái chết của người lính khiến cả non sông
xúc động. Giây phút tiễn đưa các anh về đất có khúc nhạc
hùng tráng, dữ dội của sông Mã. Âm hưởng hoành tráng ấy
đã nâng tầm vóc của những người lính Tây Tiến lên tầm sử
thi hoành tráng, khiến họ trở nên lớn lao, kì vĩ. Cái chết vô
danh của các anh đã trở nên bất tử.
Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ
Quang Dũng và là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất
viết về anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến
là nỗi nhớ của Quang Dũng về những người đồng đội của
mình đã từng sống, chiến đấu, hi sinh trong đoàn binh Tây
Tiến: Nhưng trong mạch cảm xúc tràn đầy nhớ thương
Quang Dũng còn dựng lên bức tượng đài về người lính Tây
Tiến nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng nói
chung: Quang Dũng bằng những câu thơ của mình góp vào
bảo tàng những chân dung, những người lính vệ quốc 1 bức
tưọng đài kỳ vĩ không thể thay thế được soi chiếu bởi
những nguôn ánh sáng như tương phản nhau, nguồn ánh
sãng toả ra từ những hiện thực nghiệt ngã của đời sống và
nguồn ánh sáng từ cảm hứng lãng mạn. Nhớ những người
lính Tây Tiến, Quang Dũng nhớ về những con người phi
thường, rất hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa.