Professional Documents
Culture Documents
Cương Lĩnh 1991 Cương Lĩnh 2011
Cương Lĩnh 1991 Cương Lĩnh 2011
Toàn cầu hoá là quá trình phát triển kinh tế, theo xu thế phát triển hiện đại, kèm theo những
khuynh hướng tiên tiến, khi đó quá trình toàn cầu hoá được xem như một quá trình tăng lên
mạnh mẽ của các mối liên hệ, và có sự phụ thuộc, ảnh hưởng qua lại giữa các khu vực, quốc gia
và các dân tộc trên thế giới.
- Thuận lợi : Tham gia toàn cầu hoá chúng ta sẽ tranh thủ: vốn, công nghệ, thị trường, kinh
nghiệm quản lý. Đồng thời phát huy lợi thế của ta, thế mạnh của ta.
- Khó khăn: Toàn cầu hoá hiện nay do các nước tư bản chi phối – đây là cuộc chơi không cân
sức giữa các nước giàu và các nước nghèo, các nước giàu tìm cách ép các nước nghèo.
Bên cạnh những xơ hội, toàn cầu hóa tạo ra cho Việt Nam những thách thức to lớn, như nguy cơ
tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp và thiếu việc làm, sự phân hóa giàu ngheo, tệ nạn xã hội, sự lo
ngại về mất bản sắc, sự đồng hóa văn hóa..Vì vậy, Việt Nam phải chủ động tích cực hội nhập
quốc tế
Ngoài những cơ hội, toàn cầu hoá tạo ra cho Việt Nam những thách thức to lớn về kinh tế, văn
hóa -xã hội:
- Thách thức về thất nghiệp và việc làm : Trong những năm tới, quá trình hội nhập sẽ đòi
hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam không
được đào tạo và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lí thì tình trạng thất nghiệp không những
không giảm mà còn có nguy cơ tăng cao. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo
- Thách thức về văn hóa.Thực ra, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay, sự lo ngại về
khả năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo chung của các nước đang phát triển.Cùng
với toàn cầu hoá, nhiều học giả đã chỉ ra xu hướng đồng nhất tất cả các nền văn hoá. Tất cả các
nước phát triển đang muốn áp đặt các giá trị văn hoá của mình cho toàn thế giới. Thông qua quá
trình toàn cầu hoá, các nước phát triển phương Tây muốn bắt phần còn lại của thế giới không chỉ
khuất phục về kinh tế, chính trị và quân sự, mà còn muốn hạn chế tối đa nét đặc thù của văn hoá
phi phương Tây, bởi theo họ, các nền văn hoá này không phù hợp, thậm chí còn xung đột với
văn hoá và văn minh phương TâY
- Thách thức về xã hội : những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang mang lại
những thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con người ở tất cả các quốc gia
dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế, v.v. đang là
những vấn đề làm đau đầu các quốc gia dân tộc. Nói tóm lại, chính toàn cầu hoá đang làm cho
những vấn đề toàn cầu của thời đại tác động mạnh mẽ và nhanh chóng đến các quốc gia dân tộc.
Ngày nay, không một quốc gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền một cách nhanh
chóng và rộng rãi của các bệnh dịch, như SARS, cúm gà, v.v.; của các nạn khủng bố, tội phạm
quốc tế, v.v..
7. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã
hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động .
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình
lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao
động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Lực lượng lao động còn gọi là dân số hoạt động kinh tế, bao gồm tất cả những người từ 15 tuổi
trở lên có việc làm và những người thất nghiệp trong thời gian quan sát.
Lực lượng lao động bao gồm:
- Người có việc làm
Người có việc làm là những người đã làm việc trong thời gian quan sát và những người trước đó
có việc làm nhưng hiện đang nghỉ tạm thời vì các lí do như ốm đau, đình công, nghỉ hè, nghỉ lễ,
trong thời gian sắp xếp lại sản xuất, do thời tiết xấu, máy móc bị hư hỏng...
Thất nghiệp là những người, trong thời gian quan sát, tuy không làm việc nhưng đang tìm kiếm
việc làm hoặc sẵn sàng làm việc để tạo ra thu nhập bằng tiền hay hiện vật, gồm cả những người
chưa bao giờ làm việc.
Thất nghiệp còn bao gồm cả những người, trong thời gian quan sát, không có hoạt động tìm kiếm
việc làm vì họ đã được bố trí một việc làm mới sau thời gian quan sát, những người đã bị buộc
thôi việc không lương có hoặc không có thời hạn, hoặc những người không tích cực tìm kiếm
việc làm vì họ tin rằng không thể tìm được việc làm.
8. Các vấn đề xã hội
Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người
đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định được nhận thức
như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng. Đó là sản phẩm của con
người có ảnh hưởng đến một nhóm người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông qua
hành động xã hội.
* An sinh xã hội
An sinh xã hội (ASXH) là hệ thống chính sách, các chương trình của Nhà nước và của các tổ
chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp đỡ toàn xã hội, các cá nhân gặp phải rủi ro hoặc biến cố xã hội
để đảm bảo mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ.
ASXH là một trong những lĩnh vực có đối tượng thụ hưởng rất lớn liên quan đến quyền được
đảm bảo ASXH của công dân. Do vậy, ASXH góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các
công dân trong xã hội khi họ không may gặp phải những “rủi ro xã hội” hoặc các “biến cố xã
hội” dẫn đến ngừng hoặc giảm thu nhập. Phương thức hoạt động của ASXH là thông qua các
biện pháp công cộng tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội hướng tới sự hưng thịnh
và hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội.
- Các trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội
Hệ thống ASXH ở Việt Nam hiện được cấu trúc bởi năm trụ cột, đó là:
+ Việc làm, thu nhập và giảm nghèo;
+ Bảo hiểm xã hội;
+ Trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
+ Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông
tin) và
+ Hệ thống cung cấp dịch vụ công về ASXH thông qua công tác xã hội chuyên nghiệp.
9. Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền trước tiên phải là nhà nước theo đúng nghĩa của từ này - tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền không
phải là một kiểu nhà nước tưong ứng với một hình thái kinh tế - xã hội theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước có cách thức tổ chức và hoạt động
hoàn toàn khác các nhà nước độc tài, chuyên chế, nhà nước cai trị. Nhà nước pháp quyền được tổ
chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đó là hệ thống pháp luật dân chủ, phản ánh công
lí, phù hợp với quyền tự nhiên của con người. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở chủ quyền nhân dân, có cơ chế phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, tự do cá nhân. Nhà nước pháp quyền là công cụ để phục vụ xã
hội, phục vụ con người, mang lại lợi ích cho công dân, bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội.
Nhà nước cũng như các chủ thể khác trong xã hội đều luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một
cách nghiêm chỉnh.
Tóm lại, có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời
sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dần chủ,
công bằng và các nguyên tắc chủ quyên nhân dãn, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước
nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân, công bằng, bình đắng trong xã hội.
a) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước:
● Của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
● Được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và yêu cầu thượng tôn pháp luật trong đời
sống nhà nước và xã hội.
● Quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện
3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và nguyên tắc tập trung dân chủ.
● Là nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, tất cả vì hành
phúc của con người.
● Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
● Thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng và phát triển với nhân
dân các dân tộc và các nước trên thế giới, đồng thời tôn trọng các công ước, điều ước quốc tế
đã tham gia ký kết, phê chuẩn.
b) Nhà nước pháp quyền dân chủ tư sản
- Thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân, tất cả quyền lực
nhà nước xuất phát từ nhân dân;
- Cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên;
thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiểm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp;
- Thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống: hình thức chính thể
phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hoà (cộng hoà tổng thống, cộng hoà nghị viện, cộng hoà
lưỡng tính) và quân chủ lập hiến (quân chủ nghị viện).