Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC:NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA:TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI TÀI SẢN

GIẢNG VIÊN: ĐĂNG LÊ PHƯƠNG UYÊN

Họ và tên: Dương Vinh Quang

Lớp: HS45.2

MSSV:2053801013136
MỤC LỤC

Phần 1: Khái niệm tài sản......................................................1

Phần 2: Căn cứ xác lập quyên tài sản....................................7

Phân 3: Chuyển rủi ro đối với tài sản.....................................10

Tài liệu tham khảo.................................................................11


PHẦN 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN
Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về
giấy tờ có giá.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 và Điểm 8 Điều 6 Luật
ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 thì giấy tờ có giá là 1 loại tài sản, xác nhận
quyền tài sản cúa 1 chủ thể xác định, trị giá được bằng tiền và chuyển giao được
trong giao lưu dân sự, là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.

Ví dụ minh họa : Ông A bỏ số tiền là 100.000.000 VND để đăng kí mua 10 trái


phiếu kỳ hạn 7 năm của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV.Giá trị quà
khuyến mại khách hàng nhận được căn cứ trên giá trị trái phiếu khách hàng đặt mua
thành công và được tính bằng bội số của số tiền mua trái phiếu thành công chia cho
số tiền 1 trái phiếu và nhân với trị giá quà khuyến mại.Trong trường hợp này ông A
sẽ được sở hữu trái phiếu của công ty và khi đến kỳ hạn thi công ty phải hoàn tất
nghĩa vụ trả nợ với ông A.Vậy trái phiếu chinh là 1 loại của giấy tờ có giá.Ngoài ra
còn có những loại khác như cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu…

1. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?

Cơ sở pháp lý: Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015, Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013,
Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2013, Công văn 141/TANDTC-KHXX.

Trong thực tiễn xét xử của các Tòa án tại Việt Nam , hầu hết các vụ án có liên quan
đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà thì Tòa án
cho rằng những loại giấy tờ này chỉ là văn bản hành chính, là hình thức ghi nhận
quyền tài sản- quyển sử dụng đất của chủ thể, không dược xem là giấy tờ có
giá.Tuy các loại giấy chứng nhận này có giá trị pháp lý, nhưng không phải là “giấy
tờ có giá” mà chỉ chứa đựng quyền của chủ sở hữu tài sản.Cụ thể như trong Bản án
90/2020/DS-PT ngày 29/09/2020 về tranh chấp đòi lại tài sản, Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu nhận định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản, mà
chỉ là chứng thư pháp lý thể hiện quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản gắn
1
liền với đất (quyết định hành chính). Do đó, không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án khi có tranh chấp đòi trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Hay như
trong Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa về việc giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ văn bản1
và Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ
tỉnh Vĩnh Long về việc đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng2 cũng cho câu trả lời
tương tự như trên.

2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu
trả lời không? Vì sao?

Do chưa có điều luật áp dụng trực tiếp nên trong thực tiễn xét xử giải quyết các vụ
việc dân sự, các vụ án liên quan đến vấn đề đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng,
quyền sở hữu nhà ở đang chia làm hai luồng ý kiến :Áp dụng pháp luật tương tự
hoặc áp dụng “Lẽ công bằng”.

Trường hợp thứ nhất về áp dụng pháp luật tương tự, để giải quyết vụ án thì xác định
quan hệ tranh chấp là đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và căn cứ khoản
16 Điều 3 Luật đất đai 2013 nhận định quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp có
hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. BLDS 2015 và
BLTTDS 2015 chưa có quy định nào để giải quyết các tranh chấp về đòi lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và không có tập quán nào để giải quyết về tranh
chấp này, do vậy căn cứ vào Điều 3 BLDS 2015 và khoản 2 Điều 45 BLTTDS
2015 áp dụng các quy định tương tự về tài sản để giải quyết tranh chấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Vậy theo quan điểm này thì có thể ngầm hiểu giấy tờ
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở là tài sản và điều chỉnh tương
tự như tài sản.

1
Liên quan đến việc ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã xét rằng “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa
đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại
giấy tờ có giá. Do đó, việc ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.
2
Quan điểm của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long về việc ông B bà H đòi bà T trả giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất AM 090902 số thửa 1595 diện tích 489,1m 2 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thu
pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự”.

2
Còn đối với quan điểm áp dụng “lẽ công bằng” để giải quyết vụ án thì cho rằng
cần xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý, không phải
là tài sản, không thể áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết mà phải căn cứ khoản
2 Điều 6 BLDS 2015, khoản 3 Điều 45 BLTTDS 2015 áp dụng “lẽ công bằng” để
giải quyết vụ án. Theo quan điểm này thì không coi giấy tờ chứng nhận quyền sử
dụng đất, sở hữu nhà ở là tài sản mà chỉ là hình thức biểu hiện của tài sản nên
không thể áp dụng tương tự như đối với tài sản.

Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa cũng không cũng không nêu rõ là giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở có phải tài sản hay không mà chỉ nói loại giấy tờ này không
phải là giấy tờ có giá và hướng giải quyết của Tòa án theo quan điểm áp dụng “lẽ
công bằng” như đã nêu trên3. Cũng tương tự, trong Bản án số 39/2018/DSST ngày
28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long cho rằng chưa có
điều luật áp dụng đối với loại giấy tờ chứng nhận này nhưng Tòa án đã chọn giải
quyết théo hướng áp dụng pháp luật tương tự tức xem đối tượng điều chỉnh giấy tờ
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở như tài sản4.

3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và
nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).

Theo em, hướng giải quyết không chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát và ông Phan
Hai là không thỏa đáng. Tuy lấy lý do là trong Luật Việt Nam nước ta hiện nay chưa có
quy định cụ thể về các loại hình của tài sản để giải quyết tranh chấp kiện đòi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nên khi giải quyết những vấn đề như vậy gặp nhiều khó
khăn, nhưng cũng không thể vì vậy mà không áp dụng những biện pháp dân sự đối với
các giấy tờ này. Tuy những giấy tờ này không phải là giấy tờ có giá nhưng hoán toàn
có thể xem đây là tài sản vì nó tồn tại ở dạng vật chất (hữu hình) là tờ giấy nằm trong

3
Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận định: “Lẽ ra, khi có đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh
phải căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sử để trả lại đơn khởi kiện với lý do: vụ án không
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án”.
4
Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long nhận định về mặt tố tụng: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là
chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất
hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền
với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự”.

3
khả năng chiếm hữu của con người.Thế nên quyết định định giải quyết dân sư của Tòa
án trong trường hợp này là không hợp lý, gây khó hiểu về mặt lý luận đồng thời ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. BLDS Pháp hiện
không có định nghĩa về tài sản nhưng dự án cải cách hiện nay đề xuất đưa ra định
nghĩa về tài sản như sau: “Tài sản là vật hữu hình hoặc vô hình được sở hữu hoặc là
quyền đối vật hoặc quyền đối nhân”. Pháp luật Pháp không có khái niệm “tài sản ảo”
mà chỉ có các khái niệm như “Tài sản hình thành trong tương lai”, “tài sản vô
hình”.Việc làm rõ lại khái niệm “Tài sản” sẽ giúp ích rất nhiều trong công tác xét xử
các vấn đề liên quan tránh phát sinh mâu thuẫn. Hi vọng trong tương lai Bộ luật dân sư
Việt Nam sẽ làm rõ hơn hoặc thống nhất hướng dẫn cụ thể về câu chuyện này.

4. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được coi là tài
sản.

Căn cứ theo quy định tại:

 Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài”
sản.
 Điều 115 BLDS 2015: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác.
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

Hướng giải quyết của bản án số 39 là hợp lý. Vì việc bà T chiếm giữ giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông B và bà H là trái pháp luật hơn nữa bà không đưa ra
được giấy tờ chứng minh con trai ông B đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất trên cho bà để vay số tiền 120.000.000 đồng. Nên việc tòa án yêu cầu bà trả lại giấy
chứng nhận trên cho ông B và bà H là đúng.

6. Bitcoin là gì?

Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT,  ) là một loại tiền mã hóa, được phát minh


bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể

4
được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần thông qua một tổ
chức tài chính trung gian nào.Hệ thống tài chính bằng Bitcoin được điều hành bởi hàng
ngàn máy tính được phân bổ trên toàn thế giới. Bất cứ ai cũng có thể tham gia vào hệ
sinh thái bằng cách tải xuống phần mềm nguồn mở.Bitcoin là  tiền điện tử đầu tiên,
được công bố vào năm 2008 (và ra mắt năm 2009). Nó cung cấp cho người dùng khả
năng gửi và nhận tiền kỹ thuật số khiến giao dịch có thể được thực hiện bất cứ lúc nào
và từ bất cứ đâu.

7. Theo Toà án, bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Theo Toà án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam.
Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật
nào quy định tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. Căn cứ theo điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” đồng thời Nghị định số
96/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014 của Chính Phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không
hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự”. Chính vì thế Tòa án nước Việt
Nam hiện nay không công nhận bitcoin là tài sản.
8. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp
luật mà anh/chị biết.
Hiện nay, tình trạng pháp lý về tiền ảo bitcoin ở nhiều nước vẫn chưa thống nhất với
nhau do Bitcoin không thuộc sự quản lý của các ngân hàng trung ương  nên vốn đầu tư
không được đảm bảo cùng với tính chất ẩn danh nên đồng tiền điện tự này được các tội
phạm và tổ chức khủng bố quan tâm đặc biệt.Song, đa số các quốc gia trên thế gới vẫn
chấp nhận phương thức thanh toán bằng bitcoin vì nó có tiềm năng, nhiều lợi thế mà
đồng tiền tệ thông thường không có và một phần là vì họ sợ rằng nếu không kiểm soát
bằng cách thuận theo nó thì sẽ còn nguy hiểm hơn là làm ngơ hoặc cấm đoán. Chẳng
hạn như tại Hoa Kỳ, Bitcoin được công nhận là tài sản hợp pháp. Chính phủ Mỹ đã cởi
mở và tích cực hơn về Bitcoin so với nhiều quốc gia khác. Dù không một nhà quản lý
tài chính nào coi Bitcoin như một loại tiền tệ, đồng tiền mã hóa này vẫn được báo cáo
trong các bản khai thuế. Các cơ quan quản lý của Hoa Kỳ có lập trường khác nhau đối
với tiền điện tử.Chẳng hạn như Mạng lưới Thực thi Tội phạm Tài chính (FinCEN)
của Bộ Tài chính Hoa Kỳ phân loại bitcoin như là một loại tiền ảo phi tập trung có thể

5
chuyển đổi.Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CTFC) đã phân loại bitcoin là một
loại hàng hóa vào tháng 9 năm 2015.Tiếp đó theo Sở Thuế vụ (IRS) đã đề xuất Bitcoin
và các loại tiền kỹ thuật số khác là “tài sản để đánh thuế liên bang”. Ngoài ra Bitcoin
cũng được đề cập trong một ý kiến của Tòa án tối cao Hoa Kỳ(trên Wisconsin Central
Ltd. v. Hoa Kỳ) về việc thay đổi định nghĩa về tiền vào ngày 21 tháng 6 năm
20185.Nhưng phần lớn là do hệ thống luật pháp phân mảnh ở Hoa Kỳ, tình hình liên
quan đến Bitcoin là chắp vá nên về việc lưu hành đồng tiền điện tử bitcoin ở mỗi bang
cũng là khác nhau.
9. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Toà án đối với Bitcoin trong mối quan
hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam
Nếu căn cứ theo Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản” thì quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin là hoàn toàn
chính xác dựa trên nhựng phân tích và chứng minh nêu trên thì hiện nay chưa có
quy phạm pháp luật nào điều chỉnh coi bitcoin là tài sản cũng như không thừa nhận
trong phương thức thanh toán của mọi loại hình kinh tế của nước Việt Nam.

10. Quyền tài sản là gì?

Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác”

11. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?

Căn cứ theo Điều 115 Bộ luật dận sư 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác” cùng với Khoản 2 Điều 450: “Trường hợp quyền tài sản là
quyền đòi nợ”.Như vậy, Bộ luật Dân sự 2015 chỉ đưa ra duy nhất một đặc điểm của
“quyền tài sản” là “quyền trị giá được bằng tiền” và một số quy định khác liệt kê quyền
tài sản như: “quyền sở hữu trí tuệ”, “quyền sử dụng đất”, “quyền đòi nợ”. Theo đó có
thể thấy không có quy định cụ thể nào liệt kệ về các “quyền tài sản khác”.Điều này
đồng nghĩa với việc: Tuy quyền thuê, quyền mua tài sản có thể “trị giá được bằng tiền”
nhưng có là quyền tài sản hay không thì không thể khẳng định.

5
Farquhar,Peter(22/6/2018). “The US Supreme Court just spoke about a bitcoin future for the first time”.

6
12. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Tòa án nhân dân tối cao coi quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản tại đoạn
sau: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634  Bộ luật dân sự 1995, quyền thuê, mua
hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho
các thừa kế của cụ T”.
13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm
tài sản)?
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý bởi theo
khái niệm của quyền tài sản được quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự 2015 thì
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền” thì tài sản thuê, tài sản mua bán theo
hợp đồng đều thảo mãn tính chất “trị giá được bằng tiền” đồng thời thỏa mãn cả tính
chất chuyển giao trong giao dịch dân sự (khái niệm tài sản trong Bộ luật dân sự
19956).Thế nên việc xét xử công nhận việc bà H và ông T1 (với tư cách là đối tượng
thừa kế tài sản) được hưởng lợi từ quyền thuê, quyền mua hóa giá nhà của cụ T là
đúng.

Phần 2:Căn cứ xác lập quyền tài sản


1..Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?
Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 02 Hàng Bút đã
nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và
nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo đi vào nam sinh sống từ
năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông
Chính quản lý căn nhà”.
Theo em, quyết định củaTòa án là không hợp lý, dù chị Vân đã ở nhà này trên 30 năm
(từ năm 1954) nhưng trên thực tế thì đây vẫn là nhà của cụ Hảo có trên giấy tờ lưu giữ

6
Điều 188 Bộ luật dân sự 1995: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao
lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Phần thứ sáu của Bộ luật này”.

7
nên nếu không có văn bản nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác thực thì không
thể coi là nhà có đất tranh chấp.
2.Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay
tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247
BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời
hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều
này””.
Theo em, Tòa án xác định như thế là chưa xác đáng, bởi vì căn nhà số 2 Hàng
Bút là gia đình cụ Hảo cho thuê, cụ Hảo vẫn còn là chủ sở hữu căn nhà, cũng là người
đứng tên căn nhà, cụ ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà chứ không ủy quyền sở
hữu toàn bộ căn nhà cho ông Chính. Như vậy, việc gia đình chị Vân chiếm hữu căn nhà
lúc nó còn là sở hữu của cụ Hảo mà không được sự đồng ý thì không thể gọi là chiếm
hữu ngay tình được.

3.Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của tòa án?
Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247
BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời
hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều
này”” và đoạn “Trong khi gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc
đầu là ông nội chị Vân, sau này là bố chị Vân và chị Vân vẫn tiếp tục sinh sống”.

8
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án là không xác đáng bởi lẽ gia đình chị bắt
đầu ở tại nhà là năm 1954 nhưng đến 1975 cụ Hảo đã nhiều lần gửi đơn khởi kiện đòi
nhà nhưng chị vẫn ở đến tận năm 2001 rồi bán.Thêm vào đó, căn cứ vào Khoản 1 điều
182 BLDS 2015: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoản thời gian
mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được trao
cho người khác chiếm hữu” cũng với nhưng phân tích nêu trên thì trong khoảng từ
năm 1975 trở đi tài sản là căn nhà đã có tranh chấp bởi chủ sở hữu là cụ Hảo nên Tòa
án xem xét trường hợp này là chiếm hữu liên tục là chưa hợp lý.
4. Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247
BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời
hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều
này”” và đoạn “Sau khi ông nội chết năm 1995 thì gia đình chị không còn đóng tiền
thuê nhà cho ông Chính nữa. Sau đó bố chị(ông Nhữ Duy Sơn) và chị tiếp tục quản lý.
Năm 1997, bố chị chết thì chị tiếp tục ở lại nhà số 2 Hàng Bút(tầng 1), chị không trả
tiền thuê nhà cho ai, quá trình ở thì bố chị có nâng cao nền nhà, thay cửa, còn chị
không sửa chữa gì thêm”.
Theo em, tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất là hoàn
toàn có căn cứ vì theo khoản 1 điều 183 BLDS 2015: “Việc chiếm hữu tài sản được coi
là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu diếm, tài sản
đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo
quản, giữ gìn như tài sản của mình.”. Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà với mục
đích sinh sống và sinh hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa và nâng cấp ngôi nhà trong thời
gian sinh sống ở đó. Ngôi nhà đã được sử dụng theo đúng tính năng và công dụng và
được người chiếm hữu giữ gìn, bảo quản như tài sản của mình.

9
5.Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Toà án?

Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà
đất có tranh chấp: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân
từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy
ban Nhân Dân phường Hàng Bồ năm 2001), đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn kiện ra
tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu căn nhà nêu trên”.

Theo em, khẳng định trên của Tòa án là không xác đáng\và hoàn toàn sai lầm. Như
những phân tích nêu trên về phía chị Vân, việc chiếm hữu nhà của chị tuy công khai
nhưng lại không ngay tình, không liên tục nên không thể coi chị là chủ sở hữu hợp
pháp của căn nhà. Còn về phần cụ Hảo, vì nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội có bằng khoán điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày
04/11/1946 tức là cụ đã xác lập quyền sở hữu đối với căn nhà từ năm 1946.Dù cho cụ
có vào Nam sinh sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở hữu đối với căn nhà nên việc
khẳng định cụ không còn là chủ sở hữu căn nhà là hoàn toàn vô căn cứ.

6.Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với
nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo em, gia đình chị Vân không được phép xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền vì theo quy định tại khoản 3
Điều 188 Bộ luật dân sự 2015 ghi nhận: “Người được giao tài sản không thể trở thành
chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo quy định tài Điều 236 của Bộ luật này”.Như
vậy có thể thấy theo luật hiên thành thì việc chiếm hữu (cho dù là ngay tình, công khai,
liên tục) theo khoản 2 Điều 179 của Bộ luật dân sự và quyền chiếm hữu của người
được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự đều không thể trở thành chủ sở hữu tài
sản về quy định thời hiệu hưỏng quyền tại Điều 236 của Bộ luật này.

Phần 3: Chuyển rủi ro đối với tài sản


1.Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời?

10
Bà Dung là người phải chịu rủi ro đối với tài sản, vì theo Khoản 1 Điều 441 Bộ luật
dân sự 2015 có quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được
giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.Cò thể thấy trong trường
hợp này thời điểm diễn ra cháy chợ và ghe xoài bị hư là sau khi bà Dung đã nhận ghe
xoài nên người phải chịu rủi ro đối với ghe xoài sẽ là bà Dung.
2.Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời?

Tại thời điểm cháy chợ thì bà Dung là chủ sở hữu số xoài theo Khoản 1 Điều 161 Bộ
luật dân sự 2015 quy định: “… thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.

Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện
hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản”, mà tại thời điểm cháy chợ thì ghe xoài đã được
bà Thủy chuyển giao và bà Dung đang chiếm hữu nên theo quy định pháp luật thì bà
Dung là chủ sở hữu số xoài.

3.Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?

Theo Khoản 1 Điều 441 Bộ luật dân sự 2015 thì ta đã biết Bà Dung sẽ là người phải
chịu hoàn toàn rủi ro đối với ghe xoài ( như đã phân tích ở trên) và vì thế nên Ba Dung
vẫn phải thanh toán tiền mua ghe xoài cho bà Thủy do bà Thủy đã hoàn tất nghĩa vụ
chuyển giao tài sản là ghe xoài và Bà Dung lúc này đã xác lập quyền sở hữu đối với
ghe xoài.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A.Văn bản quy phạm pháp luật


1. Hiến pháp 2013
2. Bộ luật dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015
3. Bộ luật Tố tụng dân sự (Luật số 92/2015/QH13) ngày 25/11/2015
4. Luật đất đai (Luật số 45/2013/QH13) ngày 29/11/2013
5. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam (Luật số 46/2010/QH12) ngày 16/6/2010

11
6. Luật tố tụng hành chính (Luật số 93/2015/QH13) ngày 25/11/2015

B.Tài liệu tham khảo


1.Nguyễn Thị Dung, “Một số ý kiến về chiếm hữu trong Bộ luật dân sự năm 2015”,
Khoa học kiểm sát, số 5(13)/2016.

2 Bùi Đức Giang, Nguyễn Hoàng Long(2019), “Giao dịch bảo đảm bằng quyền tài
sản theo Bộ luật dân sự 2015”,Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Số 11 tr.16-18.

3. Nguyễn Thanh Tư, Nguyễn Nhật Thanh(2012), “Một số vấn đề pháp lý của tài
sản ảo trong trò chơi trực tuyến- thực tiễn và kiến nghị”, Khoa học pháp lý, số
05(72)2012, tr.27-33.

4. Portalis, “Phát biểu giới thiệu Bộ luật Dân sự”, Nhà Pháp luật Việt-Pháp, ngày 3
tháng 12 năm 1803.

5.Johan David Michels, Jean Bacon, Critopher Millard, Jatinder Singh(2018),


“BLOCKCHAIN DEMYSTIFIED: A TECHNICAL AND LEGAL
INTRODUCTION TO DISTRIBUTED AND CENTRALISED LEDGERS ”, Tạp
chí Luật và Công Nghệ(JOLT), 25 Rich. J.L. & Tech., no. 1, 2018.

12
13
14
15
16

You might also like