Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

TIỂU LUẬN

VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI
ÍCH KINH TẾ TRONG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

GVHD: TH.S HỒ NGỌC KHƯƠNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN:

Nguyễn Văn Trường – 20149412

Đặng Trung Hậu – 20149072

Lê Anh Tuấn – 20149415

Đặng Tấn Phú – 20157113

MÃ MÔN HỌC: LLCT120205


Tp. Hồ Chí Minh – Tháng 11 năm 2021

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

Điểm: ...............................

KÝ TÊN
MỤC LỤC
PHẦN A: MỞ ĐẦU .....................................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................................2

3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................................2

PHẦN B: NỘI DUNG ..................................................................................................................................3

CHƯƠNG 1: CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM ....................................3

1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế ..................................................................3

1.2. Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế .........................................................................................3

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế ................................................................................4

1.4. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích kinh tế ..................................5

1.5. Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế ................................6

CHƯƠNG 2: Liên hệ thực tiễn giải quyết các quan hệ lợi ích kinh tế của Việt Nam .........................9

2.1 Những giải pháp nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm
kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế .................................................................................................9

2.2 Giải quyết hài hòa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội ............................................11

2.3. Những giải pháp nhằm kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối
với sự phát triển xã hội...................................................................................................................13

2.4. Giải pháp giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.....................................15

PHẦN C: KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 17

PHẦN D: TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 17


PHẦN A: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất
đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước.
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên
sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng
và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và từ những kiến thức thu được trong quá
trình học tập nhóm em đã chọn đề tài : “Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hoà
1
các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam” để làm rõ hơn thực trạng và vai trò của nhà nước trong vấn đề này.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu nội dung trí thức lý luận về lợi ích kinh tế, vai trò của lợi ích kinh tế
với tư cách là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự sáng tạo của các cá
nhân trong xã hội, các quan hệ lợi ích chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và những
biện pháp đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế trong phát triển ở Việt Nam. Trên cơ sở đó,
góp phần hình thành tư duy lý luận về lợi ích và các quan hệ lợi ích đối với phát triển
trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, nội dung lý luận cơ bản về lợi ích kinh
tế sẽ giúp cho chúng ta hình thành được kỹ năng biết giải quyết và đảm bảo hài hòa lợi
ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, xã hội từ đó mà góp phần hình thành từng
bước xã hội văn minh ở Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

Bài luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử:

Phương pháp chung: Phân tích - tông hợp, hệ thống - cấu trúc, so sánh, đối chiếu, lịch
sử - logic, lý luận - thực tiễn.

Phương pháp cụ thể: Phân tích tài liệu thứ cấp (các công trình nghiên cứu khoa học về
dân chủ, các văn kiện của Đảng các văn bản, số liệu trong các tài liệu có liên quan đến
dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và liên hệ với Nhà nước
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam).

2
PHẦN B: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


VIỆT NAM

1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế

Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ
sản xuất quyết định.
Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải
được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn
từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.

Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành
nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn lại của thế
giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tượng ứng của một giai đoạn phát triển
xã hội nhất định.

1.2. Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế

* Xét về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa
các chủ thể trong nền sản xuất xã hội.

Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan
hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được, về khía cạnh này, Ph,
Ănghen viết: “những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước
hết dưới hình thái lợi ích”. Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích
kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ảnh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.

*Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng: chủ
doanh nghiệp thì lợi ích trước hết là lợi nhuận, người lao động trước hết lợi ích kinh tế
là tiền công. Tất nhiên, với mỗi cá nhân con người, trong các mối quan hệ xã hội tổng
hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực hiện hoạt động kinh tế, trong nhất thời,
không phải luôn đặt mục tiêu lợi ích vật chất lên hàng đầu. Song, về lâu dài, đã tham gia
3
vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích quyết định. Nếu không thấy được vai
trò này của lợi ích kinh tế sẽ làm suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân. Nghiên
cứu về sự phân phối giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cho ta thấy,
mỗi chủ thể tham gia vào quá trình phân phối giá trị thặng dư đó, với vai trò của mình
mà có được những lợi ích tương ứng. Đây chính là nguyên tắc đảm bảo lợi ích phù hợp
với vai trò của các chủ thể.

Vậy, khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa là hàm ý rằng, lợi ích đó
được xác lập trong quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó thể hiện chủ
thể đó biểu hiện như thế nào, chẳng hạn họ là chủ sở hữu, hay nhà quản lý; là lao động
làm thuê hay trung gian trong hoạt động kinh tế; ai là người thụ hưởng lợi ích, quyền
hạn và trách nhiệm của các chủ thể đó, phương thức để thực hiện lợi ích cần phải thông
qua các biện pháp gì... Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động sản xuất kinh
doanh, ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế

Các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố,
cụ thể như sau:

Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Là phương thức và mức độ
thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích kinh tế trước hết phụ thuộc vào số
lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại phụ thuộc vào trình độ phát hiển
lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp
ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt. Quan hệ lợi ích kinh tế vì vậy, càng có điều
kiện để thống nhất với nhau. Như vậy, nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích
kinh tế của các chủ thể là lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất
trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia.

Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội. Quan hệ sản
xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của
mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Do
đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất và trao đổi, mà nó là sản
phẩm của những quan hệ sản xuất và trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện của các
quan hệ sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế thị trường.

4
Thứ ba, chính sách phần phối thu nhập của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước
vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, bằng nhiều loại công cụ, trong đó có
các chính sách kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay
đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và
tương quan thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất
cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay
đổi.

Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế. Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội
nhập. Khi mở cửa hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại
quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản
xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của
hàng hóa nước ngoài. Đất nước có thể phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt
với các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Điều đó có nghĩa là hội nhập
kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.

1.4. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích kinh tế

Mặc dù có nhiều quan hệ lợi ích đan xen, tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai phương thức cơ bản để thực hiện lợi ích
kinh tế gồm:

Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường.

Các quan hệ lợi ích, các chủ thể lợi ích kinh tế mặc dù đa dạng, song để có thể thực
hiện được lợi ích của mình, trong bối cảnh kinh tế thị trường cần phải căn cứ vào các
nguyên tắc của thị trường. Đây là phương thức phổ biến trong mọi nền kinh tế thị trường,
bao gồm cả kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các
tổ chức xã hội.

Khi thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ căn cứ theo nguyên tắc thị trường, tất yếu sẽ dẫn
đến những hạn chế về mặt xã hội. Do đó, để khắc phục những hạn chế của phương thức
thực hiện theo nguyên tắc thị trường, phương thức thực hiện lợi ích dựa trên chính sách
của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội cần phải được chú ý nhằm tạo sự bình

5
đẳng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

1.5. Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế

1.5.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế

Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng cũng diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi
trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở rộng.
Môi trường vĩ mô thuận lợi không tự hình thành, mà phải được nhà nước tạo lập. Tạo
lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế trước hết là giữ vững ổn định về
chính trị. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện rất tốt điều này. Nhờ đó,
các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước rất yên tâm khi tiến hành đầu tư. Tiếp tục giữ
vững ổn định về chính trị là góp phần bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam.

Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng được
môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh
tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn phải tuân thủ các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế. Trong những năm vừa quá, hệ thống pháp luật của nước ta đã
và đang thay đổi tích cực. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất hiện nay là tuân thủ pháp luật.

Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
sông, đường hàng không...; hệ thống cầu cống; hệ thống điện, nước; hệ thống thông tin
liên lạc...). Nhờ phát triển kết cấu hạ tầng được coi là một trong ba đột phá lớn, trong
những năm vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện rất đáng
kể, đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi nhà
nước phải đưa ra được các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng
giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp
ứng yêu cầu này.

Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập môi trường
văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. Đó là môi trường trong đó
con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín...

6
1.5.2. Điều hòa lơi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội

Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị
trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế củạ
một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có các
chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi
ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch
về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; nhưng mặt khác phải ngăn
chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng
thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân phối thu nhập
cần phải tính đến. Phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ thuộc
vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, hàng hóa, dịch vụ
càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thu nhập của các chủ thể càng lớn. Đo đó, phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ để nâng cao thu nhập cho
các chủ thể kinh tế. Đó chính là những điều kiện vật chất để thực hiện ngày càng đầy đủ
sự công bằng xã hội trong phân phối

1.5.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích cỏ ảnh hưởng tiêu cưc đối với sự phát
triển xã hội

Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối công bằng,
hợp lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Do đó, nhà nước phải
tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập.

Hiện nay, công bằng trong phân phối có hai quan niệm chính: công bằng theo mức
độ (căn cứ vào mức thu nhập mà mỗi chủ thể nhận được) và công bằng theo chức năng
(căn cứ vào đóng góp trong việc tạo ra thu nhập). Mỗi quan niệm đều có ưu điểm và
nhược điểm nên cần sử dụng kết hợp cả hai quan niệm này. Trước hết, nhà nước phải
chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân
phải đạt được mức sông tối thiểu. Để làm được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu
quả các chính sách xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các
nguồn lực phát triển, hưởng thụ các địch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo
vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo, khắc phục tư tưởng bao cấp,
ỷ lại. Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội, vận động toàn dân tham gia các hoạt động
đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện,
giúp đỡ người nghèo, đồng bào các vùng gặp thiên tai... Tiếp theo, nhà nước cần có các
7
chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng
mọi biện pháp, về nguyên tắc, người dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm;
luật pháp chỉ cấm những hoạt động gây tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi ích hợp pháp
khác.

Để lợi ích kinh tế thật sự lả động lực của các hoạt động kinh tế, người lao động và
người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong lĩnh vực phân phối
thu nhập. Họ cần phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường để có
sự phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận; chủ doanh nghiệp phải hiểu và tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp thuế... Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức,
hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là những giải pháp rất
cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi không hợp lý về thu nhập. Trong trường hợp người
lao động và ngưòi sử dụng lao động không tự nhận thức và thực hiện được, nhà nước
cần có sự tư vấn, điều tiết hợp lý.

Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như
buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái, lừa đảo, tham nhũng... tồn tại khá phổ biển. Các hoạt
động này càng gia tăng, càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân
chính. Để chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh
tế. Trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Bộ máy nhà nước phải
tuyển dụng, sử dụng được những người có tài, có tâm; sàng lọc được những người không
đủ tiêu chuẩn. Cán bộ, công chức nhà nước phải được đãi ngộ xứng đáng và chịu trách
nhiệm đến cùng mọi quyết định trong phạm vi, chức trách của họ. Nhà nước phải kiểm
soát được thu nhập của công dân, trước hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhả nước.
Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng;
mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật. Thực hiện công khai, minh
bạch mọi cơ chế, chính sách và quy định của nhà nước... Nhờ đó, người dân, doanh
nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình.
Đồng thời, các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát, tránh
được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm tham nhũng…

Cùng với đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm là đặc biệt cần thiết. Thực hiện tốt hoạt động này không chỉ nhằm khắc phục
các bất cập, thực hiện công bằng xã hội, mà quan trọng hơn là ngăn chặn các hình thức
thu nhập bất hợp pháp.

8
1.5.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế

Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu thuẫn
phát sinh cần được giải quyết kịp thời. Muốn vậy, các cơ quan chức năng của nhà nước
cần phảỉ thường xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và chuẩn bị chu đáo các giải pháp
đối phó. Nguyên tắc giải quyết mâu thuân giữa các lợi ích kinh tế là phải có sự tham gia
của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên hết.

Ngăn ngừa là chính nhưng khi mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế bùng phát có
thể đẫn đến xung đột (đình công, bãi công...). Khi có xung đột giữa các chủ thể kinh tế,
cần có sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước.

CHƯƠNG 2: Liên hệ thực tiễn giải quyết các quan hệ lợi ích kinh tế của Việt
Nam

2.1 Những giải pháp nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, quan điểm về mối quan hệ giữa thị trường với
quản lý nhà nước, giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước. Qua hơn ba thập kỷ Đổi
mới, tư duy về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và quản lý nhà nước nói chung đã
được nhận thức một cách nhất quán theo hình ảnh “vỗ tay bằng hai bàn tay”, nhưng
trong tư duy của một số nhà lãnh đạo, quản lý và đặc biệt trong xử lý thực tiễn thì vẫn
coi nhẹ tác động của cơ chế thị trường và quá coi trọng vai trò can thiệp của Nhà nước
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khu vực kinh tế tư
nhân. Hiện tượng cấm đoán, cấp phép, ra các điều kiện kinh doanh vẫn rất tràn lan và
nặng nề, sinh sôi nẩy nở giấy phép con, cháu, chắt, chút chít trong các ngành và địa
phương, đang cản trở các nhà kinh doanh, chủ đầu tư, nhà lập nghiệp.... Hoặc theo Nghị
9
định 94 vừa được Chính phủ ban hành, hiệu lực từ ngày 1/10, có 20 ngành nghề Nhà
nước độc quyền, tức là tư nhân không được kinh doanh, cũng gây ra nhiều băn khoăn
cho các nhà lý luận, nhà quản lý và doanh nhân vì không phù hợp với cơ chế thị trường,
vi phạm quy định của WTO. TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng thời điểm hiện nay, cho ra đời một nghị
định hướng dẫn về độc quyền nhà nước trong lĩnh vực thương mại là phản thị trường,
cản trở cạnh tranh, đi ngược lại xu thế cải cách. Theo quan điểm chúng tôi: cái gì thị
trường làm tốt thì để thị trường làm, nhà nước không can thiệp, cái gì tư nhân làm tốt
thì kinh tế nhà nước không độc quyền, có thể cùng hợp tác và cạnh tranh trên thương
trường bình đẳng…

Thứ hai, hoàn thiện xây dựng và thực thi pháp luật và chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã chỉ ra những hạn chế cả phía quản lý nhà nước và
bản thân các doanh nghiệp kinh tế tư nhân như “thể chế về phát triển doanh nghiệp,
doanh nhân còn nhiều bất cập. …Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh
trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến” ... Như vậy, hoàn thiện xây dựng và thực thi
pháp luật và chính sách đối với kinh tế tư nhân là một đòi hỏi cấp thiết. Thực tế trong
quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và đối với kinh tế tư nhân nói riêng không thiếu
luật và chính sách nhưng vấn đề đặt ra là chúng được xây dựng sao cho phù hợp với đặc
điểm phức tạp của kinh tế tư nhân, phù hợp với quy luật thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế, đảm bảo chất lượng khoa học, thực thi công bằng, minh bạch, nghiêm minh.

Thứ ba, tạo lập môi trường thông tin thuận lợi cho kinh tế tư nhân hoạt động. Thông tin
trên thế giới cũng như ở nước ta đang bùng nổ, các phương tiện thông tin hiện đại đang
phát triển như vũ bão là thời cơ thuận lợi cho kinh tế tư nhân hoạt động và cải cách bộ
máy quản lý nhà nước. Nhưng trên thức tế thông tin quản lý thì không được kịp thời,
đầy đủ, sâu rộng, còn thông tin phản hồi từ doanh nghiệp thì bị sai lệch, bóp méo đã và
đang gây khó khăn cho cả phía Nhà nước và doanh nghiệp, làm cho môi trường thông
tin bị rối loạn. Một mặt phải tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, trung thực, không
dối trá, mặt khác thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành
chính công để tiết kiệm thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính cho người
dân và doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước tạo lập các kênh tiếp nhận kiến
nghị, phản ánh, thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của dân và doanh nghiệp, tổ chức đối thoại
giữa cơ quan quản lý nhà nước với người dân, doanh nghiệp nhằm nắm bắt và xử lý kịp
thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân.

10
Thứ tư, xây dựng bộ máy công quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đây là vấn đề rất lớn,
vừa cấp bách, vừa lâu dài nhưng hiện tại còn rất bất cập. Như phát biểu khai mạc Hội
nghị Trung ương 6 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Cho đến nay tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực,
hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; cơ cấu bên trong
chưa hợp lý…” từ đó vừa tốn kém chi thường xuyên cho hành chính công, vừa gây
nhũng nhiếu đối với các chủ doanh nghiệp tư nhân.

Đây là vấn đề khó và rất phức tạp, nói nhiều mà làm chưa đem lại kết quả mong muốn.
Theo chúng tôi cùng với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cần tinh giản bộ máy
hành chính theo nguyên tắc:

o Từ việc mà bố trí người phù hợp;

o Quy định chức năng, quyền và trách nhiệm cho từng cá nhân và tổ chức một cách
rõ ràng;

o Kết hợp đào tạo chuyên môn với rèn luyện kỹ năng quản lý và phẩm chất đạo
đức;

o Thi tuyển công minh và nghiêm túc;

o Thưởng phạt nghiêm minh.

Ngoài bốn giải pháp đã nêu còn nhiều giải pháp thuộc quản lý nhà nước như bảo vệ
môi trường sinh thái mà không ít các doanh nghiệp tư nhân vừa là nạn nhân, vừa là thủ
phạm, đang đầu độc hàng tiêu dùng, bầu không khí, sông biển mà không chỉ doanh
nghiệp hứng chịu mà cả cuộc sống toàn xã hội bị xuống cấp.

Quản lý nhà nước nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển bền
vững cũng là tạo nên một môi trường xã hội lành mạnh, yên bình, đáng sống, loại bỏ
những hành vi bạo lực, gây rối loạn như những vụ “Cà phê Xin chào” hoặc “Chiếm lại
vỉa hè”, hoặc chuyện Trưởng công an xã đá văng chậu cá của dân. Những chuyện như
thế này vẫn còn diễn ra làm cho xã hội không yên. Phát triển nền kinh tế thị trường sôi
động phải đi đôi với xây dựng một xã hội yên bình, đạo đức, văn minh.

2.2 Giải quyết hài hòa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội

Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ lợi ích,
nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
11
Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích để các chủ thể lợi ích xác định rõ quyền lợi
và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ lợi ích, tránh xung đột lợi ích giữa các chủ thể.
Cần nâng cao nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích.
Mỗi chủ thể cần được giáo dục để tự đặt lợi ích của bản thân trong mối quan hệ với các
lợi ích khác. Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, chủ thể cá nhân
cần nhận thức được rằng, lợi ích xã hội chỉ có thể đạt được khi mỗi cá nhân cố gắng
thực hiện tốt các lợi ích chính đáng của mình thông qua việc tích cực học tập, lao động,
rèn luyện, hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ; mặt khác chủ thể của lợi ích xã hội chủ
yếu là Đảng, Nhà nước cũng cần nhận thức được rằng, muốn thực hiện tốt các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi cá nhân, của từng
đối tượng, nhất là quan tâm đến những người có công với cách mạng, những đối tượng
yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt ASXH và PLXH.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối và tổ chức thực hiện tốt
các chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Theo đó, cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh
lành mạnh theo pháp luật, tạo cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực. Cụ
thể hóa các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp cận tài sản
công của mọi chủ thể trong nền kinh tế, trong đó, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát
triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng
cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản của mọi chủ thể.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các
tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn
thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xóa bỏ độc quyền doanh
nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất là với doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện tốt chính
sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách ASXH, PLXH trong toàn xã
hội, nhất là đối với các đối tượng còn nhiều khó khăn như nông dân, công nhân, những
đồng bào vùng sâu, vùng xa, đối tượng chính sách... thực hiện tốt chính sách xóa đói,
giảm nghèo, thực hiện thật tốt các chế độ, chính sách, nâng cao đời sống đối với các đối
tượng có công với cách mạng, đảm bảo cho họ được hưởng thụ các giá trị căn bản của
sự phát triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ các giá trị văn hóa - xã hội
khác. Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương đã được ban
hành, đảm bảo tiền lương thực sự đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức,
12
người lao động, đặc biệt đối với người công nhân; có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối
với những nhân tài của từng lĩnh vực, địa phương.
Bốn là, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn chặn những
hành vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm
Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp công khai, minh bạch để phòng
ngừa các hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng
tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải trình, thực hiện tốt các biện pháp công khai
tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức... Trên phạm vi
toàn xã hội, cần phải tiến tới một xã hội minh bạch, trên cơ sở quản lý tốt việc sở hữu
tài sản của mỗi cá nhân, xây dựng một xã hội hạn chế dùng tiền mặt, quản lý chặt chẽ
các nguồn tiền trong thanh toán... Mặt khác, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm tội tham ô, tham nhũng, lãng phí, buôn
lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng... đây là những hành vi phá hoại nghiêm
trọng các quan hệ lợi ích, gây tổn hại tới cả LICN và các mục tiêu của LIXH.
Năm là, khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời bảo đảm
lợi ích xã hội
Cần tích cực khuyến khích mỗi cá nhân tích cực vươn lên trong học tập, lao động, sản
xuất - kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều cơ chế, chính sách cụ thể, nhất là
trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển. Thông qua các
biện pháp giáo dục - đào tạo, tuyên truyền, các hoạt động thực tiễn phong phú để họ
thấy rằng, để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của bản thân, trước hết cần có sự cố gắng,
rèn luyện, cần cù, vượt khó vươn lên, tích cực lao động, đóng góp cho xã hội; đấu tranh
với những biểu hiện tiêu cực, vi phạm các lợi ích chính đáng của bản thân từ các chủ thể
khác; loại bỏ tư tưởng tự mãn, ỷ lại; có cái nhìn tích cực về các vấn đề của xã hội, tìm
ra những cơ hội cho sự phát triển của mỗi cá nhân.
Có thể nói, nhìn một cách tổng thể, qua hơn 30 năm đổi mới, LICN chính đáng đã được
khuyến khích phát triển, LIXH đạt được những kết quả bước đầu quan trọng; các mâu
thuẫn, xung đội đối kháng về lợi ích cơ bản giữa cá nhân và xã hội được giảm thiểu tối
đa, xã hội ổn định; gia tăng tính tích cực của các chủ thể, thỏa mãn ngày càng tốt hơn
nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội, thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.

2.3. Những giải pháp nhằm kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng
tiêu cực đối với sự phát triển xã hội

Một là, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách trong tình
hình hiện nay, quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước, sự thành bại của
công cuộc đổi mới; góp phần ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng. Hiện nay, “nhóm lợi ích” đã hình thành, ăn sâu,
13
tác động mạnh đến mọi ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội ở mọi quy mô, cấp độ, đặc
biệt trong việc hoạch định, thực thi chính sách. “Nhóm lợi ích” cấu kết chặt chẽ với
nhau, hoạt động ngầm, tinh vi nhằm tham nhũng, trục lợi, đục khoét tài sản của Nhà
nước. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội cho thấy có nguy cơ đáng lo ngại là tham
nhũng, tiêu cực có hiện tượng chuyển dần sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu” do hoạt
động của “lợi ích nhóm” gây nên. Do vậy, đấu tranh kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi
ích” đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện
nay.

Hai là, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp vì liên
quan đến những người có chức, có quyền, có tiền, lại không có chiến tuyến rõ ràng.
Nhóm hoạt động rất tinh vi, ngấm ngầm, được tổ chức chặt chẽ, thường nhân danh lợi
ích của tập thể, cộng đồng, nhân dân, ngụy trang, ẩn giấu dưới những lời nói, việc làm
có tính chất nhân văn, nhân đạo, nên rất khó nhận biết, phát hiện. Tại Hội nghị cán bộ
toàn quốc phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
(khóa XII), ngày 9-12-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây là cuộc
chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng
ta và chế độ ta”.

Ba là, phải có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì. “Nhóm lợi ích” đã ăn sâu
trong suy nghĩ, tư tưởng của nhiều cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp. Thực tế, nó hiện
hữu ở mọi cấp, mọi ngành, liên quan đến những người có chức, có quyền. Do vậy, muốn
kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả “nhóm lợi ích” cần có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực
lớn, làm một cách kiên quyết, kiên trì, bài bản, khoa học, không thể nóng vội, chủ quan.
Cần có giải pháp tình thế, kiên quyết, kịp thời, tạo chuyển biến rõ rệt, đồng thời có biện
pháp dài hạn về phòng, chống tận gốc. Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác xây
dựng Đảng năm 2015, triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2016, ngày 26-3-2016, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Chúng ta phải có dũng khí, dám ngăn những việc
làm không đúng, chống cho được tệ bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm và cũng không bị lợi
ích nào cám dỗ, không để bị chi phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng.

Bốn là, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” phải sử dụng đồng bộ nhiều nhóm giải
pháp, phải dựa vào dân, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Đó là các giải
pháp về chính trị - tư tưởng, tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo chủ
chốt trong cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị; giải pháp về cơ chế, chính sách; giải
pháp về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về công tác tổ chức - cán bộ; về phát huy vai
trò của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, của báo chí - truyền thông…

14
Các nhóm giải pháp cần tiến hành đồng bộ, kiên quyết, kiên trì, làm từ trên xuống dưới,
từ trong ra ngoài; đồng thời lựa chọn những giải pháp mang tính đột phá, phù hợp với
từng thời điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt.

Năm là, rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật
về kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” nói chung, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích”
trong hoạch định và thực thi chính sách công nói riêng; khẩn trương nghiên cứu, ban
hành bổ sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực; xây dựng cơ chế quản lý, điều
hành, tổ chức thực hiện chính sách công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng “xin -
cho”, “duyệt - cấp”, độc quyền; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “sân sau”, trục
lợi trong quản lý, điều hành ở các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng như đất
đai, khai thác tài nguyên, tài chính - ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước

2.4. Giải pháp giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế

Thứ nhất, hoàn thiện Bộ luật Lao động của Việt Nam theo hướng hài hòa lợi ích giữa
người sử dụng lao động và người lao động. Sở dĩ người sử dụng lao động trong thời gian
qua chưa đảm bảo lợi ích cho người lao động vì hệ thống pháp luật của Việt Nam còn
bất cập, chưa thực sự chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở, lạc hậu, chưa phù hợp với thực tế, chưa
đủ sức điều chỉnh các quan hệ lao động vốn dĩ năng động và phức tạp, thậm chí có những
điều khoản vô ý đã gây thiệt thòi về lợi ích cho người lao động. Ví dụ, chính sách tiền
lương còn nhiều bất cập; tiền lương tối thiểu thấp; lương thực tế giảm mặc dù lương
danh nghĩa tăng; các biện pháp chế tài chưa đủ sức răn đe những doanh nghiệp cố tình
vi phạm pháp luật. Vì vậy, cần hoàn thiện các quy định về pháp luật để công nhân bù
đắp hao phí thể lực, có điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, có thể đảm đương trách
nhiệm nuôi dạy con cái, được sống đúng với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra.

Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền cho người sử dụng lao động thực hiện đúng các quy
định của pháp luật về lao động. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật thì việc đẩy mạnh
công tác tuyên truyền pháp luật cho các doanh nghiệp có sử dụng lao động làm thuê,
đặc biệt cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là rất cần thiết. Công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cần đa dạng về hình thức, phương pháp, phù hợp với từng
đối tượng, huy động sự tham gia của nhiều chủ thể, đảm bảo cho pháp luật đến được với
cả người sử dụng lao động và người lao động. Ví dụ, đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài hay xảy ra đình công, Sở Ngoại vụ các tỉnh, thành phố cần chủ động
tổ chức gặp đại diện ngoại giao một số nước có nhiều dự án đầu tư nước ngoài; yêu cầu
họ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Luật Lao động, cải thiện quan hệ giữa người
15
sử dụng lao động và người lao động. Đây là biện pháp có tính chất chủ động phòng ngừa
trước các mâu thuẫn, xung đột lợi ích có thể xảy ra trong các doanh nghiệp.

Thứ ba, xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp ở
Việt Nam. Một doanh nghiệp có văn hóa trước hết phải là doanh nghiệp có trách nhiệm
xã hội, có trách nhiệm đối với người lao động và đối với môi trường sinh thái. Vì vậy,
nếu các doanh nghiệp đều có văn hóa kinh doanh thì sẽ không để xảy ra tình trạng mâu
thuẫn lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động. Để xây dựng được văn
hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp thì Nhà nước cũng cần có nhiều biện pháp để
giúp các chủ doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của việc tôn trọng lợi ích
của người lao động, sẽ tăng cường sự gắn bó với doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp
phát triển bền vững, cần tránh tư duy “ăn xổi ở thì”, chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước
mắt của các doanh nghiệp mà làm tổn hại đến lợi ích của người lao động. Lợi nhuận
trước mắt đó có thể gây tác động đến lợi ích lâu dài của chính doanh nghiệp.

Thứ tư, phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp nhằm hạn
chế tình trạng mâu thuẫn lợi ích gay gắt trong các doanh nghiệp. Một trong những
nguyên nhân làm cho số lượng đình công trong các doanh nghiệp ở Việt Nam tăng lên
là do số lượng các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn còn ít, hoạt động của các tổ chức
công đoàn cơ sở còn mờ nhạt. Các cán bộ công đoàn còn đứng về phía chủ doanh nghiệp,
hoặc không có vai trò gì do vấn đề lợi ích của các cán bộ công đoàn trong các doanh
nghiệp (họ đều là người làm thuê trong doanh nghiệp, bị chủ doanh nghiệp mua chuộc
hoặc kiềm chế hoạt động), trình độ hiểu biết pháp luật, xử lý các xung đột, mâu thuẫn
của họ còn hạn chế. Chỉ khi nào các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này làm
tốt vai trò trung gian hòa giải, vừa bảo vệ lợi ích của người lao động nhưng cũng tôn
trọng lợi ích chính đáng của chủ doanh nghiệp thì mới có thể ngăn chặn, phòng ngừa,
điều hòa, làm dịu bớt mâu thuẫn lợi ích giữa người chủ doanh nghiệp và người lao động.
Khi chủ doanh nghiệp xâm phạm đến lợi ích của người lao động, các tổ chức công đoàn
phải có những hình thức đàm phán để ngăn chặn, hạn chế các hành động đó cũng như
phải tích cực tuyên truyền pháp luật về lao động cho người lao động, tránh tình trạng
khi lợi ích bị xâm phạm, người lao động nghĩ trước tiên đến giải pháp đình công. Nếu
các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp thực hiện tốt vai trò của mình thì những
mâu thuẫn lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động sẽ được hạn chế, ngăn
chặn, hoặc sẽ được giải quyết bằng con đường thương lượng. Vì vậy, cần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp.

Thứ năm, tăng cường thanh tra và kiểm tra việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm. Nhà nước cũng cần hoàn thiện bộ máy thanh tra và kiểm tra về
pháp luật lao động và đẩy mạnh số lượng các cuộc thanh tra và kiểm tra trong các cơ sở,

16
doanh nghiệp sử dụng lao động để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trên thực tế,
hạn chế các trường hợp chủ sử dụng lao động không thực hiện đúng pháp luật lao động,
vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp

PHẦN C: KẾT LUẬN

Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là động lực của các hoạt động
kinh tế. Về bản chất, lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội, mang tính lịch sử. Ảnh hưởng đến
lợi ích kinh tế có nhiều nhân tố, quan trọng nhất là: lưc lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
chính sách nhà nước, mức độ hội nhập quốc tế...

Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế quan hệ với nhau, xuất phát từ quan
hệ lợi ích. Đó là quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động; quan
hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động; quạn hệ lợi ích giữa những người lao
động... Các quan hệ lợi ích đó là biểu hiện của quan hệ sâu xa hơn, quan hệ lợi ích giữa
các cá nhân - lợi ích nhóm, nhóm lợi ích - lợi ích xã hội. Bảo đảm hài hòa các lợi ích
kinh tế là yêu cầu khách quan để phát triển và nhà nước là chủ thể chính trong giải quyết
vấn đề này.

PHẦN D: TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết một sổ vấn đề lý luận - thực
tiễn qua ba mươi năm đổi mới (1986 -2016), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2.Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 11 -NQ/TW ngày 03/6/2017
về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa”

3.Đảng Cộng sản Việt nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4.Https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/tao-lap-moi-truong-kinh-doanh-
thuan-loi-cho-kinh-te-tu-nhan-phat-trien-473492.html

5.Http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-
luan/item/3081-giai-quyet-hai-hoa-quan-he-giua-loi-ich-ca-nhan-va-loi-ich-xa-hoi-
trong-dieu-kien-kinh-te-thi-truong-o-viet-nam-hien-nay.html

17
6.Http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-
Kinhnghiem/2019/13349/Quan-diem-cua-Dang-ve-kiem-soat-ngan-chan-nhom-loi-
ich.aspx

7.Http://tapchikhxh.vass.gov.vn/mau-thuan-loi-ich-giua-chu-doanh-nghiep-va-
nguoi-lao-dong-o-viet-nam-hien-nay-n50196.html

18
1

You might also like