ĐỀ CƯƠNG ÔN THI CB LẦN 1 LỚP 12 2021 2022

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 15

Trường THPT Chuyên KHTN ĐỀ CƯƠNG ÔN THI CÔNG BẰNG HỌC KÌ I

MÔN NGỮ VĂN 12, NĂM HỌC 2021-2022

A . PHẦN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN


Cung cấp những tri thức, kĩ năng cơ bản để nhận biết và phân tích giá trị nghệ thuật
của việc sử dụng các thể thơ, các biện pháp tu từ, các kiểu văn bản, các phương thức biểu
đạt, các phong cách ngôn ngữ, các thao tác lập luận,…
Ôn luyện, vận dụng việc phân tích những đoạn đọc - hiểu theo hai loại: văn bản văn
học (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch) và văn bản nhật dụng theo dạng trả lời các câu hỏi
từ mức độ nhận biết đến thông hiểu, vận dụng và vận dụng nâng cao.
Các kiến thức cơ bản cần chú ý:
1. Các thể thơ đã học: Thơ Đường luật (thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt, thơ
Đường luật thất ngôn bát cú, thơ song thất lục bát); thơ lục bát, thơ tự do, thơ bốn chữ, thơ
năm chữ, thơ bảy chữ,…
2. Các biện tu từ: So sánh, Ẩn dụ, Hoán dụ, Nhân hóa, Điệp từ, điệp ngữ, Nói quá,
Nói giảm nói tránh, Câu hỏi tu từ, Đảo trật tự cú pháp (Đảo ngữ), Liệt kê…
4. Các loại phong cách ngôn ngữ đã học: phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ báo chí, phong cách ngôn ngữ chính
luận.
5. Các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh.
6. Các thao tác lập luận và việc vận dụng các thao tác lập luận: Thao tác lập luận
phân tích, Thao tác lập luận bình luận, Thao tác lập luận giải thích, Thao tác lập luận chứng
minh, Thao tác lập luận so sánh, Thao tác lập luận bác bỏ.
7. Các phép liên kết câu và đoạn văn bản: Phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên
tưởng, phép tương phản.
Một số vấn đề cần lưu ý khi đọc – hiểu văn bản :
+ Nắm vững đặc trưng của các kiểu loại văn bản để trả lời đúng câu hỏi yêu cầu :
nhan đề, nội dung cơ bản, các yếu tố nghệ thuật của văn bản như : từ ngữ, hình ảnh, thể
thơ, phép liên kết, luận điểm, biện pháp nghệ thuật được sử dụng; khi lí giải các vấn đề đặt
ra trong văn bản cần có quan điểm, nhận thức đúng đắn, phù hợp với đạo đức, chuẩn mực
xã hội,...

B. PHẦN VĂN BẢN VĂN HỌC


I. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - Hồ Chí Minh
* Những kiến thức cơ bản cần nắm được:
1. Hoàn cảnh ra đời
- Ngày 19-8-1945 chính quyền ở thủ đô về tay nhân dân. Ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh từ chiến khu cách mạng ở Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng
Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
- Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách: nền độc lập vừa
mới giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị
chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau
là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp.
Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị Nhật xâm
chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp.
2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tượng của bản Tuyên ngôn:
- Giá trị lịch sử: là một văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã
đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến; đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt
Nam về quyền tự do, độc lập; là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần một trăm năm
của dân tộc ta để có quyền thiêng liêng đó. Đó cũng là thành quả trực tiếp của Đảng Cộng
sản Việt Nam và của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng nước ta. Bản
Tuyên ngôn khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới cho
dân tộc, kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân làm chủ đất nước.
- Giá trị văn học:
+ Giá trị tư tưởng: là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Giá trị nghệ thuật: là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh
thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ hùng hồn.
- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; các nước trên thế giới, bọn đế quốc, thực dân
đang lăm le xâm lược nước ta: Mĩ, Pháp.
- Mục đích: tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt
Nam mới; chặn đứng âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.
3. Phần 1 (từ đầu đến “không ai chối cãi được”): Nêu nguyên lí chung :
Hồ Chí Minh trích dẫn bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả
mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”.
Ý nghĩa của việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn trên là:
+ Thể hiện sự trân trọng những tư tưởng tiến bộ của người Mĩ, người Pháp, cũng là
của nhân loại nói chung.
+ Kiên quyết nhắc nhở người Mĩ, người Pháp rằng xâm lược Việt Nam là họ đã
phản bội lí tưởng cao quý của tổ tiên mình; đã làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo của những cuộc
cách mạng vĩ đại ở nước Mĩ, nước Pháp.
+ Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Việt Nam nhắc đến những tuyên ngôn nổi tiếng
trong lịch sử nhân loại thì cũng có nghĩa là: đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau; đặt
ba nền độc lập ngang hàng nhau; đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau.
Như vậy để khẳng định tính chất bình đẳng giữa các dân tộc Hồ Chí Minh đã sử
dụng thật đích đáng nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”, một mũi tên trúng nhiều
đích.Cũng như các nước khác trên thế giới, Việt Nam có quyền độc lập và tự chủ - điều đó
phù hợp với tính tất yếu khách quan của lịch sử.
Người còn “suy rộng ra”, bổ sung những lí lẽ mới: “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là:
tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ quyền con người, Bác đã mở rộng ra quyền dân
tộc. Đây là một suy luận quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy
giờ thì trước khi nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền dân tộc. Dân tộc có độc
lập, nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của
dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp, vừa mang tầm vóc quốc tế vừa
mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.
- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản
tuyên ngôn.
4. Phần 2 (từ “Thế mà … phải được độc lập”): tố cáo tội ác của thực dân Pháp
và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
a. Bản Tuyên ngôn đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể
chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn “hợp pháp hóa” việc chiếm
lại nước ta:
- Pháp kể công “khai hóa”, bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt
chủng của chúng, tội nặng nhất là chúng gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn 2 triệu đồng
bào ta chết đói.
+ Về chính trị: không cho dân ta tự do dân chủ , thi hành luật pháp dã man, lập ba
chế độ khác nhau ở Bắc, Trung, Nam, lập nhà tù nhiều hơn trường học, thẳng tay chém
giết những người yêu nước, ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc
phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
+ Về kinh tế: chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu,
đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta trở nên bần cùng, không cho các nhà tư
sản ta ngóc đầu lên, bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
+ Tố cáo sự hèn hạ, độc ác của thực dân Pháp: quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta
rước Nhật, khiến dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật, cuộc sống càng cực khổ,
nghèo nàn, đẩy nước ta vào nạn đói khủng khiếp. Thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu
hàng Nhật, chúng không "bảo hộ" mà trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho
Nhật. Chúng không liên minh chống Nhật mà quay lại thẳng tay khủng bố Việt Minh…
b. Pháp kể công “bảo hộ” -> bản Tuyên ngôn lên án chúng trong 5 năm đã bán
nước ta 2 lần cho Nhật.
- Pháp cho rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng -> bản Tuyên ngôn cho rằng
Đông Dương đã là thuộc địa của Nhật là nhân dân ta đã đứng lên giành lại quyền độc lập
từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
- Pháp nhân danh Đồng minh tuyên bố Đồng minh đã thắng Nhật, vậy chúng có
quyền lấy lại Đông Dương -> bản Tuyên ngôn vạch rõ chúng chính là kẻ phản bội Đồng
minh, đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật. Chỉ có Việt Minh mới thực sự thuộc phe
Đồng minh vì đã đứng lên đánh Nhật giải phóng Đông Dương.
- Ngoài ra, bản Tuyên ngôn còn lên án tội ác dã man và tư cách đê tiện của chúng:
khi trốn chạy còn tàn sát các chiến sĩ cách mạng ở trong tù. Ngược lại, Việt Minh đã tỏ rõ
lòng nhân đạo khi giúp đỡ chúng chạy qua biên giới -> lập luận chặt chẽ, đanh thép.
c. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những
thông điệp quan trọng:
+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã kí về Việt Nam.
+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp.
+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
5. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của
toàn dân tộc.
- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc
- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.
- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.
6. Nghệ thuật:
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục
- Ngôn ngữ chính xác, hùng hồn, giàu cảm xúc.
* Các dạng đề luyện tập
Câu 1. Nêu hoàn cảnh sáng tác, giá trị lịch sử, giá trị văn học, mục đích, đối tượng
của bản “Tuyên ngôn Độc lập”.
Câu 2. Giải thích vì sao mở đầu bản “Tuyên Ngôn độc lập”, Bác lại trích dẫn
“Tuyên ngôn Độc lập” của nước Mĩ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách
mạng Pháp.
Câu 3. “Tuyên ngôn Độc lập” đã vạch trần bản chất tàn bạo, xảo quyệt của thực dân
Pháp bằng những lí lẽ và sự thật lịch sử nào?
Câu 4. Phân tích nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh trong “Tuyên ngôn Độc lập”.
----------------------------------
II. TÂY TIẾN - Quang Dũng
* Những kiến thức cơ bản cần nắm được:
1. Tác giả
- Quang Dũng (1921 – 1988) là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn
nhạc.
- Một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa: nhà thơ của xứ Đoài
mây trắng, thơ giàu chất nhạc, họa…
- Các tác phẩm chính: “Mây đầu ô”, “Tuyển tập thơ văn Quang Dũng”.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ
yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có
nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ
nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông
chuyển sang đơn vị khác. Nhớ về đơn vị cũ, ông viết bài thơ “Tây Tiến” tại làng Phù Lưu
Chanh (một địa danh thuộc tỉnh Hà Đông cũ). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”
(1986).
b. Cảm xúc chủ đạo
Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ
niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ,
hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.
3. Nội dung
a. Đoạn 1
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Đoạn thơ khắc họa bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, bí
hiểm nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và hình ảnh người lính Tây Tiến trong chặng đường
hành quân đầy gian khổ
* Hai câu đầu: Xác định cảm hứng chủ đạo cho toàn bài.
+ Sông Mã là tên một dòng sông gắn với chiến trường Tây Tiến, từng chứng kiến và
chia sẻ những buồn vui, mất mát, từng “gầm lên khúc độc hành”. Quang Dũng đã nhắc
đến sông Mã như một biểu tượng thân yêu của nỗi nhớ.
+ Vế sau của câu thơ vang lên tiếng gọi “Tây Tiến ơi”, tiếp nối trong từ láy “chơi
vơi” ở câu sau. Phép điệp khiến cho tiếng gọi ấy trở nên âm vang, đập vào vách núi, dội lại
lòng người đang tha thiết nhớ nhung.
- Câu 2: Điệp từ “nhớ” thể hiện một nỗi nhớ trào dâng. Nếu như “nhớ về rừng núi”
gợi về không gian mênh mông của núi rừng miền Tây với những địa danh chứa đầy kỉ
niệm như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông..., hình ảnh con đường hành quân gian truân,
vất vả vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về một miền đất heo hút, hoang sơ... Vế sau dành để
miêu tả trạng thái của nỗi nhớ. “Chơi vơi” gợi độ cao phiêu du, bay bổng. Từ láy này thật
phù hợp trong việc diễn tả nỗi nhớ hướng về miền núi cao. Hơn nữa, từ láy “chơi vơi” còn
gợi cảm giác về nỗi nhớ da diết, đầy ám ảnh.
* Thiên nhiên miền Tây:
Qua những nét vẽ tài hoa vừa mang đậm chất hiện thực, vừa thấm đẫm chất lãng
mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây hiểm trở, khắc nghiệt
nhưng cũng thơ mộng, lãng mạn.
- Sương núi: thiên nhiên miền Tây trong kí ức của nhà thơ luôn mờ ảo trong màn
sương núi. Sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát... Đó cũng là màn
sương mờ ảo của kỉ niệm, của nỗi nhớ nhung. Bút pháp hiện thực đã miêu tả hình ảnh
đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi thấp thoáng ẩn hiện trong sương (Sài Khao sương lấp đoàn
quân mỏi). Nhưng đến câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hiện thực khắc nghiệt
đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương – “đêm hơi” bồng bềnh, hư ảo.
Những ngọn đuốc soi đường bập bùng di chuyển dọc theo hành quân được cảm nhận như
những đóa hoa chập chờn, lung linh. Những thanh bằng nhẹ trong câu thơ càng làm đậm
thêm sắc thái huyền ảo của màn sương. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận
một cách thật thi vị bởi tâm hồn nghệ sĩ tài hoa như thế.
- Dốc núi: “Dốc lên… thước xuống”: Ba câu thơ đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên
nhiên hùng vĩ, hiểm trở ở địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến, qua đó làm hiện lên cuộc
hành quân gian lao vất vả, cũng như ý chí kiên cường, bất khuất và tâm hồn lạc quan yêu
đời của người lính Tây Tiến.
+ Hai câu đầu đã phác hoạ bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với độ cao thăm thẳm, độ
hiểm trở gập ghềnh khúc khuỷu và cả sự hoang sơ, heo hút. Câu “Dốc lên.. thẳm” gợi ra
cảnh tượng dốc núi vừa cao, vừa xa vừa trập trùng uốn khúc. Sự hiểm trở của dốc núi
không chỉ hiện lên qua yếu tố tạo hình và biểu cảm của hai từ láy “khúc khuỷu, thăm
thẳm” mà còn được gợi ra trong nhạc điệu của câu thơ bởi sự phối hợp dày đặc của các
thanh trắc. Có tới 5 thanh trắc trong một câu thơ 7 chữ. Điệp từ “dốc” ở đầu hai vế câu đã
làm tăng thêm cảm giác trùng điệp như vô tận của các con dốc. Do vậy, không chỉ trực
tiếp miêu tả dốc núi mà còn gián tiếp gợi ra độ sâu của vực bên dưới và gợi nên sự nhọc
nhằn, gian khổ của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác
đã đến, núi rừng hiểm trở như muốn thách thức ý chí và nghị lực của con người!
+ “Heo hút… trời” với việc tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót. Núi cao đến nỗi
người lính như hành quân trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Địa hình heo hút, hiểm
trở làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của người lính, nhưng chỉ bằng một từ “ngửi”,
khẩu súng đã được nhân hóa một cách hóm hỉnh, nghịch ngợm, qua đó thấy được tâm hồn
trẻ trung của những người lính phong trần, coi thường mọi gian lao, vất vả.
- Mưa: câu “Nhà ai Pha Luông…”:
+ Sau những câu thơ hun hút nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man
trong 7 thanh bằng mở ra một không gian vừa hiện thực, vừa huyền ảo, mênh mông, nhạt
nhòa trong mưa.
+ Hình ảnh “mưa xa khơi” cho thấy cả thung lũng mờ mịt trong biển mưa. Người
lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn rừng núi chìm trong mưa, một chút bâng
khuâng, xa vắng, gợi nhớ thương bởi hai chữ “nhà ai”. Hình ảnh ngôi nhà của người dân
Tây Bắc gợi lên cảm giác ấm áp và nỗi nhớ nhung làm xao xuyến lòng người xa quê.
- Núi rừng miền Tây: được miêu tả qua những câu thơ đầy ấn tượng : "Chiều
chiều... trêu người”.
+ "Thác gầm thét" và "cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa gợi lên sự dữ dội
hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. Những dấu sắc trong câu thơ trên như gợi lên
tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liêu tiếp ở câu dưới lại gợi
cái thâm u bí ẩn. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp ấy ngự trị nơi núi rừng không
phải một chiều, một đêm mà là “chiều chiều”, “đêm đêm”. Nhưng cũng chính điều này đã
khiến chân dung người lính chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ.
* Nỗi nhớ về người lính Tây Tiến:
- Chặng đường hành quân của người chiến sĩ đã hiện lên qua một nét vẽ đầy ấn
tượng: “Anh bạn … bỏ quên đời”. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần dừng
chân nghỉ giữa đường hành quân. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả một thực tế đau
xót trên chiến trường: người lính mệt mỏi, kiệt sức và gục ngã trên đường hành quân. Tuy
nhiên, cách diễn tả chủ động trong cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đã làm
hiện lên cái kiêu dũng, ngang tàng của những người lính dãi dầu mưa nắng.
- Con đuờng hành quân còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào thắm thiết ân tình. Qua
những kỉ niệm ấy, nhà thơ đã cho thấy Tây Bắc không chỉ có núi cao, rừng sâu… mà còn
có cả những bản làng nên thơ và làn khói bếp ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm
của xôi nếp thơm đầu mùa và nhất là có những cô gái xinh đẹp, tình tứ: “Nhớ ôi… nếp
xôi”.
Câu thơ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” mở đầu bằng chữ “nhớ” - kỉ niệm ào ạt trở
về và hiện hữu với làn khói vương vấn, quấn quýt trong lòng người.
Câu thơ “Mai Châu…” tái hiện một kỉ niệm về các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở
Mai Châu giữa mùa lúa chín, được đồng bào Tây Bắc yêu thương, đùm bọc. Họ mời các
anh thưởng thức những bữa cơm, nếp xôi thơm dẻo. Nhà thơ viết hai chữ “mùa em” đầy
tình tứ và trìu mến gợi nên hình ảnh những cô gái Tây Bắc duyên dáng đang sóng sánh
ánh mắt, rạng rỡ nụ cười và nồng nàn hương sắc. Hương thơm nhưng không còn cụ thể để
cảm nhận bằng khứu giác mà mơ hồ trong nỗi nhớ thương xao xuyến của lòng người để
trở thành những kỉ niệm không thể nào quên trong tâm hồn những chàng trai Hà thành hào
hoa, lãng mạn.
b. Đoạn 2: Những kỉ niệm của người lính Tây Tiến
* Bốn câu đầu: “Doanh trại… hồn thơ”: Kỉ niệm về một đêm liên hoan văn nghệ
có đồng bào địa phương đến góp vui cùng người lính.
Đoạn thơ miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây
Tiến về một đêm lửa trại ở nơi trú quân – một bản làng nào đó ở miền Tây.
- Câu thơ “Doanh … hoa”: Bút pháp lãng mạn khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng
quân trở thành đuốc hoa rực rỡ kì ảo, gợi những liên tưởng đầy thi vị; đêm liên hoan trở
thành đêm hội tưng bừng. Chữ “bừng” đem đến ấn tượng về sự đột ngột chói lòa của ánh
sáng. Đó là ánh sáng của lửa đuốc, xua đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi rừng, thể hiện niềm
vui sướng rạo rực trong lòng người. Không chỉ miêu tả ánh lửa, câu thơ còn khiến người
đọc hình dung ra gương mặt bừng sáng, ánh mắt ngỡ ngàng sung sướng của các chiến sĩ.
- Hình ảnh trung tâm của “hội đuốc hoa” là các thiếu nữ miền sơn cước: “Kìa em...
hồn thơ”.
+ Từ “kìa” và cụm từ “tự bao giờ” đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa
ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ Tây Tiến đứng trước những thiếu nữ miền Tây Bắc.
Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mĩ lệ hóa: xiêm áo lộng lẫy và
nét e ấp đầy nữ tính.
+ Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của thiếu nữ miền Tây e
ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu của núi rừng. “Man điệu” có thể hiểu
là vũ điệu uyển chuyển của các cô gái, cũng là giai điệu mới mẻ của miền đất lạ trong
tiếng khèn mê hoặc lòng người. Với tâm hồn nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm trước cái đẹp,
người lính say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh
ngọt ngào để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ, xây hồn thơ với
bao mộng ước ngọt ngào.
* Bốn câu sau “Người đi… đong đưa”: Kỉ niệm về chiều sương Tây Bắc
- Câu thơ đầu tiên tựa như một lời nhắn nhủ bâng khuâng: “Người đi.. ấy”. Lời nhắn
nhủ với người đi thực ra là để thực hiện nỗi xao xuyến khi nhà thơ thả hồn trở về với
không gian mênh mông của miền Tây trong một “chiều sương” nhạt nhòa, hư ảo.
- Sau tiếng nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên tiếng hỏi như trăn trở: “Có thấy…
đong đưa”.
+ Hoa lau có màu xám trắng, mong manh, chỉ cần một chút gió núi rất nhẹ nó cũng
trở nên xao động, cả bờ lau như đung đưa mềm mại. Nhà thơ đang đắm chìm trong nỗi
nhớ về một chiều sương với hoa lau xao xác trắng xóa núi rừng, với dòng sông hoang dại
chảy trôi, với nẻo bến bờ từng in dấu chân đồng đội nay kẻ còn người mất.
+ Đặc biệt ấn tượng trong kí ức của nhà thơ là hình ảnh con người trên thuyền “độc
mộc” “trôi” theo “dòng nước lũ” với “hoa đong đưa” đôi bờ. Trong sương mờ kỉ niệm,
con người chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa, hư ảo. Dáng nguời ấy vừa cứng cỏi hiên
cường trên con thuyền độc mộc; vừa mềm mại duyên dáng và nên thơ. Hình ảnh “hoa
đong đưa” còn là ẩn gợi tả dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của các cô gái miền Tây Bắc. Đây là
cách nói thể hiện chất lãng mạn đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng.
c. Đoạn 3: Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Có thể coi tám câu thơ này là một bức tượng đài về hình ảnh người chiến sĩ Tây
Tiến với vẻ đẹp hào hùng của lí tưởng, ý chí kiên cường cùng vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn
trong tâm hồn.
* Bốn câu đầu: “Tây Tiến đoàn binh… thơm”:
- Trong kí ức của Quang Dũng, quân đội Tây Tiến là một “đoàn binh không mọc
tóc”. Nét vẽ ngoại hình này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây
Tiến: họ phải cạo trọc đầu khi ở rừng (do điều kiện sống thiếu thốn), cũng có thể đó là hậu
quả của những trận sốt rét rừng liên miên. Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh ấy cũng gợi
lên sự nghiệt ngã của chiến tranh, nhưng với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng cũng
như của câu thơ “không mọc tóc ”, thể hiện trạng thái chủ động, khiến cho người lính
không hiện lên một cách tiều tụy mà kiêu bạc, ngạo nghễ, ngang tàng.
- Chân dung người lính Tây Tiến còn được vẽ tiếp ở nét ngoại hình thứ hai: “Quân
xanh… hùm”:
+ Có thể hiểu đây là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả
đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ nên hiểu đây là những gương mặt
xanh xao, gầy yếu vì cuộc khắc khổ ở rừng. Đây là cách diễn đạt tinh tế của nhà thơ,
“xanh màu lá” chứ không phải “xanh xao”. Người lính như hòa vào thiên nhiên, cây lá, ốm
mà không yếu, gầy gò nhưng vẫn tràn đầy sức sống. + Vế sau của câu thơ là hình ảnh
tương phản độc đáo với hình ảnh “dữ oai hùm”. Trên những gương mặt xanh màu lá ấy
của người lính vẫn tóat lên nét dữ dội kiêu hùng, vẻ uy nghi lẫm liệt của những vị chúa tể
rừng xanh.
-> Miêu tả người lính Tây Tiến trong gian khổ thiếu thốn, bệnh tật nhưng nhà thơ lại
nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của họ. Đó cũng là cách vượt thoát hoàn cảnh của
những con người luôn biết làm chủ hòan cảnh.
- Bức tượng đài người chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng, oai phong
trong dáng vẻ mà còn được thể hiện ở chiều sâu tâm hồn đẹp đẽ của họ:
+ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” chứa đựng ý chí chiến đấu và khát vọng, làm
tôn thêm sự oai phong, lẫm liệt trong dáng vẻ.
+ Những chàng trai Tây Tiến ra đi vì tiếng gọi của lí tưởng, song trong tim họ vẫn
luôn dành một góc cho nỗi nhớ nhung lưu luyến về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”.
Theo cách viết lãng mạn, đa cảm của Quang Dũng, câu thơ gợi nhớ về những thiếu nữ Hà
Nội kiều diễm. Hình ảnh ẩn dụ “dáng kiều thơm” đã đồng thời gợi cả vóc dáng và hương
sắc những cô gái Hà thành thanh lịch.
-> Người lính Tây Tiến không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường dám hi sinh
vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai có trái tim đằm thắm yêu thương, cũng như hình
ảnh người lính trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành
quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”, hoặc xa hơn trước – một sáng mùa
thu cách mạng: “Người ra đi… rơi đầy”. Đó là những nét vẽ đẹp về cả một thế hệ Việt
Nam dằn lòng gạt tình riêng ra đi vì nghĩa lớn.
* Bốn câu sau “Rải rác… độc hành”: trực tiếp miêu tả những tổn thất, hi sinh của
người lính Tây Tiến.
- Câu thơ đầu tiên mang đến một cảm giác ảm đạm về cái chết: “Rải ... xứ”. Có thể
nhận ra nét nghĩa tương đồng của tất cả từ ngữ trong câu thơ: chúng đều gợi ra sự xa xôi.
“Rải rác” là hình ảnh những nấm mồ nằm xa nhau; “biên cương” là nơi cuối cùng của Tổ
quốc, cũng có thể coi là “viễn xứ”; “mồ” là hình ảnh của cái chết, gợi sự xa cách, chia lìa,
“tử biệt sinh li”.
-> Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, có giá trị biểu cảm cao.
Khi người lính Tây Tiến gục ngã trên đường hành quân, việc chôn cất diễn ra rất sơ sài,
vội vã; đồng đội xót lòng để các anh lại trong những nấm đất hoang lạnh, hiu hắt, đơn sơ
bên đường, nhưng qua cách viết của Quang Dũng, những nấm mồ vô danh ấy trở nên
những đài kỉ niệm trang trọng, vĩnh hằng, thiêng liêng.
+ Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, phảng phất bóng dáng những tráng sĩ xưa
“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” - những con người sẵn sàng gạt tình riêng ôm chí lớn
“Ra đi không vương thê nhi - Ra đi không hẹn ngày về”, “nhất khứ bất phục phản”…
Cũng bởi cách diễn đạt chủ động, câu thơ đã tô đậm lí tưởng cao cả và khí phách kiên
cường của những chiến sĩ anh hùng « quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ».
+ “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân, khoảng thời gian đẹp đẽ nhất
trong cuộc đời nhưng người lính không hề tiếc nuối mà sẵn sàng hiến dâng.
- Câu thơ “áo bào… đất”: không chỉ là hình ảnh của cái chết, câu thơ miêu tả việc
chôn cất tiễn đưa tử sĩ cũng gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Cảm hứng lãng mạn trong
bút pháp mĩ lệ hóa đã biến tấm áo quân phục bạc màu sờn rách của người lính thành tấm
áo bào đẹp đẽ thiêng liêng. Quang Dũng có kể lại rằng: khi tử sĩ nằm xuống không đủ
manh chiếu để liệm, nói “áo bào thay chiếu” là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi
những người đồng chí vừa ngã xuống, vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh
-> trong cảm nhận của nhà thơ, những người thân yêu của ông khi ngã xuống vẫn được
khâm liệm trong chiếc áo bào trang trọng vốn chỉ dành cho những tráng sĩ anh hùng xả
thân vì nghĩa lớn.
+ Sự bi thảm của cái chết đã được xóa đi không chỉ vì lí tưởng cao cả và khí phách
hào hùng mà còn bởi cách nói giảm khi coi cái chết chỉ là sự “về đất”. Các anh đã ra đi, đã
chiến đấu kiên cường, đã hi sinh anh dũng vì Tổ quốc, nay Tổ quốc lại trìu mến yêu
thương đón những người con thân yêu trở về thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất mẹ.
- Âm hưởng bi tráng được gợi ra từ hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến đã được đẩy
lên đỉnh điểm trong câu kết đoạn: “Sông Mã gầm lên... hành”. Sông Mã từng gắn bó với
người lính Tây Tiến trong các chặng đường hành quân gian khổ, nay lại là chứng nhân lịch
sử thay lời cho thiên nhiên, trời đất, núi sông gầm vang “khúc độc hành” bi tráng tiễn đưa
những nguời con yêu quý về yên nghỉ trong lòng đất. Khúc độc hành – ấy là khúc ca vừa
mạnh mẽ, hùng tráng vừa phảng phất âm hưởng cô đơn, ngậm ngùi. Đây là cảm giác
không thể tránh khỏi khi phải đứng trước cái chết, khi phải tiễn đưa những người thương
yêu trong chuyến đi cuối cùng đơn độc.
d. Đoạn 4 (còn lại) : Lời thề gắn bó với Tây Tiến
- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính đối với thời đại và lịch sử. Họ sẽ sống
mãi với thời gian, là chứng nhân của thời đại chống Pháp.
* Các đề luyện tập
Câu 1. Phân tích những nét mới lạ, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Câu 2. Nỗi nhớ về thiên nhiên và đồng đội qua 14 câu thơ đầu của bài thơ “Tây Tiến”.
Câu 3. Phân tích vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến”.
Câu 4. Phân tích làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ “Tây Tiến
đoàn binh … độc hành”.
-------------------------------------------
III. VIỆT BẮC - Tố Hữu
*Những kiến thức cơ bản cần nắm được:
- Về tác giả:
+ Vị trí, các chặng đường thơ Tố Hữu: Tố Hữu (1920 – 2002) là một trong những lá
cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Các chặng đường thơ ông luôn gắn bó và phản
ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng
lợi vinh quang của dân tộc.
+ Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu: nội dung mang tính chất trữ tình – chính trị,
tính sử thi rất sâu sắc; nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà
(vân jdungj thể thơ truyền thống, ngôn gữ quen thuộc với dân tộc,...).
- Về tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của Cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40
đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây người dân Việt Bắc đã từng che
chở, đùm bọc và sát cánh bên bộ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập
dân tộc.
Sau chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi,
tháng 10-1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về với miền xuôi, Trung
ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Tố Hữu cũng là một trong
số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt
chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy.
2. Cấu tứ chung của bài thơ:
Bối cảnh của bài thơ là cuộc chia tay đầy ắp nhớ nhung, lưu luyến giữa những người
đã từng gắn bó trong những năm tháng gian lao, vất vả nhưng oanh liệt, hào hùng.
Với nhân vật trữ tình là cả người đi và kẻ ở, bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp
quen thuộc của ca dao, dân ca. Nhưng trong ca dao, dân ca, cách đối đáp này được dùng
để diễn tả những tâm trạng của tình yêu, tình nghĩa riêng tư. Trong bài thơ, Tố Hữu đã vận
dụng sáng tạo hình thức ấy vào việc thể hiện nghĩa tình cách mạng rộng lớn.
Cặp đại từ xưng hô “mình – ta” vừa quen thuộc, vừa thân thiết, gắn bó. Quen thuộc
vì nó gợi nhắc ta nhớ đến những khúc hát yêu thương, tình nghĩa của ca dao, dân ca,
những lời ru, câu hát. Thân thiết và gắn bó vì lẽ người ta thường sử dụng cách xưng hô
này trong tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng keo sơn, bền chặt. Hai chữ “mình – ta” được sử
dụng vừa linh hoạt mang đến màu sắc trữ tình cho tác phẩm. Chuyên nghĩa tình cách
mạng, chuyên ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chuyện ân tình kháng chiến, uống nước nhớ nguồn
đã hóa thành chuyện riêng tư mình – ta đôi lứa gửi trao khi tạm phải chia xa. Cứ thế, lời
thơ hòa quyện ngọt ngào đi vào lòng người, nhắc nhở thấm thía bằng tiếng nói của tình
thương mến. Ẩn sau đôi lứa mình – ta trò chuyện tâm tình chính là tâm trạng của nhân vật
trữ tình – nhà thơ Tố Hữu – cũng là tiếng lòng của những người cán bộ kháng chiến trên
đường về xuôi thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới.
3. Một số đoạn thơ tiêu biểu:
a. Tám câu thơ đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng,
lưu luyến giữa kẻ ở và người đi.
- Bốn câu đầu là lời ướm hỏi của người ở lại.
+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” nỗi nhớ hướng về thời gian, khẳng
định Việt Bắc là cái nôi đầu tiên của cách mạng, tái hiện chặng đường kháng chiến gian
khổ, hào hùng.
+ Nghĩa tình của kẻ ở - người đi được biểu hiện qua các đại từ mình – ta quen thuộc
trong ca dao, gắn liền với tình yêu đôi lứa nên đã tạo ra không khí nghĩa tình. Điệp từ
“nhớ” cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên đầy tha
thiết.
+ Các từ láy “thiết tha, mặn nồng” thể hiện cung bậc của nỗi nhớ.
-Bốn câu sau là tiếng lòng của người cán bộ về xuôi
+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng,
bồn chồn, cùng với cử chỉ “cầm tay nhau” xúc động, bồi hồi đã nói lên tình cảm chưa xa
đã nhớ, sự bịn rịn, lưu luyến của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.
+ Hình ảnh “áo chàm” – nghệ thuật hoán dụ, gợi nên trang phục quen thuộc của
người dân Việt Bắc cũng là tượng trưng cho tấm lòng thủy chung, bền chặt của họ với
cách mạng.
b. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình
- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người Việt Bắc:
+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù.
+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm
muối, mối thù nặng vai.
+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.
+ Nhớ mái tranh nghèo nàn nhưng ấm ấp tình người, tình cách mạng.
+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào, Hồng
Thái, mái đình, cây đa.
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bát đậm chất dân gian, có sự
phối hợp thanh điệu hài hòa, ngắt nhịp cân xứng vừa khắc ghi những sự kiện, khắc họa
hiện thực gian khổ, vừa khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc.
c. Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt gian khổ mà ấm áp nghĩa tình.
Nhớ gì như nhớ người yêu
...
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu mãnh liệt và da diết.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp riêng: trăng đầu núi, nắng lưng
nương cùng với những địa danh, tên gọi cụ thể. Trong kí ức của người đi còn in dấu
khoảnh khắc thời gian (trăng, nắng chiều), từng khoảng không gian có cây cối, sông suối,
núi rừng, ...
- Vẻ đẹp con người và ân tình Việt Bắc giản dị, thủy chung:
+ Nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
+ Nhớ đến người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.
+ Tình đồng chí, đồng đội với bao gian nan, vất vả: “Nhớ sao ... núi đèo”
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ:
“Nhớ sao tiếng mõ ... suối xa”.
d. Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc
Ta về mình có nhớ ta
....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
* Chia làm hai phần:
- Phần 1: gồm hai câu đầu – như lời mở đầu trong các cuộc hát giao duyên. Trong
đó người về vừa ướm hỏi người ở lại, vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình:
nhớ cả hoa và người. Hai hình ảnh này đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất
của thiên nhiên, còn người là hoa của đất. Hoa và người không thể tách rời.
- Phần 2 gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu
tả con người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh của cây lá bỗng hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối.
Màu sắc ấy làm ấm cả không gian.
+ Mùa xuân với sắc trắng tinh khiết của hoa mơ.
+ Mùa hè có tiếng ve kêu và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu có ánh trăng hòa bình chan hòa cả núi rừng.
- Hình ảnh con người là tâm điểm của bức tranh, tạo nên sức sống. Con người hiện
lên trong dáng vẻ bình dị, thân quen, thầm lặng trong công việc đời thường: khỏe khoắn
khi đi rừng “nắng ánh dao gài thắt lưng”, khéo léo đan kết nên vành nón, chịu thương,
chịu khó đi hái măng rừng.
- Đoạn thơ kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
e. Bức tranh Việt Bắc trong kháng chiến
“Những đường Việt Bắc của ta
….
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
- Về nghệ thuật: biện pháp điệp từ, điệp ngữ, so sánh, đối lập; những hình ảnh thơ
vừa tả thực vừa tượng trưng, cường điệu khỏe khoắn; âm hưởng thơ hùng tráng, tự hào;
cảm hứng lãng mạn và bút pháp sử thi đậm nét.
- Về nội dung: Khắc họa hình ảnh Việt Bắc hùng tráng trong kháng chiến với những
lực lượng hùng hậu, khí thế ngút trời, mạnh mẽ, quyết tâm đoàn kết cao độ, cả dân tộc
cũng ra trận với một niềm tin chiến thắng, tự hào. Những chiến công vang dội được tác giả
tái hiện đầy sảng khoái qua điệp từ “vui”, biện pháp liệt kê những địa danh gắn liền với
những chiến dịch “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”.
* Các dạng đề luyện tập
Đề 1. Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Đề 2. Nêu cấu tứ chung của bài thơ.
Đề 3. Chỉ ra biểu hiện của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ.
Đề 4. Phân tích kết cấu, nghệ thuật sử dụng cặp đại từ từ xưng hô trong bài thơ.
Đề 5. Phân tích một số đoạn tiêu biểu.
-------------------------------------------
C. CẤU TRÚC ĐỀ
Thời gian làm bài: 90 phút
I. Phần Đọc – hiểu văn bản và kết hợp viết đoạn văn nghị luận độ dài 8-10 câu (5,0
điểm)
II. Làm văn (5,0 điểm)
D. ĐỀ MINH HỌA
I. ĐỌC - HIỂU (5,0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây:
Thái độ sống tích cực chính là chìa khóa của hạnh phúc mà qua đó bạn nhìn cuộc
đời tốt hay xấu, đưa đến cho bạn những cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề khác nhau.
Nếu người có thái độ tích cực nhìn cuộc sống bằng lăng kính lạc quan, màu sắc rực rỡ, thì
người tiêu cực lại chỉ thấy một màu xám xịt, ảm đạm mà thôi.
Thái độ sống tích cực còn giúp ta nhìn được những cơ hội trong khó khăn cũng như
không cảm thấy khó chịu, than trách cuộc sống. Ngoài ra, thái độ sống tích cực còn có thể
giúp cho chúng ta cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống và biết quan tâm những người xung
quanh hơn.
Người có thái độ sống không tốt thường nhìn nhận tiêu cực về các vấn đề, họ cho
rằng không thể giải quyết được và tự tăng mức độ trầm trọng lên. Những người này luôn
chú ý đến những nhược điểm của bản thân, có thái độ nuối tiếc, suy nghĩ về những điều
mất mát và lo sợ điều tồi tệ sẽ xảy đến.
Trong cuộc sống, vốn dĩ hai mẫu người này đã có sự khác nhau về cách cư xử, suy
nghĩ, cách giao tiếp… Nhưng đến khi họ cùng gặp một vấn đề, sự khác biệt này mới thể
hiện rõ và từ đó, cuộc sống của họ cũng được tạo nên từ những yếu tố này.
(Mac Anderson, Điều kì diệu của thái độ sống,
NXB Tổng Hợp TP.HCM, năm 2016, tr.17)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Sự khác nhau về cách nhìn cuộc sống giữa người tích cực và người tiêu cực là gì?
Câu 2. Anh/chị hiểu như thế nào về câu: Thái độ sống tích cực chính là chìa khóa của
hạnh phúc?
Câu 3. Thông điệp ý nghĩa nhất mà anh/chị nhận được từ đoạn trích trên.
Câu 4. Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc - hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng
8 đến 10 câu) trình bày suy nghĩ về giá trị của việc sở hữu một thái độ sống tích cực.

II. LÀM VĂN (5,0 điểm)

- Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
(Trích Việt Bắc, Sách giáo khoa Ngữ văn 12, Tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, trang 109)

Cảm nhận của anh/ chị về khung cảnh chia tay và tâm trạng của kẻ ở, người đi trong
đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét cách dùng đại từ mình- ta trong đoạn thơ.
--------HẾT--------

You might also like