Ngô Xuân Trọng-CT050350-TTHCM-L02

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Kiểm tra giữa kỳ


Họ tên: Ngô Xuân Trọng
MSV: CT050350, Lớp: L02

Câu 1: Phân tích khái niệm và làm rõ ý nghĩa học tập môn học Tư tưởng Hồ
Chí Minh ?
1. Phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

Đến nay chúng ta sử dụng khái niệm nay:“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
Khái niệm trên nêu rõ cấu trúc, nguồn gốc, nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với Đảng và dân tộc ta.
* Thứ nhất, về cấu trúc: Khái niệm nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt
Nam”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung bàn đến các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, bao gồm: xác định con đường của cách mạng Việt Nam;
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; lực lượng tiến hành; phương pháp tiến hành và giai
cấp lãnh đạo cách mạng.
Nhận thức như vậy để khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần tránh những
khuynh hướng sai lệch và xuyên tạc cho rằng:
Một là, không có tư tưởng Hồ Chí Minh: cho rằng không có hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh mà chỉ một vài phát biểu ngắn gọn của Người.
Hai là, cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không hiểu tư tưởng của
Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như vậy vô tình
hạ thấp chứ không phải đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Ví dụ: tư tưởng Hồ Chí
Minh về phòng cháy chữa cháy…
Phải hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm khoa học, vì thế hết sức cô
đọng, chặt chẽ, có nội hàm lý luận cao, có sức sống mãnh liệt và giá trị lý luận,
thực tiễn rất to lớn không những với cách mạng Việt Nam mà còn đối với sự
nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng loài người trên phạm vi toàn thế
giới.
* Thứ hai, về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ rõ ba nguồn gốc lý luận hình thành nên
tư tưởng Hồ Chí Minh. Bao gồm: Chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đặc biệt, chủ nghĩa Mác -
Lênin có vai trò quyết định nhất tới việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi đã
trang bị cho Người thế giới quan và phương pháp luận Mác xít. Với thế giới quan
và phương pháp luận Mác xít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất trong tư
tưởng cách mạng của mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích
cực và tiến bộ trong truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa
nhân loại, giúp Người nhận định, đánh giá, phân tích, tổng kết rất nhiều những học
thuyết, quan điểm khác nhau và đặc biệt là những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
một cách khoa học, để từ đó nâng trí tuệ của Người lên một tầm cao mới tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ
rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói
nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách
mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính
mình.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ đó
là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự
đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ
nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với
thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và
phương pháp luận cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ
nghĩa giáo điều xơ cứng.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác,
đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng
Việt Nam. Vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lê- nin”. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là kim chỉ
nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng,
đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp vào
tháng 7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do
nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những
thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác -
Lênin”.
Bác vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta. Hồ Chí Minh nhận thấy chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu vẫn được hình
thành trên nền tảng triết lý phương Tây, mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở phương
Tây. Để hoàn thiện, Người đã bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin bằng dân tộc học
phương Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới. Ví như, Thứ nhất, xác
định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội: Ở Phương Tây sau khi các cuộc cách
mạng tư sản thành công, các quốc gia tư bản được thành lập thì mâu thuẫn cơ bản
và chủ yếu là giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; còn ở Việt Nam lúc này là
thuộc địa của thực dân Pháp mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với bọn đế quốc xâm
lược và phong kiến tay sai là mâu thuẫn cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Thứ hai, mục
đích của cách mạng: Trên cơ sở xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội, quan
điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng trước hết phải thực hiện nhiệm vụ giải phóng
giai cấp, trong khi đó ở một nước thuộc địa như Việt Nam theo Hồ Chí Minh trước
hết cách mạng phải nhằm giải phóng dân tộc, vấn đề này ở các nước tư bản châu
Âu cơ bản đã được giai cấp tư sản làm trong cuộc cách mạng tư sản. Thứ ba, quan
điểm về Đảng và xây dựng Đảng: Để thực hiện được mục đích của cuộc cách
mạng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác phải có Đảng lãnh đạo, Đảng đó là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa hai yếu tố: chủ
nghĩa Mác cộng với phong trào công nhân. Ở Việt Nam, để cách mạng thắng lợi,
Bác khẳng định phải có Đảng chân chính lãnh đạo, “Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-
Lê làm cốt” và ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có thêm yếu tố phong
trào yêu nước và ngay từ đầu Đảng đã cắm rễ sâu trong lòng dân tộc.
Nếu Hồ Chí Minh không vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta để xây dựng hệ thống lý luận cách mạng soi
đường cho cách mạng Việt Nam thì làm sao chúng ta có thể chớp thời cơ và giành
thắng lợi nhanh gọn trong thời gian chưa đầy hai tuần của tháng Tám năm 1945 và
tiếp theo là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến thần thánh, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội khi cả nước có chiến tranh với tư duy “chủ nghĩa xã hội thời chiến”.
Như vậy Bác đã tiếp thu có chọn lọc các yếu tố tích cực, biết kế thừa có phê phán,
chọn lọc mọi tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của mình, đúng
như Bác đã nói “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là
chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật
Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc
cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của
các vị ấy”.
* Thứ ba, về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:
Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Bốn là, tư tưởng về đạo đức
cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Năm là, tư tưởng về chăm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Sáu là, tư tưởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Bảy là, tư tưởng về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế
và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. (Những
nội dung này sẽ được làm rõ trong những bài tiếp theo)
* Thứ tư, về giá trị: Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi”. Tài sản tinh thần là khái niệm khó có thể nhận diện một cách cụ thể nhưng nó
lại có khả năng gắn kết cộng đồng, kết dính tâm thức dân tộc. Trong thực tế tài sản
vật chất có thể mất đi nhưng tài sản tinh thần thì luôn bền vững bởi nó góp phần
tạo dựng nên truyền thống văn hóa, tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực của xã hội
đồng thời định hướng giá trị cho tương lai.
Khi nói đến tài sản tinh thần là nói đến sức sống của một di sản trong cộng đồng,
trong lòng dân tộc. Nhân dân ta, Đảng ta đã thừa hưởng một tài sản tinh thần to lớn
là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó chính là niềm tự hào lớn lao của dân tộc Việt Nam.
Xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc
ta không chỉ thuần túy như một sự đề cập về vấn đề sở hữu mà còn xác định ý thức
trách nhiệm trong việc giữ gìn, làm giàu và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng cho Đảng ta xây dựng
đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và dẫn dắt nhân dân đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình của cách mạng nước ta: thắng lợi
của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ,
thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ
rõ: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi cho công cuộc đổi
mới ở nước ta, sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và trong giai đoạn
hiện nay là soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thông qua việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố
cho cán bộ, đảng viên lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Làm rõ ý nghĩa học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa hết sức to lớn:
trang bị hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao
thêm lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng cả mỗi người,
để làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.

Nội dung của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh:

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chính là việc nghiên cứu và vận dụng hệ thống các
quan điểm của Hồ Chí Minh, bao gồm các tư tưởng chủ yếu như: giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
Nhà nước của dân do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức Cách mạng cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau; về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân;…

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải nắm bắt được yếu tố cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đó là: tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.

Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh:

2.1. Việc học tập, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người học tiếp cận,
hiểu rõ hơn về con người vĩ đại Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969) là một nhà cách mạng, một trong những
người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh
thổ cho Việt Nam. Người là nhà lãnh đạo nổi tiếng được nhiều người ngưỡng mộ
và tôn sùng, một vị nguyên thủ tài ba mà gần gũi, được hàng triệu đồng bào Việt
Nam yêu mến. Hồ Chí Minh đồng thời cũng là một nhà văn hóa lớn với nhiều tác
phẩm văn học nghệ thuật giá trị để lại cho đời. Có thể nói, có rất nhiều yếu tố để
tạo nên một con người vĩ đại với những thành tựu xuất chúng và dành được trái
tim, tình cảm của nhiều đồng bào trong nước nói riêng và nhân dân thế giới nói
chung. Song một yếu tố quan trọng then chốt và cơ bản đó chính là nội lực tự thân
bên trong Hồ Chí Minh – là toàn bộ tư tưởng, quan điểm, nhận thức cũng
như phẩm chất đạo đức của Người.                     

Vì vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta khám phá và hiểu rõ hơn những
phẩm chất, quan niệm sâu sắc của Người, cũng là qua đó tìm ra cho mình một tấm
gương sáng để noi theo và những bài học bổ ích để vận dụng trong cuộc sống. Đối
với Hồ Chí Minh, giữa tư tưởng với đạo đức – phong cách – lối sống là luôn thống
nhất nên việc nghiên cứu tư tưởng của Người không chỉ cho ta cái nhìn giản đơn
về những quan niệm của Người trong các lĩnh vực, mà mặt khác còn cho ta cảm
nhận được phẩm chất, đạo đức cao đẹp của Người. Hồ Chí Minh là con người
“bằng xương bằng thịt” nhưng Người làm được những việc phi thường, to lớn
không phải bất cứ một ai cũng làm được. Hồ Chí Minh cùng thành quả của Người
chính là tấm gương sáng “người thực việc thực” cho những ai am hiểu sâu sắc về
những tư tưởng của Người có thể học tập, làm theo.

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn là một trong những con đường để nhận thức
đầy đủ và sâu sắc hơn về công lao to lớn của Người đối với nhân dân, đất nước
Việt Nam và nhân dân của các nước thuộc địa trên thế giới. Thấm thía công lao của
Người cũng sẽ khơi gợi trong mỗi một người dân Việt Nam lòng biết ơn, lòng tự
hào dân tộc, thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc – đạo lý “Uống nước
nhớ nguồn”.
2.2. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người nâng cao năng lực tư duy
lý luận và phương pháp công tác trong thời đại ngày nay.

Những tư tưởng của Hồ Chí Minh mặc dù có tính khái quát cao về các lĩnh vực có
nội hàm rộng lớn như dân tộc và cách mạng dân tộc, chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản, Nhà nước, tư tưởng đại đoàn kết, quân sự, nhân văn, đạo đức, văn hóa…
nhưng lại có tính thực tiễn và áp dụng rất cao, có thể được vận dụng hiệu quả trong
từng công việc nhỏ lẻ của mỗi người dân. 

Thấm nhuần được các tư tưởng chủ đạo, ta sẽ có nền tảng vững chắc về mục đích
lao động, mục tiêu đúng đắn để phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa và có
bản sắc riêng. Từ đó ta sẽ tìm ra đường hướng cụ thể để phát triển năng lực của
bản thân, xây dựng đất nước.

Trên nền tảng kiên định lập trường, vững vàng quan điểm ấy, việc nắm rõ được
bản chất của các tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho mỗi người nâng cao được khả
năng tư duy lý luận sắc bén và cải tiến phương pháp lao động hiệu quả và khoa học
hơn. Thay đổi được tư duy nhận thức đúng đắn cũng chính là loại bỏ, bài trừ những
suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện, phản động, hướng con người đến những tư
tưởng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển. Nếu đổi mới tư duy có vai trò dẫn
dắt khởi nguồn cho sự tiến bộ thì cải tiển phương pháp cũng quan trọng không kém
trong việc hiện thực hóa những dự định, quan điểm đổi mới đó.

2.3. Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Thống kê trong di sản Hồ Chí
Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo
đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng. 

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm đạo đức
tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý
thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng
trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn
viên, thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, mặt trái của cơ chế thị trường
tác động mạnh mẽ, tạo nên sự phân hóa giàu nghèo, phần tầng xã hội, sự suy đồi
về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, Đảng viên đã gây ra ảnh hưởng không
nhỏ đến niềm tin, tư tưởng và tình cảm của quần chúng nhân dân vào Đảng. Vì
vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, noi gương đạo đức của Người trở nên cần
thiết, cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết giúp đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.

2.4. Nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Luôn
luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không
ngừng đổi mới và sáng tạo.

Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, các thế lực phản động thù địch không từ
bỏ âm mưu nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đối với nước ta thông qua cơ chế thị
trường và trao đổi, giao lưu văn hóa. Trong điều kiện đó, chúng ta có thể làm gì để
vừa mở cửa, hợp tác phát triển kinh tế mà vẫn giữ được độc lập, chủ quyền dân
tộc. Muốn vậy chúng ta phải tạo ra nguồn sức mạnh nội lực làm cơ sở cho sự phát
triển. Một trong những sức mạnh nội lực đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh. Người
có căn dặn: học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần cách mạng và
khoa học, cái tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, để giải quyết tốt
những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, tức là phải luôn biết
gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung làm phong phú thêm lý
luận. Do vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là việc học tập có ý
nghĩa về mặt định hướng giá trị, tạo nên sức mạnh đồng thời là kim chỉ nam, là nền
tảng tư tưởng cho mọi hành động của cả dân tộc.

Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế hệ thanh niên Việt
Nam nói chung và sinh viên ngành Luật nói riêng:

Trong huấn thị gửi Đại hội Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam lần thứ II, Người
viết: “Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy, cho nên phải tự giác, tự
nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của
mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không
làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không
có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người.” 

Điều này cho thấy Người luôn quan tâm đến thanh niên – những người chủ tương
lai của đất nước. Là sinh viên Luật, không chỉ là những người chủ tương lai của đất
nước, mà còn là lực lượng nòng cốt xây dựng nên hệ thống pháp chế nước nhà,
xương sống của quốc gia, chúng ta cần phải luôn quan tâm phát triển và nâng cao
chất lượng của mỗi sinh viên Luật ngay từ trong ghế nhà trường. 

Rèn luyện TÀI: Tự giác trau dồi kiến thức pháp luật, tận dụng triệt để những điều
kiện mà xã hội đang tạo ra, không để làm phí hoài tuổi trẻ. Học phải có lý tưởng,
phải trả lời được hai câu hỏi của người “Học để làm gì? Học để phục vụ ai?”. Mặt
khác, phải thường xuyên tham khảo nhiều phương pháp học trong và ngoài nước
để tìm hiểu, đóng góp cho pháp luật nước nhà.

Rèn luyện ĐỨC: Ngành luật là chuyên ngành xương sống của quốc gia nhưng
cũng vô cùng nhạy cảm cả trong nghề lẫn trong chính trị. Sinh viên luật phải tự
nhắc nhở đạo đức nghề nghiệp, đạo đức với quốc gia dân tộc. Kết hợp với Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội sinh viên, thường xuyên tổ chức tham gia
các buổi học về tư tưởng chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh; cùng nhau thảo luận vai
trò của sinh viên Luật và để thấm nhuần hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh trong thế
kỉ mới.

Kế thừa tư tưởng đó của chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam nói chung và
sinh viên Đại học Luật Hà Nội nói riêng trong thời đại mới đang ra sức học tập, để
đưa nước nhà “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”. 

Thực tiễn việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay:

Việc giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cách mạng luôn được coi trọng, đặc biệt
là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay đã
được đưa vào chương trình giảng dạy của nhiều trường cao đẳng, đại học. Không ít
những đoàn viên, thanh niên noi theo tấm gương của Bác đạt nhiều thành công
trong học tập cũng như những lĩnh vực khác. Cũng nhờ việc học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh, các cán bộ, đảng viên và đông đảo tầng lớp nhân dân đã nâng cao được
nhận thức tư tưởng, cải tiến phương pháp và phong cách làm việc, kiên định mục
tiêu, góp phần đưa công cuộc đổi mới đi tới những thắng lợi to lớn.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
chưa thật sự hiệu quả. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đơn vị, người dân
chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh,
chưa tự giác tham gia. Việc vận dụng, học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn
mang tính dập khuôn, cứng nhắc. Một số cán bộ chủ chốt chưa gương mẫu và tích
cực trong học tập do đó chưa tạo được phong trào học tập sôi nổi ở cơ quan đơn vị.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền về việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là một
công tác vô cùng quan trọng, nhưng lại chưa thật sự mạnh mẽ, chưa huy động được
nhiều lực lượng tham gia. `

KẾT LUẬN:

Với những ý nghĩa hết sức to lớn như trên, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ
VII (tháng 6/ 1991), Đảng đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động”. Và từ đó tới nay, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là ngọn
đèn soi sáng cho con đường của chúng ta, là vũ khí lý luận có giá trị khoa học sâu
sắc và có ý nghĩa thực tiễn to lớn; là tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho toàn
Đảng, toàn dân ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, nhất là trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 

Câu 2: Phân tích những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh trong CMGP
dân tộc ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới đã cống hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng
phong phú, sôi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta nhiều “Di sản”
quý báu, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về cách mạng giải phóng
dân tộc là một dấu ấn nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời đại sâu sắc.
1. Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền độc lập là
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ
lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân
tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô
sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con
đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917), bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật”(2). Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng
vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không
chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một
chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30
của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi
theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Sau khi giành độc lập, phải tiến lên
xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng
XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức
cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn
tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu
và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian
khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con
người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập
dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới
CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc thể
hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên
CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây dựng
CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc
và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách
mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.Lênin về cách mạng
không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN, giữa hai giai
đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý
luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt
Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945). Trong Tuyên ngôn độc lập
đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên
bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập”(4). Với Tuyên ngôn độc lập,  Hồ Chí Minh đã tuyên bố với
toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và
quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của
chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở
ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có
gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến
lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu
tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con
người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là
một trong những tư tưởng lớn của thời đại.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ
Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có
vững cách mệnh mới thành công...”(5). Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên
tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây
dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ chức vận
động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm
vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và
hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp”(6). Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại
hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn
hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(7). Năm 1961, khi nhân
dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần
nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc,
không thiên tư, thiên vị”(8).
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác - Lênin; có
bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức
trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực
tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải xây dựng được một
Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân thành, đoàn kết;
trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt, con Lạc cháu
Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới
đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân
loại tiến bộ là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn
và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi
luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng
xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy
của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt Nam không có một lực
lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ,
kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử
thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”(9).
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ
sở liên minh công nông
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”... Trong đó, “thực hiện
cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi
của cách mạng”(10).
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho
rằng, nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ
luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải
phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một lực lượng rất to lớn của
dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến
kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng
của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn
yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động
lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách
mạng.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh luôn
khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh
đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống
nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân
Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia
vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân
tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có
thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng
một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang;
thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định
phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng
con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu
tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi hoàn toàn.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân
nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”(11),“lũ giặc cướp
nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung
ác”(12). Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy,
để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo
vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”(13).
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu
chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối
truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu
tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực
cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân,
cứu nước”(14). Theo Người, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với
độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó
không được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách
mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng của Người.
Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa
vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với
Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục
tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị giành
chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong
nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân”. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”(15),
“tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên
tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân,
phương thức hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Đảng đã
chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động
khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp
đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng... Với
sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945,
khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa
tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kế thừa và
phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung
lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng
nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội để đánh bại các chiến lược
quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ
của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết
định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2. Giá trị thời đại
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản
ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của
không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp
bức, bóc lột trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”(16). Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn
bất cứ yêu cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ
của con người.
Điều đặc biệt cần lưu ý, sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ
sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là
người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá
trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu
ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi
đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo
của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến
trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng
sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống
chiến tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và
chiến tranh giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho
kho tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
như truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang
tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ, nó đã tác động sâu sắc đến phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc,
thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở
châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành
độc lập dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên trì
mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi
sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề
quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững
phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính
xác đặc điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy,
chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống
để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều
kiện quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại
và tương lai.

You might also like