Professional Documents
Culture Documents
TÌM HIỂU MẬT TÔNG
TÌM HIỂU MẬT TÔNG
Lưu ý : Bộ Thủ Ấn này chủ yếu do hệ phái Đông Mật sử dụng. Đại pháp tu trì này dùng 9 bộ
cách tu trì để khai mở lực tiềm năng tập trung trong 9 nơi bí mật tìm ẩn trong thân người. 9 bộ vị
tiềm năng này gồm 7 luân xa và các ngón của 2 tay là 9. Pháp tu luyện Cửu Tự Thủ Ấn, nên lựa
chỗ trống vắng mà tu tập.
Không quá tối quá sáng, không quá chật, quá rộng, trần nhà không quá cao quá thấp. Thời gian
tu tập bất luận ngày đêm, nhưng vào sáng sớm thì không khí trong lành hơn. Trước khi tập cần
phải rửa tay súc miệng sạch sẽ, sửa sang quần áo, dung nghi.
Người mới tập không được tập quá 30 phút. Cách thực hiện thủ ấn đã có ở phần bài viết ở đây
chỉ bổ sung ấn và chú.
1/Thủ ấn của LÂM:
Quán niệm sinh mệnh lớn rót đầy trong vũ trụ đang rót đầy tòan thân ta và ta đang tiếp dòng
sinh mệnh lực này, ta hiện đang biến thành BẤT ĐỘNG BỒ TÁT.
2/Thủ ấn của BINH:
Thủ ấn này biểu thị cho người bệnh nặng sắp chết tung giường trổi dậy, khôi phục lại sinh mệnh.
Quán niệm ta là HÀNG TAM THẾ MINH VƯƠNG biểu lộ sự nổi giận, hàng phục tất cả kẻ địch
xung quanh.
3/Thủ ấn của ĐẤU:
Đấu là Dũng cảm quả đóan, càng gặp chướng ngại càng bộc lộ quyết tâm cao. Quán niệm ta
như Kim Cang Mạn Bồ Tát tòan thân màu trắng (bạch nhục) đoan trang đang phóng hào quang
chói lọi
4/Thủ ấn của GIẢ:
Biểu thị có thể tự do tự tại thao túng khống chế nhục thể của mình hoặc người khác. Quán niệm:
Ta cùng Kim Cang Đại Nhật đồng làm 1 thể. Tâm của Đại Nhật Như Lai như sư tử vương,
nuốt chửng hết bốn loại độc trong tâm ta như Tham Sân Si...
Chú ( Niệm ra tiếng): OM VAJRA DATU VAM (108 Lần) Tưởng tượng ánh hào quang từ câu chú
biến chiếu khắp hư không.
5/Thủ ấn của GIAI:
Biểu thị cho sự thay đổi của tâm người cho đến Tha tâm thông, có thể tùy tâm muốn thao túng
kẻ khác.
Không quan niệm quán tưởng, tập trung vào thủ ấn, không có chút tạp niệm trong đầu.
6/Thủ ấn của TRẦN:
Là tiếng của Linh giới, tập trung vào sự Kính ái và giàu có. Quán niệm tự thân biến thành Kim
Cang Tát Đỏa.
Tiếp theo phải quán Kim Cang Câu Bồ Tát, Kim Cang Sách Bồ Tát, Kim Cang Tỏa Bồ Tát, Kim
Cang Linh Bồ Tát.
7/Thủ ấn của LIỆT:
Là bởi ta hòan thành đến mức cứu tế cho người khác, biểu thị Tâm của bậc Thánh. Tâm vô
tưởng vô niệm mà tiến hành.
8/Thủ ấn của TẠI:
Là lăng không, ngự không một cách tự do tư tại, bay lượn trong không trung. Biểu thị sức mạnh
có thể khống chế tự nhiên.
Cần tưởng nguyệt luân tròn đầy. Nguyệt luân dần dần biến to ra đến lúc chiếm nửa hư không.
Ngay khi đó, thân ta và thân Đại Nhật cũng dần biến to, đối nhau, dần dần tiến gần nhau cho
đến khi nhập lại làm một.
9/Thủ ấn của TIỀN:
Là Phật, cũng là cảnh giới của bậc siêu nhân. CĂN BẢN THÀNH THÂN HỘI Suất lãnh Tứ Phật
biểu thị đức Đại Nhật Như Lai đang nhập Niết Bàn Không có quán tưởng, quán niệm chơn ngôn.
TRAO ĐỔI:
Xin được nói thêm một chút theo hiểu biết và sưu tập riêng của mình. Tu trì Đại pháp Thủ Ấn
này là thông qua 9 bộ cách tu trì để khai mở Lực tiềm năng tập trung trong 9 nơi bí mật ẩn nơi
thân người. Môn Cổ Đại Du Già đã phát hiện ra 7 nguồn suối phát xuất năng lượng trong cơ thể
(7 luân xa hay còn gọi là Cakra).
Các vị Du Già Đại sư đã tìm ra những biện pháp kiểm soát và khai mở các nguồn suối năng
lượng này.
Thông qua sự tu tập các phương pháp, rèn luyện về sự khai mở 7 luân xa trong thân làm cho
con người khai quật các tiềm năng của tự thân mình, thực hiện được các kỳtích phi thường mà
Đạo gia, Phật gia thường gọi là thần thông. Thật ra, việc thực hiện các phép DuGià (Yoga) của
Ấn Độ là một trong những phương tiện khai mở luân xa để đạt đến thần thông.
Cửu Tự Thủ Ấn cũng vậy, các vị Tổ Mật Tông Tây Tạng đã biết vận dụng công năng của các bộ
ấn khế kết hợp với thần chú và các thế tập, quán tưởng , quán niệm để sáng tạo ra Cửu Tự Thủ
Ấn Đại pháp. Mục đích cuối cùng của pháp môn này cũng là con đường giải thoát mà thôi, chỉ có
khác chăng là phương tiện thực hiện có một số chi tiết hơi giống với phép tu luyện của Đạo Gia
bên Trung Quốc ( bởi vì các vị Tổ Mật Tông Nhật Bản đã tham cứu cách tu tập từ những pháp
môn của Trung Quốc mà).
Chính vì những thành tựu thần thông đạt được trong quá trình tu luyện đã làm cho một số vị đời
sau rẽ sang lối khác, luyện theo Thần đạo, chia năm xẻ bảy, xây dựng thành nhiều tông, nhiều
phái. Nếu những ai có nghiên cứu về thuật Ẩn Giả ( Ninja) sẽ thấy những người tu tập cao đều
có luyện qua ấn chú...
HỎI:
TRẢ LỜI
Mỗi thủ ấn đi cùng một bộ pháp và phép quán tưởng quán niệm nhằm khai mở những công
năng trong mỗi luân xa. Càng lên cao, càng hướng về vô chấp, vô niệm. Ba thủ ấn cuối cùng
không có Chú, không quán niệm quán tưởng là thế.
Tóm lại, tu hành theo Mật tông dễ sở đắc thần thông, đồng thời cũng dễ chệch hướng nếu
không có thầy lành, bạn tốt. Mật tông Nhật Bản ít phổ biến như Mật tông Trung Quốc cho nên rất
nhiều người không biết đến. Xin được trình bày thêm để anh chị em cùng tham khảo, tìm hiểu.
Bài viết này chỉ để tham khảo, chỉ là hình thức chứ không phải là một nội dung đầy đủ cần thiết
cho việc tu học.
Quang Võ biên tập
輆 辱扣向 圩益 屹湱叻猣 辱扣向 圩益 珈曳
OMÏ_ SVABHÀVA ‘SUDDHA_ SARVA DHARMA SVABHÀVA ‘SUDDHA UHAMÏ
2 ) Tiếp đối trước Bản Tôn, ngồi Kiết Già hoặc ngồi Bán Già, khởi Tâm Đại Bi :” Con tu Pháp này
vì tất cả chúng sinh, nguyện mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề”
Trước tiên, mài các loại hương dùng để xoa tay. Sau đó kết PHẬT BỘ TAM MUỘI GIA ĐÀ LA NI
ẤN . Chắp 2 tay giữa rỗng, mở 2 ngón trỏ co lại phụ ở lóng trên của 2 ngón giữa, co 2 ngón cái
phụ lóng dưới của 2 ngón trỏ thì thành Ấn. Đặt Ấn ở trái Tim, tưởng 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của
Đức Như Lai rõ ràng trước mắt, chí Tâm tụng Chân Ngôn 7 biến.
Chân Ngôn là :”Án_ Đát tha nghiệt đỗ nạp bà phộc dã, sa-phộc hạ”
湡 凹卡丫北咼名伏 送扣
OMÏ_ TATHÀGATA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn tức liền cảnh giác tất cả Như Lai , thảy đều hộ niệm gia trì,
phóng hào quang chiếu chạm vào thân Hành Giả thì bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt,
tho mệnh mau tăng, Phước Đức thêm lớn. Thánh Chúng thuộc Phật Bộ vui vẻ ủng hộ, đời đời
kiếp kiếp xa lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
3 ) Tiếp kết LIÊN HOA BỘ TAM MUỘI GIA ẤN. Chắp 2 tay lại giữa rỗng, mở bung 2 ngón trỏ, 2
ngón giữa, 2 ngón vô danh rồi co lại như hình hoa sen. Đặt Ấn ở trái Tim, tưởng Quán Tự Tại Bồ
Tát với đầy đủ tướng tốt. Tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn bên phải đỉnh đầu.
Chân Ngôn là :” Án_ Bả ná mô nạp-bà phộc dã, sa-phộc hạ “
輆 扔痧 珈咼名伏 送扣
OMÏ_ PADMA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn tức liền cảnh giác Bậc cầm hoa sen , tất cả Bồ Tát thuộc
hàng Quán Tự Tại. Thánh Chúng của Liên Hoa Bộ thảy đều vui vẻ gia trì hộ niệm. Ánh hào
quang của tất cả Bồ Tát chiếu chạm vào thân Hành Giả thì bao nhiêu tội nghiệp đều được tiêu
diệt, tất cả Bồ Tát thường làm bạn lành.
4 ) Tiếp kết KIM CƯƠNG BỘ TAM MUỘI GIA ẤN . Lật nghiêng bàn tay trái, hướng bàn tay ra
ngoài. Đặt lưng bàn tay phải sát lưng bàn tay trái. Đem 2 ngón cái, 2 ngón út trợ móc nhau như
hình cái chày Kim Cương. Đặt Ấn ở trái Tim, tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát . tụng Chân Ngôn 7
biến rồi bung Ấn ở bên trái đỉnh đầu.
Chân Ngôn là:” Án_ Phộc nhật-lô nạp-bà phộc, sa-phộc hạ “
輆 向怵咼名伏 送扣
OMÏ_ VAJRA UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn tức liền cảnh giác thất cả Thánh Chúng thuộc Kim Cương Bộ
gia trì ủng hộ. Bau nhiêu tội chướng của Hành Giả thảy đều tiêu diệt, tất cả bệnh tật khổ đau
chẳng vướng vào thân nên được Thể kiên cố của Kim Cương.
5 ) Tiếp kết HỘ THÂN TAM MUỘI GIA ẤN. Hai tay cài chéo nhau bên trong, bên phải đè bên
trái. Dựng thẳng 2 ngón giữa, co 2 ngón trỏ như hình móc câu đừng để dính vào lưng ngón
giữa, lấy 2 ngón cái đè 2 ngón vô danh liền thành. Ấn lên 5 nơi trên thân thể là : vầng trán, vai
phải, vai trái, trái tim, cổ họng rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Mỗi nơi đều tụng Chân Ngôn một biến.
Chân Ngôn là:” Án_ Phộc nhật-la ngân-nễ, bát-la niệm bả-đá dã, sa-phộc hạ “
湡 向忝 狣蚱 盲司挕伏 送扣
OMÏ_ VAJRA AGNI PRADIPTAYA_ SVÀHÀ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn gia trì tức liền thành BỊ KIM CƯƠNG GIÁP TRỤ. Hết thảy Tỳ
Na Dạ Ca ( Vinàyaka ) với các Thiên Ma, loài gây chướng ngại đều bỏ chạy tứ tán vì nhìn thấy
Hành Giả tỏa hào quang và thân ấy có uy đức tự tại. Nếu Hành Giả cư ngụ ở núi rừng và nơi
hiểm nạn đều không có sợ hãi.Tất cả ách nạn về nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao, gậy, gông cùm,
xiềng xích… thảy đều tiêu diệt. Người nhìn thấy vui vẻ. Sau khi chết chẳng bị đọa vào nẻo ác mà
được sinh về Quốc Thổ tịnh diệu của chư Phật.
6 ) Tiếp kết ĐỊA GIỚI CHÂN NGÔN ẤN. Đưa ngón vô danh phải vào bên trong ngón út và ngón
vô danh trái. Đưa ngón giữa phải vào bên trong ngón giữa và ngón trỏ trái. Tay trái cũng như
vậy. Các ngón còn lại đều dính đầu ngón. Liền tưởng Ấn thành hình cái chày Kim Cương rực
lửa mạnh ( Hỏa Diễm Kim Cương Xử) .Đem ngón cái vạch lên mặt đất, mỗi vạch mỗi tụng Chân
Ngôn cho đến 3 lần thì ngưng. Tùy theo Tâm biểu thị lớn nhỏ liền thành Địa Giới kiên cố.
Chân Ngôn là :” Án_ Chỉ lị, chỉ lị, phộc nhật-la, phộc nhật-lị, bộ luật, mãn đà, mãn đà, hồng, phát
tra “
湡 一印 一印 向忝 向忽 穴 楠神 向神 狫 民誆
OMÏ_ KILI KILI_ VAJRA VAJRI BHÙR_ BANDHA BANDHA _ HÙMÏ PHATÏ
Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn gia trì Địa Giới cho nên bên dưới đến Thủy Tế như Toà Kim
Cương. Thiên Ma với các loài gây chướng chẳng thể gây não hại được, chỉ dùng chút ít công
lực mà mau được thành tựu.
7 ) Tiếp kết PHƯƠNG NGUNG KIM CƯƠNG TƯỜNG CHÂN NGÔN ẤN. Dựa theo Địa Giới Ấn
lúc trước, mở 2 ngón cái dựng đứng bên cạnh như hình bức tường. Tưởng Ấn như hình cái
chày Kim Cương, chuyển bên phải quanh thân 3 lần biểu thị cho sự lớn nhỏ của Tâm liền thành
cái thành kiên cố của Kim Cương. Chư Phật Bồ Tát còn chẳng làm trái ngược huống chi các loài
khó điều phục khác. Tỳ Na Dạ Ca ( Vinayàka ) với loài trùng độc, loài có móng nhọn nanh bén
chẳng thể lại gần.
Chân Ngôn là :” Án_ tát la tát la, phộc nhật-la, bát-la ca la, hồng, phát tra “
湡 屹先 屹先 向忝 盲一先 狫 民誆
OMÏ _ SARA SARA VAJRA PRAKARA HÙMÏ PHATÏ
8 ) Hành Giả tiếp nên tưởng trong Đàn trên hoa sen lớn 8 cánh có một Tòa Sư Tử. Trên Tòa có
cái lầu gác bằng 7 báu, rũ treo các Anh Lạc, vải lụa, phướng lọng. Từng hàng cây báu rũ treo
Thiên Y tuyệt đẹp, mây hương tỏa khắp, mưa tuôn đủ loại hoa, các thứ âm nhạc tấu vang, bình
báu, Ứ Già, thức ăn uống thượng diệu của chư Thiên, đèn bằng ngọc Ma Ni. Tác quán xong liền
tụng Kệ rằng :
Dùng lực công đức Ta
Lực Như Lai gia trì
Cùng với lực Pháp Giới
Cúng dường khắp rồi trụ
9 ) Nói Kệ này xong, tiếp kết ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG PHỔ THÔNG CÚNG DƯỜNG ẤN. Chắp 2
tay lại, đem 2 ngón giữa cài chéo nhau bên ngoài, 2 ngón trỏ cùng dựa nhau co gấp lại như hình
báu. Kết Ấn thành xong, tụng Chân Ngôn 4 biến
Phổ Thông Cúng Dường Chân Ngôn là :” Án_ Nga nga nẵng, tam bà phạ phộc nhật-la, hộc “
湡 丫丫巧 戌矛向 向忝 趌
OMÏ _ GAGANA SAMÏBHAVA VAJRA HOHÏ
Do tụng Chân Ngôn này gia trì cho nên bao nhiêu vật cúng dường tưởng tượng đều không khác
với các vật cúng dường chân thật. Tất cả chúng Hiền Thánh đều được thọ dụng.
10 ) Tiếp nên kết BẢO XA LẠC ẤN. Hai tay cài chéo nhau bên trong rồi ngửa lòng bàn tay. Để
ngón trỏ nằm ngang tựa nhau, đặt 2 ngón cái đều vịn dưới gốc ngón trỏ. Tưởng Xa Lạc bảy báu
có ngôi Kim Cương trên chiếc xe báu nương theo Hư Không đi đến Thế Giới Cực Lạc của Bản
Tôn. Tụng Chân Ngôn 3 biến.
Chân Ngôn là :” Án_ Đổ lỗ, đổ lỗ, hồng “
湡 加冰 加冰 狫
OMÏ_ TURU TURU HÙMÏ
Do Chân Ngôn Ấn này gia trì cho nên Xa Lạc bảy báu đi đến quốc thổ của Bản Tôn. Tưởng Bản
Tôn với các Thánh Chúng có quyến thuộc vây quanh ngồi trên Xa Lạc báu đến trụ trên hư không
của Đạo Trường.
11 ) Tiếp kết THỈNH XA LẠC ẤN. Dựa theo Ấn trước đưa ngón cái vào thân, bật đầu ngón giữa.
Tụng Chân Ngôn 3 biến.
Chân Ngôn là :” Ná ma tất-để-la-dã địa-vĩ ca nẫm, đát tha nghiệt đa nam. Án_ Phộc nhật-lãng
ngân nễ-dã yết lợi-sa dã, sa-phộc hạ “
巧休 榑伏盎乙觡 屹楠 凹卡丫出觡 湡 向怪蚱伏 狣一溶伏 送扣
NAMAHÏ STRYADHVIKÀNÀMÏ TATHÀGATÀNÀMÏ_ OMÏ _ VAJRAMÏGNIYA AKARSÏAYA
_ SVÀHÀ
Do kết Chân Ngôn Ấn này gia trì cho nên Thánh Chúng từ Bản Thổ đi đến trụ trong hư không
của Đạo trường.
12 ) Tiếp kết THỈNH BẢN TÔN TAM MUỘI GIA GIÁNG CHÍ Ư ĐẠO TRƯỜNG ẤN. Hai tay cài
chéo nhau bên trong rồi nắm lại thành quyền, co ngón cái trái vào trong lòng bàn tay, tiếp đưa
ngón cái phải hướng về thân triệu mời.
Chân Ngôn là :” Án_ Nhĩ nẵng nhĩ ca_ Án, a lô lực ca_ Án, phộc nhật-la đặc-lặc ca _ A nghiệt xa,
a nghiệt xa, sa-phộc hạ”
湡 元巧 元塴 湡 狣吐共塴 湡 向忝 呤塴 狣一溶 狣一溶 送扣
OMÏ JINA JIK _ OMÏ AROLIK _ OMÏ VAJRA DHRÏK AKARSÏA AKARSÏA _ SVÀHÀ
Do Chân Ngôn Ấn này gia trì cho nên Bản Tôn chẳng vượt qua Bản Thệ liền phó tập ( Đi đến dự
hội ) nơi Đạo Trường
THUẬT TRƯỜNG THỌ VÀ BÍ QUYẾT LUYỆN CÔNG [1]
Bài viết của Võ sư: Thiều Ngọc Sơn
Trước tiên cần phải khẳng định: Mục tiêu của bộ môn Khí công là Kiện
thân tráng cốt, khu trừ tật bệnh, ích thọ diên niên.(xin xem lại bài viết "Hiểu
biết cơ bản về Khí công".
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó không phải cứ có những bài tập hoa mỹ,
những động tác phức tạp hay kỹ thuật khéo léo là có thể “kiện thân tráng cốt,
khu trừ tật bệnh”. Cũng không phải cứ nửa đêm gà gáy hay chính Ngọ chang
chang, say sưa tập luyện như một số người và cho rằng mình đã nắm bắt được
bí quyết của thuật trường sinh(!?) thiết nghĩ đấy là những quan niệm hoàn toàn
sai lầm!
Chúng ta hãy xét một đoạn đối đáp trong kinh văn Hoàng đế Nội kinh giữa
nhân vật Hoàng đế và Kỳ Bá.
Hoàng đế viết: “Dư văn thượng cổ chi nhân, Xuân thu giai đạt bách tuế nhi
động tác bất suy; Kim thời chi nhân niên bán bách nhi động tác giai suy giả,
thời thế dị da? Nhân tương thất chi da?”.
Kỳ Bá đối viết: “Thượng cổ chi nhân kỳ tri đạo giả, pháp vu Âm Dương,
hòa vu thuật số, thực ẩm hữu tiết, khởi cư hữu thường, bất tác vọng lao, cố năng
hình dữ thần cụ nhi tận chung kỳ thiên niên đạt bách tuế nãi khứ. Kim thời chi
nhân tắc bất nhiên dĩ tửu vi tương, dĩ vọng vi thường, túy dĩ nhập phòng, dĩ dục
kiệt kỳ Tinh, dĩ hao tán kỳ Chân, bất tri trì mãn, bất thời ngự Thần, vụ khoái kỳ
Tâm, nghịch vu sinh lạc, khởi cư vô tiết, cố bán bách nhi suy dã” (Tố vấn/
Thượng cổ thiên chân luận).
Dịch nghĩa:
Hoàng đế nói:
- Ta nghe nói con người thời thượng cổ, về tuổi tác đạt đến trăm tuổi mà
động tác (ý nói năng lực, trí lực và sự hoạt động) của họ vẫn khỏe mạnh không
suy giảm. Người ngày nay, tuổi mới năm mươi nhưng sao đã thấy chậm chạp,
già nua. Thế là thế nào? do thời thế khác chăng hay là do không biết sống?
Kỳ Bá đáp:
- Người thời thượng cổ đều biết rõ phép Dưỡng sinh, họ tuân theo quy luật
của Âm Dương, nắm vững thuật tu tâm dưỡng tính, tiết chế sự ăn uống, sinh
hoạt nghỉ ngơi theo mùa, không làm lụng quá sức, không vô cớ tiêu hao sinh lực
nên thân thể khỏe mạnh, tinh thần phấn chấn, sống trên trăm tuổi. Còn người
ngày nay họ không theo kiểu ấy, uống rượu như uống canh, sinh hoạt trái với
thói thường, say vào thì làm chuyện phòng the, không biết giữ gìn Chân khí,
ham muốn nhất thời làm trái qui luật. Bởi vậy Tinh khô Khí kiệt, Tiên thiên bất
túc cho nên mới năm mươi tuổi trông đã thấy già cỗi vậy.
Hoàng Đế vấn Kỳ Bá...
Và chúng ta hãy lắng nghe Lão Tử phàn nàn : “Nhân hữu kê khuyển phóng
nhi tri cầu chi. Hữu phóng kỳ Tâm nhi bất tri cầu” nghĩa là: “Con người khi
thấy mất con gà, con chó thì biết lo đi tìm. Còn như đánh mất Lương tâm (ý là
đắm vào Thất tình lục dục) lại chẳng biết lo tìm”.
[1] Để tiện cho bạn đọc dễ hình dung, người soạn quyết định đưa mục “bí quyết
luyện công” trình bày trước, thay vì sẽ trược trình bày ở phần Thực hành luyện
công.