Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN

BỘ MÔN TÂM LÝ HỌC

TÍNH TRÌ HOÃN Ở SINH VIÊN

TIỂU LUẬN MÔN TÂM LÝ HỌC – KHÁI NIỆM VÀ ỨNG DỤNG

BÀN ĐẦU

Nguyễn Phương Uyên 22000628

Nguyễn Ngọc Ngân 2182169

Mã Gia Kim 2194176

Trần Thị Trúc Giang 2174969

Đặng Hội Hương Thư 2183132

Vũ Thu Thảo 2193891

Trần Huy Hoàng 2190984

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 6 năm 2021


BẢN TRÌNH BÀY NỘI DUNG CÔNG VIỆC CỦA CÁC THÀNH VIÊN

Mức độ
hoàn thành
STT Họ và tên MSSV Công việc
(%, theo đánh giá
của nhóm trưởng)

1 Nguyễn Phương Uyên 22000628 Tìm tài liệu, viết bài 100%
luận

2 Trần Thị Trúc Giang 2174969 Tìm tài liệu, viết bài 97%
luận

3 Nguyễn Ngọc Ngân 2182169 Tìm tài liệu, thuyết 100%


trình

4 Đặng Hội Hương Thư 2183132 Tìm tài liệu, thuyết 100%
trình

5 Vũ Thu Thảo 2193891 Tìm tài liệu, tạo PPT 89%

6 Trần Huy Hoàng 2190984 Tìm tài liệu, thuyết 86%


trình

7 Mã Gia Kim 2194176 Tìm tài liệu, thuyết 93%


trình

i
Mục lục

Mục lục ........................................................................................................................... ii


Tóm tắt........................................................................................................................... iv
Chương 1. Khái niệm về tính trì hoãn và những vấn đề liên quan........................... 1
1.1. Khái niệm về tính trì hoãn .................................. Error! Bookmark not defined.
1.2. Sự phổ biến của tình trạng trì hoãn đối với sinh viên ....... Error! Bookmark not
defined.
1.3. Cách nhận biết người có thói quen trì hoãn. ...................................................... 2
1.3.1. Sự khác biệt giữa người không có và người có thói quen trì hoãn.......... 2
1.3.2. Những tiêu chí để phân biệt người thường xuyên trì hoãn trong việc
học. ..................................................................................................................... 3
Chương 2. Hậu quả ....................................................................................................... 4
2.1. Những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đời sống. ........................................ 4
2.1.1. Sự giảm sút trong chất lượng học tập ...................................................... 4
2.1.2. Tác hại của tính trì hoãn đối với sức khỏe thể chất lẫn tinh thần ........... 5
2.2. Mối liên hệ giữa tính trì hoãn và một số vấn đề tâm lý ..................................... 5
2.2.1. Stress ........................................................................................................ 5
2.2.2. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và Rối loạn tăng động giảm chú ý
(ADHD) .............................................................................................................. 6
Chương 3. Nguyên nhân sinh viên chọn việc trì hoãn ............................................... 7
3.1. Yếu tố bên ngoài ................................................................................................ 7
3.1.1. Tác động của công nghệ đến sự phổ biến của tính trì hoãn. ................... 7
3.1.2. Sự thấu hiểu mục đích hay bản chất của công việc ảnh hưởng đến quyết
định trì hoãn. ...................................................................................................... 8
3.2. Yếu tố bên trong ................................................................................................ 9
3.2.1. Cơ chế đối phó (Coping mechanism)....................................................... 9
3.2.2. Có phải Chủ nghĩa hoàn hảo là nguyên nhân cho tính trì hoãn? ........... 9
Chương 4. Giải pháp ................................................................................................... 11
4.1. Những giải pháp cho tính trì hoãn do các tác động bên ngoài gây ra ............. 11
4.1.1. Hạn chế Internet .................................................................................... 11
ii
4.1.2 Nên thưởng hơn là trừng phạt ................................................................ 11
4.2. Giải pháp dựa trên tác động bên trong............................................................. 12
4.2.1. Chấp nhận và tha thứ ............................................................................. 12
4.2.2. Nhận sự giúp đỡ từ các chuyên gia........................................................ 12
Kết luận ........................................................................................................................ 13
Tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 14

iii
Tóm tắt

Một trong những khó khăn mà sinh viên hay gặp phải là việc đối mặt với hạn nộp

bài, hay “deadline” - một từ hết sức quen thuộc với các bạn trẻ, dù là sinh viên hay đã

đi làm. Bản thân các thành viên trong nhóm Bàn Đầu cũng trải qua vấn đề này và rất

đồng cảm nên nhóm đã lựa chọn thảo luận về một trong nguyên nhân chính của nỗi sợ

“deadline”, đó là tính trì hoãn. Mục đích của bài luận là lý giải tính trì hoãn dựa theo

các bài nghiên cứu tâm lý, nhấn mạnh đến độ nghiêm trọng, trình bày những nguyên

nhân và đề xuất một số giải pháp cho vấn đề. Bài viết có cấu trúc bốn chương lần lượt

nói về khái niệm, hậu quả, nguyên nhân và giải pháp. Bên cạnh những diểm cơ bản về

tính trì hoãn, nhóm muốn đề cập đến mối liên hệ giữa tính trì hoãn và các vấn đề tâm lý.

Ngoài ra, nhóm cũng nêu lên quan điểm của mình về việc chủ nghĩa hoàn hảo có phải

là cách giải thích đúng cho nguồn gốc của thói quen trì hoãn hay đay là một biện minh.

Nhóm mong bài viết sẽ đem lại kiến thức nhóm tìm được về tính trì hoãn đến các bạn

sinh viên để các bạn hiểu và đối chiếu lên thói quen học tập hay sinh hoạt hằng ngày

của bản thân.

Từ khóa: tính trì hoãn, sinh viên, phổ biến, thói quen trì hoãn.

iv
Chương 1. Khái niệm về tính trì hoãn và những vấn đề liên quan

1.1. Khái niệm về tính trì hoãn.

Trì hoãn là một hành động tạm gác lại việc hoàn thành một công việc nào đó.

Từ tiếng Anh của tính trì hoãn – “procrastination”, có nguồn gốc từ chữ

“procrastinatus” trong tiếng Latinh. Từ “procrastinatus” được cấu thành bởi tiền tố

“pro” - có nghĩa là “hướng tới” hay tiến tới, và “cratinatus” nghĩa là ngày mai

(Kirst-Ashman & Hull, 2016). Nếu ghép hai bộ phận trên với nhau, ta có thể hiểu

theo cách đơn giản được ý của người xưa khi muốn mô tả hành động trì hoãn, đó là

”Để việc đến ngày mai rồi hẵng thực hiện”. Trong tiếng việt ta có một thành ngữ

dùng để chỉ sự trì hoãn, đó là “nước đến chân mới nhảy”. Giới trẻ Việt Nam, đặc

biệt là sinh viên, rất hay sử dụng thành ngữ này mỗi khi muốn nhắc đến việc gần

hạn nộp bài mới bắt đầu làm bài.

1.2. Sự phổ biến của tình trạng trì hoãn ở sinh viên.

Thực chất tình trạng này không chỉ phổ biến đối với sinh viên và học sinh Việt

Nam, mà giới trẻ khắp nơi trên thế giới đều gặp phải vấn đề này trong quá trình học.

Ở Hy Lạp, đã có 47% sinh viên tham gia một nghiên cứu cho rằng mình có thói quen

trì hoãn (Argiropoulou, 2015). Một nghiên cứu khác ở Mỹ đã cho thấy rằng trong

khoảng từ 80 – 90% sinh viên đại học thừa nhận rằng mình có trì hoãn trong quá trình

học tập, khoảng 70% khẳng định mình thường xuyên trì hoãn (Steel, 2007). Không

những vậy, việc liên tục dời lại công việc phổ biến đến mức có lúc nó được cho là

một hội chứng học sinh/sinh viên, hay “student syndrome” trong tiếng Anh (Smith,

2010). Mặc dù đa số sinh viên trong thời gian còn ở giảng đường đều ít nhiều lựa

chọn dời việc hoàn thành bài tập để thực hiện những việc khác kém quan trọng hơn,

1
nhưng những người có trì hoãn và những người thường xuyên trì hoãn có sự khác

nhau khá rõ rệt.

1.3. Cách nhận biết người có thói quen trì hoãn.

1.3.1. Sự khác biệt giữa người không có và người có thói quen trì hoãn.

Giáo sư Ferrari đã có một ví dụ khá dễ hiểu khi nói về sự giải thích về lối sống

của những người hay trì hoãn trong một cuộc phỏng vấn với Psychological Science,

ông nói rằng “Nếu tôi có mười hai việc cần làm, đương nhiên việc thứ mười, thứ

mười một và mười hai sẽ được làm sau cùng. Người có thói quen trì hoãn cũng có

mười hai công việc tương tự, họ sẽ thực hiện một hai việc trong danh sách đó, xong

họ viết lại danh sách, rồi lại thay đổi thứ tự của các công việc, rồi lại đi in thêm một

bản danh sách. Đó chính là trì hoãn” (Jaffe, 2013). Trong một bài phỏng vấn khác

vào năm 2010 giữa giáo sư Joseph Ferrari và APA, khi được hỏi đâu là điểm khác

nhau giữa người bắt tay vào làm việc ngay và người tìm đủ mọi lý do để né tránh thực

hiện công việc, giáo sư cho rằng trong khi tất cả mọi người đều ít nhiều trì hoãn trong

cuộc sống hằng ngày, nhưng chỉ những người biến trì hoãn thành một tật xấu và luôn

biện minh cho hành động của mình mới là nghiêm trọng.

Những người biến trì hoãn trở thành lối sống của mình thường có nhiều biện

minh khi họ quyết định không hoàn thành ngay một việc nào đó. Một trong những ví

dụ về sự biện minh có thể nói đến là người hay trì hoãn dựa vào tâm trạng để quyết

định xem mình có nên tập trung làm việc hay không. Sinh viên thường trì hoãn khi

cho rằng tâm trạng và tinh thần mình chưa đủ ổn định và tịn mình sẽ bắt đầu học cho

một bài kiểm tra khi cảm thấy tốt hơn, thời điểm này lại thường rơi vào ngày cuối

cùng trước ngày thi (Tice, 2001). Tóm lại, nhóm người không có thói quen trì hoãn

2
sẽ tập trung vào công việc hơn là bản thân, họ biết mình cần phải làm gì và không bị

xao nhãng bởi những yếu tố khác.

1.3.2. Những tiêu chí để phân biệt người thường xuyên trì hoãn trong việc học.

Những hành vi của một người được cho là chuyên trì hoãn trong học tập nên

đáp ứng được ba tiêu chí như sau: một là những hành vi đó không mang lại lợi ích gì

mà còn phản tác dụng, hai là chúng là thừa thãi và không cần thiết cho quá trình hoàn

thành nhiệm vụ được giao, và cuối cùng hiển nhiên là mang tính trì hoãn liên tục

(Shaw, Wadkins & Olafson, 2007). Một tiêu chí khác cũng làm cho việc hình dung

về tính trì hoãn trở nên dễ dàng hơn, đó là người hay trì hoãn thường tự nguyện dời

lại những công việc mình nên làm mặc dù họ nhận thức được rằng điều đó sẽ ảnh

hưởng xấu đến kết quả cuối cùng (Steel, 2007). Bên cạnh đó, người chuyên trì hoãn

thường không lý tính khi quyết định dời lại việc gì đó vì nếu họ muốn ưu tiên một

công việc khác hơn bài tập về nhà với lý do hợp lý và thuyết phục, thì họ không nên

được xem là lạm dụng việc trì hoãn (Sabini & Silver, 1981). Những tiêu chí trên sẽ

dễ hiểu hơn khi được kết hợp lại để đưa ra một giả sử như sau: một sinh viên ngoài

hoàn thành bài luận đúng hạn thì người đó không có vấn đề nào cấp thiết hơn cần xử

lý; dù vậy người đó vẫn xem phim và đọc truyện mà không bắt tay vào làm bài cho

đến cận hạn nộp bài, mặc cho việc họ nhận thức được rằng xem phim và đọc truyện

sẽ không giúp ích gì cho bài luận, trái lại còn giảm đi thời gian cho quá trình chuẩn

bài như tìm kiếm và tham khảo tài liệu; người sinh viên này là người có thói quen trì

hoãn.

3
Chương 2. Hậu quả

2.1. Những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống.

2.1.1. Sự giảm sút trong chất lượng học tập.

Một nghiên cứu đã được thực hiện bởi Ferarri và Tice vào năm 2000 với một

đích giúp cho việc hình dung ra những ảnh hưởng tiêu cực của việc trì hoãn đối với

sinh viên trở nên dễ dàng. Một nhóm sinh viên được yêu cầu tự đánh giá bản thân về

mức độ trì hoãn. Sau đó, họ đưa nhóm sinh viên vào phòng thí nghiệm và thông báo

rằng cuối buổi sẽ có một bài toán đố. Tuy nhiên, chỉ một nhóm sinh viên được cho

biết rằng bài toán này sẽ giúp ích cho khả năng tư duy của họ, trong khi nhóm còn lại

được biết rằng bài toán chỉ mang tính giải trí và không có ý nghĩa gì. Trước khi giải

bài toán, những sinh viên tham gia thí nghiệm có một khoảng thời gian để chuẩn bị

cho bài toán sắp tới hoặc chơi những trò chơi như xếp hình hay lắp ghép. Trong

khoảng thời gian này, nhóm sinh viên tự cho rằng họ có thói quen trì hoãn dời lại việc

ôn tập khi họ biết bài toán là dùng để đánh giá khả năng tư duy, nhưng họ lại không

có đặc điểm gì khác biệt với những người không có thói quen trì hoãn khi họ biết

rằng bài toán là để thư giãn. Qua nghiên cứu này, Ferrari và Tice (Ferrari và c.s.,

1995) kết luận rằng việc trì hoãn là một hành động đánh bại chính bản thân, do đó

những người có lối sống thường xuyên trì hoãn đang làm hao mòn chính khả năng

thực thụ của họ.

Khi làm bất kỳ loại bài tập hay chuẩn bị cho kì thi, sinh viên khó mà đạt được

kết quả tốt nếu họ không dành nhiều thời gian và công sức để ôn luyện. Khả năng học

tập thực sẽ không có cơ hội để phát huy và tiến bộ nếu sinh viên không sử dụng nó.

Điều này sẽ dẫn đến những hậu quả dĩ nhiên như điểm số không cao hay tệ hơn là

ảnh hưởng đến khả năng xin việc và làm việc sau này. Trong một nghiên cứu đã cho

4
rằng, khi chia dân số thanh hai nhóm dựa trên tần suất trì hoãn của họ, thì trong nhóm

những người có thói quen trì hoãn có 57% là thất nghiệp (Nguyen, Steel & Ferrari,

2013).

2.1.2. Tác hại của tính trì hoãn đối với sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.

Thói quen trì hoãn là sự cản trở lớn đối với sự thành công trong học tập vì nó

không những làm suy giảm quá trình học tập cả về số lượng và chất lượng, nó còn

thậm chí mang lại nhiều hệ quả tiêu cực đối với sức khỏe của sinh viên (Ferrari et al.,

1995; Milgram, Gehrman, & Keinan, 1992). Việc biến trì hoãn thành một tật xấu ảnh

hưởng không nhỏ đến sức khỏe thể chất. Ví dụ như một sinh viên đến sát hạn nộp bài

mới bắt đầu làm thì lượng công việc cần thực hiện sẽ bị dồn vào một khoảng thời

gian ngắn, người sinh viên này nếu muốn hoàn thành thì không cách nào khác phải

thay đổi sinh hoạt như ngủ ít, nghỉ ngơi ít hơn hơn hoặc thậm chí bỏ bữa để có nhiều

thời gian làm bài. Do đó, sinh viên với tật trì hoãn thường bị mất ngủ hoặc đuối sức

nhiều hơn so với những người khác (Sirois, Melia-Gordon, Pychyl, 2003).

Bên cạnh sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần cũng đương nhiên sẽ bị ảnh

hưởng. Trong một khảo sát, 94% người đã thừa nhận rằng tính trì hoãn gây tác động

tiêu cực lên niềm vui của họ và 18% cho rằng hệ quả này rất nghiêm trọng (Steel,

2007). Cụ thể hơn là những người thường xuyên trì hoãn cũng thường có những cảm

xúc như tội lỗi, xấu hỗ và buồn bã (Grunschel, Patrzek & Fries, 2012). Những cảm

xúc tiêu cực đó có thể là do khi đang gấp rút hoàn thành công việc, họ nhận ra mình

không nên trì hoãn để rồi phải bỏ ra nhiều công sức hơn nhưng kết quả chưa chắc tốt.

2.2. Mối liên hệ giữa tính trì hoãn và một số vấn đề tâm lý.

2.2.1. Stress.

5
Tính liên tục trì hoãn thực chất có mối liên hệ mạnh mẽ với trạng thái thần kinh

liên tục căng thẳng (Sirois, 2007; Sirois, Melia-Gordon, & Pychyl, 2003; Tice &

Baumeister, 1997). Trạng thái này không những là hệ quả của việc thường xuyên

tránh né hoàn thành những việc cần thiết và quan trọng, nó còn là do những người có

lối sống trì hoãn cũng sẽ lảng tránh việc chăm sóc sức khỏe tinh thần của mình (Sirois

et al., 2003). Việc này khá phổ biến trong giới trẻ do họ cho rằng nó phức tạp và

không thú vị (Lawrence & Schank, 1993; Turk & Meichenbaum, 1991).

2.2.2. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD)

Mối liên hệ giữa thói quen trì hoãn lên tục và ADHD – một rối loạn sức khỏe

tâm thần đã được tìm thấy (Ferrari, 2010). Khi một người đang gặp phải kiểu rối loạn

này thường dễ bị mất tập trung bởi tác động bên ngoài và cả bởi những suy nghĩ bên

trong. Vì vậy, việc bắt đầu thực hiện bài hay công việc được giao sẽ khá khó khăn,

đặc biệt là nếu công việc không gây thích thú hoặc đầy thử thách (Altgassen, Scheres

& Ede, 2019).

Bên cạnh ADHD, lối sống thường xuyên trì hoãn cũng khá phổ biến đổi với

những người gặp phải rối loạn ám ảnh cưỡng chế - OCD. Lý do là vì OCD thường

bao gồm những đặc điểm như sở hữu tính cầu toàn quá mức, đến nỗi việc mắc phải

sai lầm trở thành nỗi sợ, luôn nghi ngờ liệu bản thân có đang làm đúng hay không và

lo lắng về kỳ vọng cử người khác. Vì thế, những người mắc phải OCD tốn rất nhiều

thời gian để suy tính về quyết định của mình thay vì trở nên quyết đoán hơn (Limburg,

Watson, Hagger & Egan, 2017).

Nếu việc trì hoãn gây cản trở nhiều cho cuộc sống hằng ngày thì có khả năng

người đó đang mắc phải các rối loạn tâm thần và cần được chuẩn đoán và điều trị bởi

chuyên gia.

6
Chương 3. Nguyên nhân sinh viên chọn việc trì hoãn

Với những hậu quả được nêu trên, thực chất người trì hoãn còn có thể nhận biết

được chúng nhưng họ lại không thể thay đổi lối sống của mình. Cụ thể là có những

nghiên cứu cho thấy rằng sinh viên vẫn tiếp trục trì hoãn mặc cho những hậu quả rõ

ràng (Conti, 2000; Saddler & Buley, 1999).

3.1. Yếu tố bên ngoài.

3.1.1. Tác động của công nghệ đến sự phổ biến của tính trì hoãn.

Nền công nghệ phát triển đã đem lại cho mọi người nhiều phương tiện giải trí

hơn, nhưng vì tính giá trị cao của những phát mình này mà chúng trở thành một trong

những nguyên nhân gây xão nhãng trong cuộc sống hằng ngày. Kết quả khảo sát một

nhóm sinh viên ngành y cho thấy rằng trong 8.85% sinh viên thừa nhận rằng mình

luôn trì hoãn thì có 3.43% là những người nghiện sử dụng mạng Internet (Hayat,

Kojuri & Amini, 2020). Có những lý do sau là chủ yếu cho vấn đề vì sao việc sử dụng

Internet lại là một trong những nguyên nhân phổ biến của thói quen trì hoãn (Hofmann

et al., 2017). Một là nhờ vào điện thoại và các thiết bị thông minh khác, mọi người

có thể truy cập mạng Internet mọi lúc mọi nơi, đến mức khiến nó trở thành ưu tiên

trong cuộc sống của đa số người trẻ tuổi (Klimmt et al., 2018). Hai là những hoạt

động sử dụng mạng Internet như mạng xã hội hay trò chơi điện tử luôn được quảng

cáo là đem lại hiệu quả giải trí tức thời, do đó càng là giải pháp hàng đầu cho những

người đang tím kiếm sự xao nhãng khi làm bài (Sirois and Pychyl, 2013). Rõ ràng

rằng việc tham gia các mạng xã hội hay chơi các trò chơi trên Internet sẽ vui và đơn

giản hơn nhiều so với việc làm và giải bài tập về nhà, vì vậy nhiều sinh viên bắt đầu

đưa trì hoãn vào lối sống hằng ngày, trở thành một điều quen thuộc như việc sở dụng

điện thoại thông minh.

7
Tuy nhiên, sự xuất hiện của mạng Internet không sinh ra vấn nạn trì hoãn trong

xã hội. Con người ta đã gặp khó khăn để hoàn thành công việc từ lúc còn là một phần

của nền văn minh cổ đại. Vào khoảng năm 800 trước công nguyên đã có một nhà thơ

người Hy Lạp, Hesiod, cảnh báo mọi người rằng không nên để công việc đến ngày

mai hay là ngày mốt mới bắt đầu làm (Jaffe, 2013). Do đó ta có thể nói rằng, internet

không phải nguyên nhân mà nó là sự thúc đẩy, góp phần làm xấu đi việc trì hoãn

trong cuộc sống sinh viên.

3.1.2. Sự thấu hiểu mục đích hay bản chất của công việc ảnh hưởng đến quyết định

trì hoãn.

Một trong những lý do phổ biến đối với sinh viên khi được hỏi vì sao họ lại trì

hoãn, đó là họ không hiểu rõ được bài tập hay công việc được giao (Steel & B

Klingsieck, 2016). Đó có thể là họ chưa nắm được cách bài tập được đánh giá và

chấm điểm như thế nào hoặc mục đích của bài tập này là gì. Ngoài ra, có khả năng

do họ không xác định được hạn nộp bài mà dẫn đến việc họ cũng không thể xác định

được lộ trình làm bài của mình. Dù vậy, nhưng trở ngại trên có thể được giải quyết

nếu giao tiếp giữa giáo viên và sinh viên hiệu quả, nhưng yếu tố này đôi lúc cũng

không được đảm bảo. Kết quả của tất cả những trở ngại trên là sinh viên cảm thấy

việc học trở nên nhàm chán hoặc khó khăn với họ, và đây là một trong những nguyên

nhân tiêu biểu của việc trì hoãn, thậm chí trong một nghiên cứu có đến 50% người

tham gia khẳng định việc này (Steel, 2007; Ferrari, 1991; Solomon and Rothblum,

1984).

8
3.2. Yếu tố bên trong.

3.2.1. Cơ chế đối phó (Coping mechanism).

Việc liên tục lo lắng và áp lực gây ảnh hưởn xấu khá lớn đến đời sống tinh thần

của mỗi người, do đó nếu có thể nhiều sinh viên chọn tránh được những cảm xúc tiêu

cực này. Lý do sinh viên thường xuyên gặp vấn đề về stress là do họ hay thiếu tính

quyết đoán và sợ điểm thấp hay bị phê bình (Ferrari, 1989). Vì thế trong quá trình ôn

luyện hay làm bài, họ thấy mình tốn quá nhiều thời gian và công sức cho việc suy

nghĩ xem làm thế nào để bài được tốt, luôn nghi vấn liệu quyết định này của mình đã

ổn hay là chưa. Việc liên tục sinh ra quá nhiều suy nghĩ lo âu lúc làm bài sẽ làm sinh

viên sợ mỗi khi phải nhận bài tập. Dần dần, họ tìm tới một cơ chế phòng vệ đối với

những cảm xúc tiêu cực đó, chính là sự trì hoãn, như rằng càng trì hoãn thì khoảng

thời gian đối mặt với áp lực càng ít, nhưng họ không nhận thức rằng khi hạn công

việc đến gần thì lượng áp lực thực chất bị dồn nén và bị nhân lên nhiều hơn, theo

Giáo sư tâm lý học Joseph Ferrari tại Đại học DePaul và là một chuyên gia hàng đầu

trong lĩnh vực nghiên cứu về tính trì hoãn.

3.2.2. Có phải Chủ nghĩa hoàn hảo là nguyên nhân cho tính trì hoãn?

Ở Hàn Quốc, trong một chương trình mang tên "The joy of conversation 3" của

đài truyền hình KBS phát sóng ngày 27/5/2021, tiến sĩ chuyên gia của khoa Y học

sức khoẻ - Oh Eun Young đã có một quan điểm về người hay trì hoãn như sau: "Mọi

người thường nghĩ những người hay trì hoãn công việc hay bài tập là những người

rất lười. Nhưng họ có thể có khuynh hướng khác hoàn toàn. Trên thực tế, họ có tâm

lý "muốn làm việc thật tốt" và tiêu chuẩn mà những người đó đặt ra rất cao. Họ có xu

hướng theo chủ nghĩa hoàn hảo. Chính vì vậy, họ cũng có nỗi sợ mình sẽ làm việc

không được chu toàn nên bắt đầu do dự và trì hoãn. Trong mắt người khác, những

9
người như vậy trông hơi chậm chạp và lề mề nhưng thực ra trong đầu họ đã định sẵn

những công việc phải làm. Họ để tới gần deadline mới giải quyết mọi thứ. Khi đó,

tâm lý của họ trong tình trạng lo lắng tột độ bắt buộc họ thực hiện công viẹc. Với họ,

tâm lý lo lắng đó chính là nguồn gốc của năng lượng làm việc".

Thực ra đối với một số người, nếu việc họ theo chủ nghĩa hoàn hảo họ đạt được

kết quả học tập hay công việc hiệu quả hơn thì đó là việc tốt đối với họ. Tuy nhiên,

không có nghĩa là trì hoãn liên tục là một lối sống lành mạnh. Cách giải thích trên đã

tạo cho hành động trì hoãn một hình ảnh mang tính vô thưởng vô phạt, hay thậm chí

có lợi và có thể sẽ khuyến khích những người hay trì hoãn tin rằng những gì họ làm

là tốt. Suy cho cùng, chủ nghĩa hoàn hảo là cách nói khác cho việc một người sợ thấy

bại hoặc sợ bị người khác đánh giá, phê bình. Bên cạnh việc quan tâm đến kết quả

công việc, sức khỏe tinh thần cũng nên được quan tâm nhiều, hay thậm chí là nhiều

hơn so với kết quả. Một nghiên cứu (Tice & Baumeister, 1997) đã chỉ ra rằng ban

đầu sinh viên có thể nhận được lợi ích từ việc trì hoãn vì họ có mức độ áp lực thấp,

nhưng lợi ích đó chỉ mang tính tạm thời. Đến cuối cùng, cái giá của việc trì hoãn học

tập là điểm số thấp và nhận được mức độ áp lực cao hơn rất nhiều. Nghiên cứu này

chứng mình rằng hậu quả của việc luôn trì hoãn không những là hoàn thành bài trễ

mà chất lượng bài và ngay cả chất lượng sức khỏe của họ cũng suy giảm. Tóm lại,

chủ nghĩa hoàn hảo là một biểu hiện của tính trì hoãn, không nên là nguyên nhân.

10
Chương 4. Giải pháp

4.1. Những giải pháp cho tính trì hoãn do các tác động bên ngoài gây ra.

4.1.1. Hạn chế Internet.

Vấn đề nghiện sử dụng mạng Internet cực kì phổ biến đối với những người

thường trì hoãn, đặc biệt việc dùng mạng xã hội đối với sinh viên (Schouwenburg

and Groenewoud, 2001). Trong một số khảo sát, cả người tham gia khảo sát và người

nghiên cứu khảo sát đều cho rằng hoạt động này vừa thoái mái vừa thú vị mà cũng

vừa gây mất tập trung và hấp dẫn (Pychyl et al., 2000; Sirois and Pychyl, 2013). Như

vậy đã đủ thấy được rằng hạn chế việc dùng mạng Internet là rất cần thiết khi muốn

xóa bỏ thói quen trì hoãn trong cuộc sống. Sinh viên có thể tắt hết các thiết bị điện tử

khi học, hoặc nếu vẫn cần sử dụng Internet ta có thể tận dụng những ứng dụng nhằm

tạm thời ngăn truy cập vào các trang web giải trí như các mạng xã hội.

4.1.2 Nên thưởng hơn là trừng phạt.

Giáo sư Ferrari, trong quyển sách “Still Procrastinating? The No Regrets Guide

to Getting It Done” vào năm 2010, đã có gợi ý như sau đối với vấn đề đóng thuế ở

Mỹ. Ông cho rằng chúng ta nên thay đổi từ trừng phạt sự chậm trễ sang thưởng cho

những người hoàn thành sớm hơn hạn của công việc đó thì tỷ lệ hoàn thành sớm sẽ

tăng. Ta có thể áp dụng gợi ý này giáo dục bằng cách là thầy cô có thể thêm phần

thưởng hoặc lợi ích cho những người nộp bài sớm hoặc đúng hạn để tăng tính thú vị

và sự hứng thú của sinh viên đối với các bài tập. Khi tìm ra được điểm tích cực hoặc

có giá trị ở công việc mình làm, mọi người sẽ không phải tìm đến những xão nhãng

khác chỉ để làm cho tâm trạng mình khi đứng trước công việc trở nên tốt hơn, mà

những giải thoát đó lại còn chỉ mang tính tạm thời (Sirois, 2013). Việc khen thưởng

11
cho hành động nộp bài sớm sẽ là một kích thích tích cực giúp khuyến khích và củng

cố sinh viên không nên trì hoãn.

4.2. Giải pháp dựa trên tác động bên trong.

4.2.1. Chấp nhận và tha thứ.

Một khảo sát được thực hiện vào năm 2010 đã cho kết quả rằng những sinh viên

nào tha thứ cho bản thân họ vì đã trì hoãn việc ôn tập cho bài thi đầu tiên có xu hướng

không dời lại việc học cho bài thi lần sau (Wohl, Pychyl & Bennett, 2010). Điều này

cho thấy họ đã nhận thức được tính tiêu cực mà thói quen trì hoãn đem lại cho mình,

và khi tha thứ cho bản thân thì họ cũng là một bước tiến trong việc thoát khỏi lối sống

cũ. Vì vậy sinh viên và học sinh nên đối mặt với những khó khăn mình gặp phải,

không những về thói trì hoãn mà cả những yếu tố khác như việc thấy bài tập quá khó

hay nhàm chán, như vậy sẽ không những giúp ích mà còn tạo động lực trong việc đi

tìm giải pháp cho những chướng ngại đó.

4.2.2. Nhận sự giúp đỡ từ các chuyên gia.

Nếu việc tự giác thay đổi thói quen trì hoãn là quá khó, sinh viên vẫn có thể nhờ

sự giúp đỡ từ người khác như ba mẹ hoặc thầy cô, hay các chuyên gia tâm lý. Tận

dụng dịch vụ tư vấn tâm lý ở nơi trường học là một cách khá hiệu quả vì sinh viên sẽ

có thể hiểu rõ và chính xác hơn về thói trì hoãn của bản thân cũng như nhận được

những lời khuyên đáng tin cậy.

12
Kết luận

Tóm lại, qua bài tiểu luận trên giúp ta có khái njệm rõ ràng hơn về tính trì hoãn để

từ đó có thể thấy được sự ảnh hưởng của tính trì hoãn đến đời sống học tập cũng như

sức khoẻ tinh thần của người bị ảnh hưởng. Có nhiều cách phân biệt liệu một người có

đang lạm dụng việc trì hoãn hay không, do đó không phải ai cũng để thói quen này ảnh

hưởng đến cuộc sống hằng ngày. Các hậu quả trên chưa được phân tích quá chi tiết

nhưng mong người đọc sẽ nhận thức được phần nào tầm nghiêm trọng mà thói quen xấu

này để lại. Bên cạnh đó, các nguyên nhân đến từ bên ngoài mà có lẽ chỉ xuất hiện trong

thế hệ này là sự phát triển bức tốc của công nghệ hay bên trong mỗi người dù là gì thì

vẫn là những nguyên nhân phổ biến được nêu trên có lẽ vẫn chưa là tất cả nhưng nhóm

mong rằng phần nào có thể định hình được tính trì hoãn nhằm giải quyết tận gốc. Về

phần giải pháp, đều có những phương pháp để loại bỏ tính trì hoãn tuỳ theo nguyên nhân

bên ngoài hay bên trong. Những gợi ý trên đều là những gợi ý mà nhóm thấy hay và

hiệu quả, cũng như mong muốn được áp dụng vào chính đời sống học tập của nhóm.

Thêm nữa, còn rất nhiều giải pháp khác thay thế cho những giải pháp trong bài để từng

đối tượng cụ thể sẽ có những cách giải quyết phù hợp. Cuối cùng, thói quen trì hoãn nên

được khắc phúc và loại bỏ nếu được vì nó không đem lại lợi ích gì cho sinh viên, dù là

chất lượng học tập, công việc hay sức khỏe đời sống và tinh thần.

13
Tài liệu tham khảo

Altgassen, M., Scheres, A., Edel, MA. Prospective memory (partially) mediates the

link between ADHD symptoms and procrastination. Atten Defic Hyperact

Disord. 2019;11(1):59-71.

Conti, R. (2000). Competing demands and complimentary motives: Procrastination on

intrinsically and extrinsically motivated summer projects. Journal of Social

Behavior & Personality, 15(5), 47–59.

Dewitte, S., Schouwenburg, H. C. (2002). Procrastination, temptations, and

incentives: the struggle between the present and the future in procrastinators and

the punctual. Eur. J. Pers. 16 469–489. 10.1002/per.461.

Dunn, K. (2013). Why Wait? The Influence of Academic Self-Regulation, Intrinsic

Motivation, and Statistics Anxiety on Procrastination in Online Statistics in

Innovative Higher Education volume 39, pages 33–44 (2014).

Effert, B. R., & Ferrari, J. R. (1989). Decisional procrastination: Examining

personality correlates. Journal of Social Behavior & Personality, 4(1), 151–161.

Ferrari, J. R. (1991). Compulsive procrastination: Some self-reported characteristics.

Psychological Reports, 68(2), 455–458.

Ferrari, J. R., & Tice, D. M. (2000). Procrastination as a self-handicap for men and

women: A task-avoidance strategy in a laboratory setting. Journal of Research in

Personality, 34(1), 73–83.

Ferrari, J.R (2011, January) - "Still Procrastinating: The No Regret Guide to Getting It

Done," Academic procrastination and the performance of graduate-level

cooperative groups in research methods courses Qun G. Jiao, Denise A. DaRos-

14
Voseles, Kathleen M. T. Collins, and Anthony J. Onwuegbuzie. Journal of the

Scholarship of Teaching and Learning, Vol. 11, No. 1, pp. 119 – 138.

Grunschel, C., Patrzek, J., Fries, S. (2013) Exploring reasons and consequences of

academic procrastination: an interview study in European Journal of Psychology

of Education volume 28, pages 841–861.

Hayat, A. A., Kojuri, J., & Amini, M. (2020). Academic procrastination of medical

students: The role of Internet addiction. Journal of advances in medical

education & professionalism, 8(2), 83–89.

Hofmann, W., Reinecke, L., Meier, A. (2017). “Of sweet temptations and bitter

aftertaste: self-control as a moderator of the effects of media use on well-being,”

in The Routledge Handbook of Media use and Well-Being: International

Perspectives on Theory and Research on Positive Media Effects, eds Reinecke

L., Oliver M. B. (New York, NY: Routledge), 211–222.

Kirst-Ashman, K. K., Hull Jr, G.H., (2016). Empowerment Series: Generalist Practice

with Organizations and Communities. Cengage Learning. p. 67.

Klimmt, C., Hefner, D., Reinecke, L., Rieger, D., Vorderer, P. (2018). “The

permanently online and permanently connected mind: mapping the cognitive

structures behind mobile Internet use,” in Permanently Online, Permanently

Connected. Living and Communication in a POPC World, eds Vorderer P.,

Hefner D., Reinecke L., Klimmt C. (New York, NY: Routledge), 18–28.

Limburg, K., Watson, H.J., Hagger, M.S., Egan, S.J., The relationship between

perfectionism and psychopathology: A meta-analysis. J Clin Psychol.

2017;73(10):1301-1326.

15
Milgram, N. A., Gehrman, T., & Keinan, G. (1992). Procrastination and emotional

upset: A typological model. Personality and Individual Differences, 13(12),

1307–1313.

Nguyen, B., Steel, P., & Ferrari, J. R. (2013). Procrastination’s Impact in the

Workplace and the Workplace’s Impact on Procrastination. International Journal

of Selection and Assessment, 21, 388-399.

Pychyl, T. A., Lee, J. M., Thibodeau, R., Blunt, A. (2000). Five days of emotion: an

experience sampling study of undergraduate student procrastination. J. Soc.

Behav. Pers. 15 239–254.

Saddler, C. D., & Buley, J. (1999). Predictors of academic procrastination in college

students. Psychological Reports, 84(2), 686–688.

Schraw, G., Wadkins, T., & Olafson, L. (2007). Doing the things we do: A grounded

theory of academic procrastination. Journal of Educational Psychology, 99(1),

12–25.

Schouwenburg, H. C., Groenewoud, J. (2001). Study motivation under social

temptation; effects of trait procrastination. Pers. Individ. Dif. 30 229–240.

10.1016/S0191-8869(00)00034-9

Silver, M., & Sabini, J. (1981). Procrastinating. Journal for the Theory of Social

Behaviour, 11(2), 207–221.

Sirois, F.M., Melia-Gordon, M.L., Pychyl, T.A. (2003). “I'll look after my health,

later”: an investigation of procrastination and health, Personality and Individual

Differences, Volume 35, Issue 5, 2003, Pages 1167-1184.

16
Sirois, F. and Pychyl, T. (2013) Procrastination and the Priority of Short-Term Mood

Regulation: Consequences for Future Self. Social and Personality Psychology

Compass, 7(2).

Smith, D. (2010) The Effects of Student Syndrome, Stress, and Slack on Information

Systems Development Projects.Issues in Informing Science and Information

Technology, volume 7, pp. 489-494.

Solomon, L. J., & Rothblum, E. D. (1984). Academic procrastination: Frequency and

cognitive-behavioral correlates. Journal of Counseling Psychology, 31(4), 503–

509.

Stead, R., Shanahan, M.J., Neufeld, R.W. J. (2010) “I’ll go to therapy, eventually”:

Procrastination, stress and mental health, Personality and Individual

Differences, Volume 49, Issue 3, Pages 175-180.

Steel, P. (2007). The nature of procrastination: A meta-analytic and theoretical review

of quintessential self-regulatory failure. Psychological Bulletin, 133(1), 65–94.

Steel, P. & Klingsieck, K.B., (2016) Academic Procrastination: Psychological

Antecedents Revisited, Australian Psychologist, 51:1, 36-46.

Tice, D. M., & Baumeister, R. F. (1997). Longitudinal study of procrastination,

performance, stress, and health: The costs and benefits of dawdling.

Psychological Science, 8(6), 454–458.

Tice, D. M. (2001). Journal of Personality and Social Psychology.

Wohl, M. J. A., Pychyl, T. A., & Bennett, S. H. (2010). I forgive myself, now I can

study: How self-forgiveness for procrastinating can reduce future

procrastination. Personality and Individual Differences, 48(7), 803–808.

17
18

You might also like