Đại Cương Lịch Sử Triết Hoc Phương Tây

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 66

ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ

TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

1
Chương 1
TRIẾT HỌC HY- LA CỔ ĐẠI
I/ Khái quát tình hình xã hội Hy - La cổ đại.
Vào thế kỷ IX - VII trước công nguyên nền sản xuất chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp
cực kỳ phát triển. Đây là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ
sắt. Với việc xuất hiện các quan hệ tiền - hàng đã làm cho thương mại và trao đổi hàng
hóa được tăng cường. Người Hy Lạp đã đóng được thuyền lớn cho phép họ vượt biển
Địa Trung Hải tiến đến những miền đất mới. Lãnh thổ và thuộc địa của Hy Lạp được
mở rộng tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa giữa các dân tộc.
Đồng thời với sự phát triển của sản xuất xã hội thời kỳ này Hy Lạp đã xuất hiện
tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu về của cải, quan hệ sản xuất và tổ chức xã
hội cũ bị đảo lộn. Điều đó buộc mỗi người cần ý thức và suy nghĩ tìm ra một lập
trường sống phù hợp với hoàn cảnh mới. Triết học ra đời ở đây là đáp ứng đòi hỏi ấy
và giúp con người không chỉ tuân theo những quan niệm cũ mà cần phê phán những
giá trị, chuẩn mực xã hội cu, đồng thời xây dựng một thế giới quan mới.
Thời kỳ này phân công lao động phát triển cho phép trong xã hội xuất hiện
những người chuyên lao động trí óc. Điều đó tạo điều kiện nảy sinh các tư tưởng triết
học. Ngay từ khi mới ra đời, các tư tưởng triết học đã mang tính giai cấp sâu sắc - là
thế giới quan của giai cấp chủ nô, các tri thức triết học dần dần trở thành các tư tưởng
thống trị trong xã hội nô lệ.
Thời kỳ này đã xuất hiện các tri thức khoa học sơ khai như phát hiện ra lịch 1
năm 12 tháng với 365 ngày của Talet, những phát kiến về toán học của Talet và
Pitago, hình học Ơclít, vật lý học của Acsimét... đã tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự
hình thành triết học. Những khám phá khoa học đầu tiên này của người cổ đại đã cho
thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan tôn giáo, thần thoại, đòi
hỏi con người phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình.
Dĩ nhiên, sẽ rất sai lầm khi cho rằng triết học xuất hiện từ bản thân thần thoại
bằng con đường phát triển nội tại của nó - Trên thực tế, triết học Hy - La ra đời trên
nền tảng thần thoại và tôn giáo nguyên thủy nhưng khác với chúng, triết học là một
dạng thế giới quan hoàn toàn mới dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc,. Những kết luận và tri
thức triết học mang tính lý luận khái quát cao được nảy sinh đã đẩy các dạng thế giới
quan trước chúng vào lĩnh vực hoạt động nghệ thuật hay sáng tác dân gian.
Dù vậy, triết học không đồng nhất với thế giới quan của con người nói chung.
Mặc dù cũng đề cập nhiều đến các vấn đề về bản chất của thế giới, cuộc sống của con
người... nhưng trong thần thoại chưa có sự phân định rõ ràng thế giới với con người, tư
tưởng với cảm xúc, tri thức với hình tượng nghệ thuật. Tôn giáo và triết học có những
điểm tương đồng với tính cách là hình thái ý thức xã hội, nhưng sự khác nhau cũng rất
lớn. Các quan niệm triết học là sản phẩm tự do suy nghĩ của các nhà triết học. Còn tri
thức tôn giáo, thần học thì ngược lại. Vì thế ở Hy - La cổ đại, không phải thần thoại
hay tôn giáo, mà chỉ triết học là “tình yêu đối với sự thông thái” và chính nhà triết học
mới được coi là nhà thông thái.

2
II/ Đặc điểm của triết học cổ Hy - La.
1 - Nó là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội
Hy - La cổ đại. Là một công cụ lý luận nhằm duy trì trật tự xã hội theo kiểu chiếm hữu
nô lệ, bảo vệ sự thống trị của giai cấp chủ nô. Hầu hết các nhà triết học thời kỳ này
coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là công cụ biết nói.
2 - Mặc dù triết học thời kỳ này không đồng nhất với thế giới quan, nhưng nó đề
cập đến những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người như : Tồn tại là gì ? Nguồn
gốc và bản chất của thế giới ra sao ? Cuộc đời và số phận của con người như thế nào ?
...Việc lý giải các vấn đề mang tính bao quát được coi là nhiệm vụ cơ bản của triết học.
Dù sao ở thời kỳ này triết học mang nặng tính tư biện. Chuẩn mực của “sự thông thái”
chủ yếu được bàn là ở khía cạnh nhận thức.
3 - Coi vấn đề con người là trọng tâm. Dù có nhiều bất đồng, nhưng các nhà triết
học đều khẳng định con người là tinh hoa quý nhất của tạo hóa. Từ đây, những vấn đề
thiết thực của cuộc sống con người trở thành một trong những đề tài chính của triết
học. Tuy nhiên, con người theo họ là con người cá thể. Giá trị con người chủ yếu là
đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận. Hoạt động thực tiễn của con người hầu như không
được bàn đến.
4 - Mang tính biện chứng sơ khai, và tính duy vật tự phát . Các nhà triết học thời
kỳ này luôn cố gắng giải thích thế giới như một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự
vật hiện tượng vận động và biến đổi không ngừng. “ Trong cùng một thời điểm sự vật
vừa là nó, vừa không phải là nó. Không thể tắm hai lần trong một dòng sông”. Đồng
thời hầu hết họ quy bản nguyên thế giới là một hoặc một số các vật thể cụ thể.
III/ Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xung
quanh vấn đề cơ bản của triết học.
Nội dung cơ bản của sự phát triển triết học ở Hy - La cổ đại là cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phản ánh cuộc đấu tranh giữa tầng lớp
chủ nô dân chủ tiến bộ trong những điều kiện lịch sử thời đó và tầng lớp chủ nô quý
tộc.
Những nhà triết học duy vật tiêu biểu ở thời này là Anaxago, Ampêđôcơlơ,
Đêmôcrit, Êpiquya ... quan điểm triết học và tư tưởng chính trị của họ là cơ sở lý luận
cho sự hoạt động tiến bộ của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô.
Những đại biểu tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời này là Xôcrát, Platôn ...
quan điểm triết học của họ thù địch với tiến bộ xã hội và khoa học. Triết học và quan
điểm chính trị của họ làm cơ sở lý luận cho hoạt động tầng lớp chủ nô quý tộc.
Những nhà triết học duy vật đồng thời là những người vô thần bảo vệ những
quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến, đề ra hàng loạt các ý niệm khoa học, trong đó
có học thuyết cấu tạo nguyên tử của vật chất, phê phán những tư tưởng thần học. Trái
lại, các nhà triêt học duy tâm, bằng cách này hay cách khác chống những quan điểm
khoa học tự nhiên tiên tiến, căm thù chủ nghĩa vô thần, bảo vệ mê tín.
Mặc dù xuất hiện trong điều kiện các tri thức khoa học sơ khai triết học Hy La
cổ đại đã đề cập tới những vấn đề cơ bản của thế giới quan dù chỉ ở trạng thái mầm
mống. Trong những hình thái muôn vẻ của tư tưởng triết học Hy La cổ đại đã có mầm
mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này. Nói chung duy vật thời này mang tính
3
tự phát, và biện chứng sơ khai. Dù sao họ cũng đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại
khách quan không do thần thánh hoặc một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Thế giới
vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên như nước, lửa,
không khí, nguyên tử. Quan niệm duy vật thô sơ này đã có tác động lớn trong việc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thần học cổ đại.
Thời này chủ nghĩa duy tâm cũng có nhiều trào lưu khác nhau : Duy tâm khách
quan (trường phái Platôn); duy tâm chủ quan (trường phái Pitago); chủ nghĩa hoài nghi
(trường phái Acađêmi); chủ nghĩa bất khả tri (Pirông). Họ luôn gắn với tín ngưỡng tôn
giáo, và thường được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình.
IV/ Những trường phái và một số triết gia tiêu biểu.
1 - Chủ nghĩa duy vật đầu tiên ở Hy - La cổ đại.
Mặc dù còn mộc mạc, ngây thơ nhưng trường phái Milê là trường phái triết học
duy vật. Cái mà họ quan tâm và cố gắng là tìm ra một bản nguyên vật chất để giải
thích thế giới như một chỉnh thể thống nhất của các sự vật muôn màu, muôn vẻ. Bản
nguyên thế giới ở Talét là nước, ở Anaxmăng là Apâyrôn (hỗn hợp của đất, nước, lửa,
không khí), ở Anaximen là không khí. Dù vậy quan điểm triết học và tư tưởng chính
trị của họ có ý nghĩa vô thần chống lại thế giới quan tôn giáo đương thời và chứa đựng
những yếu tố biện chứng tự phát ngây thơ. Những quan niệm của họ đã đặt nền móng
cho sự phát triển của các tư tưởng duy vật trong triết học sau này. Talét (khoảng 624 -
547 TCN) xứng đáng được đời sau gọi là “nhà triết học đầu tiên”, “nhà toán học đầu
tiên”, “nhà thiên văn học đầu tiên”. Ở Anaximan (610 - 546 TCN) lần đầu tiên trong
lịch sử triết học, vật chất không bị đồng nhất với một vật thể cụ thể. Ở Anaximen (585
- 525 TCN) là những tiên đoán khá chính xác về thế giới như : Trái đất có hình thù
như cái trống và tự xoay quanh mình; Mưa đá là kết quả của sự đóng băng các tia
nước trên cao.
2 - Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng của Hêraclít.
Cái lớn nhất và nổi tiếng nhất của Hêraclít (520 - 460 TCN) là nhà triết học duy
vật với nhiều yếu tố biện chứng có giá trị, và là người sáng lập ra phép biện chứng cổ
đại.
Quan niệm về thế giới khác với các nhà triết học phái Milê, Hêraclít cho rằng :
lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi sự vật. Nếu như Talét coi nước là khởi nguyên
với tư cách như một thực thể sinh ra mọi vật, thì Hêraclít đã hiểu khởi nguyên theo
nghĩa cao hơn, coi lửa không chỉ là thực thể sản sinh ra mọi vật, mà còn là khởi tổ
thống trị toàn thế giới. Lửa không chỉ sản sinh ra các sự vật vật chất, mà cả những hiện
tượng tinh thần, kể cả linh hồn của con người. Ví toàn bộ vũ trụ tựa như ngọn lửa bất
diệt, Hêraclít đã tiếp cận được với quan niệm duy vật, nhấn mạnh tính vĩnh viễn và bất
diệt của thế giới.
Theo Hêraclít, dạng vật chất đầu tiên sinh ra các dạng vật chất khác là lửa - lửa
là bản nguyên vật chất đầu tiên của mọi dạng vật chất.
Phép biện chứng của Hêraclít chưa được trình bày như một hệ thống các luận
điểm khoa học, nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông
đề cập dưới dạng các danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Những tư tưởng biện
chứng cơ bản mà ông đã nêu ra là :
4
- Quan niệm về vận động của vật chất. Theo Hêraclít thì không có sự vật, hiện
tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, trái lại tất cả đều trong trạng thái biến đổi
và chuyển hóa không ngừng. Với ông “chúng ta không thể tắm 2 lần cùng một dòng
sông”, “ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới”.
- Ông đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự
vật, hiện tượng. Điều này thể hiện qua các phỏng đoán của ông về vai trò của những
mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về “ sự trao đổi của những mặt
đối lập”, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
- Theo Hêraclít, vận động và phát triển không ngừng của thế giới do quy luật
khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái
đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của
con người. Logos chủ quan phải phù hợp với Logos khách quan. Người nào càng tiếp
cận được với Logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
Ông cũng nêu ra những quan niệm đúng đắn về lý luận nhận thức. Nhận thức
thế giới là nhận thức logos của vũ trụ, tức là nhận thức tự nhiên và xã hội trong trạng
thái đấu tranh và hài hòa của những mâu thuẫn của chúng. Tri thức chân thực là tri
thức về logos, tức là quy luật của vũ trụ. Theo ông, nhận thức bắt đầu từ cảm giác,
không có cảm giác thì không có bất kỳ nhận thức nào. Ông nói “Mắt tai là người thầy
tốt nhất, nhưng mắt là nhân chứng chính xác hơn tai”. Coi trọng nhận thức cảm tính
nhưng ông không tuyệt đối hóa giai đoạn này. Ông viết “Thị giác thường bị lừa bởi vì
“tự nhiên thích giấu mình” nên khó nhận thức. Nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt tới
sự nhận thức logos của sự vật. Ông cũng nêu lên tính tương đối của nhận thức. Trong
hoàn cảnh và điều kiện mà thiện - ác, xấu - tốt, lợi - hại lại có thể chuyển hóa cho
nhau.
Với phép biện chứng tự phát, chất phác Hêraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại
tiến lên một bước phát triển mới. Học thuyết của ông sau này được nhiều nhà triết học
cận đại và hiện đại kế thừa.
3 - Phái Pitago.
Pitago (571 - 447 TCN) sáng lập trường phái triết học duy tâm. Trường phái
triết học của ông gắn liền với tôn giáo và ra sức bảo vệ thần học.
Về toán học và khoa học tự nhiên, ông có những đóng góp giá trị như các định
lý về tổng các góc trong của tam giác, tổng bình phương 2 cạnh góc vuông của tam
giác vuông. Phái này coi bản nguyên của thế giới là những con số. Mọi cái trên thế
giới đều chỉ là sự hiện thâncủa các con số. Theo Pitago thì 1 sinh điểm, 2 sinh đường,
3 sinh diện tích, bốn sinh thể tích.Phái Pitago đã thần thánh hóa những con số. Họ coi
số bốn là con số có tính chất thần thánh, số 10 là hoàn thiện nhất, là cơ sở tính toán
mọi vật, Họ không chỉ coi con số là khởi nguyên thế giới mà còn coi con số là nền
tảng, bản chất của các hiện tượng ý thức. Linh hồn con người cũng được cấu thành từ
con số. Con số tồn tại vĩnh viễn nên linh hồn con người là bất tử. Khi chết linh hồn sẽ
nhập vào cơ thể khác theo luật luân hồi.
Phái Pitago cũng có những quan niệm biện chứng về mối quan hệ giữa số chẵn,
số lẻ, số hữu hạn và vô hạn, thống nhất với nhiều vẻ; vận động và đứng im ,và họ đã
nêu ra 10 cặp đối lập cơ bản là: Giới hạn đối lập không giới hạn;chẵn đối lập lẻ;đơn
5
đối lập đa;phải đối lập trái;động đối lập tĩnh;sáng đối lập tối;thẳng đối lập cong;tốt đối
lập xấu; tứ giác đối lập đa giác.
Nhìn chung phái Pitago là phái triết học duy tâm chủ quan, bao chứa những yếu
tố tư duy khoa học, pha trộn với ảo tưởng tôn giáo thần bí.
4 - Trường phái Êlê.
Đây là trường phái triết học xuất hiện cuối thế kỷ VI và tồn tại đến giữa thế kỷ
thứ V (TCN) ở Êlê - một địa danh ở miền Nam La Mã cổ đại. Trường phái này đặc
biệt chú ý đến các vấn đề triết học theo nghĩa hẹp của danh từ này. Kể từ đây triết học
Hy - La cổ đại mang một dạng thế giới quan mới, khác về chất với thần thoại và tôn
giáo. Trường phái này gồm các nhà triết học tiêu biểu sau:
K. Xênôphan (570-478 TCN).
Ông là nhà thơ, nhà triết học, là người sáng lập trường phái Êlê. quan điểm triết
học của ông không viết bằng văn xuôi mà viết bằng thơ. Tác phẩm chủ yếu của ông là
“ Châm biếm.”
Theo ông, thế giới là một khối”duy nhất” bất sinh, bất diệt. Thế giới không do
thần thánh sinh ra. Ông là người đầu tiên cho rằng:không phải thần thánh tạo ra con
người mà chính con người tạo ra thần thánh. Tư tưởng của ông có nhiều yếu tố hợp lý
về bản chất tôn giáo và ảnh hưởng của các điều kiện xã hội, văn hóa tới tôn giáo:” nếu
như bò, ngựa, sư tử cũng có tay và nếu chúng cũng giống như người có thể dùng tay
để vẽ thì ngựa đã quan niệm thần như ngựa, bò đã hình dung đấng bất tử theo hình
ảnh bò ...”
Tuy quan niệm thần thánh không tạo ra con người và thế giới, nhưng ông lại
thần thánh hóa giới tự nhiên,coi giới tự nhiên là thánh và thánh gắn với tất cả. Không
do ai sinh ra và tồn tại vĩnh viễn - Thánh đặc trưng cho sự thống nhất tối cao của toàn
bộ thế giới.
Nói chung K.Xênôphan chưa duy vật triệt để, học thuyết về thánh của ông là
phiếm thần luận. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho chủ nghĩa vô
thần Hy Lạp cổ đại.
Parmenit (khoảng thế kỷ VI đến đầu thế kỷ V TCN).
Ông cũng trình bày quan điểm triết học của mình bằng thơ Tác phẩm chính của
ông là “Tồn tại”. Theo ông có hai cách nhìn thế giới :
- Cách nhìn cảm tính thì thấy được thế giới vô cùng phong phú, đa dạng, biến
đổi không ngừng, nhưng không thấy được bản chất đích thực của thế giới.
- Cách nhìn triết học phù hợp với trí tuệ lý tính, tức chân lý thì sẽ khám phá
được bản chất đích thực của thế giới.
Theo ông, bản chất của mọi vật là “tồn tại”. Bản chất của tồn tại là bất biến,
vĩnh viễn không mất đi, tồn tại có tính tự đồng nhất, chứa trong không gian và làm đầy
không gian, hữu hạn và có quãng tính. Không gian vì thế cũng có giới hạn và bất biến.
Tồn tại chỉ có thể nhận thức bởi tác dụng lý tính. Tư duy là tư duy về tồn tại. Tư duy
và tồn tại đồng nhất nhau.
Như vậy, triết học của ông có tiến bộ là không coi khởi nguyên thế giới là một
sự vật cụ thể như các nhà triết học trước đây mà là tồn tại một khái niệm triết học
mang tính khái quát cao. Nhưng hạn chế của ông là đã đồng nhất tồn tại với tư duy,
6
chưa phân biệt được tư tưởng về đối tượng với đối tượng của tư tưởng. Vì thế triết học
của ông gần với triết học duy tâm.
Zênôn (490 - 430 TCN).
Zênôn chứng minh rằng tồn tại là duy nhất bất biến, thuần khiết không bội đa,
đa dạng. Ông phủ nhận sự vận động của thế giới. Theo ông vận động là vô nghĩa, là
phi lý và thừa nhận vận động là sai lầm.
Ông muốn chứng minh rằng, không thể dùng trực quan của cảm tính để nhận
thức sự vật, mà phải dùng tư duy trừu tượng mới thấy được thực chất sự vật là gì.
Nhưng sai lầm của ông là đã tuyệt đối hóa gián đoạn của vận động, không thấy vận
động là quá trình thống nhất biện chứng giữa vận động và đứng im.
Ông không giải quyết được về lý luận các Aporia do ông đặt ra, nhưng ông đã
đặt ra nhiều vấn đề biện chứng sâu sắc về mối liên hệ giữa tính thống nhất và tính
nhiều vẻ của thế giới; giữa vận động và đứng im, giữa gián đoạn và liên tục, giữa hữu
hạn và vô hạn.
5 - Chủ nghĩa duy vật Hy - La thế kỷ V TCN.
Empêđôcơlơ (490 - 430 TCN).
Ông là một thiên tài về nhiều mặt, vừa là môt chính khách hoạt động tích cực
ủng hộ phái dân chủ chủ nô. Ông vừa là nhà thơ, nhà hùng biện, nhà triết học và là một
danh y.
Về triết học, ông cho rằng khởi nguyên thế giới là bốn yếu tố vật chất đất, nước,
lửa, không khí. Ông gọi là 4 căn nguyên của mọi sự vật, hiện tượng. Các căn nguyên
này tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Chính sự phối hợp hoặc phân ra của các căn nguyên
ấy mà làm cho các sự vật sinh ra hoặc mất đi.
Theo ông vận động có nguồn gốc từ sự tác động của 2 lực đối lập là tình yêu và
căm thù. Tình yêu làm các căn nguyên kết hợp lại, căm thù làm cho các căn nguyên
tách nhau ra.
Vũ trụ theo ông được hình thành qua 4 thời kỳ : Tình yêu thống trị làm cho vũ
trụ có hình cầu bất động, không chia nhỏ được; Căm thù xâm nhập làm tách các căn
nguyên; Căm thù thống trị, tình yêu bị loại khỏi vòng trung tâm; Hai lực cân bằng.
Nhân loại sống ở thời kỳ 2 lực cân bằng. Quan điểm duy vật ngây thơ của ông có ý
nghĩa chống hoang đường, tôn giáo về vũ trụ.
Ông cũng phỏng đoán thiên tài về sự tiến hóa của giới hữu cơ theo chu trình bốn
thời kỳ : Xuất hiện những sinh vật đơn giản; Xuất hiện những sinh vật có nhiều thành
phần, tạo nên loài; Sinh vật phát triển; Thực vật, động vật, con người xuất hiện bằng
cách tách rời nhau theo hướng nhân lên và các loài được phân biệt rõ. Ở đây, ông đã có
tư tưởng biện chứng về quá trình phát triển của sinh vật theo con đường từ thấp lên
cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Về nhận thức luận, ông đã thấy được sự gắn bó giữa nhận thức cảm tính và lý
tính, nhưng không phân biệt được sự khác nhau về nguyên tắc giữa hai loại nhận thức
đó. Ông cho tư duy và cảm giác là một, và máu là một giác quan có khả năng đặc biệt
về tri giác.
A naxago (500 - 428 TCN).

7
Ông là nhà triết học đầu tiên ở Aten, là người giải thích đúng đắn về hiện tượng
nhật thực, nguyệt thực.
Về triết học, ông cho cơ sở đầu tiên của mọi sự vật, hiện tượng là “những hạt
giống” những hạt ấy phân biệt với nhau ở chất lượng muôn màu muôn vẻ. Mỗi sự vật,
hiện tượng chỉ được sinh ra từ hạt giống của mình. Hạt giống nảy sinh những sự vật
đồng chất. Vật bị chia nhỏ đến vô cùng thì chất lượng vẫn không đổi. Ở đây, ông đã có
quan niệm đúng về tính vô cùng vô tận của vật chất.
Theo ông, sự biến hóa về chất giữa các sự vật là do sự thay đổi phần lớn trong
nó các hạt giống của sự vật. Dưới hình thức sơ khai, ông đã nêu lên tư tưởng biện
chứng về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật.
Hợp lý trong học thuyết của ông là ông đã tìm bản nguyên cấu tạo nên sự vật ở
chính sự vật theo phương diện độc đáo của mình. Những hạn chế là gần với quan điểm
siêu hình, không thấy được sự thay đổi dần dần về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất và giải thích nguồn gốc vận động là nhờ một lực bên ngoài sự vật hiện tượng.
6 - Thuyết nguyên tử của Lơxíp, Đêmôcrít và Epiquya.
Lơxíp (500 - 440 TCN).
Ông là người đầu tiên ở Hy Lạp cổ, nêu lên thuyết nguyên tử. Theo ông căn
nguyên thế giới là vô số nguyên tử. Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia
được, vô hạn về số lượng, vô hạn về hình thức, vô cùng nhỏ bé, không thẩm thấu,
không chất lượng. Nguyên tử khác nhau về kích thước và hình thức. Các nguyên tử
sắp xếp theo hình thức khác nhau tạo nên các sự vật, hiện tượng khác nhau.
Theo ông, cái không - tồn tại chính là chân không, nhờ nó mà các nguyên tử và
vật thể chuyển động. Vận động theo ông là sự di chuyển của các vật thể trong không
gian. Ông khẳng định “không một sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất cả đều
phát sinh trên một căn cứ nào đây, và do tính tất nhiên.” Ở đây ông đứng trên quan
điểm quyết đinh luận duy vật chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm.
Đêmôcrít (460 - 370)
Ông hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực : triết học, đạo đức học, tâm lý học,
toán học, sinh vật học, vật lý, mỹ học,ngôn ngữ, kỹ thuật, âm nhạc. Mác - Ăng ghen
coi ông là bộ óc bách khoa toàn thư đầu tiên trong số những người Hy Lạp.
Về triết học, ông coi nguyên tử là bản nguyên thế giới. Nguyên tử là hạt vật
chất cực nhỏ, không thấy được, không thể phân chia, không mùi, không vị, không âm,
không sắc, không khác nhau về chất chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Mỗi
nguyên tử có một hình thức nhất định, vô hạn về số lượng, vô hạn về hình thức. Sự vật
khác nhau là do nguyên tử cấu tạo được sắp xếp theo những hình thức khác nhau. Mọi
biến đổi của sự vật, thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của nguyên tử cấu tạo.
Nguyên tử là bất biến, và biến đổi không ngừng.
Ông phỏng đoán, vận động không tách rời vật chất. Hoạt động của nguyên tử là
vĩnh cửu. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã nêu ra khái niệm không gian.
Không gian là gián đoạn và có thể phân chia vô cùng tận.
Đặc điểm chủ nghĩa duy vật của ông là quyết định luận chống lại mục đích luận.
Ông thừa nhận tính nhân quả và tính tất yếu, tính quy luật trong giới tự nhiên.

8
Về nhận thức, ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật về đối tượng của nhận
thức. Vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của
tư duy trong nhận thức tự nhiên.
Triết học của ông là gắn với chủ nghĩa vô thần. Theo ông thần thánh chỉ là sự
nhân cách hóa những hiện tượng tự nhiên hoặc những thuộc tính của con người. Ông
bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát
triển tiếp theo của triết học duy vật.
Epiquya (341 - 270 TCN).
Triết học của ông gồm ba bộ phận Vật lý học, Lôgic học và Đạo đức học. Ông
kiên quyết bác bỏ thuyết duy tâm và lý luận thần học, bảo vệ chủ nghĩa duy vật và học
thuyết vô thần của Đêmôcrít.
Ông tiếp tục và phát triển thuyết nguyên tử của Đêmôcrít. Theo ông, nguyên tử
khác nhau về trọng lượng, do đó chúng chuyển động theo chiều thẳng đứng từ trên
xuống. Trong quá trình rơi các hạt va vào nhau, quyện vào nhau hoặc tách ra xa nhau.
Nguyên tử vận động theo quy luật nội tại của chúng nhưng bao hàm cả yếu tố ngẫu
nhiên do sự va chạm trên đường rơi. Mỗi sự vật không đơn thuần là tống số các
nguyên tử, mà là một chỉnh thể có những đặc tính nhất định.
Ông coi nhiệm vụ chủ yếu của triết học không chỉ giải thích thế giới mà lý giải
những vấn đề đạo đức được hiểu như là nền tảng hoạt động của con người hướng tới tự
do. Theo ông, cá nhân có trước và quyết định mọi mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội. Không phải con người phải sống vì Nhà nước, trái lại cộng đồng xã hội
chỉ là phương tiện nhằm bảo đảm cho cuộc sống mỗi cá nhân. Mục đích cuộc sống là
hạnh phúc. Khoái lạc là điểm xuất phát và kết thúc của hạnh phúc. Sự khoái lạc cao
nhất là sự bình tâm của tinh thần, thanh thản về tâm hồn. Điều đó có được khi con
người biết sống, hoạt động, biết khát vọng mọi cái một cách điều độ.
Nguyên tử luận và đạo đức học của ông có ảnh hưởng sâu rộng tới sự phát triển
tư tưởng triết học thời Hy Lạp hóa.
7 - Triết học duy tâm của Xôcrát và Platôn.
Xôcrát (469 - 399 TCN)
Vì hoạt động chống chế độ tự do dân chủ chủ nô Aten, chủ trương thay tôn giáo
đương thời bằng tôn giáo khác làm giảm hiệu lực nhà nước, làm hư hỏng thanh niên,
ông đã bị kết án tử hình năm 399 TCN.
Triết học của ông, phần lớn nghiên cứu về nhân bản, con người và đạo đức.
Theo ông, không cần nghiên cứu tự nhiên vì tự nhiên đã được thần thánh an bài cả rồi.
Thần thánh ở khắp mọi nơi, có sức mạnh kỳ diệu, sáng tạo ra thế giới, nhìn thấy, nghe
thấy tất cả nhưng không thích con người phát hiện ra mình. Ông là người đầu tiên cho
rằng triết học không có gì khác hơn là sự nhân thức của con người về chính bản thân
mình. Ông cũng là người đầu tiên nhấn mạnh vai trò đặc biệt của khái niệm trong nhận
thức. Ông cho rằng tri thức chung là chân lý khách quan thu được trong các cuộc đàm
thoại mà ai cũng phải thừa nhận. Ý kiến chủ quan của mỗi người không phải là tiêu
chuẩn chân lý, mỗi người không thể tự do, tùy tiện trong việc lựa chọn các ý kiến trái
ngược nhau về sự vật, mà phải dựa vào nền tảng chung khách quan đó. Theo ông,

9
khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự vật tức phải hiểu nó ở mức độ khái niệm
nếu không có khái niệm coi như không có tự nhiên.
Nhận thức luận của ông chủ yếu thể hiện qua đạo đức học. Đạo đức học của ông
mang tính chất duy lý. Ông cho rằng đạo đức con người và tri thức thống nhất làm
một, “mỗi điều thiện đó là tri thức, mỗi điều ác đó là dốt nát”. Con người biết thế nào
là tốt thì không bao giờ làm điều xấu.
Theo ông, để phát hiện ra cái thiện phổ biến - tiêu biểu đức hạnh - thì phải có
phương pháp với bốn giai đoạn sau : mỉa mai (những câu hỏi mẹo, mang tính chất
châm biếm, dí dỏm và mỉa mai); Đỡ đẻ (sau khi đã làm cho đối phương thấy cái sai thì
phải giúp đỡ họ tìm ra lối thoát đạt tới cái đúng từ bỏ cái sai); Quy nạp (từ những hành
vi đạo đức riêng lẻ, phân tích so sánh, khái quát thành cái thiện phổ biến của mọi hành
vi đạo đức, phân biệt nó với ác, với phi nghĩa); Xác định (làm cho người đối thoại
thấy cần phải làm thế nào cho đúng với cái thiện phổ biến). Theo ông, nếu không hiểu
cái chung, cái phổ biến thì người ta không thể nào phân biệt được cái chính nghĩa, cái
phi nghĩa, cái thiện, cái ác, cái tốt, cái xấu.
Sau khi ông qua đời, học trò của ông phân hóa thành nhiều trường phái khác
nhau như tranh luận ngụy biện với các đại biểu là Ơclít, Ôyuylít - phái Mêga và phái
Xôphixtơ; Thản nhiên, dửng dưng trước cái lạc thú với các đại biểu là Antiten,
Aiogien - phái Xinich; Hãy lăn mình vào khoái lạc vật chất mà đại biểu là Arxtip,
Têôdô - phái Xiren; Duy tâm khách quan với đại biểu là Platôn.
Pla tôn (427 - 347 TCN)
Ông tên thật là Aristôcle, vì có vóc người to lớn, vạm vỡ nên được gọi là Platôn.
Ông từng hoạt động chống phái dân chủ chủ nô bảo vệ phái chủ nô quý tộc. Ông đã bị
bắt và bị đem ra chợ nô lệ bán. Khi được giải thoát ông về Aten lập viện hàn lâm -
trường đại học đầu tiên ở châu Âu.
Triết học của ông là hệ thống triết học duy tâm khách quan. Ông là người đầu
tiên xây dựng hoàn chỉnh chủ nghĩa duy tâm khách quan đối lập với thế giới quan duy
vật. Ông đã tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là
chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật lúc ấy như Hêraclít và Đêmôcrít.
Theo ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ những thực thể tinh thần, vật thể cảm tính
chỉ là cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được tâm lý, người ta phải từ
bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; phải có “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã
quan sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí được xây dựng trên
cơ sở thừa nhận tính bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Phép biện chứng của Platôn là biện chứng duy tâm, đường lối của ông chống lại
đường lối của Đêmôcrít. Những hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan
hệ toán học. Đạo đức học được ông xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử.
Kẻ thù của chế độ dân chủ Aten, ông coi “chế độ quý tộc” - Nhà nước của tầng
lớp chủ nô thượng lưu - là nhà nước lý tưởng.
Học thuyết triết học của ông dựa trên ba tiền đề lý luận sau : lý luận về cái phổ
biến của Xôcrát; lý luận về tồn tại duy nhất bất biến của trường phái Elê, lý luận về
con số, coi như bản chất chân thực của phái Pitago ông đã chia thế giới làm hai loại :
Thế giới ý niệm tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối là cơ sở tồn tại của thế
10
giới sự vật cảm tính. Thế giới sự vật cảm tính tồn tại không chân thực, luôn biến đổi và
phụ thuộc và thế giới ý niệm, là cái bóng của ý niệm, do các ý niệm sinh ra. Như vậy,
theo Platôn, ý niệm là cái có trước, là cái nguyên mẫu và là bản chất của mọi sự vật,
còn mọi sự vật đều là cái có sau, là sự mô phỏng, là bản sao của các ý niệm; bất kỳ sự
vật nào cũng đều xuất hiện trong mối liên hệ với các ý niệm. Y niệm là các khái niệm,
tri thức được khách quan hóa, chúng không được sinh ra, mất đi từ cái gì đó, mà tồn tại
mãi mãi như thế từ xưa đến nay.
Tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan trong quan niệm về thế giới, coi
sự vật chỉ là cái bóng của ý niệm. nhưng lịch sử ghi nhận triết học của ông đóng vai trò
quan trọng trong việc nghiên cứu bản chất của khái niệm cũng như trong việc phát
triển tư duy lý luận, thực hiệh một bước tiến trong việc chuyển triết học từ tư duy ẩn
dụ tới tư duy khai niệm, tức là giải thích thế giới, giải thích một hiện tượng phải tìm
hiểu nó ở mức độ khái niệm, mức độ tư duy lý luận.
8/ Triết học Arixtốt
Arixtốt (384-322TCN) là đại biểu cho trí tuệ bách khoa của Hy Lạp cổ đại. Ăng
Ghen coi ông là khối óc bách khoa nhất trong số những nhà triết học Hy Lạp cổ đại.
Ông vùa nghiên cứu triết học, lôgic học, tâm lý học, khoa học tự nhiên, sử học, chính
trị học, đạo đức học vừa nghiên cứu mỹ học ...
Sự phê phán của ông đối với Platôn là một đóng góp quan trọng trong lịch sử
triết học. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, giới tự nhiên là
toàn bộ những sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động, biến đổi. Theo ông,
muốn giải thích thế giới vận động thì không cần đến những ý niệm của Platôn.
Tuy vậy, học thuyết của ông chưa vượt qua được những quan điểm thần học và
mục đích luận, và do vậy mà mâu thuẫn với tất cả nhữnh cái tiến bộ trong “ khoa học
bách khoa “ của ông . Suy cho cùng chúng gần với đường lối Pla tôn và bộc lộ chủ
nghĩa duy tâm của Aritxtôt.
Ở Aritxtốt, chủ nghĩa duy tâm không là một hệ thống mà chỉ là một số quan
niệm duy tâm tự mâu thuẫn với xu hướng duy vật trong triết học tự nhiên và nhận thức
luận của ông.
Nhận thức luận của ông có vai trò to lớn trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
Bác bỏ thế giới ý niệm của Platôn, ông thừa nhận thế giớ vật chất là đối tượng thực tế
của nhận thức, là nguồn gốc của cảm giác.
Cảm giác luận và kinh nghiệm luận duy vật trong lý luận về nhận thức của ông
đối lập với thuyết”hồi tưởng” của Platôn. Nếu Platôn coi nguồn gốc đuy nhất của hiểu
biết là do linh hồn bất tử nhớ lại thế giới “ý niệm “, thì Aritxtôt cho rằng ai không cảm
giác là không nhận thức và không hiểu biết gì cả. Ở đây ông là nhà cảm giác luận duy
vật.
Phép biện chứng của ông thể hiện rõ trong cách giải thích cái chung và cái riêng.
Nếu Platôn coi “ý niệm” với tính cách là cái chung hoàn toàn tách rời khỏi sự vật với
tính cách là cái riêng, thì Arixtốt lại đặt cái chung trong sự thống nhất với cái riêng.
Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho lôgic học - khoa học về những quy luật
và những hình thức của tư duy. Theo ông, lôgic học là lý luận về chứng minh theo hai
hướng : Luận đoán cái chung từ cái riêng (quy nạp) và luận đoán cái riêng từ cái chung
11
(diễn dịch). Lôgic học của ông còn nêu ra những nguyên tắc của tư duy lôgíc (đồng
nhất; không thừa nhận mâu thuẫn; loại trừ cái thứ 3, trong đó nguyên tắc không thừa
nhận có mâu thuẫn là nguyên tắc tối cao của tư duy), và nguyên tắc chứng minh lập
luận 3 đoạn.
Do hạn chế lịch sử và là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về
triết học, ông trù trừ giữa duy vật và duy tâm (nhị nguyên luận); về chính trị ông bảo
vệ lợi ích của tầng lớp trung lưu trong giai cấp chủ nô, khinh miệt nô lệ.
9 - Kết luận về triết học Hy - La cổ đại.
Lịch sử triết học Hy - La cổ đại là lịch sử hình thành và phát triển thế giới quan
duy vật mộc mạc, thế giới quan duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật Hy - La cổ là tính mộc mạc, thô sơ. Nó khẳng định thế giới
vật chất tồn tại khách quan không do thần thánh hoặc lực lượng siêu nhiên nào tạo nên.
Thế giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên như
nước, lửa, không khí, nguyên tử ...Song vì trình độ còn thấp của khoa học nên các
nhà duy vật đồng thời chỉ có thể quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và phỏng
đoán để rút ra những kết luận triết học. Tuy vậy quan niệm duy vật thô sơ này đã có
tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống tôn giáo và
chống thần học cổ đại.
Nhiều nhà triết học thời này đã nhận thức được và phát hiện ra nhiều yếu tố của
phép biện chứng như mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, sự vận động vĩnh viễn
của vật chất, tính thống nhất của các mặt đối lập của sự vật. Những yếu tố biện chứng
đó chính là những phỏng đoán thiên tài chưa được chứng minh một cách khoa học và
cũng chưa được nghiên cứu một cách tự giác, vì thế nó mới dừng ở mức tự phát, ngây
thơ.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện với nhiều trào lưu khác nhau như khách quan,
chủ quan, hoài nghi, bất khả tri. Nhìn chung họ luôn gắn chặt với tín ngưỡng tôn giáo
và thường được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình.
Câu hỏi ôn tập
1 - Hoàn cảnh kinh tế xã hội thời Hy - La cổ đại đã ảnh hưởng đến sự phát triển
của triết học Hy - La cổ đại như thế nào ?
2 - Phân tích triết học duy vật và những giá trị tư tưởng của phép biện chứng của
Hêraclit ?
3 - Giá trị duy vật trong triết học của Đêmôcrít ?
4 - Nhận định về giá trị và hạn chế trong học thuyết ý niệm của Platôn?
5 - Lý luận nhận thức trong triết học của Arixtốt và giá trị lịch sử của nó
6 - Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xung quanh vấn
đề cơ bản của triết học trong triết học Hy - La cổ đại ?
7 - Những giá trị và những hạn chế của triết học Hy - La cổ đại ?
Chương 2
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ TRUNG CỔ
I/ Điều kiện và hoàn cảnh xã hội Tây Âu thế kỷ V - XV.
Triết học thời kỳ trung cổ (phong kiến) ở Tây Âu xuất hiện và phát triển bắt đầu
từ khoảng thế kỷ V đến thế kỷ XV với những đặc điểm kinh tế - xã hội nổi bật :
12
Vào thế kỷ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp
bên trong cùng với sự tiến công của những man tộc bên ngoài đã đưa tới sự sụp đổ của
đế quốc La Mã phương Tây. Sự kiện đó dẫn đến kết quả chấm dứt hình thái xã hội nô
lệ cổ đại và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời.
Trong xã hội phong kiến, nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp thống trị, sản phẩm
làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu các công xã, thái ấp của bọn địa chủ. Thái ấp là một
thế giới đóng kín. Quyền chiếm hữu ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác cũng như
quyền chiếm hữu sản phẩm làm ra không hoàn toàn thuộc về người sản xuất là nông
dân hay nông nô, mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Điều hành nền sản xuất xã
hội chủ yếu là những người tiểu nông lệ thuộc vào địa chủ phong kiến. Vì thế, ở những
thế kỷ đầu của thời phong kiến đã diễn ra sự suy đồi không chỉ về kinh tế mà về toàn
bộ đời sống xã hội.
Về mặt tinh thần, thời kỳ trung cổ ở Tây Âu lúc đầu Cơ đốc giáo và sau là Thiên
chúa giáo là hệ tư tưởng thống trị. Những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý
về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ trong mọi cuộc xét xử. Giáo hội là một tổ
chức tập quyền nghiêm khắc, do giáo hoàng La Mã cầm đầu, Giáo hội độc quyền trong
lĩnh vực văn hóa, nhà trường hoàn toàn nằm trong tay các thầy tu, triết học được đem
phục vụ cho tôn giáo và giáo hội. Có thể nói, tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của
mọi tư duy; thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị. Điều
đó đã giải thích vì sao giai cấp nông dân hết sức đông đảo, nhưng “tối tăm về trí tuệ”,
và bị tước hết mọi quyền hành.
Sau thời kỳ sụp đổ, xã hôi Tây Âu bước đầu đã có sự phát triển cả về văn hóa
vật chất và tinh thần, tuy còn chậm chạp. Những cuộc tấn công về thập tự quân đã giúp
cho phương Tây hiểu biết văn hóa phương Đông. Thiên văn học và toán học phát triển
khá mạnh vào thế kỷ XIII; cơ học, hóa học, vật lý học hình thành mà tiêu biểu là
Lêônarơ Phibômátchi, Anbécphôn Bônstét, RôgiêBêcơn.
Như vậy, sự thay thể chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ phong kiến, ở thời kỳ
đầu có sự thụt lùi so với thời kỳ cổ đại, nhưng xét trên phạm vi toàn thể, đã có những
tiến bộ lịch sử nhất định. Đó là thời kỳ mà trong những nỗi đau lớn đã sinh ra một nền
văn minh mới, chuẩn bị cho lịch sử tương lai của châu Âu, hình thành lực lượng cho
sự phục hưng mới về khoa học và văn hóa, tạo cơ sở cho sự ra đời những “bộ tộc hiện
đại”.
II/ Các trường phái và triết gia tiêu biểu.
1 - Các học thuyết triết học thời kỳ trung cổ từ thế kỷ II - IV.
Téctuliêng (160 - 230)
Ông là nhà triết học và thần học La Mã. Tư tưởng cơ bản trong lý thuyết của
Téctuliêng là hạ thấp trí tuệ, ca ngọi lòng tin mù quáng vào những điều phi lý. Ông
tuyên bố : “Tôi tin, bởi vì đó là phi lý”. Là một cha cố, ông đã hết lời ca ngợi đạo Cơ
đốc và cho tôn giáo bao hàm trong nó hết thảy mọi giá trị. Niềm tin tôn giáo là không
thể chứng minh bằng trí tuệ triết học. Để phân biệt giữa trí tuệ và lòng tin tôn giáo,
Téctuliêng cho rằng, lý trí chỉ nhận thức được giới tự nhiên, còn niềm tin tôn giáo thì
vượt ra ngoài giới hạn đó, mục đích của nó là nhận thức Thượng đế. Thượng đế là
không thể nhìn thấy, mặc dù “Ngài” ở khắp mọi nơi, không thể cảm thấy, mặc dù bằng
13
sự ban thưởng của mình, Thượng đế đã hiện hình trong chúng ta : không thể hiểu
được, mặc dù lý trí của con người biết được về “Ngài”. Chính điều đó chứng minh sự
tồn tại và sự vĩ đại của Thượng đế. Tuy nhiên, Téctuliêng cũng chịu ảnh hưởng của tư
tưởng triết học cổ đại, đặc biệt là triết học của phái Xtôích. Ông thừa nhận rằng, chỉ có
vật thể tồn tại. Nhưng vì là nhà thần học, nên ông lại khẳng định Thượng đế là vật thể.
Ôguýtxtanh (354 - 430)
Ông sinh ở Taglít Bắc Phi, nay thuộc Angiêri, là giáo chủ, nhà văn, nhà triết
học, với các tác phẩm chủ yếu : “Sự thú tội”, “Về thành đô của Thượng đế”, “ Về
những tà đạo”, “Về sự bất tử của linh hồn ...”, “Chống các nhà hàn lâm viện”.
Tư tưởng cơ bản trong học thuyết của Ôguýtxtanh là : toàn bộ thế giới là do
Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi Thượng đế. Thượng đế là “bác sĩ của trái
tim mình”; Thượng đế có sức mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối. Ý chí con người
là tự do, nhưng chỉ trong giới hạn tiền định của Thượng đế; quá trình nhận thức của
con người là quá trình nhận thức Thượng đế ; Thượng đế là chân lý tối cao.
Theo Ôguýt xtanh, toàn bộ lịch sử là cuộc đấu tranh giữa những người theo thân
linh để củng cố “ thành phố thần thánh” và những người theo quỹ dữ để tổ chức ra
“thành phố trần gian”. Bởi vậy, cần phải có ưu thế của quyền lực tinh thần đối với
quyền lực thế tục, cần có uy quyền thế giới của giáo hội. Chỉ có ơn huệ tối cao của
“thần linh vạn năng”, mà đại biểu trên trái đất là giáo hội mới cứu vớt được đời sống
tương lai.
Ôguýtxtanh truyền bá tư tưởng cho rằng, đời sống trần gian là “tội lỗi” và tạm
thời, còn đời sống và hạnh phúc vĩnh hằng là ở thế giới bên kia; mỗi “con người là kẻ
bộ hành tạm thời trên trái đất”, là “cây nến trước gió lạnh”; giới tự nhiên vật chất là
đáng khinh bỉ; người ta càng chóng thoát khỏi xiềng xích của nó thì càng chóng đạt tới
“hạnh phúc”.
Tuy nhiên, trong quan niệm của của Ôguýtxtanh cũng bộc lộ những mâu thuẫn,
một mặt ông thừa nhận Thượng đế sáng tạo ra tất cả, mặt khác, khi quan sát giới tự
nhiên thấy vẻ đẹp của thân thể, sự rực rỡ của ánh sáng, sự dịu dàng của âm điệu, mùi
thơm của hoa lá, thì ông lại cho rằng nó không được đánh giá bởi Thượng đế - và ông
kết luận “không có Thượng đế trong các sự vật cảm biết . Ông cũng gặp phải mâu
thuẫn không giải quyết được từ lập trường tôn giáo và vấn đề tự do ý chí của conngười
: Nếu thừa nhận con người có tự do ý chí và hành động theo lý trí và tình cảm của
mình thì cũng có nghĩa là thừa nhận Thượng đế không thống trị con người. nguợc lại,
nếu thừa nhận con người không có tự do ý chí thì có nghĩa là con người là vô tội và
trong sạch. Vì vậy, ông đi đến kết luận rằng, ý chí conngười là tự do, nhưng chỉ trong
giới hạn tiền định của Thượng đế.
Lý luận nhận thức của Ôguýtxtanh gắn liền với thần học. Theo ông, quá trình
nhận thức của con người là quá trình nhận thức Thượng đế. Và nhận thức Thượng đế
chỉ đạt được bởi lòng tin tôn giáo. Ông nói, cần phải tin để mà hiểu và cần phải hiểu để
mà tin. Ông chia thành ba mức độ nhận thức về Thượng đế : 1) Thông qua cảm giác
bên ngoài, những cảm giác này nói chung không lừa dối; 2) nhận thức thông qua cảm
giác bên trong “bàn bạc” lại những cảm giác bên ngoài; 3) nhận thức lý trí, đánh giá
những phán đoán của cảm giác bên trong. Ông giải quyết vấn đề chân lý trên lập
14
trường thần học. Theo ông, để tìm chân lý, con người không cần đi khỏi tâm hồn mình,
trong tâm hồn con người đã chỉ ra chân lý tối cao và từ chân lý tối cao mà nẩy sinh ra
mọi chân lý. Thượng đế là chân lý tối cao.
2 - Chủ nghĩa kinh viện trung cổ Tây Âu.
a) Những đặc điểm chung
“Kinh viện” theo tiếng Latinh là trường học - Schola, nó chỉ bàn đến những vấn
đề viễn vông tách rời cuộc sống hiện thực. Về thực chất, chủ nghĩa kinh viện là nghệ
thuật tranh luận, lập luận không quan tâm đến nội dung của cuộc tranh cãi. Cái mà các
nhà kinh viện quan tâm là “định nghĩa”, “đối chiếu”,”phân mục”, v.v ... Họ tranh cãi
nhau rất lâu về những đề tài “Chuột có mắt hay không ?”, “hoa hồng trên Thượng giới
có gai không ?” v.v... Đầu tiên triết học kinh viện được giảng trong các trường trung
học, từ giữa thế kỷ XII được giảng trong các trường đại học.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa kinh viện có thể chia làm ba thời kỳ : thời kỳ
đầu (từ thế kỷ Ĩ đến thế kỷ XII), thời kỳ hưng thịnh (thế kỷ XIII), thời kỳ suy tàn (thế
kỷ XIV - XV).
Vấn đề mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo là vấn đề trung tâm chú ý
của các nhà kinh viện. Họ có niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu trong quan hệ với lý
trí. Xuất phát từ quan điểm đó, họ giải quyết các vấn đề triết học có liên quan, trong
đó, quan trọng nhất là vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Xung quánh vấn đề trên đã diễn ra cuộc đấu tranh kéo dài nhiều thế kỷ và quyết
liệt giữa “phái duy danh” với “phái duy thực” trong lịch sử của triết học trung cổ.
Phái duy thực khẳng định cái chung (khi ấy người ta gọi là phái phổ biến) hay
khái niệm chung là tồn tại thực, nó là một thực thể tinh thần nào đó có trước sự vật
đơn nhất. Phái duy thực lấy triết học Platôn làm nguồn gốc lý luận.
Phái duy danh nhấn mạnh rằng, chỉ có sự đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những
cái chung (cái phổ biến) chỉ là những tên gọi giản đơn mà người ta gán cho các hiện
tượng riêng lẻ. Không có con người hay cái nhà “nói chung”. Đó chỉ là những cái tên
để chỉ một tổng số tương đương, để chỉ những con người và những cái nhà đơn nhất.
Cuộc tranh cãi giữa phái duy danh và phái duy thực về căn bản là một vấn đề
nghiêm túc. Mặt triết học đằng sau cái vỏ thần học là sự vật tồn tại khách quan có thể
tri giác được bằng cảm giác có trước tư tưởng ( duy danh), hay ngược lại, tư tưởng có
trước sự vật (duy thực), sự nhận thức của con người vận động từ cảm giác đến khái
niệm dến sự vật. Thiên chúa giáo chính thống có xu hướng nghiêng về phái duy thực.
Còn phái duy danh có xu hướng duy vật.
b) Một số đại biểu của hai trào lưu duy danh và duy thực trong triết học kinh
viện.
Giangxicốt Ơ rigiennơ (810 - 877)
Ông là người Ai len là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời trung cổ.
Ông có học vấn uyên bác và là người theo chủ nghĩa duy thực triệt để. Tác phẩm nổi
tiếng của ông là “Về sự tiền đình của Thượng đế”, và “về sự phân chia giới tự nhiên”.
Triết học của ông là một hệ thống duy tâm tìm cách kết hợp chủ nghĩa Platôn với
Thiên chúa giáo. Ông nói : “Triết học chân chính và tôn giáo chân chính là một”.
Trung tâm chú ý trong học thuyết của ông là chứng minh cho sự tồn tại và vai trò tối
15
cao của Thượng đế đối với đời sống con người và giới tự nhiên, trong đó bao hàm
những nhân tố phiếm thần luận. Trong tác phẩm “ Về sự phân chia giới tự nhiên”, ông
chia sự phát triển của giới tự nhiên qua bốn giai đoạn : ở giai đoạn đầu, giới tự nhiên
biểu hiện như là một vật sáng tạo, là Thượng đế; ở giai đoạn thứ hai, giới tự nhiên biểu
hiện như là vật vừa sáng tạo, vừa được sáng tạo - đó là “con” của Thượng đế - kẻ trung
gian giữa Thượng đế và thế giới; ở giai đoạn thứ ba, giới tự nhiên biểu hiện như là vật
được sáng tạo - đó là thế giới các sự vật cụ thể, thế giới muôn loài trong đó có con
người; ở giai đoan thứ tư, giới tự nhiên biểu hiện là vật không phải sáng tạo, cũng
không được sáng tạo - đó cũng là Thượng đế, nhưng ở đây Thượng đế được xem như
mục đích của quá trình thế giới.
Mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí - một vấn đề trung tâm của triết học trung cổ.
Theo Ơrigiennơ, là hoàn toàn có thể dung hợp, phủ nhận lý trí đề cao tôn giáo, hoặc đề
cao tôn giáo phủ nhận lý trí đều là nguy hiểm cho nhà thờ.
Về nhận thức luận, Ơrigiennơ cho rằng , cái chung có trước cái riêng và là cơ sở
của cái riêng; và cái chung là cái bản chất của sự vật, vì các sự vật đều bắt nguồn từ cái
chung chứa đựng các sự vật bên trong.
Tất cả những điều đó làm cho phái tôn giáo chính thống nghi ngờ những tác
phẩm của ông, và cuối cùng những tác phẩm của ông bị chính thức kết án là “những tà
thuyết nguy hiểm”, cổ vũ “phái dị giáo” nên đã bị đốt.
Pie A bơ la (1079 - 1142)
Ông là người Pháp, theo chủ nghĩa duy danh, một giảng viên nổi tiếng ở các
trường đại học Pa - ri, thu hút được học sinh từ mọi nơi ở châu Âu.
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, Pi e Abơla đề cao vai
trò của lý trí : Lòng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Nguyên lý xuất phát của ông là “hiểu
để mà tin”, lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra toàn bộ nội dung của
chân lý tôn giáo và cho câu trả lời đúng đắn về một tín điều tôn giáo nào đó là xác
đáng hay không xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập luận
chân lý. Đo đó, theo ông, “sự linh cảm” không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của
các thành quả của lý trí, mà trái lại, lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm. Vì
vậy nhà thờ gọi ông là kẻ “ chống chúa Trời”.
Pie Abơla rất quan tâm nghiên cứu lôgic học. Lôgic học của ông dựa vào học
thuyết của Arixtốt. Ông khẳng định khái niệm chung không tồn tại bên ngoài sự vật cụ
thể, không có đời sống độc lập, nhưng nó không tồn tại trong bản thân các sự vật, và
cũng không có trong bản thân từ ngữ, mà nằm trong ý nghĩa của từ ngữ.
Trong chừng mực nhất định, tư tưởng của Pie Abơla báo trước sự xuất hiện một
khoa học thực nghiệm của giai đoạn mới, và phần nào xa lìa tín điều chính thống của
nhà thờ.
c) Một số đại biểu của chủ nghĩa kinh viện giai đoạn hưng thịnh.
Tô - mát Đa - canh (1225 - 1274)
Ông sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng. Ngoài ra ông
còn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Mười
tám cuốn sách trong tuyển tập của ông hợp lại như một bộ bách khoa toàn thư về hệ

16
thống tư tưởng thống trị thời trung cổ. Học thuyết của Tômát Đacanh được thừa nhận
là triết học duy nhất chân chính của giáo hội Thiên chúa.
Tômát Đacanh cho rằng, đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý
trí”, còn đối tượng của thần học là “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế là khách
thể cuối cùng của triết học và thần học. Cho nên giữa triết học và thần học không mâu
thuẫn, nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn “lý trí
của thần”.
Theo Tômát Đacanh, giới tự nhiên là do trời “ sáng tạo ra từ hư vô” và trật tự
của nó, sự phong phú và hoàn thiện của nó đều được quyết định bởi sự thông minh của
trời. Mọi cái trên thế giới đều sắp xếp theo các bậc thang tôn ti trật tự, bắt đầu các sự
vật không có linh hồn, tiến qua con người, tới các thiên thần, các thánh, và sau cùng
đến các bản thân chúa Trời. Mỗi bậc ở dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên; còn toàn bộ
hệ thống thì mong muốn tiến tới chúa Trời. Do đó, chúa Trời, Thượng đế là mục đích
tối cao, là “quy luật” vĩnh cửu đứng trên mọi cái, thống trị mọi cái, là hình thức thuần
túy tước bỏ vật chất, là nguyên nhân tác động cuối cùng của thế giới. Con người cũng
do chúa Trời tạo ra “theo hình dáng của mình”, sống trên trái đất - trung tâm của vũ
trụ. Mọi cái trong tự nhiên đều thích ứng với con người như thế nào là do chúa Trời
quy định : mặt trời cho con người ánh sáng và sưởi ấm, mưa rơi để làm cho đất đai của
con người có nước; còn động đất và bão lụt phá hoại là do chúa Trời trừng phạt tội lỗi
của con người. Theo Tômát Đacanh, đẳng cấp của mỗi người trong xã hội là do Trời
sắp đặt, nếu người nào vượt lên cao hơn đẳng cấp của mình là có tội lỗi. Chính quyền
nhà vua là do “ý của Trời”, thân xác con người phải phục tùng chính quyền nhà vua,
còn quyền lực tối cao bao trùm hết thảy, thì thuộc về Giáo hội.
Trong việc giải quyết vấn đề bản chất của cái chung. Tômát Đacanh đứng trên
lập trường duy thực ôn hòa, Ông cho rằng, cái chung tồn tại trên ba phương diện : 1)
nó tồn tại trước sự vật trong trí tuệ chúa Trời như là một mẫu mực lý tưởng của các sự
vật riêng lẻ; 2) cái chung được tìm thấy trong các sự vật, nó chỉ tồn tại khách quan khi
nó chứa đựng các sự vật riêng lẻ; 3) cái chung được tạo bằng con đường trừu tượng
hóa của trí tuệ con người từ các sự vật riêng lẻ.
Để chứng minh chúa Trời là động lực ban đầu, nguyên nhân ban đầu, cái tất
nhiên ban đầu, sự hoàn thiện tuyết đối và là nguyên nhân tạo ra sự hợp lý của giới tự
nhiên, Tômát Đacanh nêu ra những lý lẽ như sau : Thế giới không vận động vĩnh cửu,
cần phải có động lực ban đầu; nguyên nhân tác động không phải là vô tận, cần có
nguyên nhân đầu tiên; mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên, cần có cái tất nhiên tuyết
đối; sự hoàn thiện của các sự vật có các giai đoạn khác nhau, cần phải có một thực thể
hoàn thiện tuyệt đối; tính hợp lý của giới tự nhiên không thể giải thích bằng nguyên
nhân tự nhiên, cần phải tồn tại một thực thể lý trí siêu tự nhiên điều chỉnh thế giới.
Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh áp dụng học thuyết về “ hình dạng” của
Arixtốt. Theo ông, mọi nhận thức diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu ở khách thể những
gì giống với chủ thể, chứ không phải mọi tồn tại của khách thể đều được tiếp thu, đó là
hình ảnh của vật chất, chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia “hình dạng” thành
hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính , trong đó, hình dạng lý tính cao hơn hình
dạng cảm tính, nhờ nó mà ta mới biết được cái chung chứa đựng nhiều thực thể riêng
17
biệt. Còn hình dạng cảm tính cũng có vai trò quan trọng, nhờ nó mà cảm giác trở nên
cảm thụ tích cực. Lý luận nhận thức của Tômát Đacanh là một bước tiến trong triết
học kinh viện trung cổ, vì nó tiếp thu học thuyết của Arixtốt chứ không phải của
Platôn. Tuy nhiên nó chỉ khôi phục về hình thức học thuyết của Arixtốt, chứ nó không
lấy cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học thuyết của Arixtốt.
Đunxcốt (1265 - 1308)
Ông sinh ở Anh, nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII. Vấn đề mối quan hệ giữa
thần học và triết học là vấn đề chủ yếu mà ông quan tâm. Theo ông, đối tượng của thần
học nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học nghiên cứu hiện thực khách
quan - vật chất. Ở đây Đun Xcốt có ý tưởng cắt đứt mối liên hệ giữa triết học và thần
học, trong chừng mực nào đó muốn giải phóng triết học khỏi ách áp bức của Giáo hội.
Tuy nhiên, ông vẫn đề cao vai trò của lòng tin, nhưng không hạ thấp quá đáng vai trò
lý trí. Theo ông, Thượng đế là một tồn tại bất tận, có thể chứng minh được, nhưng dựa
vào lý trí để nhận thức Thượng đế thì bị hạn chế, mà chủ yếu phải bằng lòng tin; lý trí
chỉ nhận thức được ở tồn tại những gì mà nó không thể tách khỏi các tài liệu cảm tính.
Cho nên, con người không có được một khái niệm nào về bản chất phi vật chất như
chúa Trời, Thượng đế.
Là nhà duy danh luận, Đun Xcốt cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của
lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật; nó vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là
bản chất của chúng, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là những khái niệm được lý trí
con người trừu tượng hóa khỏi bản chất của sự vật.
Về nhận thức luận, Đun Xcốt cho rằng, tinh thần, ý chí là hình thức của thân thể
con người, gắn liền với thân thể con người đang sống và do Thượng đế ban cho từ khi
con người mới sinh ra. Trí thức được hình thành từ tinh thần và từ đối tượng nhận
thức. Tinh thần tuy có sức mạnh to lớn trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào
đối tượng nhận thức; cũng có cái ý chí “không ai biết được” tựa hồ như quyết định tính
chất hoạt động tinh thần của con người. Nhưng theo Đun Xcốt, chỉ có những sự vật
đơn nhất và cá biệt mới là thực tại cao nhất. Ông được coi là nhà duy danh nổi tiếng
nhất của chủ nghĩa kinh viện giai đoạn hưng thinh.
d) Một số đại biểu của chủ nghĩa kinh viện giai đoạn suy thoái và cuộc đấu
tranh chống triết học kinh viện ở thế kỷ XIII.
Với sự ra đời của khoa học thực nghiệm mà đại biểu là Rôgiê Bêcơn và sự phát
triển mạnh mẽ của chủ nghĩa duy danh, mà tiêu biểu là học thuyết Guyôm Ôccam đã
tạo điều kiện thuận lợi cho triết học và khoa học chuyển sang giai đoạn phát triển mới
và đưa chủ nghĩa kinh viện vào giai đoạn suy thoái.
Rô - giê Bê - cơn (khoảng 1214 - 1294)
Ông là người Anh - một nhà tư tưởng đi tiên phong trong khoa học thực nghiệm
của thời đại mới, một tu sỹ đã phải sống mười bốn năm trong các nhà giam của Giáo
hội.
Triết học của Rôgiê Bêcơn đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh
chống triết học kinh viện. Ông đã đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học
(siêu hình học). Theo ông, triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ

18
giữa các khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản;
và bản thân triết học được xây dựng trên thành quả của các khoa học đó.
Sức mạnh và bản chất của học thuyết R.Bêcơn chủ yếu là sự phê phán phương
pháp kinh viện chủ nghĩa. Ông khẳng định phải dựa vào kinh nghiệm “đạt tơi chỗ
nhận thức nguyên nhân của hiện tượng” để thay thế cho cái lối rỗng tuếch của hình
thức chủ nghĩa của phương pháp kinh viện.
R. Bêcơn cho rằng những nguyên nhân cản trở chân lý là : sự sùng bái trước cái
uy tín không có căn cứ và không xứng đáng; thói quen lâu đời đối với quan niệm đã
có; tính vô căn cứ của những phán đoán về số đông; sự che dấu những điều ngu dốt
của các nhà bác học dưới cái mặt nạ của sự thông thái hư ảo. Theo ông, nguồn gốc của
nhận thức là do uy tín, lý trí và kinh nghiệm, nhưng uy tín phải dựa vào sự chứng minh
bằng con đường kinh nghiệm và thực nghiệm. Ông rất coi trọng tri thức khoa học :
“Không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”. Ông coi kinh nghiệm là tiêu chuẩn
của chân lý, thước đo của lý luận. Đó là một tiến bộ của thời ông và có tác dụng chống
chủ nghĩa kinh viện.
Khác với chủ nghĩa kinh viện chính thống, chuyên nghiên cứu thần học,
R.Bêcơn chủ yếu hướng về vấn đề khoa học tự nhiên. Ông coi khoa học thực nghiệm
là chúa tể của khoa học. Kết quả nghiên cứu thiên văn học của ông đã vạch ra được
việc sửa đổi lịch nhưng mãi đến cuối thế kỷ XVI mới được thực hiện. Ông có nhiều
quan sát có giá trị về vật lý học và hóa học; viết về thuốc súng và sự áp dụng nó trong
quân sự; vạch ra tư tưởng về cấu tạo của kính, viễn kính và kính hiển vi. Ông mơ ước
đến những con thuyền không người chèo lái, những chiếc xe không cần xúc vật hay
người kéo chạy với tốc độ rất nhanh, những chiếc máy bay có cánh, giống cánh
chimv.v...
R. Bêcơn cũng có những tư tưởng chống Giáo hoàng, bóc trần những xấu xa của
tầng lơp thầy tu, nhưng không chống tôn giáo nói chung .Ông nói :“Những sự đồi trụy
nhất đã thống trị ở mọi nơi ..., ngôi thiêng đã trở thành chiến lợi phẩm của sự lừa dối”.
Ông lên án sự áp bức, bóc lột của phong kiến, bệnh vực quyền lợi của nhân dân. Ông
nói :”Bọn công tước, nam tước và bọn hiệp sỹ là những kẻ cướp bóc lẫn nhau, hủy
hoại thần dân của mình bằng những cuộc chiến tranh bất tận và thuế khóa nặng nề ...” .
Đó là những tư tưởng xã hội tiến bộ.
Triết học của R.Bêcơn bộc lộ những xu hướng duy vật, ông nắm bắt được những
biến đổi xã hội chỉ vừa mới bắt đầu xẩy ra và đi trước thời đại ông trong những ước
mơ và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn luôn bị nhà nước phong
kiến và Giáo hội truy nã, cầm tù.
R. Bêcơn có nhiều tư tưởng tiến bộ, nhưng không thể thoát khỏi thời đại mình -
thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ. Ông cũng tuyên bố sự phụ thuộc của triết
học vào lòng tin; ông nghiên cứu về “tính chất rõ ràng của tư tưởng” xuất phát từ mẫu
mực đầu tiên của Thượng đế, về “lý trí hoạt động tiên nghiệm”v.v...
Guy ôm Ôccam (khoảng 1300 - 1350)
Ông là người Anh, nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng của giai cấp phong kiến
thế tục trong cuộc đấu tranh chống giáo hoàng.

19
Ôccam đã làm sâu sắc thêm những quan điểm của Đunxcốt; ông chứng minh
chính quyền thế tục và thần quyền phải hoạt động tách rời nhau, chính quyền thế tục
không phụ thuộc vào thần quyền. Theo ông, thẩm quyền của thần quyền chỉ giới hạn ở
những vấn đề “cứu vớt linh hồn”; chức sắc giáo hoàng chỉ là một thể chế tạm thời,
không được coi đó là luôn luôn đúng đắn; vị lãnh tụ tối cao của đất nước là vương
quốc thế tục - người phải được phục tùng ở mọi nơi. Việc Ôccam phân chia ranh giới
giữa phạm vi ảnh hưởng của Giáo hội và của Nhà nước gắn với việc ông phân chia
ranh giới giữa lĩnh vực tri thức và lĩnh vực tín ngưỡng. Ông không thừa nhận thần học
là một lĩnh vực tri thức đặc biệt.
Ôccam là một nhà duy danh chủ nghĩa có khuynh hướng duy vật. Ông cho rằng
chỉ có sự vật riêng lẻ, đơn nhất là tồn tại thực tế, còn những “khái niệm phổ biến” (cái
chung) chỉ tìm thấy trong “tinh thần và từ ngữ”. Cái chung chỉ diễn đạt mô tả cái giống
nhau trong các đối tượng riêng lẻ mà thôi.
Nhận thức của con người, theo Ôccam không phải là nhận thức các sự vật vốn
có, mà là nhận thức những ký hiệu, nhận thức cái “thay mặt” sự vật. Ở đây, ông đã đưa
hoài nghi luận vào nhận thức luận. Ông chia nhận thức làm hai loại : nhận thức trực
giác (được hiểu là nhận thức kinh nghiệm) và nhận thức trừu tượng. Ông coi nhận thức
trực giác bao gồm cảm tính và sự tự quan sát cao hơn nhận thức trừu tượng. Và chỉ có
sự vật riêng lẻ là tồn tại thực, cho nên nhận thức thế giới khách quan được bắt đầu từ
kinh nghiệm thông qua cảm giác.
Chủ nghĩa duy danh Ôccam đã thúc đẩy sự tan rã của chủ nghĩa kinh viện và
dọn đường cho sự phát triển khoa học tự nhiên. Mặc dầu học thuyết của Ôccam bị
Giáo hội thống trị cấm đoán, nhưng ở trường đại học Pa - ri vào thế kỷ XIV - XV đã
thành lập một trường phái Ôccam, nghiên cứu toán học, cơ học, thiên văn học, giải
thích sự vận động của trái đất, và một số trong phái này đã khôi phục thuyết nguyên tử
cổ đại.
Chủ nghĩa kinh viện và triết học chính thống của xã hội phong kiến Tây Âu
trung cổ. Đặc điểm chủ yếu nhất của khuynh hướng triết học này là : phục tùng thần
học; theo chủ nghĩa duy tâm, phương pháp suy luận hình thức chết cứng; chủ nghĩa tín
ngưỡng đối lập với tư tưởng khoa học, với trí thức thực nghiệm và với tư tưởng triết
học tự do. Nó không chấp nhận bất cứ cái gì mới.
Mục đích cao nhất của chủ nghĩa kinh viện là phục vụ tôn giáo và nhà thờ, nên
đã xuyên tạc các học thuyết của các nhà triết học tiến bộ thời cổ, đặc biệt là xuyên tạc
triết học của Arixtốt (đã bóp chết mọi cái tiến bộ và sinh động của nó).
Tuy nhiên, trong sự thống trị khắc nghiệt của tôn giáo và thần học, thời ký này
cũng xuất hiện cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học và trong các
phong trào “tà giáo” chống chủ nghĩa ngu dân của nhà thờ. Các trào lưu duy danh chủ
nghĩa phát sinh và phát triển, sự nhận thức tự nhiên bằng thực nghiệm xuất hiện, sự
giải phóng khoa học tự nhiên thoát khỏi ách thống trị của thần học bắt đầu. Tất cả
những cái đó đã chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và cho sự phát triển
mới của khoa học tự nhiên và triết học trong thời đại phục hưng.
Như vậy, lịch sử triết học trong thời đại phong kiến là một quá trình phức tạp
đầy mâu thuẫn, nhưng vẫn chứa đựng những nhân tố chuẩn bị cho sự phục hồi những
20
học thuyết duy vật thời cổ đại mà phát triển những học thuyết đó trong thời đại hình
thành chủ nghĩa tư bản, chứ không phải là sự đứt đoạn, sự sụp đổ của lịch sử tư tưởng
triết học.
Câu hỏi ôn tập
1 - Phân tích nét đặc thù của tư tưởng triết học Tây Âu thời trung cổ ?
2 - Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh ?
3 - Những nội dung cơ bản trong triết học của các triết gia tiêu biểu thời trung
cổ ở Tây Âu ?

Chương 3
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THẾ KỶ XV - XVIII
I/ Triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng (thế kỷ XV - XVI)
1. Điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học .
Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu là “thời đại phục hưng”, với ý nghĩa là phục hưng
nền văn hóa cổ đại, chuẩn bị cho một nền văn hóa mới - văn hóa tư sản sơ khai hình
thành. Ở thời kỳ này các quan hệ tư bản chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng xã hội
phong kiến. Giai cấp tư sản mới hình thành cần khoa học kỹ thuật để phát triển, đồng
thời tìm kiếm vũ khí tư tưởng chống lại hệ tư tưởng duy tâm, tôn giáo. Vì vậy nhiều
sáng chế kỹ thuật như động cơ cải tiến chạy bằng sức gió và sức nước, chế tạo máy
kéo sợi, máy dệt, chế tạo tàu thủy, lò cao xuất hiện, công nghệ ấn loát phát triển
v.v...đã đẩy mạnh sự phát triển kinh tế ở các nước Tây Âu và Trung Âu ; nền sản xuất
công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn thay thế cho nền kinh tế tự
nhiên kém phát triển .
Việc tìm ra châu Mỹ và các dường biển nhờ áp dụng địa bàn ,nhờ những cải tiến
trong ngành chế tạo tầu thủy , và nhờ địa lý học và thiên văn học phát triển đã tạo điều
kiện phát triển nền sản xuất theo xu hướng tư bản chủ nghĩa; hoạt động thương mại, thị
trường trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
quy mô lớn bắt đầu hình thành dưới hình thức công trường thủ công. Quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa cũng ra đời trong công nghiệp.
Trong “thời kỳ phục hưng” cuộc đấu tranh của nông dân và thợ thủ công dâng
lên ở khắp Châu Âu để nhằm tự giải phóng mình khỏi những trói buộc và thuế má
nặng nề của chế độ phong kiến. Những phong trào đấu tranh này của người lao động
thường đan xen với phong trào đấu tranh chống phong kiến của giai cấp tư sản đang
hình thành.
Trên cơ sở thực tiễn sản xuất vật chất và những biến đổi xã hội, những tư tưởng
triết học và các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển và ngày một cải tiến. Thiên
văn học, toán học, cơ học và về sau cả vật lý học, sinh vật học... đã dần dần phân
ngành. Do đó, đối tượng và phạm vi những vấn đề mà triết học nghiên cứu bắt đầu
biến đổi. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi cùng với sự
biến đổi của khoa học tự nhiên và dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên tiến
hành cuộc đấu tranh chống thế giới quan thần học để đi tới chứng minh về mặt triết
học cho chủ nghĩa vô thần; thực hiện và củng cố sự liên minh giữa triết học và khoa

21
học tự nhiên, chứng minh phương pháp nhận thức tự nhiên bằng thực nghiệm , kinh
nghiệm; phê phán thần học và chủ nghĩa kinh viện.
Sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên ở “thời đại phục hưng” chủ yếu là
cơ học đã quyết định sự ra đời của phương pháp siêu hình trong khoa học tự nhiên.
2. Một số nhà triết học tiêu biểu .
Nicôlai Kudan (1401 - 1464)
Ông là con của một ngư dân Đức và trở thành Hồng Y giáo chủ của giáo hội La
Mã, người đầu tiên dám phê phán mạnh mẽ các giáo lý trung cổ, mở đầu triết học thời
đại phục hưng.
N. Kudan cho rằng, vũ trụ là vô tận, trái đất không phải là trung tâm của thế
giới, mà chỉ một trong những làng, tỉnh và cũng giống như những hành tinh khác. triết
học của ông có tính chất phiếm thần, cho rằng Thượng đế không phải là một bản
nguyên phi nhân cách mà hòa lẫn với tự nhiên, là bản chất vô hạn của thế giới; quá
trình phát triển ngày càng hoàn thiện của thế giới cũng là quá trình Thượng đế ngày
càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Phiếm thần luận của ông là lý luận duy tâm
muốn điều hòa khoa học và tôn giáo (khác với phiếm thần luận của Spi-nô-da biểu
hiện quan niệm duy vật).
Triết học N. Kudan có yếu tố biện chứng quan trọng , đó là học thuyết về “sự
phù hợp của các mặt đối lập”. Ông dùng những tài liệu của toán học để chứng minh
“sự phù hợp của các mặt đối lập”. Theo ông:” ngoài toán học của chúng ta, không có
gì là xác thực trong khoa học cả”. Nhưng ông không thoát khỏi tính chất duy tâm và
những yếu tố của thuyết thần bí, khi cho rằng Thượng đế là sự thống nhất giữa các mặt
đối lập. “Thượng đế là tất cả trong mọi cái, nhưng đồng thời cũng là không gì cả (hư
vô) trong mọi cái.
N.Kudan quan niệm : “Con người chính là thế giới của con người bao quát dưới
dạng tiềm tàng toàn bộ Thượng đế và thế giới... nội tâm và triển vọng của con người
đó là tất cả” ưởng đề cao con người của ông chịu ảnh hưởng xu thế đề cao con người
của các nhà triết học duy vật cổ đại và tư tưởng nhân đạo thời đại của ông.
N. Kudan cũng nêu ra tính tương đối của nhận thức con người, mặc dù còn hạn
chế, nhưng nó đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về quá trình nhận thức cho triết
học về sau. Ông nói : “ Chân lý... là giới hạn vô cùng tận của lý tính chúng ta... Hiểu
biết của chúng ta càng rộng và sâu bao nhiêu, thì chúng ta càng tiến tới chân lý bấy
nhiêu”.
Nicôlai Côpécnic (1473 - 1543)
Ông là người Ba Lan. Toàn bộ hoạt dộng khoa học của ông đều nhằm chứng
minh : trung tâm hành tinh của chúng ta không phải là trái đất mà là mặt trời; quả dất
hằng ngày xoay xung quanh trục của nó và hằng năm xoay xung quanh mặt trời. Học
thuyết về mặt trời là trung tâm vũ trụ của Côpécnic có ý nghĩa rất lớn đối với triết học
và khoa học thời kỳ này. Nó bác bỏ giả thuyết của Ptôlêmê cho rằng “trái đất là trung
tâm, còn mặt trời và các hành tinh xoay xung quanh trái đất; nó giáng một đòn vào chỗ
quan trọng nhất, xung yếu nhất quan điểm thần học về thế giới; nó đã cách mạng hóa
toàn bộ khoa học tự nhiên.
Gioócdanơ Brunô (1548 - 1600)
22
Ông là người Ý. Triết học phiếm thần luận của ông là đỉnh cao của sự phát triển
tư tưởng duy vật thời phục hưng. Những tác phẩm chính của ông là:”Diệt trừ con thú
vật hoành hành” (1584), “về tính vô tận, vũ trụ và thế giới” (1584), “Về bộ ba, về cái ít
nhất và về mức dộ” (1591), “Về cái không đo được và những cái không tính được”
(1591), “ Về đơn tử, số và hình” (1591).
Bru-nô tiếp thu học thuyết “ mặt trời là trung tâm” của Côpécnic, đồng thời kế
thừa tư tưởng duy vật và vô thần của các nhà duy vật cổ đại,xây dựng quan niệm duy
vật mới về vũ trụ. Ông nêu ra cái phạm trù duy nhất ; đó chính là Thượng đế tồn tại
dưới dạng giới tự nhiên được hiểu như một thế giới độc lập, không do một cái gì sáng
tạo ra cả. Ông đã đồng nhất Thượng đế với giới tự nhiên.
Tuy nhiên, Thượng đế chỉ được Brunô thừa nhận về danh nghĩa. Ông nêu ra
quan niệm về tính thống nhất vật chất của vũ trụ :” Mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và
vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng
ta”. Theo ông, vũ trụ là vô tận, ngoài hệ thống mặt trời của chúng ta còn có vô số thế
giới tồn tại, quả đất là hạt bụi nhỏ trong khoảng mênh mông vô tận của vũ trụ; không
có hành tinh nào thực sự là trung tâm của vũ trụ, sự sống và con người có thể có trên
nhiều hành tinh khác của vũ trụ bao la; không có chúa trời nào thống trị vũ trụ cả.
Theo Brunô giới tự nhiên có một sức tự sinh sản nội tại, nhờ đó nó trở thành
nguyên nhân của mọi sự vật, đồng thời cũng là cơ sở của chúng, vì “tự nhiên là các
Chúa Trời trong các sự vật”, nhiệm vụ của triết học là nhận thức thực thể thống nhất,
tức là nguyên nhân và cơ sở của mọi hện tượng tự nhiên. Quan điểm đó của ông gắn
liền với phiếm thần luận :”Khắp thế giới đều có linh hồn”, mọi vật tự nhiên đều có linh
hồn.
Brunô có vai trò quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng. Ông nêu ra tư
tưởng biện chứng về “ sự phù hợp của các mặt đối lập” trong sự thống nhất vô tận của
vũ trụ. Theo ông, trong giới tự nhiên, mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể
từ hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử, đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận; cái này tiêu
diệt, cái kia ra đời; tình yêu chuyển thành căm thù và ngược lại; nhiều chất độc là
những thứ thuốc tốt nhất; trong giới tự nhiên cái tối đa và cái tối thiểu phù hợp với
nhau.Theo ông, cái tối thiểu trong triết học không phải là nguyên tử mà là đơn tử, cái
tối đa trong triết học là giới tự nhiên vô tận.
Nhận thức luận của Brunô có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của triết học. Ông
đã nêu ra quan niệm biện chứng trong việc nhận thức giới tự nhiên:”Ai muốn nhận
thức những bí mật của giới tự nhiên , thì hãy xem xét cái tối thiểu và cái tối đa của
những mâu thuẫn và những mặt đối lập”. Ông phân chia quá trình nhân thức thành ba
giai đoạn : giai đoạn đầu là cảm giác, giai đoạn thứ hai là lý trí, giai đoạn cao là trí tuệ
(trong một số trường hợp ông chia thành bốn giai đoạn).
Chính vì triết học duy vật của Brunô chống chủ nghĩa kinh viện và chống những
người đứng đầu Giáo hội, nên ông đã bị Giáo hội thiêu sống.
Galilêô Galilê (1564 - 1642)
Ông là nhà khoa học vĩ đại nước Ý, đã giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển
của tri thức khoa học và của chủ nghĩa duy vật. Ông là nhà toán học, vật lý học, thiên
văn học, triết học và cũng là người am hiểu nghệ thuật và là một nhà văn xuất sắc.
23
Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, thế giới vật chất là vô
tận, vĩnh viễn, không có đầu, không có cuối, không có cái gì trong tự nhiên bị tiêu diệt
một cách tuyệt đối và xuất hiện từ hư vô. Chỉ có vị trí so sánh của các bộ phận là thay
đổi. Chính những phát minh khoa học của ông đã giúp ông xây dựng quan điểm duy
vật về giới tự nhiên bằng việc phát hiện các vật thể vật chất trên Mặt Trăng và những
khám phá vê sao Kim, Mặt Trời... ông đã đi đến khẳng định tính thống nhất vật chất
của toàn bộ vũ trụ và giả thuyết đó trở thành một học thuyết thực sự khoa học. Ở đây
ông đã đấu tranh chống thế giới quan thần học và chủ nghĩa kinh viện rất tích cực.
Ông cho rằng, giới tự nhiên và kinh thánh như “hai cuốn sách” không liên quan
với nhau. kinh thánh dạy cho con người nhiều điều hay lẽ phải trong cuộc sống thông
thường, còn khoa học giúp cho con người khám phá ra quy luật của giới tự nhiên, nhận
thức bản chất của chúng. Trong lĩnh vực khoa học, kinh thánh không có tác dụng gì cả.
Từ đó, ông cho rằng tôn giáo và khoa học là hai lĩnh vực tinh thần cần thiết của con
người. Theo ông, các nhà thông thái phải biết khai thác những mặt hợp lý trong các
luận điểm của kinh thánh, vì nói chung về nguyên tắc, kinh thánh không có gì sai, mà
chính những người sau này diễn giải nó nhiều khi sai lệch và bóp méo. Ở đây ông chịu
ảnh hưởng của quan niệm “chân lý hai mặt” đang thịnh hành thời đó.
Nhưng Galilê đặc biệt đề cao sức mạnh của trí tuệ con người trong việc nhận
thức thế giới. Ông cho rằng khả năng nhận thức của con người là vô hạn, cảm giác là
bước đầu của nhận thức; còn bước cuối là hoạt động của lý trí, ở bước này kinh
nghiệm được kiểm tra lại và những yếu tố rời rạc của tri thức được liên kết lại. Nhận
thức tính tất nhiên “nội tại của các hiện tượng là giai đoạn cao nhất của tri thức”.
Những tri thức do quá trình nhận thức đem lại không phải là chân lý cuối cùng. Chân
lý là kết quả của quá trình nhận thức, mà quá trình nhận thức là vô tận, không ai dám
quả quyết rằng mình biết mọi điều, mình có thể nhận thức được thế giới.
Galilê đưa ra khái niệm nhận thức về chiều rộng và chiều sâu. Theo ông, nhận
thức về chiều rộng là số lượng những sự vật có thể nhận thức được. Số lượng những sự
vật mà ta đã nhận thức được thật ít, không đáng kể so với những sự vật nhiều vô kể mà
ta cần biết trong tương lai.. Nhận thức về chiều sâu là nhận thức chân lý, nhiều chân lý
chúng ta đã nắm được có tính chất sâu sắc và hoàn bị, trong đó có những tri thức thuần
túy toán học hình học và số học.
Galilê là nhà bác học có nhiều phát minh vĩ đại. Những phát minh của ông đóng
vai trò to lớn cho sự phát triển của khoa học và triết học, nhưng nó lại là một mối nguy
hiểm cho chủ nghĩa kinh viện và Giáo hội Cơ đốc La Mã lúc bấy giờ. Vì vậy, giáo
hoàng La Mã ra lệnh truy tố và bỏ tù ông, tòa án tôn giáo đã quản thúc ông một cách
nghiêm ngặt cho tới khi ông qua đời.
II / Triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII.
1. Tình hình kinh tế - xã hội.
Vào thế kỷ XVII , phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nhiều nước Tây Âu
đã hình thành hầu hết trong lòng xã hội phong kiến. Đi liền với thực tế lịch sử đó là
việc phát hiện ra Châu Mỹ và con đường hàng hải vòng quanh Châu Phi tạo cho giai
cấp tư sản đang lên môi trường hoạt động mới. Thị trường Ân Độ và Trung Hoa rộng
lớn, việc chiếm Châu Mỹ làm thuộc địa, việc buôn bán với các nước thuộc địa, việc
24
tăng thêm số phương tiện trao đổi và số lượng hàng hóa đã đem lại cho thương nghiệp
và công nghiệp hàng hải một đà phát triển chưa từng có, do đó đã làm cho yéu tố cách
mạng phát triển nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến đang suy tàn.
Xét về toàn bộ và suy diễn đến cùng thì sự xuất hiện của phương thức tư bản
chủ nghĩa đã dẫn tới những hệ quả tất yếu về mặt xã hội và sự phát triển của khoa học
trên những nét cơ bản dưới đây :
Một là : Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thỏa mãn với những kiến
thức khoa học tự nhiên còn ở tình trạng chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, chưa cụ thể đã có
từ trước. Người ta không thể dưa vào kinh nghiệm đi biển thông thường và dùng
thuyền gỗ để chuyển chở khối lượng hàng hóa lớn vượt các đại dương, trái lại, cần có
kỹ thuật đóng tàu mới, có máy móc mới để sản xuất và trao đổi được nhiều hàng hóa
hơn, tăng được nhiều lợi nhận hơn cho các nhà kinh doanh. Thực tế đó đòi hỏi khoa
học tự nhiên như cơ học, toán học, thiên văn học và về sau cả vật lý học, hóa học, sinh
vật học phải có bước phát triển mới.
Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học nói trên còn là một bộ phận trực
tiếp trong các hệ thống triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu là các ngành khoa
học cụ thể tách ra khỏi triết học và trở thành những ngành khoa học độc lập; dùng
phương pháp nghiên cứu thật chi tiết, thật cụ thể nhàm phát hiện những thuộc tính ,
những quy luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu... Từ đó xuất hiện
một phương pháp mới trong khoa học tự nhiên - phương pháp thực nghiệm hiện đại
của khoa học. Trên mức độ nhất định, vào thế kỷ XVII - XVIII, phương pháp thực
nghiệm hiện đại đã ảnh hưởng tới lĩnh vực triết học. Từ đó làm xuất hiện sự thống trị
của phương pháp tư duy siêu hình trong triết học.
Hai là : Sự xuất hiện và ngày càng phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã làm cho giai cấp tư sản thấy rằng cần phải nắm lấy chính quyền, phá bỏ
cát cứ phong kiến tạo ra và mở rộng thị trường thống nhất để tăng lợi. Mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản cùng hệ tư tưởng tư sản với giai cấp địa chủ phong kiến và hệ tư tưởng
Cơ đốc giáo ngày càng sâu sắc.
Mặc dù nhu cầu nắm lấy chính quyền đã thôi thúc giai cấp tư sản, nhưng vào
cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII giai cấp này vẫn còn nhỏ bé về số lương, chưa đủ sức
mạnh về kinh tế và tổ chức chính trị để có thể lật đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong
kiến và hệ thống uy quyền của nhà thờ Thiên chúa giáo. Cho nên giai cấp tư sản phải
thỏa hiệp với giai cấp phong kiến quý tộc và với nhà thờ Thiên chúa giáo.
Ba là : Bước sang thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đã lớn mạnh, và do điều kiện
riêng của mình, nước Pháp trở thành trung tâm của cách mạng tư sản. So với cuộc cách
mạng tư sản Anh (thế kỷ XVII), thì cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) có tính triệt
để, giai cấp tư sản Pháp kiên quyết không chịu thỏa hiệp với giai cấp địa chủ phong
kiến. Vua Lu-i 16 đã bị đưa lên đoạn đầu đài chấm dứt sự thống trị của giai cấp phong
kiến và thiết lập chế độ cộng hòa tư sản.
Bốn là : Thế kỷ XVII và XVIII, là thế kỷ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với
chủ nghĩa duy tâm, của phương pháp tư duy siêu hình đối với phương pháp tư duy trừu
tượng duy lý thời trung cổ; và sau đó là thắng lợi của chủ nghĩa vô thần đối với hữu
thần luận. Tuy nhiên cũng đã xuất hiện sự kháng cự, đối lập của chủ nghĩa duy tâm và
25
hữu thần luận-đó là chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béccli. triết học duy tâm chủ
quan của Béc-cli là một bước phát triển của chủ nghĩa duy tâm trong điều kiện lịch sử
mới.
2. Một số triết gia tiêu biểu .
Đại diện cho chủ nghĩa duy vật Anh là Ph.Bêcơn, T. Hốxơ và I. Lốccơ.
Phơrănxi Bêcơn (1561 - 1626):
Phơrăn-xi Bêcơn (1561 - 1626): là con một thượng thư báo chí bên cạnh nữ
hoàng Elidabét. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đã làm nhiều công việc khác nhau:
ngoại giao, tư pháp, thượng thư báo chí, được bầu vào nghị viện, làm Thủ tướng Anh,
được phong bá tước. Bêcơn là người sáng lập chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực
nghiệm hiện đại.Bắt đầu từ Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sáng một giai đoạn
mới.
Quan niệm của Bêcơn về vai trò và nhiệm vụ của triết học và khoa học.
Theo Bêcơn, sự phát triển của khoa học và triết học là nền tảng của công cuộc
cách tân đất nước, là cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng phồn vinh đất nước, phát
triển kinh tế, xóa bỏ bất công và tệ nạ xã hội. Và do đó, ông khẳng định : “ Mục đích
của xã hội chúng ta là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự
vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên trong chừng mực con
người có thể làm được” . Chịu ảnh hưởng của quan niệm “triết học là khoa học của các
khoa học”ông cho rằng, triết học là tổng thể các tri thức lý luận của con người về
Thượng đế, về giới tự nhiên và về bản thân con người. Và do đó, nó bao gồm ba học
thuyết:1)Học thuyết về Thượng đế, nghiên cứu khoa học về thần học và tự nhiên, vạch
ra những khía cạnh hợp lý của nó (phân biệt với thần học Thượng đế dưới góc độ tôn
giáo); 2) Học thuyết về tự nhiên (Bê-cơn đồng nhất với khoa học tự nhiên); 3) Học
thuyết về con ngưòi (nhân bàn học). Theo Bêcơn nhiệm vụ triết học là cải tạo lại toàn
bộ các tri thức mà con người đã đạt tới thời đại đó; “nắm bắt trật tự của giới tự nhiên”
xây dựng “trong trí tuệ con người một kiểu mẫu của thế giới giống như nó tồn tại thực
tế, chứ không phải giống như cái mà tư duy gợi cho mỗi một người” ; và “hiệu quả của
sự sáng chế thực tiền là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết học” . Về
bản thể luận triết học.
Trong quá trình xây dựng bản thể luận triết học của mình, Bêcơn đã xuất phát từ
lý luận của các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp, đặc biệt là lý luận Hômêônêri của
Anaxago, về nguyên tử của Đêmôcrít và cải biến học thuyết của Arixtốt theo hướng
duy vật. Các nhân vật này “thường được ông dẫn ra như là những nhân vật có uy tín”
(C.Mác). Tuy nhiên, Bêcơn không dừng lại ở quan điểm của họ, mà làm phong phú
quan niệm của mình về bản thể luận triết học bằng những kết luận mới của khoa học tự
nhiên.
Đối với Bêcơn, sự tồn tại của thế gíới vật chất khách quan là không thể tranh cãi
được ; khoa học không thể biết cái gì ngoài thế giới vật chất cả. Ông tiếp thu những
điểm hợp lý trong quan niệm về “hình dạng” của A.rixtốt quan niệm về cấu trúc bên
trong của các sự vật của các nhà nguyên tử luận và cho rằng “hình dạng” là bản chất
của sự vật “tự nhiên”, tức là các sự vật mà con người nhận biết được bằng các cảm
giác là sự biểu hiện ra bên ngoài của “hình dạng”. Đó chính là hiểu biết của con người
26
về vật chất. Ở đây, Bêcơn khẳng định sự thống nhất giữa“hình dạng” và “tự nhiên”
ông không quy vật chất về những đơn vị đồng nhất thiên về số lượng thuần túy; ông
tìm thấy trong vật chất những “hình dạng” và “tự nhiên” , tức bao gồm cả tính đa dạng
lẫn tính thống nhất của thế giới.
Bêcơn khẳng định vật chất không tách rời vận động; nhận thức bản chất của các
sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Mác đã nhận xét : Đối với Bêcơn “Trong
những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là dặc tính thứ nhất và cao nhất,không
những với tính cách là vận động máy móc và toán học mà hơn nữa với tính cách là bản
năng, sinh khí... của vật chất” .
Bêcơn đã tiến hành phân loại các hình thức vận động. Ông nêu ra 19 hình thức
vận động:1) vận động xung đối; 2) vận động móc nối, kết hợp; 3)vận động giải phóng,
thông qua sự vật thoát khỏi áp lực; 4) vận động trong đó sự vật hướng tới khối lượng
và kích thước mới; 5) vận động liên tục; 6) vận động có lợi; 7) vận động tự hợp lại với
quy mô lớn; 8) vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) vận động từ tính; 10) vận động
sản sinh; 11) vận động chạy trốn; 12) vận động thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi
nhận; 14) vận động ngoại tuyến; 15) vận động theo xu hướng; 16) vận động hùng
tráng; 17) vận động tự quay; 18) vận động rung động; 19) đứng yên. Ở đây, tính chất
duy vật siêu hình của Bêcơn dược thể hiện ở chỗ, hầu như ông đã quy vận động thành
các hình thức vận động cơ học. Song, cống hiến mới của ông là đã coi đứng yên là một
hình thức vận động; coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất; và ông là một trong
những người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Quan niệm duy vật của Bêcơn được mở rộng sang lĩnh vực nghiên cứu bản chất
của linh hồn (ý thức). Ông cho rằng “linh hồn biết cảm giác”, tồn tại trong óc người và
vận động theo các dây thần kinh và mạch máu, nó chính là “một vật thể, thể xác là vật
chất chân chính” - nó cũng giống như lửa và không khí. Quan niệm về ý thức của ông
là quan niệm duy vật tầm thường, không vượt xa hơn nhiều so với các nhà duy vật Hy
Lạp cổ đại.
Về lý luận nhận thức
Đóng góp lớn của Bêcơn về mặt triết học chính là lý luận nhận thức. Ông là
người đầu tiên xây dựng phương pháp quy nạp thành một hệ thống có giá trị trong
nghiên cứu khoa học. Phương pháp qui nạp của ông được trình bày trong tác phẩm
“Ơocganôn mới”. Lý luận nhận thức của ông nêu lên và giải quyết những vấn đề dưới
đây:
Một là : không có tri thức bẩm sinh, mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và
thực hiện sự “chế biến” những kinh nghiệm đó thành một hệ thống, nhờ đó cho ta biết
được bản chất, quy luật của sự vật. Trong luận điểm này, Bêcơn tỏ ra là nhà triết học
duy vật có xu hướng biện chứng trong việc giải thích mối quan hệ giữa trực quan cảm
tính và tư duy lý tính. Ông ví những người theo kinh nghiệm luận máy móc thiển cận
giống như con kiến bò loanh quanh, còn những người giáo điều thì như con nhện
chăng những cái mạng vô hình, vô nghĩa. Theo ông, nhà khoa học chân chính phải như
con ong biết cóp nhặt nhị hoa tạo ra “mật khoa học”.Tuy nhiên, Bê-cơn chưa lý giải
được quan hệ biện chứng của việc phát triển từ nhận thức cảm tính lên lý tính, cũng
như phép biện chứng của tư duy lý tính.
27
Thực chất trong lý luận nhận thức của Bêcơn là hướng tư duy và trí tuệ vào khái
quát và diễn giải những tư liệu do cảm tính mang lại”chế biến” lại tựa như con ong
biến nhụy hoa thành mật ong. Phương pháp nhận thức bằng kinh nghiệm, thực nghiệm
do Bêcơn xây dựng, đáp ứng nhu cầu của khoa học tiên tiến và khoa học chân chính
cần xuất phát từ bản thân sự vật, trong thế giới khách quan chứ không phải từ những
điều thần học hay ảo tưởng chủ quan. Theo Bêcơn, nhà khoa học sau khi bắt đầu từ sự
thật, cần phải cải tiến suy nghĩ về sự thật và đi tới định lý, rồi từ định lý lại phải đi tới
sự thật mới.
Hai là : Muốn nhận thức được giới tự nhiên một cách khoa học, đúng đắn người
ta phải từ bỏ các ảo tưởng hay còn gọi là những ngẫu tượng đã thống trị và đang thống
trị lâu nay. Đồng thời áp dụng phương pháp nhận thức tối ưu và phương pháp qui nạp.
Theo Bêcơn có bốn loại ảo tưởng (ngẫu tưởng) :1) ảo tưởng chủng tộc - là nhận
thức sai lầm của nhóm người, loài người do thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ
của mình với bản chất khách quan của sự vật; 2) Ao tưởng hang động là những nhận
thức sai lầm của cá nhân do tính chủ quan, tâm lý, tính cách đặc thù do hoàn cảnh
giáo dục của mỗi người, do hạn chế bởi sự tiếp xúc, sinh hoạt... của mỗi người làm
xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật; 3) Ao tưởng công cộng xuất hiện do mọi
người sùng bái, chạy theo các quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan
điểm phổ biến giáo điều, các tập quán truyền thống, trong đó, bên cạnh những yếu tố
tích cực, cũng chứa đựng không ít những điều lạc hậu; 4) Ao tưởng rạp hát là những
ảnh hưởng có hại của những quan niệm, những học thuyết thống trị làm cản trở quá
trình nhận thức chân lý.
Công lao của Bêcơn trong học thuyết về ảo tưởng là đã đặt ra vấn đề cơ sở xã
hội của quá trình nhận thức. Song ông chưa đưa ra được các biện pháp khắc phục ngẫu
tượng. Ông mới chỉ nhận thấy khía cạnh nhận thức luận của vấn đề mà chưa thấy tính
hạn chế lịch sử của thời đại và cơ sở kinh tế - xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội
ảnh hưởng quyết định đến quá trình nhận thức.
Đi liền với việc tư bỏ các ảo tưởng, theo Bêcơn phải áp dụng phương pháp
nhận thức mới, đó là phương pháp quy nạp gồm các bước:
Bước thứ nhất : Thông qua các giác quan con người nhận thức giới tự nhiên với
sự đa dạng và sinh động của nó.
Bước thứ hai : Trên cơ sở những cái mà giác quan thu thập được, cần phải lập
bảng, so sánh, hệ thống lại và phân tích chúng.
Bước thứ ba :” Quy nạp thật sự”, “với những bậc phủ định” với việc vứt đi hay
bài trừ những tài liệu kinh nghiệm thu được trong những điều kiện khác nhau để có thể
xác định mối liên hệ nhân quả của các hiện tượng mà ta nghiên cứu. Đây là giai đoạn
nhận thức quan trọng nhất giúp ta khám phá ra “hình dạng” tức là bản chất của sự vật.
Phương pháp quy nạp mới - quy nạp loại trừ do Bêcơn khám phá đã có tác dụng
tiến bộ lớn trong sự phát triển tri thức thực nghiệm về giới tự nhiên. chính ông đã dùng
phương pháp của mình để xác định mối liên hệ giữa chuyển động và nhiệt.
Ba là: Trong lý luận nhận thức, Bêcơn đã không đứng vững trên lập trương vô
thần, mà thừa nhận chân lý có tính hai mặt: khoa học và thần học. Theo ông khoa học
và thần học không nên can thiệp vào công việc của nhau, rằng khoa học nghiên cứu cái
28
mà thần học không thể có được, còn thần học lại nghiên cứu cái mà khoa học không
thể vươn tới.
Bêcơn viết:" ...Khoa học thật ra giống như những hình chóp mà nền móng duy
nhất của nó phải là lịch sử và kinh nghiệm, và vì vậy nền móng của triết học tự nhiên
phải là lịch sử tự nhiên; vật lý học là tầng gần nền móng nhất, còn siêu hình học gần
đỉnh nhất. Còn về đỉnh cao chót của hình chóp - sự nhận thức chúa trời ...", "tôi không
biết ... là lý trí con người có thể đạt được đến đó không" .
Về quan điểm chính trị - xã hội
Bêcơn chủ trương xây dựng nhà nước tập quyền, mạnh mẽ bảo vệ lợi ích của sự
phát triển tư bản chủ nghĩa; chống lại đặc quyền của bọn quý tộc. Ông khẳng định sự
phát triển công nghiệp và thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống xã
hội. Ông chống lại những cuộc đấu tranh của nhân dân, mơ ước một xã hội phát triển
bằng con đường giáo dục và bằng các phát minh kỹ thuật. Ông mong muốn nước Anh
làm bá chủ thế giới, nô dịch các dân tộc khác. Tất cả những tư tưởng đó phù hợp với
lợi ích và nguyện vọng của giai cấp tư sản đang lên và tầng lớp quý tộc mới ở nước
Anh vào thế kỷ XVII.
Tômat Hốp-xơ (1588-1679)
Ông là người tiếp tục truyền thống duy vật của Bê-cơn, sinh ra trong một gia
đình mà cha là cố đạo; học ở trường đại học Ôc-pho, một thời gian làm thư ký cho
Phơrănxi Bêcơn. Hốpxơ là một nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ nghĩa duy vật
Anh thế kỷ XVII.
Quan điểm của Hốpxơ về đối tượng của triết học
Theo C.Mác Hốpxơ là "người hệ thống hóa chủ nghĩa duy vật của Bêcơn". Ông
mong muốn đưa ra một hệ thống triết học bao trùm tất cả và gạt bỏ tính chất thần học
của Bêcơn; chống lại học thuyết về chân lý hai mặt", bài trừ thần học và chủ nghĩa
kinh viện. Cũng như Bêcơn, Hốp-xơ cho rằng "tri thức là sức mạnh" do đó cần phát
triển khoa học, nhất là triết học.
Bê-cơn cho rằng triết học là hoạt động trí tuệ con người nhằm khám phá bản
chất của sự vật, do đó, triết học là học thuyết về các vật thể, "bất cứ vật thể nào cũng là
đối tượng hay là vật chất của triết học, mà triết học giải thích đối tượng ấy...". Tất cả
những lĩnh vực khoa học như hình học, vật lý học, đạo đức học ... đều chỉ là các lĩnh
vực khác nhau của triết học.
Hốp-xơ chia triết học thành "triết học tự nhiên" nghiên cứu những vật thể tự
nhiên và "triết học thông thường" nghiên cứu xã hội loài người. Theo Hốp-xơ con
người là một vấn đề trung tâm của triết học; con người vừa là một vật thể do thiên
nhiên tạo ra, vừa là một vật thể xã hội, và tự mình tham gia vào xã hội đó.
Về bản thể luận triết học
T. Hốpxơ quan niệm thế giới tự nhiên, thế giới vật chất tồn tại khách quan,
không do thần thánh sáng tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý thức con người. Song
thế giới vật chất mà ông nói tới là thế giới các vật thể, các sự vật đơn lẻ cùng với
những quan hệ số lượng-cơ học, toán học của nó. Là một nhà cơ học điển hình, Hốpxơ
bác bỏ bức tranh thế giới nhiều chất, nhiều màu sắc, nhiều thuộc tính của Bêcơn.

29
Hốpxơ coi tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều được quy về quan hệ số
lượng, quan hệ toán học. Ông đặc biệt coi trọng hình học Ơclít và cơ học của Galilê,
coi đó là những mẫu mực của tư duy lô-gic và là lý tưởng của khoa học tự nhiên. Ngay
đến trái tim của con người ông cũng quan niệm đó chỉ là chiếc "lò xo"; dây thần kinh
thì được ông quan niệm là "sợi chỉ", còn các khớp xương là những "bánh xe".
Luận giải về không gian và thời gian, Hốpxơ phân biệt không gian với tính cách
là những hình thức khách quan của các sự vật và không gian, thời gian với tính cách là
sự phản ánh cái khách quan trong nhận thức của con người. Từ đó ông khẳng định cái
gì có quảng tính và hình dạng thì mới tồn tại; thần thánh không có quảng tính và hình
dạng nên không tồn tại .
Lý luận duy vật máy móc của T. Hốpxơ đã dẫn ông đến quyết định luận duy vật
máy móc.
Về nhận thức luận
Hốpxơ phát triễn kinh nghiệm luận của Bêcơn , kết hợp nó với một số yếu tố
duy lý luận. Ông cho rằng đối tượng nhận thức là các vật thể, các đối tượng vật chất
cùng những quan hệ số lượng cơ học và toán học. Ông cho rằng cảm giác, kinh
nghiệm cảm tính là bước đầu của nhận thức; nguồn gốc đầu tiên của kinh nghiệm cảm
tính, cảm giác là ở thế giới vật chất. Theo ông, phép quy nạp có tính chất kinh nghiệm
không thể áp dụng cho mọi ngành khoa học được; ở những ngành tri thức mà chúng ta
đi từ nguyên nhân đến kết quả như hình học thì phép quy nạp có tính chất duy lý là
phương pháp lý tưởng.
Hốpxơ thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất có trước con người.
Đồng thời về nhiều mặt, ông tiếp tục quan điểm của phái duy danh. theo ông chỉ
những vật thể riêng lẻ là có thật, còn "thực thể", "vật chất" đều chỉ là những tên gọi.
Ông nói:"Trong thế giới chẳng có gì là chung cả, ngoài các tên gọi". Ông nhấn mạnh
:"...Tôi cho rằng, tên xuất hiện là do mình tùy tiện đặt ra, đó là một giả thiết mà theo
tôi không có gì đáng nghi ngờ cả" ; khái niệm chỉ là " tên của những tên", là "ký hiệu
của những ký hiệu".
T. Hốpxơ đứng trên quan điểm siêu hình tách rời cảm giác, kinh nghiệm với tư
duy lý luận, tách rời quy nạp với diễn dịch. Ông cho rằng phép quy nạp của Bêcơn chỉ
cần thiết cho vật lý học; còn đối với hình học và xã hội học, thì phương pháp diễn dịch
duy lý chiếm địa vị thống trị.
Lý luận về xã hội và nhà nước
Vấn đề xã hội và nhà nước là một phần quan trọng trong học thuyết triết học của
Hốpxơ. Lý luận này được ông trình bày trong tác phẩm "Lêviathan" và "Về công
dân".
Lý luận về xã hội và nhà nước của Hốpxơ xuất phát từ quan niệm con người là
một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Nói về bản chất tự nhiên của con
người, Hốpxơ viết" , "Giới tự nhiên đã tạo ra mọi người như nhau cả về thể xác và tinh
thần" ; ai cũng có khát vọng nhu cầu riêng của mình; ai cũng có tính ích kỷ vì lợi ích
riêng, đó là nguyên nhân, là tiên đề để con người làm điều ác, gây "chiến tranh mọi
người chống mọi người" và gây bao đau khổ chết chóc cho đồng loại. "Con người là
một động vật độc ác và ma ranh hơn cả chó sói, gấu và rắn" . "Ngay cả một chân lý
30
khẳng định là tổng ba góc của một tam giác bằng hai vuông mà mâu thuẫn với lợi ích
của ai đó đang nắm chính quyền, thì ... tất cả những cuốn sách về hình học sẽ bị đem
đốt". Mỗi người đều muốn tiêu diệt người khác để dọn chỗ cho mình. Hốpxơ đã nhắc
lại câu nói của Pôlôtơ thi sĩ cổ Hy Lạp rằng, "người là chó sói đối với người". Qua
quan điểm của Hốpxơ, chứng tỏ ông phân biệt được đặc trưng riêng của loài người so
với loài vật, nhưng chưa thấy được bản tính xã hội, bản tính nhân loại của con người.
Tuy nhiên quan điểm đó cũng chứa đựng yếu tố hợp lý nhất định, chỉ rõ lợi ích cá nhân
là một trong những động lực cơ bản trực tiếp thúc đẩy hành động của con người và
phát triển xã hội.
Theo Hốpxơ, để khắc phục trạng thái tự nhiên, cạnh tranh sinh tồn mà con người
đã đi đến ký khế ước xã hội. Khế ước xã hội đã đưa xã hội chuyển từ giai đoạn tự
nhiên sang giai đoạn nhà nước (giai đoạn xã hôi công dân). Nhà nước là sự thỏa thuận
chung theo khế ước, do bản thân nhân dân sáng tạo ra, nó có một nguồn gốc thuần túy
trần gian, chứ không hề có nguồn gốc thần thánh. Nhà nước "tựa như một con người
nhân tạo", nó có sứ mệnh điều hành sự phát triển xã hội, xử phạt những ai vi phạm lợi
ích chung một cách "công minh", còn mỗi cá nhân có nghĩa vụ phải tuân theo các đạo
luật của nhà nước. Đó là cách tốt nhất để mọi người sống yên ổn.
Hốpxơ là nhà vô thần, mọi lực lượng siêu tự nhiên đều bị loại trừ khỏi triết học
của ông. Theo ông, gốc rễ của tôn giáo là sự sợ hãi do sự ngu dốt đẻ ra: giữa tôn giáo
và mê tín không khác nhau. "Sự sợ hãi trước một lực lượng vô hình do trí tuệ bịa ra
hay là tưởng tưởng ra căn cứ vào những điều bịa đặt mà nhà nước dung túng, gọi là tôn
giáo. Cũng một quan điểm như vậy dựa trên những điều bịa đặt mà nhà nước không
dung túng, mang tên là mê tín”. Tuy nhiên ông cũng cho rằng bản thân tôn giáo cũng
cần thiết cho nhà nước, là công cụ giúp nhà nước khuyên răn mọi người tuân theo các
chuẩn mực của nhà nước. Nhưng nhà thờ phải phục tùng nhà nước chứ không phải nhà
nước phụ thuộc vào nhà thờ.
Quan điểm về xã hội và nhà nước của Hốpxơ tuy còn nhiều mặt hạn chế của chủ
nghĩa duy vật tự nhiên, song cũng đã phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản
đang lên thời bấy giờ đấu tranh đòi mở rộng dân chủ và tiến bộ xã hội, phá bỏ thần
quyền, phân biệt đẳng cấp của chế độ phong kiến lỗi thời.
GiônLô-cơ (1632-1704)
Giôn Lốc-cơ sinh ra trong một gia đình công chức Anh, học ở trường đại học
tổng hợp Ốcpho ; sau đó bỏ học, say mê nghiên cứu triết học và y học.
Lốccơ là người tiếp tục phát triển kinh nghiệm luận của Ph. Bêcơn, đặc biệt là
trong lý luận nhận thức. Học thuyết của ông có tính chất không triệt để - có sự giao
động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, cho nên học thuyết nhận thức của
ông sau này là điểm xuất phát của cả hai trường phái duy vật Pháp ở thế kỷ XVII
(Điđơro, Henvêtiuýt và Hônbách) và phái duy tâm chủ nghĩa của Béccli.
Lốccơ cũng chịu ảnh hưởng bản thể luận và lý luận về nhà nước của T. Hốpxơ.
Về phương diện này, có thể ông không có gì tiến xa hơn Hốpxơ, ngoài việc hệ thống
hóa và cụ thể hóa một số điểm về lý luận nhà nước "khế ước" như quyền bình đẳng về
tài sản, quyền bảo vệ chế độ tư hữu, quyền lập pháp, nghĩa vụ chấp hành ...

31
Lý luận nhận thức của Lốccơ có tính chất đặc biệt, bao gồm các nội dung sau
đây:
Một là, Lố-cơ tiếp tục kinh nghiệm luận duy vật của Bê-cơn, nhưng có bổ sung
thêm. Nếu Bê-cơn cho rằng, mọi nhận thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, thì Lốccơ
bổ sung thêm, mọi kinh nghiệm đều bắt nguồn từ cảm giác. Nhưng khi lập luận về cảm
giác, ông không đứng vững trên lập trường duy vật. Ông phân chia cảm giác ra thành
hai loại: cảm giác bên trong và cảm giác bên ngoài. Kinh nghiêm bên trong là kết quả
tập hợp các cảm giác bên trong con người hay những phản xạ, những xúc cảm cá nhân
không liên quan gì tới sự vật khách quan. Còn kinh nghiệm bên ngoài là kết quả của sự
tập hợp các cảm giác phát sinh do sự tác động của sự vật khách quan lên cảm giác của
con người.
Như vậy, trong luận điểm này đã bộc lộ sự không triệt để trên lập trường duy vật
của ông. Sau này Béccli đã lợi dụng khe hở đó, nhất là quan niệm về "đặc tính có sau
của sự vật" để xây dựng triết học duy tâm của mình".
Hai là, đứng trên quan điểm kinh nghiệm luận, Lốccơ khẳng định rằng, không
có tư tưởng bẩm sinh (chống lại quan điểm duy tâm của Đêcáctơ), rằng "linh hồn" của
con người khi mới sinh ra như một tờ giấy trắng, như "tấm gỗ mộc", trong trí tuệ con
người không có cái gì mà trước đó lại không có trong kinh nghiệm, trong cảm giác.
Ông cho rằng, toàn bộ đời sống tâm lý của con người đều phụ thuộc vào hoàn cảnh.
Ba là, Lốccơ khẳng định, kết quả của sự tập hợp những kinh nghiệm sẽ làm xuất
hiện đời sống tâm lý, đời sống tư tưởng của con người. Ông phân chia tư tưởng con
người thành hai loại: tư tưởng phức tạp và tư tưởng giản đơn. Tư tưởng giản đơn, theo
ý ông, là tổng số những cảm giác của con người; còn tư tưởng phức tạp thì không chỉ
là tổng số những cảm giác riêng lẻ, mà cầm có sự nỗ lực của lý trí, phải có sự phân
tích, so sánh các cảm giác để dẫn tới hiểu biết sâu sắc về sự vật.
Bốn là, Lốccơ đưa ra ý kiến về "đặc tính có trước" và "đặc tính có sau" của sự
vật. Đặc tính có trước của sự vật là những đặc tính về khối lượng, quảng tính, chuyển
động ...Đó là những đặc tính khách quan không phụ thuộc vào cảm giác của con
người, chúng không thể mất đi dù sự vật có biến đổi. Ví dụ, chúng ta có thể chia rất
nhỏ một cục đất, nó vẫn có quảng tính và khối lượng nhất định. Nhiệm vụ của các
khoa học là phát hiện ra những đặc tính đó. Còn đặc tính có sau của sự vật là những
đặc tính như âm thanh, mùi vị, màu sắc ... đó là những đặc tính dễ biến đổi. Đối với
giả thiết về đặc tính có sau, Lốccơ không có sự nhất quán: khi thì cho rằng chúng
không tồn tại khách quan mà hoàn toàn mang tính chất chủ quan tùy theo mối người
có thể cảm nhận khác nhau; lúc thì lại cho rằng chúng có được nhờ sự tác động của
các sự vật khách quan vào các giác quan của chúng ta.
Triết học duy vật không triệt để của Lốccơ còn thể hiện cả trong quan niệm có
tính chất thần học của ông về sự hình thành vũ trụ. Ông là người theo tự nhiên thần
luận.
Đúng như Lê-nin đã nhận xét trong tác phẩm "chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán" rằng, xuất phát từ cảm giác, có thể đi theo đường lối của chủ
nghĩa chủ quan dẫn tới duy ngã luận, mà cũng có thể đi theo đường lối chủ nghĩa
khách quan dẫn tới chủ nghĩa duy vật.
32
Gioóc Béccli (1685-1753)
Gioóc Béccli sinh ra trong một gia đình quý tộc ở miền Nam Ailen; học ở
trường tổng hợp Đu-blin, say mê nghiên cứu thần học, toán học và triết học; từ 1734-
1752 làm giáo chủ ở I-ếc-lăng; mất ở Ôcpho.
Trước sự thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa duy vật ở thế kỷ XVII, trước tinh thần
nhân bản của các nhà khai sáng lúc đó, giám mục Béccli có tham vọng "khôi phục trên
toàn thế giới cái tinh thần đức hạnh đã bị xuyên tạc".
Béccli là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông có nhiều tác
phẩm như "Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới" (1709), "Bàn về những nguyên tắc
của nhận thức con người" (1710) v.v...Có thể khái quát, những nội dung chính của triết
học Béccli như sau:
Một là, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.
Điểm xuất phát của triết học Béc-cli là kinh nghiệm cảm tính hiểu theo nghĩa là
tổng hợp những biểu tượng hay những cảm giác. Theo ông, những cảm giác này không
phản ánh thực tại khách quan, mà chính chúng là thực tại khách quan chân chính. Ông
viết:"Tôi không phải cho rằng sự vật biến thành biểu tượng, mà nói đúng hơn là cho
rằng biểu tượng biến thành sự vật" .
Béccli đã sử dụng quan điểm của Lốccơ trong việc phân chia "đặc tính có trước"
và "đặc tính có sau" của sự vật, bác bỏ khuynh hướng duy vật của Lôccơ và từ đó đi
đến chủ nghĩa duy tâm, lẫn lộn cả "đặc tính có trước" và "đặc tính có sau" với cảm
giác của chúng ta. Ông nói: "Nếu biểu tượng biến thành sự vật , mà biểu tượng thì
không tồn tại ngoài trí óc, cho nên sự tồn tại của chúng là ở chỗ được tri giác hay
được nhận thức, và do đó, nếu trong hiện thực chúng không được tôi trí giác hay
không có ở trong trí óc một tính thần nào khác, thì tức là chúng không tồn tại, hoặc tồn
tại trong trí óc một tinh thần vĩnh viễn nào đó ...". Thực chất luận điểm này là : tồn tại
là được tri giác; cái gì ngoài tri giác là không tồn tại, triết học Béccli là duy ngã luận :
ngoài cá nhân "Tôi" ra không còn gì cả, tất cả mọi sự vật họp thành vũ trụ đều phụ
thuộc vào tri giác của "Tôi", nếu "tôi" không tri giác hay cảm giác thì chúng không tồn
tại.
Đồng thời, ta cũng thấy, ở Béccli có sự chuyển từ lập trường duy ngã sáng chủ
nghĩa duy tâm khách quan. Ông thừa nhận ngoài sự tồn tại của cá nhân "tôi", và sự tồn
tại của những "tinh thần" của người khác còn có "một tinh thần vĩnh viễn" - thượng đế.
Điều này được thể hiện rõ ràng khi ông cho rằng triết học của ông sẽ là vô ích nếu như
nó "không gợi cho các độc giả thực tâm tin vào sự hiện diện và kính nể chúa ... và sự
hoàn thiện tối cao của bản chất con người là ở việc nhận thức và thực hiện các giáo lý
trong Phúc âm" . Trong cuốn "Ba cuộc nói chuyện", Béccli viết: "...Có một tinh thần
vĩnh viễn phổ biến khắp nơi, tinh thần ấy nhận thực và bao trùm tất cả mọi vật, nó
vạch ra con mắt chúng ta thấy sự vật ấy như những cái phù hợp với những quy tắc mà
chính nó định ra và do chúng ta định nghĩa là quy luật của tự nhiên". Tuy nhiên, chủ
nghĩa Béccli vẫn là duy ngã luận triệt để.
Hai là, không có chân lý khách quan.

33
Nhiệm vụ chính của chủ nghĩa duy tâm Béccli là đấu tranh chống lại nhận thức
luận duy vật, lấy sự thừa nhận thế giới bên ngoài phản ánh vào ý thức của con người
làm cơ sở cho những lập luận của mình.
Từ chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới vật chất, Béccli đã đi đến phủ
nhận chân lý khách quan. Ông cho rằng, tìm chân lý không phải trong sự phù hợp của
tri thức với sự vật bên ngoài mà ở tính rõ ràng của các tri giác cảm tính, ở tiêu chuẩn
"ý kiến chung" là so sánh sự thật của ý thức con người không phải với hiện thực khách
quan, mà với ý thức của người khác.; ở sự đơn giản và dễ hiểu của các quan niệm; và ở
sự phù hợp của tri thức với ý thức và tuân theo ý chúa.
Triết học duy tâm chủ quan của Béc-cli về sau được Đavít Hium, Makhơ và
những môn đồ của Ma-khơ phát triển và ngày nay được tồn tại dưới nhiều hình thức
biến tướng mới.
3. Triết học duy vật Hà Lan thế kỷ XVII
Hà Lan ở thế kỷ XVII là một nước tư bản điển hình, là một nước thực hiện cuộc
cách mạng tư sản đầu tiên. Số lượng tàu thủy của Hà Lan nhiều hơn tất cả các nước
châu Âu cộng lại; là một nước giàu nhất châu Âu lúc đó. Triết gia duy vật tiêu biểu là
Barút Xpinôda.
Barút Xpinôda (1632-1677) là nhà tư tưởng duy vật xuất sắc ở Hà Lan. Ông là
con một thương nhân, học ở trường chuyên đào tạo các cha cố trường trung cấp tôn
giáo chấu Âu ở Amxtécđam. Ông rất say mê nghiên cứu triết học, khoa học tự nhiên.
Ông chịu ảnh hưởng quyết định luận của triết học Đêcáctơ, song ông cũng kiên quyết
phê phán nhị nguyên luận của Đêcáctơ. Sau khi đoạn tuyệt với tôn giáo, ông hoàn toàn
để tâm nghiên cứu khoa học tự nhiên và triết học. Ông sống một cuộc đời rất bình
thường, làm nghề mài kính để kiếm ăn.
Trong quan điểm về thế giới, Xpinôda đề ra nhiệm vụ cho mình là nhận thức
"trật tự tự nhiên phổ biến, mà người là một bộ phận". "Trật tự" ấy là vũ trụ vô tận bao
la duy nhất phục tùng những quy luật khách quan.”Thực thể duy nhất" là khái niệm
trung tâm của triết học Xpinôda.
Theo lý giải của Xpinôda, thực thể chính là giới tự nhiên. Giới tự nhiên như một
thực thể duy nhất hoàn toàn độc lập, tự tồn tại, tự nó sản sinh ra nó. Vì vậy giải thích
giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân nó.
Thực thê - giới tự nhiên, tồn tại được là nhờ lực lượng tiềm tàng của chính
mình, không cần có một cái gì siêu tự nhiên đứng trên nó, tức là không cần có thần.
Đồng thời, Xpinôda đưa ra một quan niệm sai lầm khi gọi thực thể - giới tự nhiên là
thần, tư tưởng là thuộc tính của mọi dạng vật chất , vạn vật đều có linh hồn. Vì vậy,
triết học duy vật của Xpinôda được nhiều người coi là biểu hiện dưới cái vỏ phiếm
thần luận. Thực ra ông là là một nhà vô thần, kịch liệt công kích tôn giáo.
Thực thể duy nhất, theo Xpinôda là nguồn gốc chung, là cơ sở và nền tảng, đồng
thời là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng kể cả vật chất lẫn tinh thần. do đó
"thực thể trở thành thực tại tối cao", vô tận về không gian, vĩnh hằng về thời gian.
Số thuộc tính của thực thể là vô tận. Song, những thuộc tính căn bản của thực
thể biểu hiện trong thế giới xung quanh của các "sự vật có hạn" mà chúng ta biết được

34
là có quảng tính và có tư duy. Ở đây, ông lại rơi vào quan điểm vật hoạt luận - tức là lý
luận cho rằng mọi vật đều có ý thức.
Khi giải thích sự phụ thuộc của các sự vật vào thực thể, Xpinôda đưa ra khái
niệm "dạng thức". Theo ông, dạng thức là cái tồn tại ở một cái khác và biểu hiện thông
qua cái khác nên nó không giống thực thể. Như vậy, dạng thức là biểu hiện đơn nhất
của thực thể, tức là các sự vật đơn nhất.
Nguyên lý Causasui (nguyên nhân tự nó) của Xpinôda ít nhiều mang tính chất
biện chứng, vì nó đi gần tới những tư tưởng về mối liên hệ phổ biến và sự ràng buộc
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Tư tưởng biện chứng thể hiện ở
chỗ khi ông cho rằng: quan hệ giữa thực thể và dạng thức là sự thống nhất giữa cái
chung và cái đơn nhất, giữa cái duy nhất và cái đa dạng.
Xpinôda cho rằng, thực thể thì bất động, còn dạng thức thì luôn vận động, bị chi
phối bởi quy luật nhân quả. từ đó ông đi đến quy luật duy vật : không có sự vật nào
không có nguyên nhân và nó là nguyên nhân của bản thân nó. Song ông dứt khoát phủ
nhận tính khách quan của ngẫu nhiên nên ông đã rơi vào quyết định luận duy vật máy
móc.
Học thuyết về thực thể của Xpinôda khẳng định lập trường nhất nguyên về thế
giới (khắc phục nhị nguyên luận của Đêcactơ trong việc lý giải mối quan hệ giữa tinh
thần và vật chất ), giải thích thế giới từ chính bản thân thế giới, đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật về sau.
Nhận thức luận của Xpi-nô-da gồm 4 nội dung chính:
Một là, ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn, trật tự và
liên hệ của các tư tưởng cũng là trật tụ và liên hệ của giới tự nhiên; "giới tự nhiên mãi
mãi và khắp nơi đều như nhau, và do vậy cách thức nhận biết sự vật như chúng có
cũng như nhau cả".
Hai là, ông không thừa nhận có tư tưởng bẩm sinh và cho rằng: nhiệm vụ của
nhận thức con người là phải đạt tới việc phát hiện ra sự tồn tại của những
nguyên nhân khách quan của các dạng thức, tức là các "sự vật đơn nhất".
Ba là, ông chia quá trình nhận thức của con người thành nhận thức cảm giác;
nhận thức giác tính và trực giác - đây chính là tư duy lý tính.
Theo Xpinôda, nhận thức cảm tính giúp chúng ta cảm thụ được tính sinh động
và đa dạng của sự vật. Nhưng nhận thức cảm tính chỉ phản ánh những trạng thái,
những thuộc tính không căn bản của sự vật, đem lại sự hiểu biết không đầy đủ. Còn
trực giác lý tính giúp chúng ta nhận thức được bản chất đích thực của thực thể. Ông là
nhà duy lý coi trọng vai trò của trí tuệ con người .
Tuy nhiên, trong lý luận của mình, Xpinôda chưa thể giải quyết đúng biện
chứng của quá trình chuyển từ cảm tính lên giác tính và trực giác. Vì vậy, trong vấn đề
này ông vẫn là nhà triết học siêu hình.
Bốn là, Xpinôda đã nêu ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề quan hệ giữa
tất yếu và tự do. Ông cho rằng, tất yếu và tự do không loại trừ nhau, trái lại phụ thuộc
vào nhau-muốn có tự do phải nhận thức và hành động theo cái tất yếu.
Xpinôda cho rằng, con người phải cố gắng không phải để "giới tự nhiên tuân
theo mình, mà trái lại để mình tuân theo giới tự nhiên".
35
Trong quan điểm về nhân bản và về xã hôi, Xpinôda cho rằng con người là dạng
thức của thực thể, là sản phẩm của tự nhiên. mọi hoạt động của nó phải tuân theo quy
luật của tự nhiên. Nhiệm vụ của triết học là phục vụ cuộc sống con người , giúp con
người có học thức, hiểu biết quy luật tự nhiên và sống theo lý tưởng cao đẹp.
Thể xác và linh hồn của con người chỉ là thể hiện hai thuộc tính của thực thể:
quảng tính và tư duy; chúng không thể tách rời nhau. Mọi quan niệm duy tâm coi linh
hồn và thể xác có thể tách rời nhau chỉ là giả dối.
Bản tính của con người là nhận thức. Nhu cầu nhận thức là khát vọng lớn nhất
của con người . Xpi-nô-da đề cao vai trò nhận thức tới mức coi nhận thức là chìa khóa
giúp con người giải quyết mọi tệ nạn xã hội, giải phóng khỏi mọi bất công và áp bức.
Con người là sự thể hiện thuộc tính của giới tự nhiên tự nhận thức ý thức chính
bản thân mình. Là một dạng thức của thực thể, con người cũng như mọi sự vật khác
đều nằm trong quá trình phát triển và diệt vong.
Về quan điểm xã hội, Xpi-nô-da đồng quan điểm với Hốp-xơ về xã hội và nhà
nước. Ông còn là nhà vô thần, đòi nghiên cứu kinh thánh như nghiên cứu một văn bản,
một văn kiện bình thường không thần thánh hóa. Ông đã chỉ ra được một phần nào
nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Theo ông, dưới nhãn hiệu tôn giáo, người ta làm cho
nhân dân tôn sùng hoàng đế như tôn sùng chúa Trời. Tuy nhiên, Xpinôda vẫn chủ
trương cho tôn giáo là cần thiết đối với nhân dân kém hiểu biết. Ông là nhà vô thần
không triệt để.
4. Triết học Pháp thế kỷ XVII - XVIII
Rơnê Đêcáctơ (1596-1650) nhà triết học nhị nguyên.
Rơnê Đêcáctơ là đại biểu xuất sắc nhất của triết học Pháp thế kỷ XVII. Xuất
thân trong một gia đình quý tộc, ông vừa là nhà toán học và khoa học tự nhiên xuất sắc
lại vừa là một trong những người sáng lập ra triết học cận đại. Cùng với Ph. Bêcơn, "
Đêcáctơ đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học". Tây Âu cận
đại.
Học thuyết triết học của Đê-các-tơ gồm hai bộ phận: "Vật lý học" và "Siêu hình
học". Trong vật lý học", ông là nhà duy vật , còn trong "siêu hình học" ông là nhà nhị
nguyên luận.
Về bản chất của triết học, Đêcáctơ cho rằng, triết học có thể được hiểu theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.Theo nghĩa rộng nó là tổng thể tri thức của con người về
nhiều lĩnh vực, nó đem lại lợi ích thiết thực và trực tiếp cho đời sống con người. Theo
nghĩa hẹp, nó là siêu hình học, là nền tảng của thế giới quan, nó phục vụ cho con
người một cách gián tiếp chủ yếu thông qua các khoa học khác.
Theo Đêcáctơ, trình độ phát triển của tư duy triết học là thước đo quan trọng
nhất để đánh giá trình độ văn minh của con người và sự ưu việt của dân tộc này so với
dân tộc khác. Vì triết học là sự thể hiện cơ bản nhất sự thông thái của con người
không chỉ trong lĩnh vực nhận thức mà cả trong công việc. Ông đề ra nhiệm vụ cho
triết học xây dựng những nguyên lý phương pháp luận cơ bản làm cơ sở cho các khoa
học khám phá ra chân lý; và giúp con người làm chủ giới tụ nhiên trên cơ sở nhận
thức cái quy luật của nó. Muốn vậy phải xây dựng hệ thống triết học mới, hoàn toàn
khác với các triết học đã có.
36
Quan điểm của Đêcáctơ về bản chất của triết học mang một ý nghĩa cách mạng
trong lịch sử triết học cho đến thời đại của ông, tuy rằng ông chưa nhận thức được vai
tro của điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự phát triển của triết học.
Điểm xuất phát của triết học Đê-các-tơ là quan điểm :"Tôi suy nghĩ vậy là tôi
tồn tại". Từ đó ông xây dựng toàn bộ hệ thống triết học của mình.
Nếu Bêcơn chủ trương: để nhận thức đúng trước hết cần tẩy rửa các "ảo tưởng"
thì Đê-các-tơ lại đề ra nguyên tắc "nghi ngờ". Ông khẳng định rằng, cần phải nghi ngờ
tất cả mọi cái mà người ta tin đấy là chân lý; có thể nghi ngờ mọi cái, thậm chí có thể
nghi ngờ cả cái mà về sau rất có thể được thừa nhận là chân lý.. Theo ông, nghi ngờ
không phải để nghi ngờ, không phải là chủ nghĩa hoài nghi, mà nghi ngờ chỉ là một
biện pháp cần thiết để không mắc phải sai lầm trong nhận thức , nghi ngờ để có lòng
tin chắc chắn, nghi ngờ để tin.
Như vậy, nguyên tắc nghi ngờ của Đêcáctơ mang nội dung tích cực. Cần nói
thêm rằng, ở nước Pháp thời kỳ Đêcáctơ vẫn còn sự thống trị khe khắt của nhà thờ
thiên chúa giáo, mà nguyên tắc cơ bản của giáo lý thiên chúa giáo phải có lòng tin (hay
đức tin), thế mà Đêcáctơ lại chủ trương nghi ngờ tất cả mọi tri thức mà con người đã
đạt từ trước đến nay dưới sự phê phán của lý tính. Đó là một tiến bộ, thể hiện sự dũng
cảm của nhà khoa học chân chính, vạch rõ con đường mới của nhận thức .
Từ nguyên tắc ”nghi ngờ", Đêcáctơ đã rút ra kết luận, dù tôi nghi ngờ mọi cái,
nhưng không thể nghi rằng tôi đang nghi ngờ, mà nghi ngờ cũng là tư duy, là suy nghĩ.
Do đó, "tôi suy nghĩ vậy là tôi tồn tại". Theo Đêcáctơ, đó là nguyên lý cơ bản, bất di
bất dịch, không thể gây ra sự nghi ngờ nào cả; và có thể lấy nguyên lý ấy làm điểm
xuất phát cho kết luận lôgic của toàn bộ nhận thức .
Sai lầm của Đêcáctơ là đã quá đề cao tư duy, coi thường kinh nghiệm, và chứng
minh sự tồn tại của con người thông qua tư duy. Nhưng ở thời kỳ Đêcáctơ, nguyên lý
này có một ý nghĩa rất lớn, đòi hỏi nhà khoa học phải suy nghĩ bằng chính lý trí của
mình, vì điều đó quyết định họ có xứng đáng với tính cách là nhà khoa học hay không.
Nó phủ nhận tất cả mọi thứ giáo điều và vô căn cứ; mọi tri thức của con người về hiện
thực, kể cả hiện thực xã hội đều phải đưa ra trước "tòa án" của lý tính để bào chữa cho
sự tồn tại của mình.
Về bản thể luận triết học, Đêcáctơ đã đưa ra quan điểm duy vật về thế giới. theo
ông, vũ trụ là thế giới vật chất ; vật chất là vô tận; vật chất dù gồm có những hạt nhỏ
nhưng về nguyên tắc là có thể phân chia vô cùng, không có giới hạn.
Đêcáctơ cho rằng, không có không gian và thời gian rỗng, không có vật chất ;
Trái lại, không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể; vận động là không
thể bị tiêu diệt, nó luôn
luôn gắn liền với các vật thể, vật thể luôn luôn vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận
động trong không gian.
Thời bấy giờ khoa học chưa phát triển đến mức độ cho phép phát hiện ra các
hình thức vận động khác của vật chất, cho nên Đêcáctơ hiểu vận động của vật chất chỉ
là vận động cơ giới, sự dịch chuyển vị trí trong không gian.
Từ lý luận về hạt nhỏ của vật chất , Đêcáctơ đã xây dựng lý thuyết giả định về
sự hình thành vũ trụ. Ông cho rằng, vật chất lúc đầu ở trạng thái hoàn toàn đồng loại
37
và chuyển động không ngừng theo chiều xoáy như những cơn lốc. Quá trình "xoáy
lốc" đó phân chia vật chất thành ba loại: những hạt lớn hợp thành yếu tố như "đất, đá",
những hạt nhỏ hợp thành "không khí", còn những hạt cực nhỏ hợp thành yếu tố lửa.
Đương nhiên giả thuyết "gió xoáy" của Đêcáctơ còn nhiều hạn chế và thiếu cứ liệu
khoa học cụ thể. Song so với quan niệm vũ trụ học thời cổ đại, thì giả thuyết này của
ông là một bước tiến bộ rất lớn cả về quy mô và tầm vóc tư duy.
Trong "siêu hình học", Đêcáctơ đứng trên quan điểm nhị nguyên luận. Ông cho
rằng, có hai thực thể : thực thể vật chất và thực thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau,
không phụ thuộc vào nhau. Đặc trưng của thực thể vật chất là có quảng tính; còn đặc
trưng của thực thể tinh thần là biết tư duy; cả hai thực thể này đều phụ thuộc một
nguyên thể tối cao là Thượng đế. Con người được kết hợp bởi hai yếu tố: vật chất (thể
xác) và yếu tố tinh thần (tư duy).
Như vậy, xét về toàn bộ bản thể luận triết học của Đêcáctơ có xu hướng duy vật
; còn xét riêng bộ phận "siêu hình học", ông là nhà duy vật thiếu triệt để, theo nhị
nguyên luận. Vào thế kỷ XVIII, nhiều nhà duy vật Pháp đã xuất phát từ lý luận duy vật
của ông đó là một đóng góp tích cực có giá trị trong bản thể luận triết học của Đêcáctơ.
Về phương pháp luận, nếu Bê - cơn từ thực nghiệm của khoa học vật lý đề cao
quy nạp, thì Đêcáctơ từ góc độ toán học đã đề ra phương pháp suy lý. Thực ra, đó chỉ
là hai thái cực của cùng một sai lầm - phương pháp siêu hình - tách rời hai giai đoạn
cảm tính và lý tính của nhận thức .
Từ việc đề cao phương pháp suy lý, Đêcáctơ đi đến quan điểm thiên lệch, sai
lầm về tiêu chuẩn của chân lý. Ông cho rằng, tiêu chuẩn của chân lý không phải là
thực tiễn, thực nghiệm khoa học mà là tư duy có rành mạch khúc triết, lôgic.
Phương pháp nhận thức của Đê-các-tơ gồm bốn nguyên tắc:
1. Trước hết phải nghi ngờ, trước khi chưa thấy chắc chắn nó là chân lý.
2. Cần chia nhỏ đối tượng nhận thức để nhận thức.
3. Trong quá trình nhận thức, cần phải xuất phát từ những điều đơn giản nhất, sơ
đẳng nhất,dần dần đi đến những điều phức tạp hơn, theo trình độ lôgic của vấn đề.
4. Phải xem xét đầy đủ mọi dữ kiện, không bỏ sót một tư liệu nào trong quá
trình nhận thức.
Do quá đề cao tư duy lý tính, xem nhẹ trực quan cảm tính, cho nên Đêcáctơ đã
đi đến quan niệm rằng, có "tư tưởng bẩm sinh" . Ông cho rằng những nguyên tắc cơ
bản của lôgic học và toán học là những "tư tưởng bẩm sinh".
Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII là thế giới quan, là nền tảng tư tưởng
chuẩn bị cho cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789-1794).
Vào thời kỳ này, các nhà duy vật Pháp đã kiên quyết chống thế giới quan tôn
giáo và phong kiến; can đảm vạch trần chính sách ngu dân của thời trung cổ; kiên
quyết chống lại chế độ chuyên chế và chế độ nông nô.
Nước Pháp lúc đó đã tập trung những mâu thuẫn kinh tế và chính trị sâu sắc
nhất Tây Âu. Đó là nguyên nhân cơ bản tạo ra sự bùng nổ cuộc cách mạng tư sản
Pháp. Cuộc đại cách mạng này là một cái mốc lịch sử trọng đại đánh dấu sự sụp đổ của

38
chế độ phong kiến thối nát và thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu, bắt đầu từ
nền văn minh công nghiệp với sự phát triển cao chưa từng có trong lịch sử.
Tình hình đó đã được phản ánh trong các tư tưởng triết học đương thời. Khác
với chủ gnhĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII không
cần đến ngọn cờ tôn giáo, nó kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa vô thần chiến đấu tạo ra
một nét đặc thù của triết học Pháp thời kỳ này.
Triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII có nguồn gốc lý luận từ chủ nghĩa duy vật
Anh (nhất là Lôccơ), "Vật lý học" của Đêcáctơ và vật lý học Niu-tơn. Và cũng từ đó,
đã nảy sinh hai khuynh hướng duy vật :một khuynh hướng bắt nguồn từ Đê-các-tơ
(Lametri) và một khuynh hướng bắt nguồn từ Lôccơ (Henvêti-uyt, Hônbách). Nhưng
trong các học thuyết triết học Pháp thời kỳ này đều có chung đặc trưng nổi bật là: đại
biểu cho lợi ích của giai cấp tư sản cách mạng thời đó và mang tính chất siêu hình đậm
nét.
a.Triết học của Gi-u-len Ô-phrơ La-me-tri.
Giulen Ô-phrơ Lametri (1709-1751) sinh trong một gia đình thương nhân giàu
có. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông nghiên cứu y học và trở thành bác sĩ, đồng thời,
say mê nghiên cứu triết học và khoa học. Lametri là nhà triết học tiêu biểu của triết
học Pháp thế kỷ XVIII. Những tác phẩm triết học chủ yếu của ông là "Lịch sử tự nhiên
của linh hồn" (1745); "Con người là cái máy" (1747); "Con người thực vật" (1748)...
Về bản thể luận triết học, nếu Xpinôda coi toàn bộ giới tự nhiên là thực thể duy
nhất thì Lametri cho rằng, thế giới là thực thể vật chất. Thực thể vật chất là nguồn gốc
duy nhất của mọi sự vật, hiện tượng, kể cả con người. Trong thế giới chúng ta không
có gì khác ngoài vật chất đang vận động vĩnh viễn. Nguyên nhân của sự vận động
không phải do một lực lượng bên ngoài, mà "vật chất chứa đựng một lực lượng làm nó
sống động, và là nguyên nhân trực tiếp của mọi quy luật vận động".
Theo ông, vật chất không chỉ có thuộc tính không gian và vận động mà còn có
năng lực cảm giác. Nhưng năng lực cảm giác không phải xuất hiện ở bất cứ dạng vật
chất nào, mà chỉ xuất hiện ở các "vật thể có tổ chức đặc biệt" - đó là giới sinh vật. Đây
là một bước tiến mới so với Xpinôda.
La-metri cho rằng, con người là khí quan vật chất của tu duy và ý thức. Trong
đó mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người đều bị quy định bởi cấu trúc cơ thể và chịu sự
tác động với môi trường và các điều kiện sống. Ông quan niệm :"Con người là một cái
máy phức tạp tới mức hoàn toàn không thể có một ý tưởng rõ ràng, và do vậy, không
thể đưa ra một định nghĩa chính xác về con người ".
Về nhận thức luận, Lametri cho rằng, mọi nhận thức đều bắt đầu từ cảm giác
đến tư duy trừu tượng - phán đoán và suy lý. theo ông, phán đoán là sự so sánh, kết
hợp các biểu tượng có được nhờ trí nhớ ghi lại cảm giác của con người trong đời sống
hàng ngày, còn suy lý là sự so sánh kết hợp các phán đoán với nhau, nhằm khẳng định
hay phủ định một vấn đề nào đó.
Như vậy, quan niệm duy vật về quá trình nhận thức của Lametri đã có những
yếu tố biện chứng. Tuy nhiên, ông không thể vượt khỏi hạn chế của lịch sử. Lý luận
nhận thức của ông vẫn mang tính trực quan, siêu hình. Là một bác sĩ, nghề nghiệp đã

39
ảnh hưởng lớn tới lý luận triết học, nên ông đã quá nhấn mạnh về vai trò của tâm sinh
lý trong nhận thức luận.
Về quan điểm xã hội, Lametri chủ trương thực hiện quyền sở hữu tư sản, chủ
trương một xã hội được quản lý theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do chính trị và
quyền công dân, tự do buôn bán. Ông đã lẫn lộn tự do về tư hữu với tự do của con
người. Ông cho rằng người nghèo không cần tự do, cái họ cần là tôn giáo. Là người có
tư tưởng khai sáng, ông chủ trương thông qua giáo dục, truyền bá tư tưởng tiến tiến
cho mọi người, sẽ giải quyết được mọi đòi hỏi của tiến bộ xã hội. Là một người duy
vật vô thần, nhưng trước tôn giáo ông hoàn toàn lúng túng. Ông cho rằng, đối với
người làm khoa học thì không cần tôn giáo, nhưng để quản lý xã hội thì rất cần tôn
giáo. Tôn giáo là cần thiết đối với đại đa số nhân dân không có học.
b. Triết học của Đê-ni Điđơrô.
Đêni Điđơrô (1713-1784) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, ông là một
nhà duy vật tiêu biểu của triết học khai sáng, người chủ biên của bộ Bách khoa toàn
thư (1751-1789) của Pháp. Những tác phẩm chủ yếu của ông là :"Các tư tưởng triết
học" (1746), "Cuộc dạo chơi của nhà hoài nghi luận hay là Alleax" (1747) và nhiều tác
phẩm văn học mang tính triết lý.
Về bản thể luận, Điđơrô đã phê phán chủ nghĩ duy tâm chủ quan của Béccli và
phê phán tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. "Trong vũ trụ chỉ có một
thực thể - cả trong con người lẫn động vật" - đó là vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ
các vật thể có quảng tính, có hình thức, và luôn luôn vận động.
Nguyên nhân của vận động, theo Điđơrô, là tự thân vật chất. "Sự dịch chuyển
của vật thể từ vị trí này sang vị trí khác, không phải là vận động mà chỉ là sự di động,
còn vận động thì có cả ở vật đang vận động lẫn vật đang đứng yên". Ông cho rằng,
chính quá trình vận động và phát triển của giới tự nhiên mà những gì không thích nghi
và chọn lọc đã giúp cho nó ngày càng hoàn thiện. Từ đó ông đi đến tư tưởng cho rằng,
kết cấu và trạng thái của sinh vật là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự
nhiên. có thể nói, với quan niệm này, Điđơrô là tiền thân của học thuyết tiến hóa của
Đácuyn.
Những quan điểm về bản thể luận trên đây của Đi-đơ-rô rất gần với quan điểm
duy vật hiện đại.
Về lý luận nhận thức , Điđơrô đã xây dựng lý luận nhận thức trên lập trường
duy vật. Ông cho rằng, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức và
các quá trình tâm lý. Ông khẳng định:"Không có cơ thể con người thì không thể giải
thích được cái gì cả" . Bước chuyển tiếp vô tri, vô giác tới khả năng cảm giác, tư duy
đều gắn liền với quá trình phát triển của cấu trúc vật chất từ vô cơ, hữu cơ, đến sự sống
và cơ thể con người.
Điđơrô là nhà duy lý kiểu mới, đề cao khả năng nhận thức cảm tính trong quá
trình nhận thức . Ông nói:"Phương pháp triết lý đúng đắn đã và sẽ phải là ở chỗ sao
cho kiểm tra trí tuệ bằng trí tuệ, sao cho bằng trí tuệ và thực nghiệm kiểm soát các cảm
tính, bằng cảm tính nhận thức giới tự nhiên, nghiên cứu giới tự nhiên để sáng chế các
công cụ, dùng các công cụ để tìm tòi và hòan thiện các tri thức".

40
Về quan điểm chính trị - xã hội, Điđơrô cho rằng, bộ mặt trí tuệ và đạo đức của
con người là do môi trường và hoàn cảnh xã hôi tạo nên, chứ không phải do Thượng
đế. Thượng đế chỉ là sự thần thành hóa các điều kiện sống hiện thực của con người, chỉ
có khoa học mới vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người
lớn mạnh thêm, còn tôn giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tưởng, làm cho con người
mềm yếu đi.
Điđơrô mới chỉ nhìn tôn giáo ở nguồn gốc tâm lý sợ chết của con người, chứ
không nhìn thấy cơ sở kinh tê - xã hội của sự tồn tại tôn giáo. Ông viết :"Hãy xóa bỏ
nỗi lo sợ địa ngục của người theo đạo cơ đốc, thì sẽ xóa bỏ được tín ngưỡng của anh
ta".
Đứng trên quan điểm về xã hôi khế ước, Điđơrô đòi thực hiện cai trị theo dân
chủ tư sản, mở mang hệ thống giáo dục trong nhân dân, và cần phải xây dựng các đạo
luật tiến bộ, còn "các đạo luật đốt nát đó là những cái làm trụy lạc chúng ta"
c. Pôn Hăngri Hôn bách (1723-1789).
Pôn Hăngri Hôn - bách là một đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa vô thần hồi thế kỷ XVIII, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng Pháp,
cộng tác viên của Bách khoa toàn thư. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng
như: "Hệ thống của tự nhiên", "Đạo thiên chúa bị lật mặt nạ", "Thần học thu nhỏ lại",
"Sự truyền nhiễm thiêng liêng".v.v...
Về vấn đề cơ bản của triết học, Hônbách đã đứng trên lập trường duy vật và
dựa vào những tài liệu của khoa học, khẳng định một cách dứt khoát rằng tư nhiên là
nguyên nhân đầu tiên của vạn vật. Vật chất là thực tại khách quan tác động đến giác
quan của con người . Những đặc tính chủ yếu của vật chất là: quán tính, vận động,
tính có thể phân chia, tính chắc chắn trọng lực.
Theo Hônbách, tự nhiên tồn tại vĩnh viễn, không ai sáng tạo ra nó và cũng
không thể bị tiêu diệt. Vật chất hoạt động là do sức mạnh của tự bản thân nó và không
cần có sự thúc đẩy bên ngoài.
Công lao của Hônbách thể hiện ở chỗ ông thừa nhận vận động là thuộc tính cố
hữu của vật chất . Nhưng là nhà duy vật siêu hình, và do hạn chế của điều kiện lịch sử,
ông hiểu vận động là sự đổi chỗ giản đơn của các vật thể trong không gian.
Trong cuốn "Hệ thống của tự nhiên", Hônbách khẳng định ý thức là đặc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao và phê phán tính chất vô lý của những học thuyết
về linh hồn, phi thể chất, về con người được tạo ra theo hình ảnh của thượng đế. Ông
khẳng định: " con người là sản phẩm của tự nhiên tồn tại trong tự nhiên, phục tùng quy
luật của tự nhiên, không thể thoát khỏi tự nhiên, thậm chí cả về mặt tư tưởng cũng
không thể vượt khỏi tự nhiên được".
Về nhận thức luận, Hônbách chứng minh rằng, trí lực con người phụ thuộc vào
cơ cấu của toàn thể con người .Năng lực cảm giác của con người gíup con người
nhận thức đượcthế giới với quy luật của nó. Không có linh hồn bất tủ, không có tư
tưởng bẩm sinh. Con người không thể rút ra từ linh hồn những quan niệm và tư tưởng,
mà phải từ thế giới bên ngoài.

41
Hônbách đem quyết định luận máy móc của mình đối lập với mục đích luận.
Mọi hiện tượng mà con người chưa nhận thức được đều được ông gọi là hiện tượng
ngẫu nhiên - ông chưa hiểu được tính khách quan của hiện tượng ngẫu nhiên.
Trong quan điểm về xã hội, Hônbách mang tính chất duy tâm. Ông coi sự phát
triển của xã hội như một quá trình định mệnh chi phối. Là nhà triết học trong phái
khai sáng, ông quả quyết
rằng, loài người có thể thoát khỏi ách phong kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho
lý tính thắng chủ nghĩa ngu dân thời trung cổ. Ông mong muốn có sự quá độ hòa bình
từ chế độ phong kiến sang xã hội tư bản bằng con đường lập pháp : “hoàn thiện". Ông
sợ phong trào cách mạng của quần chúng, mà muốn có "cách mạng từ trên xuống".
d.Giăng Giắ-cơ Rútxô (1712-1778).
Giăng Giắccơ Rútxô là nhà văn, nhà tư tưởng, nhà triết học khai sáng lỗi lạc
Pháp. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, đã làm nhiều nghề khác nhau để
kiếm sống. Ông say mê nghiên cứu triết học, văn học, nghệ thuật và là cộng tác viên
của nhóm bách khoa toàn thư, kết bạn với Đi-đơ-rô. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng.
Những quan điểm về xã hội của ông đã trở thành ngọn cờ tư tưởng cho hoạt động của
giai cấp tư sản cách mạng Pháp hồi đó.
Trong quan điểm về triết học, Rútxô là người theo tự nhiên thần luận, thừa nhận
có thần và linh hồn bất tử. Ông cũng là một nhà nhị nguyên luận, cho rằng: vật chất và
tinh thần là hai nguyên bản tồn tại từ xưa đến nay.
Về nhận thức luận, ông chủ trương cảm giác luận và thừa nhận đạo đức có tính
chất bẩm sinh.
Quan điểm về xã hội của Rútxô mang tính chất cấp tiến, chứa đựng nhiều tư
tưởng biện chứng và tiến bộ so với những nhà triết học cùng thời. Điều đó được thể
hiện ở những mặt chủ yếu dưới đây :
1. Rútxô cho rằng, lịch sử loài người không phải do bàn tay thượng đế tạo ra,
mà là kết quả hoạt động của chính bản thân con người. Lịch sử loài người là một quá
trình phát triển từ thấp đến cao qua ba giai đoạn. mà ông gọi là ba "trạng thái", mỗi
trạng thái có đặc trưng riêng do trình độ phát triển kinh tế và hình thái sở hữu quyết
định.
Đối với giai đoạn đầu tiên của xã hội loài người, Rútxô gọi là "trạng thái tự
nhiên”, có đặc trưng là chưa có sự khác nhau rõ rệt giữa mọi người về kinh tế, về địa
vị xã hội, về đẳng cấp. Đây là thời kỳ lâu dài nhất, bình yên, thuần nhất và hạnh phúc
nhất. Trong giai đoạn đó, "con người đã phát minh ra lưỡi câu và cây gậy để câu cá,
cung tên để săn bắn ... may áo quần bằng vỏ cây và da thú, dùng lửa để nấu ăn, sống
trong "quần thể" một cách thất thường ...". Có thể nói, Rútxô đã tiên đoán và phác họa
một cách thiên tài thời kỳ sơ khai của lịch sử loài người với những tài liệu khảo cổ học
còn ít ỏi của thời đại ông.
Giai đoạn thứ hai của lịch sử loài người là xã hội công dân. Rútxô gọi đó là
"trạng thái công dân". theo Rútxô, nguyên nhân làm cho "trạng thái tự nhiên" của xã
hội bị phá vỡ, dẫn đến sự xuất hiện xã hội công dân, chính là do việc sáng tạo ra nhiều
công cụ lao động mới hoàn thiện hơn, và đặc biệt là sự xuất hiện sở hữu tư nhân.

42
Cũng theo ông, đặc trưng của xã hội công dân có sự xuất hiện nhà nước, xuất
hiện các đạo luật xã hội, chế độ sở hữu tư nhân, phân chia giàu nghèo, đẳng cấp, "tạo
ra các xiềng xích mới trói buộc kẻ yếu, đem lại sinh lực cho kẻ mạnh, hủy diệt một
cách không thương tiếc tự do tự nhiên, vĩnh viễn thiết lập các đạo luật sở hữu và bất
bình đẳng". Các mối quan hệ xã hội bị biến chất, đối lập với bản tính tự nhiên của con
người, xuất hiện các cuộc chiến tranh và các tệ nạn xã hội. Đây là thời kỳ đối lập với
bản tính tự nhiên của con người. Giai đoạn thứ ba của lịch sử loài người là xã hội
trở về với "trạng thái tự nhiên" ban đầu của nó, nhưng trên cơ sở cao hơn. Trong đó tự
do, bình đẳng được khôi phục, bất công và mọi tệ nạn xã hội bị xóa bỏ. Mặc dù xã hội
văn minh này cao hơn hẳn thời kỳ đầu của nhân loại, nhưng không thể nói xã hội này
là hoàn thiện tuyệt đối. Bởi vì:"Người mông muội và người văn minh khác nhau về
tâm hồn, các năng khiếu, thiên hướng, ham thích tới mức hạnh phúc tột đỉnh của người
này lại dẫn đến bất hạnh cho người kia" . Do đó nhân dân phải xây dựng lại nhà nước
trên cơ sở khế ước xã hội mới nhằm phục vụ cho lợi ích và quyền tự do bình đẳng của
mọi thành viên xã hội. Theo Rútxô, xã hội mới này vẫn cần có sở hữu tư nhân, ở mức
độ nhất định để nhờ đó xã hội mới cạnh tranh, tạo động lực cho sự phát triển; đồng
thời phải xây dựng quan hệ xã hôi dựa trên công lý để không cho phép xuất hiện các
đẳng cấp đối địch nhau.
2. Trong tác phẩm chủ yếu : “Khế ước xã hội" (1762), Rút - xô trình bày học
thuyết về mô hình nhà nước lý tưởng xây dựng trên cơ sở hiệp thương giữa mọi người
và thừa nhận dân có quyền nắm chính quyền.
Theo Rútxô, sự ra đời của sở hữu tư nhân là kết quả phát triển tất yếu của xã hội
ở giai đoạn tự nhiên. Việc xác lập sở hữu tư nhân sinh ra sự khác nhau trong thu nhập,
xã hôi phân chia thành kẻ giàu người nghèo, đồng thời nảy sinh những đạo luật sở hữu
và bất bình đẳng trói buộc những người nghèo, kẻ yếu, đem lại sinh lực cho người giầu
kẻ mạnh. Như vậy , theo ông, sở hữu tư nhân nhằm phát triển sản xuất, đem lại khả
năng tự hoàn thiện và làm cho con người sống văn minh hơn, đồng thời cũng trở thành
nỗi bất hạnh cho chính con người.
Rút-xô cho rằng, bản tính tự nhiên của con người là sống cộng đồng. Do đó khế
ước xã hội được thiết lập phải nhằm cải biến con người khỏi tính ích kỷ cá nhân và bảo
đảm cho mọi người về
quyền tự do, bình đẳng và lợi ích.. Muốn vậy phải xây dựng một nhà nước dựa trên cơ
sở khế ước xã hội mới, nhà nước quản lý xã hội bằng các luật pháp, và quyền lập pháp
thuộc về nhân dân và phục vụ nhân dân.
Trong lý luận về nhà nước, Rútxô nêu ra tư tưởng sai lầm rằng, hình thức nhà
nước dân chủ chỉ có thể thực hiện được ở những vùng khí hậu ôn hòa. Còn các nước ở
những vùng khí hậu nóng thì hình thức nhà nước chuyên chế là thích hợp để quản lý
bằng cưỡng bức các thành viên xã hội. Bởi vì theo Rútxô, điều kiện địa lý, đặc biệt là
khí hậu, giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Ông còn cho rằng, trong xã
hội những quan điểm về pháp luật và đạo đức có tác dụng quyết định; ông cũng không
hiểu được bản chất giai cấp của nhà nước.
3. Về giáo dục, Rútxô có nhiều quan niệm tiến bộ. Trong cuốn “Êmilơ” (1762),
ông kịch liệt phê phán chế độ giáo dục của xã hội phong kiến. Theo ông giáo dục phải
43
nhằm mục đích đào tạo những công nhân tích cực và cần lao. Đây là quan điểm tích
cực và tiến bộ về giáo dục hồi thế kỷ XVIII.
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng và
cận đại giúp chúng ta hiểu được lịch sử phát triển tư tưởng triết học trong thời kỳ này
với tất cả những gì là tiến bộ và hạn chế của nó, mà đến nay vẫn chưa mất tính thời sự;
có thêm cơ sở để hiểu sâu sắc và đúng đắn hơn triết học mác-xít; và những cơ sở lịch
sử cần thiết phục vụ cho sự nghiệp đổi mới nước nhà.
Câu hỏi ôn tập
1- Phân tích giá trị cách mạng của tư tưởng thời kỳ Phục hưng ở Tây
Âu ?
2- Tư tưởng triết học cơ bản của các triết gia tiêu biểu thời kỳ Phục hưng ở Tây
Âu ?
3- Điều kinh tế - xã hội và những đặc trưng của nền triết học Tây Âu thế kỷ 17-
18 ?
4- Tư tưởng triết học duy vật Anh qua hệ thống triết học của Bê cơn ?
5- Đặc điểm triết học Pháp ?
6- So sánh triiết học của Lốc - cơ với Beccơli và Phơ Bách ?
7- Những quan điểm triết học chủ yếu của mỗi triết gia tiêu biểu ?
Chương 4
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I/ Điều kiện kinh tế - xã hội Đức thế kỷ XVII - XIX.
Nước Đức đầu thế kỷ XVII đầu thế kỷ XIX vẫn lầ một nước rất lạc hậu về kinh
tế chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh, Pháp. Đó là một giang sơn phong
kiến điển hình một tập hợp 360 quốc gia tự lập. Liên bang Đức chỉ là hình thức. Thủ
công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị định đốn. Triều đình vua Phổ Phririch
Vinhem (1770 - 1840) vẫn tăng cường quyền lực và duy trì chế độ quân chủ phong
kiến, cản trở đất nước Đức phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước
bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Đây là một trong những
thời kỳ hèn kém nhất trong lịch sử nước Đức.
Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng
của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ, nhưng vì giai cấp tư sản Đức và lực
lượng tiến bộ khác nằm ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng,
yếu kém về chính trị, vì thế đã không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn,
mà tiến hành cuộc cách mạng về phương diện tư tưởng. Những tác phẩm của Gớt,
Sinlơ, Cantơ, Phíchtơ v.v. đều toát lên tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất
công của xã hội; phản ánh nguyện vọng của giai cấp tư sản Đức thời đó.
Bối cảnh chính trị - xã hội và sự phát triển của khoa học Tây Âu ở nước Đức
lúc đó chứng tỏ sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý
giải bản chất các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự
nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và
vai trò của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
II/ Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
44
Do điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng,
nhưng hình thức của nó thì cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Đây là một đặc
điểm của triết học Đức thời kỳ đó. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong hệ thống
triết học của Hêghen. Triết học của ông bao chứa một nội dung cách mạng sâu sắc, đó
là phép biện chứng, nhưng hệ thống (hình thức) triết học của ông lại cực kỳ duy tâm,
rối rắm và kéo theo những kết luận chính trị phản tiến bộ.
Đề caovai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể
hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học là một đặc điểm của
của triết học cổ điển Đức. Trong đó thành tựu cơ bản là đã khẳng định : con người là
chủ thể, đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức
của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế
giới; lịch sử phát triển của nhân loại là một quá trình phát triển biện chứng. Tuy nhiên,
họ đã thần thánh hóa trí tuệ và sức mạnh của con người tới mức coi con người là chúa
tể của tự nhiên.
Tiếp theo tư tưởng biện chứng trong triết học thời cổ đại, triết học cổ điển Đức
xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với phương
pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả
thuyết tinh vân về sự hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và
phạm trù cơ bản của phép biện chứng làm cho phép biện chứng trở thành một khoa
học đã thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học.
III/ Những đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức: Cantơ, Hêghen,
Phơbách.
1- Imanuen Cantơ (1724 - 1804)
Thời kỳ trước phê phán (1746 - 1770)
Ông tự nhận mình là người tiếp tục công việc của các nhà duy vật cổ đại như
Đêmôcrít, Êpiquya. Quan điểm duy vật trong triết học tự nhiên của Cantơ thể hiện
ở những luận điểm chủ yếu dưới đây :
Cantơ cho rằng, thế giới của chúng ta là thế giới vật chất luôn luôn vận động và
bién đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua
lực hút và lực đẩy. Ông viết : “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới vật chất từ
nó, nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ ra cho các bạn thấy, thế giới phải ra đời từ
vật chất như thế nào”.
Cantơ cho rằng, không thể chỉ dùng sức hút mà giải thích được nguồn gốc thế
giới. Vì chỉ có một mình sức hút có tác dụng thì thế giới vật chất bao giờ cũng ở trạng
thái đứng im mãi mãi. Bên cạnh sức hút còn có sức đẩy ra. Chính sự tương tác giữa
sức hút và sức đẩy làm cho vật chất vận động và vật chất không hình mới biến thành
những thiên thể hình cầu. Nhờ vậy, giới tự nhiên mới có thể tồn tại và vận động được.
Ở đây Cantơ đã tiến tới vấn đề sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Năm 1766, Cantơ đã viết cuốn sách “ Những mơ ước của anh chàng ảo tưởng
được soi sáng bằng những ước mơ của khoa siêu hình “. Trong cuốn sách này, ông đã
chế giễu những kẻ mê tín, tin vào thần linh, Ở đây đã thể hiện quan điểm vô thần của
ông.
45
Thời kỳ phê phán (sau 1770)
Thời kỳ này triết học của Can - tơ chịu ảnh hưởng nhiều của triết học Hium,
Lépnít và Vônphơ.
Về nhiệm vụ của triết học, Cantơ cho rằng, nhiệm vụ hàng đầu của triết học là
phải xác định bản chất của con người. Theo Cantơ, khoa học là triết học với mục đích
là xác định bản chất của con người. Khoa học đó không được dừng lại ở những vấn đề
nhận thức luận đơn thuần, mà phải hướng nhiệm vụ vào việc giải quyết những vấn đề
của cuộc sống, và hoạt động thực tiễn của con người mà bất cứ ai cũng băn khoăn
trong cuộc đời mình; nghĩa là phải lý giải các vấn đề :
“Tôi có thể biết được cái gì ?
Tôi cần phải làm gì?
Tôi có thể hy vọng cái gì ?”
Cantơ đã đề ra cho mình những nhiệm vụ to lớn vĩ đại và đầy tinh thần nhân
đạo. Nhưng ông không thể vượt qua được những hạn chế lịch sử của thời đại và hoàn
cảnh xã hội Phổ mà ông đang sống.
Về “tri thức tiên nghiệm”, “vật tự nó “
Cantơ gọi thế giới vật chất là những “vật tự nó” tồn tại khách quan. Về nguyên
tắc, “vật tự nó” là không thể nhận thức được, là siêu nghiệm. Mọi tri thức của con
người không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan (vật tự nó), mà chỉ nhận thức
được hiện tượng sinh ra từ tác động của “vật tự nó” lên các giác quan của con người.
Ông khẳng định, mọi tri thức của con người đều chỉ giới hạn trong các hiện tượng mà
thôi. Đó là thực chất là bất khả tri luận của ông. Tuy vậy trong quan niệm “vật tự nó”
vẫn chứa đựng một ý nghĩa tích cực, nó khẳng định sự tồn tại của các sự vật khách
quan bên ngoài chúng ta. Ở góc độ này ông thể hiện như một nhà duy vật.
Ông chia tri thức loài người thành hai loại : tri thức kinh nghiệm cảm giác và tri
thức tiên nghiệm. Theo ông mọi sự vật trong thế giới tồn tại dưới dạng đơn nhất, cá
biệt và hỗn độn. Tri thức kinh nghiệm cảm giác chỉ nắm bắt được những hiện tượng
riêng biệt, lộn xộn. Tri thức tiên nghiệm có sẵn trong ý thức đem lại trật tự cho mớ tri
thức kinh nghiệm cảm giác lộn xộn ấy và đem lại những mối liên hệ nhân quả tất
nhiên, tính phổ quát, tính tất yếu của thế giới hiện tượng. Như vậy theo ông, thế giới
tồn tại khách quan, nhưng quy luật của thế giới lại là sản vật của ý thức. Ở điểm này
ông là nhị nguyên luận.
Về nhận thức luận
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng ông đang đi gần tới phép biện chứng. Ông
vạch ra rằng, bất cứ lúc nào khi lý trí bắt đầu nghiên cứu thế giới khách quan tất yếu
đụng phải mâu thuẫn, do đó các mâu thuẫn là bản chất khách quan của lý tính con
người. Ông đặt ra những vấn đề còn bỏ ngõ trong các cuộc tranh luận về bản chất tư
duy, và những vấn đề mang tính nghịch lý trong quá trình nhận thức. Đây là một thành
tựu rất quan trọng của nhận thức triết học, bởi vì bằng điều đó vận động của tư duy
được đề cao.
Về đạo đức học
Ông theo lập trường duy lý. Ông viết “ các nguyên lý cảm tính nói chung không
thích hợp để có thể xây dựng các quy luật đạo đức vào chúng”. Theo ông, chỉ có lý
46
tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức. Tự do là
phạm trù trung tâm trong đạo đức của ông. Theo ông, ý chí tự do và ý chí tuân theo các
quy luật của đạo đức là như nhau.
Về quan điểm chính trị - xã hội
Theo ông, xã hội là phương thức tồn tại của con người như một chủ thể, trong
đó bằng hoạt động của mình, con người ngày càng phát triển những khả năng và bản
chất của mình, và thực hiện các lý tưởng đạo đức của mình. Ông khẳng định, mâu
thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Sự xung đột giữa các tầng lớp, các
đẳng cấp xã hội là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Cantơ mong muốn
xây dựng một thế giới hòa bình, hữu nghị, vĩnh viễn không có chiến tranh. Theo ông
chiến tranh phá hoại những chuẩn mực đạo đức của con người. Ông kêu gọi các quốc
gia đoàn kết xây dựng một liên bang, trong đó mỗi dân tộc vẫn được bảo đảm tự do và
độc lập về chính trị. Theo ông, chỉ có hình thức nhà nước cộng hòa là phù hợp với nhu
cầu phát triển của xã hội. Sứ mệnh của nhà nước, luật pháp, chuẩn mực đạo đức đều
phải nhằm mục đích phục vụ con người.
2- Gioógiơ Vinhem Phriđrich Hêghen (1770 - 1831)
Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, triết học của ông là tập đại thành của triết học cổ
điển Đức - Một tiền đề lý luận của triết học mác - xít.
Triết học của Hêghen là một hệ thống triết học duy tâm khách quan.
“Ý niệm tuyệt đối” là điểm xuất phát, là nền tảng của triết học Hêghen. Theo ông” ý
niệm tuyệt đối” là thực thể sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối cao sáng tạo ra giới
tự nhiên và con người. Mọi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta, từ những sự vật,
hiện tượng tự nhiên cho đến những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối.
Theo Hêghen con người là sản phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý
niệm tuyết đối”. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công
cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình, trở về chính bản thân mình.
Đứng trên lập trường duy tâm khách quan, ông đã phê phán chủ nghĩa chủ quan
và nhị nguyên luận của Cantơ. Ông cho rằng, Cantơ đã xé lẻ tồn tại, bắt nó tách ra
ngoài tư duy. Ông kết hợp tồn tại với tư duy làm một và cho ngọn nguồn xuất phát đầu
tiên, thực thể đầu tiên của thế giới chính là tư duy, ý thức, nhưng không phải là ý thức
cá nhân như Béccơli, Cantơ mà là” ý niệm tuyệt đối” hay tinh thần vũ trụ. Tất cả mọi
sự vật hiện tượng trên thế giới và ý thức của cá nhân của nhân loại đều nằm trong “ý
niệm tuyệt đối,” là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối.
Triết học duy tâm khách quan của ông thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết học
của ông. Hệ thống triết học của ông gồm ba phần: Lôgíc học - học thuyết về các quy
luật phổ biến của vận động và phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho
mọi cái đang tồn tại; Triết học về tự nhiên - triết học đem lại bức tranh về sự phát triển
của giới tự nhiên dưới hình thức duy tâm; Triết học về tinh thần - dưới hình thức lịch
sử của tinh thần, ông trình bày lịch sử của con người và sự tự nhận thức của con người.
Dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời, Hêghen thừa nhận
giới tự nhiên nằm trong quá trình vận động và phát triển từ vô cơ - hữu cơ - con người.
Con người có khả năng phản ánh giới tự nhiên, và khi con người phản ánh được đầy
47
đủ giới tự nhiên cũng là ý thức của con người đã quay về điểm khởi đầu của nó là ý
niệm tuyệt đối. Ý thức của mỗi cá nhân được ông coi là sự tái diễn tư duy của toàn
nhân loại, trãi qua các thời kỳ khác nhau giống như sự phát triển của bào thai từ tiền
thủy, sinh vật đến con người.
Như vậy, khởi điểm là tinh thần và kết thúc của sự phát triển cũng là tinh thần,
chỉ khác điểm khởi đầu là tinh thần thế giới, hay ý niệm tuyệt đối còn kết thúc là tinh
thần tuyệt đối tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Theo ông giai đoạn cao nhất là lúc ý
niệm tuyệt đối kết thúc quá trình tự nhận thức của nó dưới hình thức tôn giáo, nghệ
thuật và triết học.
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Những luận điểm về phép biện chứng của triết học Hêghen có cả trong ba phần,
nhưng trong lôgíc thể hiện rõ nhất, quan trọng nhất. Luận điểm xuyên suốt toàn bộ
phép biện chứng của ông là : “Tất cả cái gì là hiện thực, đều là hợp lý và tất cả cái gì là
hợp lý, đều là hiện thực” . Luận điểm của ông không chỉ muốn bảo vệ và duy trì mọi
cái hiện đang tồn tại, thừa nhận về mặt triết học nền chuyên chế, nhà nước quý tộc
Phổ, mà điều cơ bản nhất không phải những gì hiện đang tồn tại cũng đều là hiện thực.
Tính hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu: “Tính hiện thực, trong sự
phát triển của nó, tự biểu lộ ra là tính tất yếu”.
Như vậy theo ông, hiện thực không phải là tồn tại nói chung, mà là tồn tại trong
tính tất yếu của nó, đó là “hiện thực trong sự phát triển. Xa rời tư tưởng này thì mọi ý
niệm, lý tưởng chỉ là những điều ảo tưởng, và triết học là một hệ thống những điều bịa
đặt rỗng tuếch”.
Ông đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên
trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, tức là trong
sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đó là ý nghĩa thực sự và tính chất
cách mạng của triết học Hêghen.
Trong lôgíc học, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như lượng - chất,
phủ định, mâu thuẫn... mà còn nói đến các quy luật: lượng đổi dẫn đến chất đổi và
ngược lại; phủ định của phủ định, và phần nào về quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả chỉ
là những quy luật vận động phát triển của tư duy, của khái niệm.
Biện chứng của khái niệm trong khoa học lôgíc của ông bao gồm những điểm
sau: Một là, những khái niệm không những khác nhau mà còn làm trung giới cho nhau,
tức có liên hệ với nhau. Hai là, mỗi khái niệm đều phải qua một quá trình phát triển
được thực hiện trên cơ sở của 3 nguyên tắc:
- Nguyên tắc một: chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển hóa về
lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại.
- Nguyên tắc hai: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc
và động lực của sự phát triển.
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, ông đã đưa ra và giải quyết một cách biện
chứng mối liên hệ chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực,
nguyên nhân và kết quả.

48
- Nguyên tắc ba: Phủ định của phủ định là sự phát triển diễn ra theo hình thức
xoáy ốc. Ở đây ông giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, giữa lôgic và lịch sử.
Trong tác phẩm “triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu ra một loạt những tư tưởng
biện chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và vận động, về tính mâu thuẫn của
không gian, thời gian và vận động, về sự phụ thuộc của những đặc tính hóa học vào
những thay đổi về lượng v.v.
Quan điểm về xã hội của Hêghen
Bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, ông đã nêu ra nhiều tư tưởng biện chứng
quý báu về sự phát triển của đời sống xã hội, trong đó ông đặc biệt quan tâm nghiên
cứu bản chất và nguồn gốc nhà nước.
Khác với các nhà triết học trước đó, thường lý giải nguồn gốc nhà nước từ khế
ước xã hội, ông tìm nguồn gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội. Ông viết: “Nhà nước
hiện đại và Chính phủ hiện đại chỉ xuất hiện khi tồn tại sự khác nhau giữa các đẳng
cấp, khi sự chênh lệch giàu nghèo trở nên quá lớn...”. Ông cho rằng nhà nước tồn tại
vĩnh viễn, tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử. Nhà nước là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối trong đời sống xã hội. Ông xem nhà nước Phổ như là đỉnh cao của sự
phát triển nhà nước và pháp luật. Theo ông chiến tranh là một hiện tượng vĩnh viễn và
tất yếu trong lịch sử, nhờ các cuộc chiến tranh mà thể trạng đạo đức của các dân tộc
mới được bảo toàn, chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối nát. Ở điểm này,
ông đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sô vanh đề cao dân tộc Đức.
Theo ông, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan trong
hoạt động của con người. Ông cũng cho rằng, sự phát triển tự do của con người là
chuẩn mực ưu việt của thời đại này so với thời đại khác, của dân tộc này so với dân tộc
khác. Nhưng ông hiểu tự do một cách duy tâm: Tự do thể hiện trong sự hiểu biết và
làm theo ý chúa; lịch sử toàn thế giới là lịch sử tiến bộ trong ý thức tự do. Dù vậy, ở
mức độ nhất định nó toát lên tư tưởng sâu sắc: Tự do cũng như trình độ giải phóng con
người, làm cho “con người là chúa tể số phận và sứ mạng của mình”, là một xu hướng
phát triển của nền văn minh nhân loại.
3 - Lútvích Phơbách (1804 - 1872)
Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức. Bậc tiền bối của triết học
Mác. Ông đã làm phong phú chủ nghĩa duy vật một cách sáng tạo vào những năm
bốn mươi của thế kỷ XIX.
Về triết học duy vật nhân bản
Ông thực hiện phê phán triết học duy tâm khách quan của Hêghen đã coi thường
con người sống, không biết cảm giác là nguồn gốc của nhận thức. Ông lấy con người
sống, con người có cảm giác làm điểm xuất phát cho triết học duy vật của mình. Theo
ông nhiệm vụ của triết học phải đem lại cho con người một quan niệm mới về chính
bản thân mình, tạo điều kiện cho con người hạnh phúc.
Ông quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có
ham muốn, có ước mơ, là một bộ phận của giới tự nhiên, và xét theo bản chất nó là
tình yêu thương. Ông lấy tình yêu thương giữa nam và nữ làm kiểu mẫu của bản chất
yêu thương. Nhưng ông đã không thấy được phương diện xã hội của con người. Quan
49
niệm con người của ông là trừu tượng, bị tách khỏi những điều kiện kinh tế - xã hội và
lịch sử. Vì thế khi nghiên cứu những vấn đề về đời sống xã hội, ông rơi vào quan điểm
duy tâm, bộc lộ tính trừu tượng của cái gọi là con người cụ thể của ông.
Xuất phát từ lý luận nhân bản, ông đã xây dựng lý luận về bản thể, về nhận thức
và về xã hội.
Quan niệm về tự nhiên
Ông là nhà duy vật triệt để. Sau khi bác bỏ học thuyết của Cantơ - học thuyết
cho rằng tự nhiên là do ý thức của con người cấu tạo nên, và bác bỏ học thuyết của
Hêghen - học thuyết cho rằng tự nhiên là một sự tồn tại khác của tinh thần thế giới,
ông bảo vệ và chứng minh nguyên lý duy vật cho rằng : Vật chất có trước ý thức có
sau; tự nhiên tự nó tồn tại; người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản thân
nó. Ông cũng khắc phục một số điểm hạn chế của duy vật máy móc coi vật chất như
một cái gì thuần nhất. Theo ông, tự nhiên có rất nhiều chất lượng khác nhau mà những
cảm giác của con người đều có thể biết được. Ông cho rằng quan hệ thực sự của tư
duy với tồn tại là : tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc tính. Nói cách khác chủ thể với
tính cách là một bộ phận của tự nhiên, tư duy là thuộc tính của nó.
Ông khẳng định : không gian và thời gian tồn tại khách quan, không có vật chất
tồn tại bên ngoài không gian thời gian. Ông cũng thừa nhận sự tồn tại khách quan của
các quy luật tự nhiên, tính khách quan của quan hệ nhân quả; thừa nhận sự vận động
và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, trong những điều kiện
nhất định dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, và con người.
Về nhận thức luận
Ông phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen, coi đối tượng của tư
duy không khác gì với bản chất của tư duy, do đó mà hệ thống duy tâm khách quan
không thoát khỏi giới hạn của tư duy và xa lạ với hiện thực. Ông khẳng định : Đối
tượng của nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người.
Ông kêu gọi : “Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con người đi ! Bạn sẽ thấy ở
đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học”. Ông phê phán bất khả tri luận và
khẳng định : Con người có khả năng nhận thức được giới tự nhiên, một người thì
không thể nhận thức được hoàn toàn giới tự nhiên, nhưng toàn bộ loài người thông qua
các thế hệ thì có thể nhận thức được.
Đặc điểm của thế giới quan duy vật của ông là lòng tin vào sức mạnh của lý trí
con người. Toàn bộ những nguyên lý mà ông chứng minh là những nguyên lý về khả
năng nhân thức chân lý, về giới tự nhiên là đối tượng của nhận thức, về con người là
chủ thể của nhận thức, về mối liên hệ giữa cảm giác và lý trí, về vai trò nhận thức của
cảm giác và lý trí. Hạn chế trong lý luận nhận thức của ông là có tính chất tĩnh quan,
không hiểu được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, phủ định sạch trơn phép biện
chứng của Hêghen. Vì thế chủ nghĩa duy vật của Phơbách vẫn nằm trong khuôn khổ
của phương pháp siêu hình.
Quan điểm về xã hội và tôn giáo
Việc Phơbách phê phán thần học và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong lịch
sử tư tưởng triết học tiên tiến. Ông cho rằng chính con người đã bày ra thần thánh bằng
cách trừu tượng hóa bản chất con người của mình, rồi cho rằng thần thánh cũng có bản
50
chất ấy. Họ tuyệt đối hóa, thần thánh hóa đặc tính của con người. Sau khi bác bỏ tôn
giáo cũ, Phơbách đã tuyên bố một tôn giáo mới không có chúa - tôn giáo tình yêu. Ông
đã hạ thần học xuống trình độ nhân bản học và nâng nhân bản học lên trình độ thần
học.
III/ Anh hưởng trực tiếp của triết học cổ điển Đức đến sự hình thành triết
học Mác.
Ngoài những yếu tố duy lý, ảo tưởng, phi lịch sử, phi giai cấp, đạo đức học của
Cantơ chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nó là sự kết tinh những giá trị đạo
đức chung của nhân loại. Trong quan điểm chính trị xã hội của ông cũng thể hiện một
lý tưởng nhân đạo cao cả, có ý nghĩa định hướng cho các mối quan hệ quốc tế và tiến
trình lịch sử. Nó đặt nền móng cho quan điểm duy vật lịch sử của Mác.
Vai trò lịch sử của triết học Hêghen là ở chỗ đã phát triển phép biện chứng.
Những vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng hiện đại đã được ông đề cập đến một
cách bao quát và nhiều điểm sâu sắc. Mác, Ăng - ghen đã đánh giá cao vai trò ý nghĩa
của triết học Hêghen, cho dù triết học của ông là duy tâm, phương pháp biện chứng và
hệ thống triết học của ông có mâu thuẫn.
Phơbách là nhà duy vật nổi tiếng đầu tiên trong hàng ngũ những nhà triết học
trong những năm bốn mươi của thế kỷ XIX. Chính ông đã làm sống lại chủ nghĩa duy
vật của thế kỷ XVII - XVIII, và đã làm phong phú một cách sáng tạo thế giới quan duy
vật. Dù còn nhiều hạn chê, nhưng triết học của ông là chiếc cầu nối, là suối lửa để từ
triết học Hê - ghen bước sang, chảy qua để đến với thế giới quan duy vật biện chứng
triệt để cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Nói chung triết học cổ điển Đức là một trong các tiền đề lý luận quan trọng để ra
đời triết học Mác.
Câu hỏi ôn tập
1 - Những đặc trưng của điều kiện kinh tế - xã hội và những đặc điểm cơ bản
của triết học cổ điển Đức ?
2 - Phân tích tư tưởng triết học nhị nguyên luận của Kant ?
3 - Phân tích những giá trị và hạn chế trong hệ thống triết học duy tâm khách
quan của Hêghen ?
4 - Những giá trị và hạn chế trong triết học duy vật nhân bản của Phơbách?
Chương 5
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN
Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử, là
sự phản ánh thực tiễn xã hội đương thời, nhất là thực tiễn cách mạng của phong trào
công nhân, là sự phát triển hợp lôgic lịch sử tư tưởng nhân loại.
I/ Bối cảnh lịch sử và những tiền đề ra đời của triết học Mác.
1 - Điều kiện kinh tế - xã hội.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã thống trị ở Anh và Pháp. Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ
nghĩa với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Nước Pháp hoàn thành cuộc cách mạng
công nghiệp. Từ 1830 - 1847 số máy hơi nước tăng 9 lần; khai thác than đá, sản xuất
51
gang, sắt và thép tăng 3 lần; từ 1835 đến 1847 đường sắt tăng 12 lần. Ở Đức, cuộc
cách mạng công nghiệp cũng làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên
nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến; từ 1800 đến 1840 giá trị sản lượng công
nghiệp tăng ít nhất 2,5 lần. Tính chất tiến bộ lịch sử của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa trở thành một sự thật ngày càng hiển nhiên. “Giai cấp tư sản, trong quá trình
thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn
và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn vốn có
của nó bộc lộ ra và ngày càng gay gắt. Những xung đột giai cấp xã hội ngày càng
mạnh mẽ. Những cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Li - ông (Pháp) nổ ra năm 1831, 1834,
phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 chứng tỏ rằng giai cấp vô sản
đã bước lên vũ đài lịch sử với tư cách là kẻ đối kháng với giai cấp tư sản thống trị.
Nhận định về cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Liông cuối năm 1831, một tờ báo của
Chính phủ đã viết : “Cuộc nổi loạn ở Liông đã vạch ra một điều bí mật quan trọng : đó
là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và
giai cấp những kẻ không có gì hết ... và đó là nguy cơ đối với xã hội hiện đại, và từ đó
có thể xuất hiện những người dã man, phá hoại xã hội ấy”.
Nước Đức còn đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song đã đạt
trình độ phát triên kinh tế - xã hội cao hơn so với nước Anh và nước Pháp thời kỳ nổ
ra cách mạng tư sản. Cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt ở Xilidi năm 1844 đến sự
xuất hiện tổ chức vô sản cách mạng - đồng minh những người chính nghĩa - chứng tỏ
sự trưởng thành của giai cấp vô sản Đức.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn mang tính cách mạng
nữa. Ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống trị lại hoảng sợ trước cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là lực lượng cách mạng để hoàn thành cải
tạo dân chủ tư sản. Còn giai cấp tư sản Đức vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi
nhìn vào tấm gương cách mạng tư sản Pháp, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của
phong trào công nhân Đức. Nó mơ tưởng biến đổi nền quân chủ phong kiến thành nền
quân chủ tư sản một cách hòa bình. Như vây, giai cấp vô sản không chỉ là “kẻ phá
hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng xã hội tiên phong trong cuộc đấu tranh cho
nền dân chủ; làm cho nền dân chủ xã hội đã được các cuộc cách mạng tư sản trước đây
mở ra nay được phát triển với động lực cách mạng là các giai cấp : Vô sản, tiểu tư sản
thành thị và nông dân.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp bằng lý luận khoa học những vấn đề
mà quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức loài người đặt ra trên lập trường giai
cấp vô sản. Do đó, nó đồng thời là lý luận khoa học trong cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân để tự giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động thực hiện những lý
tưởng cao đẹp của nhân loại.
2 - Những tiền đề lý luận của chủ nghĩa Mác.
Có thể nói Mác là sự kết hợp giữa Rútxô, Vonte, Hônbách, Létxinh, Hainơ và
Hêghen. Sự kết hợp chứ không phải hỗn hợp một cách cơ giới. Theo Lê nin, triết học
cổ điển Đức, kinh tế học chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là những
nguồn gốc lý luận trực tiếp của học thuyết Mác.
52
a) Tiền đề về triết học
Mác và Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen. Mác
viết “tính chất thần bí và phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hê - ghen, tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và
có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân
hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”. Trong khi phê phan chủ nghĩa duy tâm của
Hê - ghen, Mác đã dựa vào toàn bộ truyền thống chủ nghĩa duy vật triết học mà trực
tiếp là chủ nghĩa duy vật của Phơbách; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc
phục những tính hạn chế lịch sử của nó. Từ đó, Mác và Ăng - ghen xây dựng nên học
thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với
nhau một cách hữu cơ.
b) Tiền đề về kinh tế chính trị học.
Trong lĩnh vực kinh tế học chính trị, Ađam Xmít và Ricácđô đã mở đầu lý luận
về giá trị, đã vạch ra rằng giá trị hàng hóa không phải do những thuộc tính vật lý hay
công dụng của nó, mà do số lượng lao động xã hội cần thiết quy định; lợi nhuận được
tạo ra từ sản xuất chứ không phải từ lưu thông. Song các ông đã tuyết đối hóa vai trò
của quy luật giá trị dưới hình thái đặc thù của chủ nghĩa tư bản và không nghiên cứu
nguồn gốc của giá trị thặng dư. Việc cải tạo kinh tế học chính trị là cần thiết khách
quan để đi tới quan niệm duy vật về lịch sử và xây dựng lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác.
c) Tiền đề về tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Việc kế thừa các học thuyết xã hội chủ nghĩa trước Mác có ý nghĩa quan trọng
trong sự hình thành chủ nghĩa Mác. Các đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa xã hội không
tưởng Xanhximông, Phuriê và Ôoen đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản, vạch
trần cảnh khốn cùng vật chất và tinh thần của thế giới tư sản. Đồng thời các ông cũng
chứng minh tính hợp lý và khả năng thực hiện việc chuyển từ xã hội tư bản sang một
xã hội dựa trên cơ sở công hữu và lao động tập thể; nhờ đó có thể thỏa mãn nhu cầu
hợp lý của con người. Nhưng sự diễn tả lợi ích của bộ phận dân cư tiểu tư sản bị vô
sản hóa nên đã thể hiện lập trường duy tâm khi các ông bác bỏ đấu tranh giai cấp, mà
coi giáo dục và hợp tác giai cấp là con đường duy nhất đi tới chủ nghĩa xã hội. Mác và
Ăng - ghen đã cải tạo một cách sáng tạo di sản tư tưởng đó trên cơ sở thực tiễn phong
trào công nhân làm cho học thuyết về chủ nghĩa xã hội được phát triển từ không tưởng
thành khoa học.
Tóm lại, như Lê nin đã nhận xét : “Tất cả những gì mà tư tưởng loài người đã
sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phê phán và đã thông qua phong trào công
nhân mà kiểm tra lại; và Mác đã nêu ra được những kết luận mà những kẻ bị hạn chế
trong cái khuôn khổ tư sản hoặc bị những thiên kiến tư sản trói buộc, không thể rút ra
được”.
3 - Những tiền đề khoa học tự nhiên của sự hình thành chủ nghĩa Mác.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu
được cho sự ra đời triêt học Mác. Sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải xây
dựng phép biện chứng duy vật như một khoa học làm cơ sở phương pháp luận cho
53
nhận thức khoa học. Đồng thời, những phát minh của khoa học tự nhiên trong thời
gian đó làm cho việc sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên có thể thực hiện
đuợc.
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đưa lại căn cứ khoa học cho quan
niệm triết học về tính vĩnh viễn và không thể bị tiêu diệt của vật chất, về sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức tồn tại đa dạng của vật chất.
Học thuyết về cấu tạo tế bào chứng minh sự thống nhất bên trong của các cơ thể
sống trong thế giới động vật và thực vật.
Học thuyết tiến hóa của Đácuyn là bằng chứng của tính đúng đắn và vai trò của
quan niệm phát triển trong nhận thức khoa học.
Cả ba phát minh ấy đều góp phần xác nhận nguyên tắc về tính thống nhất vật
chất của thế giới của tư duy triết học.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu
lịch sử không những vì nó là sự phản ánh thực tiễn xã hội đương thời, nhất là thực tiễn
cách mạng của phong trào công nhân mà còn là sự phát triển hợp lôgíc lịch sử tư tưởng
của nhân loại.
II/ Các giai đoạn hình thành triết học Mác
Các Mác (1818 - 1885)
Ông sinh ngày 5/5/1818. Thời thơ ấu và niên thiếu của Mác trôi qua ở tỉnh
Ranh, một vùng phát triển hơn cả về kinh tế và cũng chịu ảnh hưởng của cuộc cách
mạng tư sản Pháp nhiều hơn cả của nước Đức.
Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã
làm hình thành và phát triển ở anh thanh niên Mác xu hướng yêu tự do và nhân đạo
chủ nghĩa. Trong luận văn tốt nghiệp trung học của mình với đề tài Những suy nghĩ
của một người thanh niên khi chọn nghề, Mác viết : “Nếu một người chỉ lao động vì
mình thôi, thì người đó có thể trở nên một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái
lớn, một nhà thơ tuyệt vời, nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con
người thực sự hoàn thiện và vĩ đại”. Và “ nếu một người chọn nghề trong đó người ấy
có thể làm được nhiều nhất cho nhân loại, thì lúc đó người ấy cảm thấy không phải
một sự vui sướng ích kỷ, hạn chế và đáng thương mà hạnh phúc của người đó sẽ thuộc
về hàng triệu người”
Phẩm chất tinh thần đạo đức nhân đạo chủ nghĩa đã trở thành định hướng giá trị
cho cuộc đời sinh viên của Mác, đồng thời nó được phát triển đưa Mác tới chủ nghĩa
dân chủ cách mạng. Ở Mác, việc nghiên cứu triết học trở thành niềm say mê của nhận
thức nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người.Luận án tiến sỹ của Mác thể hiện rõ
tinh thần dân chủ cách mạng và quan điểm vô thần. Song, do còn ảnh hưởng Hêghen,
nên thế giới quan triết học của mác nhìn chung lúc này vẫn là nhà duy tâm. Sự kết hợp
chặt chẽ hoạt động lý luận với thực tiễn đấu tranh cho dân chủ chống chế độ chuyên
chế của nhà nước quân chủ Phổ đã tạo nên sự chuyển biến tư tưởng của Mác từ chủ
nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ lập trường dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa cộng sản.
Sự chuyển biến bước đầu diễn ra trong thời kỳ Mác làm việc ở Báo Sông Ranh.
Tháng 5 - 1842, Mác bắt đầu cộng tác với Báo Sông Ranh; tháng 10 năm đó, ông trở
54
thành biên tập viên và đóng vai trò linh hồn của tờ báo, làm cho nó trở thành cơ quan
của phái dân chủ - cách mạng.
Về thế giới quan triết học, nhìn chung Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm
trong việc xem xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước
đương thời đã cho Mác thấy rằng, cái quan hệ khách quan quyết định hoạt động của
nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã tìm cách
chứng minh bằng triết học mà là những lợi ích; còn chính quyền nhà nước lại là “cơ
quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân”.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng
tự do trong thực tế đã làm nảy nở khuynh hướng duy vật ở Mác; tinh thần dân chủ
cách mạng sâu sắc đã trở nên không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế,
sau khi Báo Sông Ranh bị cấm ( từ ngày 1 - 4 - 1843), Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ
duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội và nhà nước,
cũng như phát hiện những động lực thật sự để biến đổi thế giới bằng cách mạng. Trong
thời gian ở Croixơnắc (tháng 5 - tháng 10 - 1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học
pháp quyền của Hê - ghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của triết học Hê ghen”
nói chung. Song song với việc viết “góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê
ghen ông đã nghiên cứu lịch sử một cách cơ bản. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen, Mác đã nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học
Phơbách, đồng thời đã nhận thức được những mặt yếu trong triết học của Phơbách,
nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi. Sự phê phán sâu rộng đối với triết
học Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm
duy vật và nhân văn của triết học Phơbách đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật
trong quan điểm của Mác. Cuối tháng 10 năm 1843 Mác sang Pari. Ở đây, không khí
chính trị sôi sục và sự tiếp xúc của Mác với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến
bước chuyển dứt khoát của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài
báo của mác bàn về “vấn đề Do thái” và “góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen”; lời nói đầu đăng trong tạp chí “Niên giám Pháp Đức” được phát hành tháng
2 năm 1844 - đã đánh dấu bước hoàn thành sự chuyển biến đó. Tư tưởng về vai trò lịch
sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là điểm xuất phát của chủ nghĩa cộng sản khoa
học. Từ đó, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học cũng đồng thời là quá
trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học, thế giới quan vô sản cách mạng. Cũng
trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ăngghen đã hình thành một cách độc
lập với Mác.
Ph. Ăngghen (1820 - 1895)
Ông sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi. Lê nin
đã nhận xét, khi còn là học sinh trung học, Ăngghen đã căm ghét sự chuyên quyền và
độc đoán của bọn quan lại. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béclin khi làm
nghĩa vụ quân sự - đã dẫn ông đi xa hơn. Song, chính thời gian gần hai năm, từ mùa
thu 1842, sống ở Anh, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của
nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân đã dẫn đến bước
chuyển biến căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
cộng sản.
55
“Niên giám Pháp - Đức” cũng đăng các tác phẩm phác thảo “góp phần phê phán
kinh tế học chính trị” và “Tình cảnh nước Anh” , “Tômát Caclây”.” Quá khứ và hiện
tại” của Ăngghen gửi đến từ Mansétxtơ. Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá
trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa cộng sản cũng đã hoàn thành. Ông đã đứng trên quan điểm
duy vật và lập trường của chủ nghĩa xã hội để phê phán kinh tế học chính trị của
A.Xmit và Đ. Ricácđô, vạch trần quan điểm chính trị phản động của Cáclây, một
người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của giai cấp quý tộc phong kiến.
Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ đại của Mác và Ăng - ghen, gắn
liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan mới mang tên
Mác - thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Mác và Ăngghen xây dựng và hoàn thành những nguyên lý triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử (1844 - 1895).
Trong tác phẩm chưa hoàn thành viết năm 1844 - Bản thảo kinh tế - triết học,
Mác trình bày những quan điểm kinh tế và triết học của mình thông qua việc phê phán
kinh tế học chính trị cổ điển Anh và tiếp tục phê phán triết học Hêghen nhất là phép
biện chứng với “hạt nhân hợp lý” của nó . Những quan điểm mới của Mác được thể
hiện trong việc phân tích sự tha hóa của lao động và phạm trù “lao động bị tha hóa”.
Khác với các nhà tư tưởng trước đây, cắt nghĩa sự ra đời chế độ sở hữu tư nhân tư bản
do tính tham lam, ích kỷ của con người, Mác cho rằng sở hữu tư nhân được sinh ra do
lao động bị tha hóa nhưng sau đó lại trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao
động và sự tha hóa con người. Sự tha hóa đó đạt tới đỉnh cao của sự phát triển trong
chủ nghĩa tư bản, thể hiện ở sự tha hóa của sức lao động cũng như ở quá trình hoạt
động và sản phẩm của lao động; từ đó, dẫn tới “sự tha hóa của con người khỏi con
người”. Bởi vậy, việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xóa bỏ chế độ sở hữu tư
nhân. Sự giải phóng người công nhân khỏi “lao động bị tha hóa” dưới chủ nghĩa tư bản
cũng là khắc phục lao động bị tha hóa nói chung, là sự giải phóng con người nói
chung. Đó cũng là sự luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự
phát triển xã hội. Mặc dù sự luận chứng dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử, còn ở
trình độ chưa chín muồi về lý luận, song nó đã cho phép phân biệt quan niệm về chủ
nghĩa cộng sản của Mác với những quan niệm chủ nghĩa bình quân vốn có của các
môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng.
- Sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử đánh dấu cái mốc quan trọng trong
quá trình xây dựng những nguyên lý của triết học Mác. Nó được trình bày trong những
tác phẩm viết chung của Mác và Ăngghen : “Gia đình thần thánh” được xuất bản tháng
2 năm 1845, và “Hệ tư tưởng Đức” được viết từ tháng 11 năm 1845 và đã hoàn thành
về cơ bản tháng 4 năm 1845 nhưng không xuất bản được. Trong “gia đình thần thánh”
đã chứa đựng “quan điểm hầu như đã hình thành của Mác về vai trò cách mạng của
giai cấp vô sản” và cho thấy “Mác đã tiến gần như thế nào đến tư tưởng cơ bản của
toàn bộ “hệ thống” của ông,... tức là tư tưởng về những quan hệ xã hội của sản xuất” .
Đến “hệ tư tưởng Đức”, quan điểm duy vật lich sử đã được trình bày ít nhiều có hệ
thống. Xuất phát từ sự xem xét một cách duy vật con người và những điều kiện vật
chất cho hoạt động của con người là tiền đề của lich sử, Mác và Ăngghen đã đi tới phát
56
hiện biện chứng giữa lục lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong sự phát triển xã hội;
từ đó, các ông đã làm sáng tỏ một hệ thống các phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử.Kết quả chủ yếu của quan điểm duy vật lịch sử là kết luận về tính tất yếu của cuộc
cách mạng vô sản. Trong Hệ tư tưởng Đức học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học
biểu hiện ra như một hệ quả trực tiếp của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Những kết quả lý luận đã đạt được tiếp theo của Mác và Ăngghen bằng các tác
phẩm : Sự khốn cùng của triết học và Tuyên ngôn của Đảng cộng sản thực sự đó là
những cơ sở khoa học và thực tiễn được hai ông trình bày một cách rõ ràng và hoàn
thiện hơn.
- “Sự khốn cùng của triết học “được Mác viết trong thời gian từ tháng 4 năm
1847 đến tháng 6 năm 1847 là tác phẩm chín muồi đầu tiên của chủ nghĩa Mác. Trong
đó, như chính Mác sau này đã nói, đã “chứa đựng dưới trạng thái phôi thai cái mà sau
hai mươi năm lao động đã biến thành một học thuyết được trình bày trong bộ Tư bản”.
- “Tuyên ngôn của Đảng cộng” sản là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên
của chủ nghĩa Mác; trong đó, những cơ sở của chủ nghĩa Mác lần đầu tiên được trình
bày một cách thiên tài dưới dạng hoàn chỉnh và có hệ thống với sự thống nhất hữu cơ
giữa những bộ phận cấu thành của nó.
Với “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác
nói riêng, đã được hình thành. Nó tiếp tục được bổ sung, phát triển bằng hoạt động lý
luận quên mình của Mác và Ăngghen trên cơ sở tổng kết những thành tựu khoa học và
gắn bó với thực tiễn phong trào công nhân.
Các tác phẩm chủ yếu của Mác như Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Ngày 18 tháng
Sương Mù của Lui Bônapáctơ, Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương lĩnh Gôta ..., cho
thấy việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân có tầm quan trọng
như thế nào trong sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác
nói riêng. Bộ tư bản không chỉ là công trình độ sộ của Mác về kinh tế học mà còn là sự
bổ sung, phát triển của học thuyết Mác nói chung.
Trong khi đó, Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các
thành tựu khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những
quan niệm duy vật tầm thường ở những người muốn trở thành người mác - xít. Với
những tác phẩm chủ yếu của mình như chống ĐuyRinh, Biện chứng của tự nhiên,
Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Lútvích Phơbách và sự
cáo chung của nền triết học cổ điển Đức,v.v., Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra cũng cần
chú ý rằng, những ý kiến bổ sung, giải thích của Ăngghen sau khi Mác mất đối với
một số luận điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát
triển học thuyết Mác.
2 - Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen
thực hiện.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển triết học của nhân loại.

57
C.Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa một cách phê phán những thành tựu của tư
duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hòa với chủ
nghĩa duy tâm và phép siêu hình.
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Trong các học thuyết triết học duy vật
trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện
chứng. Song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và của trình độ phát triển khoa học kỹ
thuật nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy vật trước
Mác. Trong khi đó phép biện chứng lại được phát triển trong cái võ duy tâm thần bí
của một số đại biểu triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Hêghen. Nhưng
chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là sự “lắp ghép” phép biện chứng của
Hêghen với chủ nghĩa duy vật của Phơbách. Để xây dựng triết học duy vật biện chứng,
Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Mác
nói : “Phương pháp biện chứng của tôi, không những khác phương pháp của Hêghen
về căn bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy.
Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự
nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”. “ Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong
học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà
Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. “Các nhà triết học đã chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới”. Luận điểm đó của
Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học
trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ. Tuy vậy, không hề phủ nhận, trái
lại Mác đã đánh giá cao vai trò to lớn của các nhà triết học và các học thuyết triết học
tiến bộ trong sự phát triển xã hội.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp
tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân
dân lao động và với sự phát triển xã hội.Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào, từ trình độ
tự phát lên tự giác. Phép biện chứng mác - xít mang tính cách mạng sâu sắc nhất “vì
trong quan niệm tích cực về cái hiện tồn, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan
niệm về sự phủ định cái hiện tồn đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đã
hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất
thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về
thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của
triết học mác - xít chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của
quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận “sẽ trở thành lực lượng vật chất”. Hồ
Chí Minh viết : “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lê nin”.

58
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi
triết học là “ khoa học của các khoa học” đứng trên mọi khoa học. Mác và Ăng - ghen
đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội. Ăng - ghen viết : “Mỗi lần có một phát minh vạch thời
đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi
phải thay đổi hình thức của nó” . Ngược lại, triết học Mác lại trở thành thế giới quan
khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học.
Nhận xét về sự phát triển của khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen viết : “Thoát khỏi
chủ nghĩa thần bí, phép biện chứng trở thành một tất yếu tuyệt đối đối với khoa học tự
nhiên, khoa học này đã rời bỏ địa hạt mà trước kia trong đó chỉ có những phạm trù cố
định cũng đủ...” . Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần
thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại phải phát triển lý luận triết học
của chủ nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại.
3 - Lê Nin phát triển triết học Mác.
V.I. Lê nin (1870 - 1924) đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết
những nhiệm vụ của cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và bước đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó ông đã có đóng góp không thể thiếu
được vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Trong những tác phẩm lớn ban đầu của mình như : Những người “bạn dân” là
thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao ? Và nội dung kinh
tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán nó trong cuốn sách của Xtơruvê, Lê nin đã
vạch trần phẩm chất phản cách mạng, giả danh “Người bạn của nhân dân” của bọn dân
túy ở Nga vào những năm 90 của thế kỷ XIX. Về triết học ông đã phê phán quan điểm
duy tâm chủ quan về lịch sử của những người dân túy. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin
không những đã bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự xuyên tạc của những người dân túy mà
còn phát triển, làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội của Mác.
Ở nước Nga, sau thất bại cuộc cách mạng 1905 - 1907, những người theo chủ
nghĩa Ma-khơ viện cớ bảo vệ chủ nghĩa Mác thực chất là đã xuyên tạc triết học mác -
xít. Trong tác phẩm “ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” xuất bản
năm 1909, Lê nin không chỉ phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của những người
theo chủ nghĩa Makhơ mà còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới
nhất, truớc hết là khoa học tự nhiên hồi đó. Định nghĩa của Lê nin về vật chất với tính
cách là một phạm trù triết học, sự vận dụng một cách xuất sắc phép biện chứng làm
sâu sắc nhiều vấn đề căn bản của nhận thức luận mác - xít đã đem lại cho chủ nghĩa
duy vật triết học mác - xit một hình thức mới.
Việc nghiên cứu những vấn đề triết học được Lê nin tiến hành vào những năm
chiến tranh thế giới thứ nhất nhằm đáp ứng yêu cầu nhận thức giai đoạn độc quyền -
nhà nước của chủ nghĩa tư bản và giải quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn cách
mạng vô sản. Qua “Bút ký triết học” - gồm những ghi chép và nhận xét của Lê nin khi
đọc các tác phẩm của nhiều nhà triết học, được thực hiện chủ yếu trong những năm từ
1914 - 1915 - cho thấy ông đặc biệt quan tâm nghiên cứu về phép biện chứng, nhất là
59
ở triết học Hê - ghen. Ông đã tiếp tục khai thác cái hạt nhân hợp lý của triết học
Hêghen để làm giàu thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập được coi là hạt nhân của nó. Tinh thần sáng tạo của tư
duy biện chứng cũng đã giúp cho Lê nin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học xã hội như vấn đề nhà nước, cách mạng bạo
lực, chuyên chính vô sản, lý luận về Đảng kiểu mới... Luận điểm của Lê nin về khả
năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng
lẻ, được rút ra từ sự phân tích quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, đã
có một ảnh hưởng rất lớn đối với tiến trình cách mạng ở nước Nga cũng như trên toàn
thế giới.
Trong khi lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã
hội, Lê nin đã tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển chủ nghĩa
Mác và triết học Mác nói riêng. Đồng thời ông đã nêu lên những mẫu mực về sự thống
nhất thái độ tính Đảng và yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Mác. Ông không chỉ phê phán không khoan nhượng đối với mọi loại kẻ thù của chủ
nghĩa Mác mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận của Mác trên lời
nói nhưng thực tế là xa rời học thuyết của Mác, dù vô tình hay hữu ý. Để bảo vệ học
thuyết của Mác, Lê nin chú trọng tổng kết kinh nghiệm cách mạng và dựa vào những
thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển lý luận mà Mác và Ăngghen
để lại. Với thái độ khoa học và cách mạng, khi cần thiết, ông chấp nhận phải “thay đổi
một cách căn bản” quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội, phải “làm lại” công việc
xây dựng của chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo
điều. Chính vì thế mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói
chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lê nin.
4 - Sự phát triển triết học Mác - Lê nin trong thời đại ngày nay.
Sau khi Lênin mất (1924) đến nay, triết học Mác - Lê nin tiếp tục được các
Đảng cộng sản và công nhân phát triển trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh cách
mạng, nhất là trong các nước xã hội chủ nghĩa. Những kết quả của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội là cơ sở chủ yếu cho sự phát triển lý luận triết học, làm cho triết học
mác - xít thâm nhập ngày càng sâu rộng vào các mặt của đời sống xã hội trong hoạt
động của đông đảo quần chúng. Những hạn chế, những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội
do điều kiện lịch sử cũng như sai lầm chủ quan gây nên cũng được phản ánh vào tư
duy lý luận, chi phối quá trình phát triển của triết học.
Thực tế đã chứng minh, cơ chế quản lý xã hội mang tính tập trung quan liêu là
trở lực to lớn đối với sự phát triển năng lực sáng tạo của con người nói chung, của tư
duy lý luận nói chung.
Quan niệm đơn giản về tính giai cấp của triết học mác - xít sẽ dễ hòa tan triết
học vào tư tưởng chính trị trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong đấu tranh giữa hai hệ
thống chính trị - xã hội thế giới. Thái độ và phương pháp giáo điều trong việc phê phán
các lý thuyết triết học và xã hội học phi mác - xít sẽ làm mất đi một động lực bên trong
vốn có của tư duy triết học Mác, bởi vì cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm, giữa
biện chứng và siêu hình không chỉ là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp mà còn là
60
biện chứng của sự phát triển tư duy triết học trong lịch sử. Tính sáng tạo khoa học và
tính đảng phải luôn biện chứng với nhau, đó là yêu cầu hàng đầu của tư duy triết học
Mác.
Hiện nay sự phát triển hết sức mạnh mẽ của khoa học và sự biến đổi rất năng
động của xã hội, khiến các lý thuyết triết học và chính trị - xã hội dù là đúng đắn khoa
học cũng sẽ mau bộc lộ tính hạn chế của chúng và sẽ trở thành lạc hậu nếu không được
bổ sung, phát triển.
Sự lạc hậu về lý luận triết học của chúng ta vừa phản ánh mặt hạn chế của thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là nguyên nhân của sự lạc hậu trong nhận thức lý
luận về chủ nghĩa xã hội. Nếu những phát minh có tính chất vạch thời đại của khoa
học đã khiến cho chủ nghĩa duy vật phải thay đổi hình thức của nó, thì việc bổ sung,
phát triển triết học mác - xít trong thời đại ngày nay càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
Điều đó chỉ có thể thực hiện được trong sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, trước
hết là trong quá trình đổi mới của chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối, cương lĩnh qua các Đại hội
đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một minh chứng cho sự vận dụng trung thành
chủ nghĩa Mác - Lê nin nói chung, triết học Mác - Lê nin nói riêng trong hoàn cảnh
hiện thực của Việt Nam nói riêng, thực tiễn của thời đại ngày nay nói chung.
Câu hỏi ôn tập
1 - Phân tích điều kiện và những tiền đề ra đời của triết học Mác ?
2 - Tại sao nói sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử ?
3 - Tại sao nói sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt cách mạng trong
lịch sử triết học ?
4 - Lê - Nin phát triển triết học Mác như thế nào ?
5 - Vai trò, vị trí của sự phát triển triết học Mác ở giai đoạn Lê nin trong tiến
trình phát triển của triết học Mác ?
Chương 6
TRIẾT HỌC PHI MÁC - XÍT HIỆN ĐẠI

I/ Triết học phi mác - xít hiện đại phản ánh nhất định thực trạng của chủ
nghĩa tư bản.
Triết học này không đồng nghĩa với phản mác - xít, mặc dù trong nó có nhiều
trường phái và đại biểu chống chủ nghĩa Mãc một cách công khai hoặc kín đáo. Triết
học phi mác - xít hiện đại không chỉ là của giai cấp tư sản mà có thể còn là của giai
cấp tiểu tư sản và những tầng lớp xã hội khác. Tuy vậy khi nói đến triết học phi mác -
xít thì chủ yếu và thực chất vẫn là nói đến triết học tư sản hiện đại. Triết học này bắt
đầu hình thành khi chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
trong các nước tư bản phát triển nhất ở phương Tây vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Cho nên nói đến nói đến triết học tư sản hiện đại chủ yếu cũng là nói đén triết học
tư sản trong thế kỷ XX mà trọng tâm chú ý ở thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ II
với sự xuất hiện hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Triết học tư sản, xét về thực chất, là hệ tư tưởng, là thế giới quan của giai cấp tư
sản, nó ra đời và tồn tại gắn liền với chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản.
61
Trong sự tồn tại của mình, triết học tư sản trải qua hai thời kỳ lớn :
Thời kỳ thứ nhất, khoảng thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ gắn
liền với các cuộc cách mạng tư sản, với sự ra đời của giai cấp tư sản và phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính họ đã “khai sáng” đầu óc con người, đã đem lại ánh
sáng để xua tan các thế kỷ đen tối, để giúp cho nhân loại tiến lên, đồng thời dọn đường
cho giai cấp tư sản làm chủ xã hội. Tuy nhiên, ngay khi đó tư tưởng triết học tư sản đã
mang trong mình những hạn chế không thể tránh khỏi như tính chất duy vật không triệt
để, tính chất siêu hình và tính chất cơ giới.
Thời kỳ thứ hai, bắt đầu vào giữa những năm 40 của thế kỷ XIX tức là khi chủ
nghĩa Mác vừa mới xuất hiện trên vũ đài lịch sử. Từ đây nhiệm vụ trung tâm của ý
thức hệ tư sản là chống lại hệ tư tưởng vô sản, các phong trào cách mạng của giai cấp
vô sản và quần chúng lao động. Cuối những năm 40 của thế kỷ XIX, Ô. Côngtơ người
sáng lập ra hình thức đầu tiên của chủ nghĩa thực chứng đã tuyên bố : chỉ có chủ nghĩa
thực chứng mới là cái bảo vệ vững chắc xã hội tư sản khỏi chủ nghĩa cộng sản.
Có thể nói triết học tư sản hiện đại là sự phản ánh nhất định thực trạng xã hội tư
sản, sự khủng hoảng ý thức hệ tư sản, những mâu thuẫn cơ bản, những đối kháng gay
gắt trong xã hội tư bản cũng như những vấn đề xã hội đặt ra, tình trạng thực tế của con
người trong thế giới hiện đại mà xã hội tư bản chưa giải quyết được.
Các quá trình khủng hoảng từ những năm 50 của thế kỷ XX đã ảnh hưởng tiêu
cực đến hệ tư tưởng tư sản, làm tăng lên những xu hướng phản động và tâm trạng bi
quan. Những thành tựu to lớn của khoa học và kỹ thuật ở thế kỷ XX, qua lăng kính của
thế giới quan tư sản là khoa học thù địch về nguyên tắc với con người và thế giới tinh
thần của con người. Dù sao nhiều nhà triết học tư sản phương Tây đã đặt ra một cách
gay gắt những vấn đề triết học xã hội và phương pháp luận quan trọng. Thậm chí đôi
khi họ đặt ra những vấn đề còn sớm hơn những người mác - xít, hoặc có những vấn đề
mà những người mác - xít coi thường hoặc lãng quên.
Đặc điểm cơ bản của triết học tư sản hiện đại :
1- Triết học tư sản hiện đại không phải là một dòng thống nhất, thuần nhất mà
có rất nhiều trào lưu trường phái, chủ nghĩa khác nhau rất đa dạng và phức tạp. Đó là
chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Tômát mới, chủ nghĩa thực chứng mới, hiện tượng
luận, chủ nghĩa hậu thực chứng, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa
cấu trúc, thuyết hội tụ, nhân bản học, thuyết TâyađơSát đanh, chú giải học v.v và gần
đây nhất là chủ nghĩa duy lý phê phán, triết học mới ...
Triết học tư sản hiện đại là sự phản ánh về mặt lý luận địa vị và quyền lợi của
giai cấp tư sản lũng đoạn đang tìm cách duy trì chế độ tư bản chống lại những biến đổi
cách mạng dẫn đến chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sẽ không đúng nếu đem quy kết một
cách đơn giản, gượng ép và trực tiếp mọi trào lưu và luận điểm của triết học tư sản
hiện đại về chủ nghĩa chống cộng.
2 - Về mặt thế giới quan, chủ nghĩa duy tâm vẫn đã và đang là đặc trưng thống
trị của triết học tư sản hiện đại. Tuy nhiên trong số họ cũng có những nhà triết học duy
vật. Nhưng nhìn chung tất cả họ cố đi tìm con đường thư ba trung dung giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học, hoặc tìm cách lẫn tránh, phủ nhận vấn đề

62
cơ bản của triết học. Về thực chất, những người duy vật trong họ vẫn chưa vượt khỏi
chủ nghĩa duy vật tầm thường của thế kỷ XV.
3 - Triết học tư sản hiện đại là phép siêu hình và chủ nghĩa chiết trung. Phép
siêu hình của họ biểu hiện ra là bác bỏ một cách có ý thức phép biện chứng; hoặc thay
thế phép biện chứng mác - xít bằng phép biện chứng chủ quan của “ý thức bất hạnh”;
hoặc thay bằng những cấu tạo cực đoan theo tinh thần của thuyết phê phán toàn bộ và
của thuyết tai biến xã hội; hoặc bằng những quan điểm cải lương.
Tính chiết trung có xu hướng tăng lên, biểu hiện trong ý đồ muốn kết hợp, pha
trộn, dung hợp những cái không thể dung hợp như chủ nghĩa duy tâm với những yếu tố
của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, những luận điểm khoa học với những tín
điều tôn giáo, chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Tômát mới, với chủ nghĩa Phơrớt v.v.
Những trường phái triết học lai ghép này xuất hiện nhanh và biến mất cũng nhanh.
Chúng biểu hiện sự pha tạp và hỗn độn trong quan điểm lý luận. Đồng thời cũng tự
phân hóa thành những biến tướng mới vừa chiết trung, vừa mâu thuẫn với nhau.
4 - Triết học tư sản hiện đại từ bỏ quá khứ của mình, từ bỏ nguyên tắc dầu tiên
mà nó nêu ra : tư tưởng nhân đạo, tư tưởng duy lý, tư tưởng tiến bộ lịch sử. Nói chung
họ có xu hướng quay về với thần học và chủ nghĩa phi lý tính, phủ nhận những quy
luật phát triển khách quan của lịch sử, khả năng nhận thức và vận dụng chúng để cải
tạo xã hội bằng cách mạng.

II/ Một số trào lưu triết học phi mác - xít hiện đại chủ yếu.
1 - Chủ nghĩa thực chứng mới.
Triết học thực chứng mới có mưu đồ tạo ra cái gọi là “cuộc cách mạng trong
triết học” bằng cách loại bỏ vấn đề cơ bản của triết học và những vấn đề thế giới quan
ra khỏi triết học thay thế triết học bằng tri thức thực chứng, quy triết học về nhiệm vụ
“mô tả ngôn ngữ”.
Chủ nghĩa thực chứng mới tuyên bố đoạn tuyệt với toàn bộ triết học truyền
thống mà nó gọi là “ siêu hình học”, bao gồm chủ nghĩa duy vật và những hình thức cũ
của chủ nghĩa duy tâm. Họ cho rằng, chân lý chỉ có trong phạm vi những tri thức thực
chứng, kiểm tra được bằng con đường kinh nghiệm; chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa
duy tâm trước đây chỉ là những hệ thống “suy lý trừu tượng” cần vượt qua và xóa bỏ;
cái mà khoa học dựa vào và cần đến là sự vật, là “kinh nghiệm”, là “thực chứng” chứ
không phải là trừu tượng triết học; tất cả những vấn đề triết học mãi mãi là những vấn
đề không giải quyết được và vô ích.
Các nhà thực chứng mới đã xem vấn đề cơ bản của triết học như là vấn đề “đã bị
mất ý nghĩa khoa học”, như là “vấn đề giả’ không có ý nghĩa gì đối với khoa học.
2 - Chủ nghĩa hiện sinh.
Nếu nội dung chính của chủ nghĩa thực chứng mới là đề cập đến những vấn đề
có liên quan với khoa học tự nhiên, thì nội dung trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh là
vấn đề tồn tại của con người. Chủ nghĩa hiện sinh có thể được coi là triết học về sự tồn
tại của con người.
Quan điểm trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh là quan niệm về sự tồn tại. Nhưng
theo họ, tồn tại trước hết phải hiểu là tồn tại của con người, bởi vì con người là tồn tại
63
mà có thể thể hiện cảm xúc, nhận thức được tồn tại, do đó tạo ra ý nghĩa thật sự của
tồn tại. Tồn tại nói chung thực chất là tồn tại của con người. Jaxpe cho rằng, tất cả cái
gì tồn tại đều tập trung vào trong con người và xuất phát từ đó. Gạt bỏ sự tồn tại của
con người, đối với chúng ta tất cả sẽ rơi vào hư vô.
Tồn tại chỉ là tồn tại của con người. Đó là cái nhân cơ bản của chủ nghĩa hiện
sinh. Còn tồn tại nói chung đối với chủ nghĩa hiện sinh là hư vô, về nguyên tắc là cái
không thể hiểu được. Tồn tại của con người được quy thành những cảm xúc của cá
nhân. Cảm xúc tức là tồn tại. Cảm xúc không phải là cái xẩy ra do tác động với thế
giới bên ngoài mà là những gì xẩy ra bên trong,riêng biệt đối với từng con người. Tồn
tại chỉ là những gì do con người cảm xúc, còn con người không phải là con người hiện
thực với tất cả những quan hệ xã hôi của nó đang sống, mà chỉ là những cá thể người
“hành động từ bản thân mình và trong ý thức của những mục đích riêng của mình”.
Còn xã hội theo các nhà hiện sinh, thì không phải là cái gì thuộc về người.
Ở đây, rõ ràng là chủ nghĩa hiện sinh đã giải thích một cách duy tâm chủ quan
vấn đề tồn tại và đã đối lập một cách siêu hình cá nhân con người với hội. Dù sao, các
nhà hiện sinh cũng đã chú ý đến vấn đề con người, đến tồn tại của con người.
3 - Chủ nghĩa Tômát mới.
Chủ nghia Tômát mới là một trong những trào lưu đáng kể nhất của triết học tôn
giáo ở phương Tây. Nó đã được giáo hoàng La Mã 13 công nhận là học thuyết triét
học chính thức của giáo hội Cơ đốc vào năm 1879.
Chủ nghĩa Tômát cũ là chủ nghĩa duy tâm khách quan, nhằm chứng minh sự tồn
tại của chúa, sự bất tử của linh hồn, tính thực tại của thế giới vật chất do chúa sáng tạo
ra.
Tiếp tục đường lối của TômátĐacanh, chủ nghia Tômát mới với tư cách là một
loại chủ nghĩa duy tâm triết học cố chứng minh cho thế giới quan tôn giáo bằng triết
học và khoa học. Nghĩa là nó có chứng minh sự tồn tại của chúa, lấy chúa làm trung
tâm, tất cả đều bắt nguồn từ chúa, tồn tại nhờ chúa và quay về với chúa.
Những người theo chủ nghĩa Tômát mới cũng “chống chủ nghĩa chủ quan”,
cũng thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Họ nói rằng, phải thừa nhận điều đó
mới phù hợp với tư tưởng lành mạnh của đời sống con người. Tuy nhiên, họ thừa nhận
thực tại khách quan độc lập với ý thức con người nhưng không thể độc lập với ý chúa
là kẻ sáng tạo ra nó.
Một đặc điểm cơ bản trong nội dung của chủ nghĩa Tô - mát mới là mưu toan
điều hòa, dung hợp giữa khoa học và tôn giáo, giữa tín ngưỡng và lý tính, giữa triết
học và thần học, cố biến tất cả những tín điều Cơ đốc thành những vấn đề của lý trí
khoa học.
Những người theo chủ nghĩa Tômát mới cho rằng, lý trí con người đã chứng
minh cho những điều tín Cơ đốc giáo,những tín điều này là những chân lý và lý trí tối
cao, còn ý trí con người là có hạn; do đó, con người không thể tự chứng minh được
những chân lý trên. Trong trường hợp đó phải dùng lòng tin, tin vào lý trí tối cao.
Lòng tin vào chúa trở thành nguồn gốc tối cao của lý trí mỗi con người. Lòng tin là
tiêu chuẩn hoàn bị, tuyệt đối của chân lý. Mọi người chỉ có thể xác định lý trí của mình
bằng tín ngưỡng mà thôi.
64
Còn về việc giải quyết quan hệ giữa triết học và thần học thì chủ nghĩa Tômát
mới đi theo công thức cũ của thuyết Tômát : “Triết học là đầy tớ của thần học”.
Trong điều kiện khoa học, kỹ thuật phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XX, những
người theo chủ nghĩa Tômát mới không thể không tính đến điều đó để thích nghi với
nó. Cho nên họ có sự thay đổi nhất định trong hình thức và phương pháp thể hiện. Họ
sử dụng cả những thành tựu và những hạn chế của khoa học để “cố chứng minh” sự
tồn tại của chúa và những tín điều Cơ đốc dưới dạng của một thứ triét học “khách
quan”, “chống tín ngưỡng” và “chống thuyết phi lý”.
4 - Chủ nghĩa duy lý phê phán.
Đây là trường phái phổ biến nhất của chủ nghĩa hậu thực chứng, do nhà triết học
người Anh K. Pốppơ sáng lập. Thời gian đầu ông đi theo chủ nghĩa thực chứng lôgíc,
về sau ông lại phê phán và sửa chữa nó. Ông muốn thay thế nguyên tắc kiểm chứng
của chủ nghĩa thực chứng mới bằng nguyên tắc bác bỏ.
Cuối những năm 60, ông tuyên bố về việc ông sáng tạo ra một quan niệm lý
luận mới của “chủ nghĩa duy lý phê phán”. Nhưng thực chất ông vẫn giữ quyền bất
khả xâm phạm của khuynh hướng phản mác - xít với nguyên tắc bác bỏ của mình.
Tính chất phản mác - xít của ông thể hiện trong các tác phẩm : Xã hội để ngõ và những
kẻ thù của nó (1945); Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử (1967). Ông đã tấn công vào
những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, phủ nhận sự tồn tại của các quy luật phát triển khách quan của lịch sử.
Triết học của K.Pốppơ đã tạo ra một cái đà lớn cho trào lưu hậu thực chứng
hiện đại ra đời. Đồng thời một số mặt trong lý luận nhận thức của ông đã bị phê phán
bởi những đại biểu nổi tiếng khác của trào lưu này như I.Lacatốt, T.Cun,
P.Phâyơraben.
5 - Triết học chú giải.
Người sáng lập học thuyết này là nhà triết học kim thần học P. Slâymakhơ
(1768 - 1834). Nhà chú giải triết học hiện đại lớn nhất là H. G. Gađame (sinh năm
1900), ngoài ra còn có những đại biểu khác như P.Ricơ, K.Apen, A. Lôrenxe v.v.
Bản chất của triết học chú giải là chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối và
chủ nghĩa đa nguyên. Họ có tham vọng đóng vai trò phương pháp luận phổ biến khoa
học và giải thích các hiện tượng xã hội. Theo họ chú giải học là bản chất của triết học,
nó không chỉ là phương pháp luận của các khoa học nhân văn. Thực chất của vấn đề
chú giải học là khẳng định vị trí của ngôn ngữ như là quan hệ quyết định của thế giới.
Đồng thời họ còn đặt ra nhiệm vụ “kết hợp” chú giải học với phép biện chứng, coi chú
giải học là cái tốt nhất để củng cố phép biện chứng.
Tất nhiên phép biện chứng của họ không phải là phép biện chứng duy vật, mà
phép biện chứng theo cách hiểu của họ, nhưng ở một số đại biểu trong họ cũng có một
số yếu tố hợp lý và biện chứng mà chúng ta cần lưu ý.
6 - Triết học mới.
Trong những năm 70, ở Pháp nổi lên một nhóm các nhà triết học gọi là “các nhà
triết học mới” như J. Bơnca, B.Lêvi, A. Glúcxman v.v. Theo họ những người nào có
khả năng giành uy quyền tuyệt đối thì đều muốn giành quyền lực bằng mọi sức lực và
phương tiện của mình. Quyền lực theo họ là “hình thức tiên nghiệm” của thực tại. Còn
65
dân cư không có quyền lực là vùng ngoại vi không có bản sắc của xã hội. Toàn bộ lịch
sử loài người theo họ là những cuộc xung đột vô tận trong cuộc đấu tranh giành quyền
lực.
Bên cạnh tư tưởng Nitse, “các nhà triết học mới” còn vay mượn quan điểm của
nhiều trường phái triết học khác. Triết học của họ mang nặng tính chiết trung. Ở họ có
cả tư tưởng của trường phái Ph.Răngphuốc, có cả những luận điểm của chủ nghĩa cấu
trúc, có cả những lập luận của Phơ rớt về sự thống trị của bản năng sinh học với lý tính
con người.
Xét về mặt chính trị - xã hội, “các nhà triết học mới” nói chung có thái độ thù
địch với cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lê nin, và chủ nghĩa xã hội. Những quan
điểm của họ là nhằm bảo vệ chủ nghĩa tư bản, và giai cấp tư sản.
Câu hỏi ôn tập
1 - Các thời kỳ hình thành và thực chất của các trào lưu triết học phi mác - xít
hiện đại ?
2 - Những đặc điểm của các trào lưu triết học phi mác - xít hiện đại
3 - Những nội dung chủ yếu của các trào lưu chủ yếu của triết học phi mác - xít
hiện đại : Chủ nghĩa thực chứng mới; chủ nghĩa hiện sinh; chủ nghĩa Tômát mới; chủ
nghĩa duy lý phê phán; triết học chú giải; triết học mới ?

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1 - Đại cương lịch sử thế giới cận đại, tập 2, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội 1990.
2 - LêNin Toàn tập, tập 17, 21, 23, 25, 26, 28, 29, 32, 35,37,38,39,40,44,Nxb
Tiến bộ, Mát - xcơ- va 1980.
3 - Lịch sử triết học, tập 1,2,3, Nxb tư tưởng và văn hóa, Hà Nội 1991.
4 - Lịch sử phép biện chứng mác - xít tập 1,2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1986.
5 -Mác -Ăng Ghen tuyển tập, tập1, 2, 4, 5, 6, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980.
6- Triết học Mác- Lê nin , tập 1, Nxb tư tưởng và văn hóa, Hà Nội 1991,

66

You might also like