Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam

Nguyễn Thị Nhuần

Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS. Hoàng Văn Hùng
Năm bảo vệ: 2011

Abstract. Làm sáng tỏ nội dung lý luận của chế định lỗi cố ý trong Luật hình sự
Việt Nam như: Lỗi và cơ chế hình thành hành vi phạm tội, cơ sở của lỗi, khái niệm
lỗi… Đi sâu nghiên cứu và phân định rõ các hình thức lỗi, các dạng lỗi trong thực
tiễn xét xử, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm bất cập trong việc áp dụng chúng. Phân
tích và làm sáng tỏ sự thể hiện lỗi cố ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
Làm sáng tỏ và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế định lỗi cố ý trong
việc định tội danh và định khung hình phạt trong việc áp dụng Luật hình sự.

Keywords. Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Lỗi cố ý

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên đề tài
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó. Vì thế,
nó là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, phản ánh tính chất mức độ nguy hiểm của
hành vi và sự nguy hiểm của người phạm tội. Lỗi cho phép người ta hiểu được rằng, tội phạm
không chỉ là kết quả của một việc làm sai trái mà còn là hệ quả của một thái độ, một sự nhận
thức. Việc ghi nhận lỗi như là một yếu tố thuộc về căn cứ của trách nhiệm hình sự, là một
nguyên tắc quan trọng của luật hình sự nước ta. Nguyên tắc đó là cơ sở của chính sách hình
sự của nhà nước. Việc thừa nhận lỗi với tính cách là cơ sở của mặt chủ quan của trách nhiệm
hình sự thể hiện sự tôn trọng một cách đầy đủ và sâu sắc phẩm giá của con người. Luật hình
sự của chúng ta coi con người là chủ thể có ý thức và lý trí, có thể tự hiểu được và đánh giá
được hành vi của mình, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân mình. Do đó chúng ta nhìn
nhận lỗi như là một yếu tố không chỉ mang tính pháp lý mà còn có cả giá trị đạo đức, văn
minh, lỗi thể hiện cơ sở đạo lý của trách nhiệm hình sự. Con người chỉ có thể chịu trách
nhiệm về hành vi của mình, về những gì con người đó hiểu được, những gì nằm trong tầm
kiểm soát của sự nhận thức. Không thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi khả năng tự lựa
chọn cách ứng xử và hành động của con người.
Lỗi trong luật hình sự là một chế định trung tâm và có thể coi là vô cùng phức tạp.
Với bản chất là dấu hiệu của tội phạm, ở một mức độ nào đó cho phép các cơ quan bảo vệ
pháp luật và toà án phân biệt đâu là hành vi có tính chất tội phạm, đâu là hành vi không
có tính chất tội phạm và tương ứng như vậy sẽ quyết định được người đó có phải chịu
trách nhiệm hình sự hay không.
Lỗi của chủ thể trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm
phải được các cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án khẳng định dứt khoát là có lỗi hay không
có lỗi. Nếu có người đó đã phạm tội, không thể có trường hợp thứ ba cái gọi là “nghi ngờ
lỗi”. “Không có lỗi thì không thể có trách nhiệm hình sự”. Đó cũng là một trong những yêu
cầu đòi hỏi dân chủ và khách quan, công bằng trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp
quyền.
Lỗi phản ánh những diễn biến tâm lý thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
và của người thực hiện hành vi đó. Vì vậy, lỗi giúp cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án có thể
cá thể hoá trách nhiệm hình sự một cách chính xác. Đồng thời các hình thức của lỗi còn là cơ
sở để định tội danh với những trường hợp mà việc phân hoá trách nhiệm hình sự tối đa được
dựa trên sự phân định các hình thức lỗi.
Việc coi lỗi là cơ sở về mặt chủ quan của trách nhiệm hình sự gắn liền với xuất phát
từ mục đích của luật hình sự, của trách nhiệm hình sự và hình phạt, chúng ta đều biết rằng
mục đích của luật hình sự và trách nhiệm hình sự là giáo dục và cải tạo người phạm tội. Nếu
trách nhiệm hình sự và hình phạt được áp dụng cho một người không kiểm soát được hành vi
của mình, không nhận thức được về hành vi đó, thì trách nhiệm hình sự và hình phạt không
có ý nghĩa, thậm chí là vô nhân đạo, phi nhân tính. Luật hình sự của chúng ta cũng như đạo lý
của nhân dân ta không chấp nhận những việc làm như truy cứu trách nhiệm hình sự người vô
tội, những người còn nhỏ chưa hiểu được hành vi của mình.
Xuất phát từ những lý do và ý nghĩa nêu trên, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn
diện về chế định lỗi, đặc biệt là hình thức lỗi cố ý trong luật hình sự là cần thiết và quan trọng để góp
phần nâng cao nhận thức - khoa học về việc tiếp tục hoàn thiện nó trong pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành. Do đó, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lỗi cố ý đã từ lâu được nhà nghiên cứu đề cập đến trong luật hình sự Việt Nam, chế
định lỗi cố ý luôn được chú ý đúng mức. Qua từng bước phát triển của luật hình sự Việt Nam
chế định đó từng bước được phát triển và hoàn thiện. Trong nước, đáng chú ý nhất là các
công trình của các nhà nghiên cứu như: Lê Cảm, Trần Văn Độ, Kiều Đình Thụ, Nguyễn
Ngọc Hoà, Đào Trí Úc…mà ở đó các khía cạnh khác nhau của lỗi cố ý đã được làm rõ, chẳng
hạn như: khái niệm, các hình thức và mức độ của lỗi nói chung và của lỗi cố ý nói riêng…Đề
tài lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam trước đây cũng đã được nhắc đến rất nhiều, tuy
nhiên hiện tại nó vẫn là vấn đề mũi nhọn của Luật hình sự…
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích tổng quát của luận văn là nghiên cứu một cách chuyên sâu và có tính hệ thống
về chế định lỗi trong Luật hình sự Việt Nam; phân biệt rõ các hình thức lỗi và các dạng lỗi trong
lý luận và thực tiễn áp dụng Luật hình sự ở nước ta.
Để đạt được mục tiêu tổng quát như trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể như sau:
Một là, làm sáng tỏ nội dung lý luận của chế định lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt
Nam như: Lỗi và cơ chế hỡnh thành hành vi phạm tội, cơ sở của lỗi, khái niệm lỗi…
Hai là, đi sâu nghiên cứu và phân định rõ các hình thức lỗi, các dạng lỗi trong thực
tiễn xét xử, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm bất cập trong việc áp dụng chúng.
Ba là, phân tích và làm sáng tỏ sự thể hiện lỗi cố ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999.
Bốn là, làm sáng tỏ và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trũ và ý nghĩa của chế định lỗi cố ý
trong việc định tội danh và định khung hỡnh phạt trong việc ỏp dụng Luật hỡnh sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn này tập trung nghiên cứu chế định lỗi mà đặc biệt là lỗi cố ý với tính chất là
yếu tố quan trọng nhất trong mặt chủ quan của cấu thành tội phạm; thực tiễn áp dụng chế
định này trong việc định tội danh, định khung hỡnh phạt đối với những chủ thể thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
Tuy nhiên, do đây là một chế định khó và phức tạp, thêm vào đó thời gian nghiên cứu
có hạn cũng như năng lực nghiên cứu, kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề của tác giả còn
hạn chế, nên trong Luận văn này, tác giả chỉ có thể làm sáng tỏ những khía cạnh mà theo
quan điểm tác giả là quan trọng và chủ yếu hơn cả.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định lỗi cố ý theo pháp
luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự, đồng thời luận văn cũng đề cập một số
quy phạm của luật tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng
nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm cũng như đường lối
xử lý tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời, cơ sở lý luận của Luận văn
cũng dựa trên thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý và triết học, những luận
điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên
tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…trong sự nhìn nhận
tổng thể và khách quan, không phiến diện một chiều.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và
những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp
luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao hoặc (và) của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở
Trung ương ban hành có liên quan đến chế định lỗi; dựa vào báo cáo tổng kết hàng năm
của ngành Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân để phân tích, tổng hợp các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiền trong khoa học luật hình sự Việt
Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn
đề lỗi cố ý ở cấp độ một luận văn. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận
những vấn đề sau:
1. Phân tích một cách tương đối có hệ thống và tương đối toàn diện những vấn đề
lý luận về chế định lỗi mà đặc biệt là lỗi cố ý như: cơ chế hình thành hành vi phạm tội,
cơ sở của lỗi, khái niệm lỗi, phân biệt các hình thức lỗi……
2. Phân tích sự cần thiết phải xác định lỗi trong định tội danh và định khung hình
phạt.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên đề cập một cách
có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định lỗi cố ý theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ
thể của từng trường hợp áp dụng chế định lỗi cố ý trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của
các cơ quan tiến hành tố tụng, để giúp việc áp dụng chúng trong thực tiễn ngày một hoàn
thiện hơn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà
khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp
hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo
người phạm tội ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Xuất phát từ nội dung, yêu cầu của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về lỗi
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong Bộ
luật hình sự ở nước ta giai đoạn hiện nay.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI
1.1. Lỗi và cơ chế hình thành hành vi phạm tội
Tội phạm trước hết là một hành vi. Chính vì thế, tội phạm bao giờ cũng được thực
hiện bởi chủ thể xác định. Không thể có hành vi xuất hiện bên ngoài Thế giới khách quan mà
không có chủ thể. Theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, hành vi của con
người suy cho cùng là do điều kiện xã hội khách quan quyết định. Tuy nhiên, đó phải là quá
trình diễn ra phức tạp, không đơn thuần chỉ là kết quả của sự lệ thuộc tuyệt đối của con người vào
hoàn cảnh khách quan đó. Trong quá trình này, ý chí của con người, nhận thức của con người có vị
trí độc lập, có ý nghĩa không kém phần quan trọng, mặc dù bản thân ý chí và nhận thức cũng lại do
các điều kiện khách quan quyết định. Do đó, có thể hiểu rằng: một hành vi phạm tội được thực hiện
- đó không thể là sự phản ánh trực diện của con người đối với hoàn cảnh mà là kết quả của sự
tương tác giữa một bên là điều kiện và môi trường xã hội với một bên (khác) là bản thân con
người ấy.
Hành vi của con người bao giờ cũng là sự thống nhất giữa biểu hiện cụ thể bên ngoài
Thế giới khách quan và những nội dung tâm lý bên trong (ý chí) của chủ thể thực hiện hành
vi chi phối hành vi đó. Tội phạm được biểu hiện bởi hành vi, do đó nó cũng là sự thống nhất
giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn
gắn liền với các biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được
coi là tội phạm, nếu hành vi đó được thực hiện trong một thái độ tâm lý nhất định của con
người đối với hành vi đó và hậu quả của hành vi đó gây ra hoặc đối với khả năng phát sinh
hậu quả từ hành vi đó.
Con người tồn tại trong Thế giới bị chi phối bởi những qui luật khách quan và hoạt
động của con người bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Tất cả những động
cơ thúc đẩy con người hành động không phải bộc phát một cách ngẫu nhiên trong ý thức của
con người mà được hình thành một cách có qui luật. Đó là kết quả giao tiếp của người đó với
người khác, sự phát triển tâm lý trước đây, sự phản ánh những sự vật, hiện tượng tác động
trực tiếp đến người ấy. Thông qua hoạt động tâm lý con người hoạt động có ý thức, từ đó quyết
định sự hình thành và phát triển xã hội.
Xử sự của con người có tính qui luật nhưng không phải mang tính tuyệt đối. Khi sống
trong cùng một xã hội, cùng một điều kiện nhưng có người vi phạm các chuẩn mực xã hội, có
người thực hiện tốt các trách nhiệm của một thành viên trong xã hội, có người phạm tội, có
người không phạm tội, có người phạm tội một lần, có người phạm tội nhiều lần… Tất cả
những gì tác động đến con người, thúc đẩy hành vi đều phải thông qua bộ óc của con người.
Hoạt động của con người không phải là kết quả tác động trực tiếp của các điều kiện lịch sử
mà chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tâm lý bên trong con người.
Con người có sự tự do của mình, nghĩa là có quyền lựa chọn một xử sự phù hợp với
các qui luật, đó là sự tự do thực sự. Ngược lại, con người sẽ bị tước bỏ sự tự do của mình khi
xử sự không phù hợp với qui luật.
Tóm lại, con người có khả năng nhận thức và vận dụng tốt các qui luật của xã hội để
giành lấy tự do cá nhân. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng là như vậy. Đôi lúc, họ vẫn
nhận thức được các qui luật đó nhưng không phải họ vận dụng nó để thực hiện hành vi một
cách phù hợp với sự tự do của người khác mà ngược lại, họ hành động sai với qui luật. Đó là
ý chí của cá nhân người muốn tự tước bỏ tự do của người khác và hậu quả cũng tự tước bỏ sự
tự do của mình. Pháp luật buộc họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó của họ là phù hợp.
1.2. Tự do ý chí là cơ sở của lỗi trong luật hình sự
Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại cho xã hội của mình, vì con
người có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và có khả năng điều khiển
được hành vi theo những đòi hỏi của xã hội. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi
gây thiệt hại cho xã hội của mình trong trường hợp người đó đã lựa chọn hành vi này khi có
đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội. Đó là những trường hợp
có lỗi. Trong trường hợp này tội phạm được coi là một xử sự mất tự do.
Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ
thực hiện và hậu quả đó do hành vi đó gây ra cho xã hội. Con người chỉ có thể chịu trách
nhiệm về hành vi của mình, về những gì con người đó hiểu được, những gì nằm trong tầm
kiểm soát của sự nhận thức. Nó không thể phải chịu trách nhiệm về những gì tuy có liên quan đến
việc làm của mình và thậm chí những gì đã dẫn đến hành vi đó, nhưng lại nằm ngoài nhận thức
và ý thức của chủ thể. Từ đó cho thấy, không thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi khả năng lựa
chọn cách ứng xử và hành động của con người.
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi là nguyên tắc cơ bản. Người phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt nam không phải chỉ đơn thuần vì người này đã có
hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi
khách quan đó. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt nam không chấp nhận việc “qui tội
khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở hành vi khách
quan mà không xét đến lỗi của họ.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là
kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa
chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội nhưng không
phải là kết quả trực tiếp của riêng điều kiện kinh tế - xã hội, vì “mọi sự tác động của hiện
tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị
tác động”.
Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một người khi họ có tự
do. Con người xử sự trái với lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do thì có
nghĩa họ là người có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi. Điều đó có nghĩa là: lỗi bao giờ
cũng phải đi liền với hành vi nguy hiểm cho xã hội và không thể nói đến lỗi khi không có
hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Lỗi trong Luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi của
con người cụ thể khi thực hiện hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội.
Trong trường hợp có lỗi, chủ thể có nhiều khả năng xử sự - khả năng xử sự gây thiệt
hại cho xã hội và khả năng xử sự phù hợp với lợi ích của xã hội. Những khả năng này chủ thể
đều có thể lựa chọn quyết định và thực hiện xử sự gây thiệt hại cho xã hội. Như vậy, lỗi chỉ đặt ra
cho những trường hợp trong đó có khả năng xử sự phù hợp với xã hội và chủ thể đã không lựa
chọn khả năng này.
1.3. Khái niệm chung về lỗi theo Luật hình sự Việt Nam
Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản. Một người phải
chịu trách nhiệm hình sự không chỉ đơn thuần vì họ có hành vi khách quan đã gây ra thiệt hại
cho xã hội, mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiệm hành vi khách quan đó. Một người có
hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vì đó là kết quả của sự tự lựa chọn
và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa
chọn hoặc quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Lỗi trong luật hình sự trước hết được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với
xã hội, thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Lỗi bao giờ cũng đi với hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhất định, không có lỗi độc lập với hành vi nguy hiểm. Lỗi trong luật hình sự
là lỗi cá nhân cụ thể của con người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là chủ
quan người phạm tội tự lựa chọn và quyết định thực hiện một xử sự khách quan gây thiệt hại
cho xã hội và trái pháp luật hình sự.
Như vậy, theo Luật hình sự Việt nam, một hành vi bị xem là có tính có lỗi (tức là người
thực hiện hành vi bị xem là có lỗi) khi có đủ 2 điều kiện:
+ Hành vi trái pháp luật hình sự.
+ Hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của người thực hiện hành vi
trong khi có khả năng và điều kiện để lựa chọn và quyết định xử sự khác không trái pháp luật
hình sự.
Lỗi là một phạm trù xã hội, bởi vì, lỗi thể hiện thái độ của người phạm tội đối với các
giá trị quan trọng nhất của xã hội.
1.4. Phân loại các hình thức lỗi và lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam
1.4.1. Phân loại các hình thức lỗi theo Luật hình sự Việt Nam
Lỗi - bản thân nó, với tính cách là thái độ tâm lý nội tại của con người - có những
mức độ biểu hiện của nó. Có lỗi nặng, có lỗi nhẹ, có lỗi cố ý và có lỗi vô ý. Xu hướng rõ nét
nhất của luật hình sự hiện nay là sử dụng trách nhiệm hình sự đối với các hành vi có lỗi cố ý.
Đối với lỗi vô ý, chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể nhất định.
Đó thường là những trường hợp gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Bộ luật
hình sự Việt Nam cũng đi theo xu hướng tiến bộ đó nhằm xác định một thái độ pháp lý rõ
ràng là: coi cố ý nguy hiểm hơn vô ý; chỉ qui định là tội phạm những hành vi vô ý trong
những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng.
Qui định rõ ràng như vậy là cơ sở để áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử và vì vậy, đây là điều kiện quan trọng để bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Đó còn là những ưu điểm của kỹ thuật lập pháp hiện đại, vì:
a/ Thông qua việc phân biệt rạch ròi, người ta có thể biết được hành vi nào thì bị coi
là tội phạm bất kể hình thức lỗi là gì, còn hành vi nào chỉ là tội phạm khi có lỗi cố ý.
b/ Thông qua việc phân biệt hình thức lỗi mà tiến hành thiết kế một số chế định quan
trọng ở Phần chung của Bộ luật hình sự. Chẳng hạn, Điều 40 Bộ luật hình sự khi qui định tái
phạm đã kết hợp các trường hợp phạm tội có lỗi cố ý với tội nghiêm trọng do lỗi vô ý.
c/ Thông qua thái độ pháp lí rõ ràng đó, Bộ luật hình sự Việt Nam khẳng định chính
sách hình sự nhất quán là: hướng mũi nhọn đấu tranh vào các hành vi cố ý, nguy hiểm, sử dụng tối
đa các biện pháp phòng ngừa, giáo dục của xã hội đối với các hành vi phạm tội không cố ý và ít
nghiêm trọng.
Nội dung cơ bản của lỗi được hợp thành bởi 2 yếu tố cơ bản là: lý trí và ý chí. Sự kết
hợp khác nhau giữa ý thức và ý chí tạo nên các hình thức khác nhau của lỗi. Một người phạm
tội với lỗi cố ý thể hiện sự chống đối xã hội cao hơn trường hợp lỗi vô ý và do đó hình phạt
áp dụng đối với họ sẽ nghiêm khắc hơn. Không thể buộc 2 người cùng phạm một loại tội
nhưng với lỗi khác nhau phải chịu chung một hình phạt. Muốn có được sự đúng đắn trong
hoạt động này, trước tiên ta phải phân loại lỗi.
Theo quan niệm truyền thống trong Luật hình sự thì lỗi là tháo độ tâm lý của chủ thể
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và hậu quả mà hành vi đó gây ra
được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Lỗi thể hiện thái độ, tâm lý của chủ thể đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó. Quan hệ tâm lý này gồm 2 yếu tố lý trí
và ý chí:
1/ Yếu tố lý trí: thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan.
Người phạm tội nhận thức được rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước khả năng xảy ra hậu quả của hành vi; hoặc không thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội do sơ xuất, cẩu thả mặc dù đáng lẽ người phạm tội
có thể và cần phải thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm của hành vi của mình.
2/ Yếu tố ý chí: thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức - người
phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra; hoặc cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Hai yếu tố lý trí và ý chí có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của
mình, nhưng lại không điều khiển được hành vi đó thì họ không có lỗi. Đây là tiêu chí đúng
đắn bởi nó xuất phát từ nội dung cơ bản của lỗi. Trên cơ sở đó lỗi được chia thành:
+/ Lỗi cố ý, trong đó có 2 dạng: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
+/ Lỗi vô ý, trong đó có 2 dạng: lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
Nếu ở lỗi nói chung ta nói đến sự lựa chọn thì ở lỗi cố ý là sự lựa chọn hành vi phạm
tội (là hành vi có các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm - trừ dấu hiệu lỗi). Trong
trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành
vi đó; còn trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể
chấp nhận hành vi đó. Sự chấp nhận này là cơ sở chấp nhận đặc điểm nhất định của hành vi
phạm tội, trong đó có hậu quả của hành vi.
1.4.2. Lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam
1.4.2.1. Lỗi cố ý trực tiếp: (khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự)
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành
vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Về lý trí: đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ, đầy đủ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi đó.
Về ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Điều đó có nghĩa, hậu quả
của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích và
phù hợp với sự mong muốn của người đó. Nói tóm lại, hình thức lỗi cố ý trực tiếp có 3 đặc
điểm:
- Một là: người phạm tội thấy trước hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội.
- Hai là: người phạm tội thấy trước hậu quả tác hại của hành vi đó.
- Ba là: người phạm tội mong muốn gây ra hậu quả tác hại.
1.4.2.2. Lỗi cố ý gián tiếp: (khoản 2 Điều 9 Bộ luật hình sự)
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận
thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể
xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Điều 9 Bộ luật
hình sự).
Giống như phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp, phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp không chỉ bao
gồm trường hợp người phạm tội thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình có thể xảy ra, mà còn bao gồm trường hợp người phạm tội thấy trước hậu quả đó tất yếu
sẽ xảy ra. Nhưng khác với trường hợp phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp, trường hợp phạm tội do
lỗi cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn cho hậu quả xảy ra, nghĩa là hậu quả
phạm tội xảy ra không nằm trong mục đích hành động của người phạm tội, cũng không phải
là phương tiện cần thiết mà người phạm tội mong muốn thực hiện để đạt đến mục đích phạm
tội nào đó khi người đó thấy trước hậu quả tất yếu sẽ xảy ra mà thái độ tâm lý của người
phạm tội trong trường hợp phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp là không quan tâm đến hậu quả xảy
ra. Đối với người phạm tội hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra hay không xảy ra đều không
có ý nghĩa gì.
Trường hợp người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp, về lý trí họ cũng nhận thức rõ tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình (tương tự như trường hợp phạm tội với lỗi
cố ý trực tiếp) người phạm tội cũng thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
họ có thể gây ra. Còn về ý chí, người phạm tội không mong muốn hậu quả đó mà họ có thái
độ để mặc cho hậu quả xảy ra (hậu quả xảy ra cũng được, không xảy ra cũng được). Tuy
nhiên, họ đã mong muốn hành vi nguy hiểm được thực hiện để đạt được mục đích khác của
họ. Và cũng vì lẽ đó họ chấp nhận hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Ở trường hợp phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp, sự thấy trước hậu quả chỉ là thấy trước hậu
quả có thể xảy ra, không thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước hậu quả tất nhiên
xảy ra mà họ có thái độ để mặc, không mong muốn hậu quả đó khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội.
Khác với cố ý trực tiếp, đối với cố ý gián tiếp hậu quả không phải là kết quả tất yếu
của hành vi phạm tội, không phải là mục đích cuối cùng, cũng không phải là điều kiện, biện
pháp để đạt được mục đích cuối cùng. Đối với người phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp thì
hậu quả nguy hại là kết quả phụ, đi theo của hành vi nhằm đạt được mục đích khác
(mang tính chất tội phạm hoặc không).
Nếu ở lỗi nói chung chúng ta nói đến sự lựa chọn thì ở lỗi cố ý là sự lựa chọn hành vi
phạm tội. Trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn
duy nhất. Trái lại, trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, chủ thể lựa chọn hai khả năng - khả
năng hành vi thực hiện trở thành hành vi phạm tội (lựa chọn hành vi phạm tội) và khả năng
hành vi thực hiện không trở thành hành vi phạm tội (lựa chọn hành vi không phạm tội).
Trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn
hành vi đó; còn trong trường hợp cố ý gián tiếp, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể
chấp nhận hành vi đó. Sự chấp nhận hành vi phạm tội trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp là
trên cơ sở chấp nhận đặc điểm nhất định của hành vi phạm tội, trong đó có hậu quả của hành
vi.
1.4.2.3. Các hình thức lỗi cố ý khác
Trong Bộ luật hình sự, lỗi cố ý được phân thành hai loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp,
như đã trình bày. Ngoài ra, trong lý luận Luật hình sự, một số nhà nghiên cứu còn có cách phân
loại lỗi cố ý theo các cách sau:
- Tuỳ thuộc vào thời điểm hình thành sự cố ý có thể phân biệt 2 loại lỗi cố ý:
+ Cố ý có dự mưu (kế hoạch): là trường hợp người phạm tội đã có sự suy nghĩ, cân nhắc kĩ
càng trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Cố ý đột xuất (hoàn cảnh): là trường hợp người phạm tội vừa có ý định phạm tội đã
thực hiện ngay ý định đó, chưa kịp có sự cân nhắc kỹ. Là trường hợp ngược lại với dạng cố ý
có dự mưu, tức là khi ý định phạm tội vừa mới xuất hiện mà chủ thể đã thực hiện hành vi
phạm tội (chứ chưa hề có sự tính toán cụ thể, suy ngẫm kỹ càng và cân nhắc thận trọng trước
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội).
- Căn cứ vào mức độ cụ thể của sự nhận thức (hình dung) được hậu quả nguy hại
cho xã hội do hành vi của chủ thể sẽ xảy ra, hình thức lỗi này được khoa học luật hình sự
chia thành hai dạng: cố ý xác định và cố ý không xác định.
+ Cố ý xác định: là trường hợp cố ý, khi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội mà hình
dung được một cách tương đối chắc chắn, rõ ràng và cụ thể hậu quả nguy hại sẽ xảy ra.
+ Cố ý không xác định: Là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa hình dung được một cách cụ thể hậu quả đó.
1.4.3. Trường hợp hỗn hợp lỗi
Là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) được qui định
đối với những tình tiết khách quan khác nhau. Hay nói cách khác, tức là khi trong cùng một
cấu thành tội phạm có hai hình thức lỗi cùng tồn tại song song - lỗi cố ý đối với hành vi
(được qui định trong cấu thành cơ bản) và lỗi vô ý đối với hậu quả nghiêm trọng (được qui
định trong cấu thành tội phạm tăng nặng) hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (được qui định
trong cấu thành tội phạm đặc biệt tăng nặng) do hành vi đó gây ra.
Có thể nêu ra ở đây một số cấu thành tội phạm thuộc loại này là:
- Cấu thành tội phạm tội bức tử (Điều 100 Bộ luật hình sự)
- Cấu thành tội phạm tội đua xe trái phép (Điều 207 Bộ luật hình sự)
- Cấu thành tội phạm tội hành nghề mê tín, dị đoan (Điều 247 Bộ luật hình sự)
- Cấu thành tội phạm tội phá thai trái phép (Điều 243 Bộ luật hình sự).
Cấu thành tội phạm tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203 Bộ luật hình sự);
đường thuỷ (Điều 213 Bộ luật hình sự); đường không (Điều 217 Bộ luật hình sự).
Kết luận chương 1
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, bao giờ hoạt động cũng thống nhất 2
mặt bên trong và bên ngoài. Tội phạm là một dạng hoạt động có ý thức nên tội phạm gồm
mặt bên trong và mặt bên ngoài. Hai mặt của hoạt động luôn thống nhất với nhau. Mặt bên
trong chỉ đạo hoạt động bên ngoài, ngược lại mặt bên ngoài của tội phạm là thể hiện của diễn
biến bên trong. Mặt bên trong không thể thấy được nếu nó không thể hiện ra bên ngoài bằng
hành vi nguy hiểm cho xã hội, bằng hậu quả tác hại, địa điểm, phương tiện, công cụ thực hiện
tội phạm.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm vì tội phạm nào cũng được thực hiện
do cố ý hoặc vô ý. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra được thực hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm, là cơ sở để
buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và
hậu quả của hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận hình thức buộc tội
khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan, các yếu tố này
có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất (tội phạm là sự thống nhất giữa mặt
chủ quan và mặt khách quan). Có thể nói, lỗi là một nguyên tắc trong Luật hình sự Việt Nam,
nên trong Điều 8 Bộ luật hình sự khi định nghĩa về tội phạm đã nêu: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội…thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”
Mức độ nặng nhẹ của lỗi thể hiện những mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhân thân
người phạm tội. Chính vì vậy, sự phân biệt mức độ lỗi và hình thức lỗi cần phải được dẫn đến
dự phân biệt về thái độ của Luật hình sự đối với các trường hợp khác nhau đó. Xu hướng rõ
nét nhất của Luật hình sự hiện nay là sử dụng trách nhiệm hình sự đối với các lỗi cố ý. Đối với lỗi
vô ý, chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể nhất định. Đó thường là
những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
Việc xác định chính xác lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp có ý nghĩa quan trọng.
Trước hết, là trong việc định tội danh. Bởi vì: phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp
phạm tội mà người phạm tội mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Đối với
trường hợp này hậu quả mà người đó mong muốn chưa xảy ra hành vi của họ vẫn có thể là
hành vi phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn trong trường hợp phạm do lỗi cố ý
gián tiếp, tức là trường hợp mà người phạm tội để mặc cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy
ra thì chỉ khi xác định được có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, hành vi của người đó
mới được xác định là hành vi phạm tội. Khi hậu quả nguy hiểm cho xã hội chưa xảy ra thì
hành vi của người để mặc cho hậu quả xảy ra không thể bị coi là hành vi phạm tội; nghĩa là
đối với trường hợp phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp không thể có giai đoạn chuẩn bị phạm tội
hay phạm tội chưa đạt.
Xác định chính xác lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp có ý nghĩa trong việc quyết
định hình phạt. Trong những điều kiện giống nhau, phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp phải được
đánh giá là nguy hiểm cho xã hội lớn hơn so với phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp bởi vì phạm tội
do lỗi cố ý trực tiếp thể hiện thái độ chủ động và quyết tâm phạm tội của người phạm tội lớn hơn.
Do vậy, hình phạt đối với trường hợp phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp phải nghiêm khắc hơn so
với trường hợp phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp.
Theo khái niệm tội phạm được qui định tại Điều 8 - Bộ luật hình sự thì hành vi phạm
tội chỉ được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Luật hình sự việt nam không thừa nhận hình
thức lỗi thứ ba, nhưng trong một số công trình nghiên cứu của một số tác giả có đề cập đến
hình thức lỗi thứ ba, đó là “lỗi hỗn hợp” tức là vừa cố ý vừa vô ý hoặc cố ý về hành vi, vô ý
về hậu quả.

Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ LỖI CỐ Ý
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong việc
định tội danh
2.1.1. Vai trò của lỗi trong việc định tội danh
Định tội danh là hoạt động xem xét, đánh giá sự phù hợp giữa các tình tiết của vụ án
với các cấu thành tội phạm cụ thể, tương ứng tại phần riêng Bộ luật hình sự thông qua việc
xem xét đánh giá đó đưa ra kết luận cuối cùng.
Xuất phát từ sự nghiên cứu, xem xét các định nghĩa về định tội danh, ta có thể nhận
thấy hoạt động định tội danh có những đặc điểm cơ bản sau:
* Định tội danh là một quá trình lôgic nhất định bao gồm 2 hoạt động trong cùng một
vấn đề: thông qua việc xem xét sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã
hội với các quy phạm trong Bộ luật hình sự, sau đó đưa ra sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự
hành vi đó.
* Định tội danh là một giai đoạn trong hoạt động bảo vệ pháp luật và Tòa án thực hiện
dựa vào các quy phạm của pháp luật hình sự. Tuy nhiên, nên hiểu theo nghĩa chung nhất thì
định tội danh không chỉ do các cơ quan điểu tra, truy rố, xét xử thực hiện mà nó còn có thể
được thực hiện do các nhà khoa học hay bất cứ người nào khác.
Định tội là một hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thực hiện. Đồng thời nó
cũng là hình thức hoạt động, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm pháp luật
hình sự.
Định tội là vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn cơ bản trong quá trình áp dụng
pháp luật hình sự. Tất cả những việc làm trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố) suy cho
cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội được chính xác. Từ đó người áp dụng vừa có thể
áp dụng một hình phạt đúng đắn cho tội phạm đó. Việc nghiên cứu vấn đề định tội có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng.
Với tính chất là dấu hiệu của tội phạm, lỗi cho phép phân biệt đâu là hành vi có tính
chất tội phạm, đâu là hành vi không có tính chất tội phạm và tương ứng như vậy sẽ quyết
định được người đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Lỗi là đối tượng phải chứng minh khi tiến hành các hoạt động tố tụng. Cụ thể
hoạt động định tội danh. Lỗi phải được khẳng định dứt khoát có hay không? Nếu không
có lỗi thì không có tội phạm và không có trách nhiệm hình sự.
2.1.2. Lỗi trong việc định tội danh đối với tội phạm gây hậu quả chết người
2.1.2.1. Lỗi cố ý trong việc thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả chết người theo
quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp
luật.
Đối với các tội cố ý, người phạm tội phải nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi. Nếu không thì hoặc người đó không phạm tội, hoặc người đó phạm tội do cố ý.
Nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội ở đây không phải là buộc người phạm tội phải
nhận thức được tính trái pháp luật hình sự (tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu hình thức
của tội phạm thể hiện tính nguy hiểm của hành vi). Việc người phạm tội không nhận thức
được hành vi của mình, không quy định được trong Bộ luật hình sự vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi đó.
Cố ý giết người là trường hợp trước khi có hành vi tước đoạt tính mạng người khác,
người phạm tội nhận thức rõ hành động của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết
và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết. Nghĩa là: trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên sẽ xảy ra) nhưng vì
mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội.
Trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình
có thể nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra,
nhưng để đạt được mục đích của mình, người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra,
hay nói một cách khác, họ chấp nhận hậu quả đó.
Trong trường hợp hậu quả chết người đã xảy ra, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay cố
ý gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội danh. Nhưng trong trường hợp hậu quả chết
người chưa xảy ra, việc xác định lỗi này có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể là:
+ Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng ở giai đoạn chưa
đạt.
+ Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp
thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích (nếu có
thương tích xảy ra) mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt.
Trong thực tiễn, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp không phải luôn
đơn giản, mà trong nhiều trường hợp hết sức phức tạp. Việc xác định lỗi còn đặc biệt phức tạp, hơn
trong những trường hợp xác định lỗi cố ý gián tiếp hay chỉ là lỗi vô ý do quá tự tin đối với hậu
quả chết người.
2.1.2.2. Lỗi vô ý trong việc thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả chết người theo
quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự
Vô ý làm chết người là hành vi của một người không thấy trước được hành vi của
mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc có thể
thấy trước nhưng không tin rằng hậu quả chết người không xảy ra.
Lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý: có thể là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vo ý do cẩu
thả.
Vô ý phạm tội là một hình thức khác của lỗi. Nó có 2 dạng là vô ý do cẩu thả và vô ý
vì quá tự tin:
Vô ý do cẩu thả: là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội do thiếu trách nhiệm đã không thấy trước khả năng gây ra hậu quả mặc dù có thể thấy
trước nếu thận trọng. Do đó mà hậu quả đã xảy ra, sự cẩu thả được đánh giá dựa trên hai
tiêu chí, một thuộc về sự phức tạp của đối tượng cần nhận thức - mặt khách quan, một
thuộc về khả năng nhận thức của người phạm tội - mặt chủ quan. Lỗi vô ý vì cẩu thả thể hiện
ở các yếu tố sau:
+ Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã không thấy trước khả
năng gây ra hậu quả mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả. Trách nhiệm này
được xác định bằng nội quy, quy chế, bằng chuẩn mực sống trong xã hội.
+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã không thấy trước được khả năng
gây ra hậu quả mặc dù có thể thấy trước cho nên hậu quả nguy hiểm đã xảy ra.
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội tuy
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng dựa vào những căn cứ
phòng ngừa không xác đáng nên đã cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra và nếu có xảy ra cũng có thể
ngăn ngừa được.
Tóm lại, về cơ bản phạm tội với hình thức vô ý có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít
hơn so với lỗi cố ý. Bởi vì ở hình thức lỗi này không tồn tại động cơ và mục đích cố ý tội
phạm. Hậu quả xảy ra không phải là mục đích của người phạm tội, nó là kết quả của hành
động cẩu thả hoặc quá tự tin của chủ thể.
2.1.3. Vai trò của lỗi trong việc định tội danh đối với tội phạm gây thiệt hại cho sức
khỏe
2.1.3.1. Lỗi cố ý trong cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104 Bộ luật hình sự)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố
ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác. Thương
tích được hiểu là tổn hại cho sức khỏe thể hiện qua dấu vết để lại trên cơ thể con người.
Tổn thương khác được hiểu là tổn hại cho sức khỏe mà không thể hiện thành dấu vết
trên cơ thể con người.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự thì người bị thương tích hoặc bị
tổn hại đến sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội mới bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ để xác định tỷ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng giám
định y khoa.
2.1.3.2. Lỗi vô ý của cấu thành tội phạm của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác (Điều 108 Bộ luật hình sự)
Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của
một người do cẩu thả mà không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra thương
tích với tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, mặc dù phải
thấy trước và có thể thấy trước, hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hiệu quả
đó, nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ khác nhau về lỗi, một tội
là vô ý, còn một tội là cố ý. Mặt khác tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên, còn tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác thì tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên.
2.1.4. Vai trò của lỗi trong việc định tội danh đối với tội phạm gâu hậu quả thiệt
hại về tài sản
2.1.4.1. Đối với lỗi cố ý trong cấu thành tội phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản (Điều 143 Bộ luật hình sự)
Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử
dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Đây là tội phạm gồm 2 hành vi độc
lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật. Do đó,
tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội huỷ hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư
hỏng tài sản. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì
phải định tội là huỷ hoại tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là huỷ hoại
tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Huỷ hoại tài sản được hiểu là hành vi gây thiệt hại cho tài sản, dẫn đến tài sản đó không còn
công dụng của nó nữa và không thể phục hồi công dụng được.
Cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi gây thiệt hại cho một tài sản nào đó nhưng còn
khả năng sửa chữa được (khôi phục lại công dụng được).
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người
phạm tội biết hành vi của mình có khả năng huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản nhưng đã thực
hiện hành vi đó vì mong muốn tài sản bị huỷ hoại hoặc vì đã có ý thức chấp nhận thiệt hại đó
xảy ra để đạt được mục đích khác của mình.
2.1.4.2. Lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản (Điều 145 Bộ luật hình sự) và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản của Nhà nước (Điều 144 Bộ luật hình sự)
a. Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước là hành vi
không làm hoặc làm không hết trách nhiệm nên đã để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước do mình trực tiếp quản lý.
Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước thực hiện
do vô ý. Nếu là cố ý thì cấu thành tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143
Bộ luật hình sự). Nếu rủi ro (không có lỗi của người quản lý) mà gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản Nhà nước thì không cấu thành tội phạm.
b. Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145 Bộ luật hình sự)
Là hành vi của một người tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản nhưng cho rằng thiệt hại đó không xảy ra hoặc sẽ được ngăn
ngừa, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản dù phải thấy và có thể thấy trước hậu quả đó.
Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được thực hiện do lỗi vô ý. Dưới hình
thức lỗi vô ý do quá tự tin, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của người khác nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
ngừa được.
Còn dưới hình thức lỗi cố ý do cẩu thả người phạm tội không thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của người khác, mặc dù phải thấy trước
và có thể thấy trước hậu quả đó.
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong việc
định khung hình phạt
Quá trình định tội là một quá trình hoạt động tư duy phức tạp. Hoạt động này cần
được tiến hành theo các bước sau:
- Tóm tắt và phân tích hành vi của người phạm tội trong vụ án;
- Xác định khách thể loại của hành vi xâm hại của bị can đã thực hiện và các quy
phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra;
- Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự (cấu thành tội phạm cụ thể) trong mối liên hệ
với từng hành vi của bị can trong vụ án;
- Kết luận.
Trong đó, bước 3 kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự trong mối liên hệ với từng
hành vi của bị can trong vụ án là bước quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình làm việc của
người tiến hành tố tụng. Thực chất của bước này là định tội và định khung hình phạt cho
hành vi phạm tội đó.
Trong cấu thành tội phạm lỗi được quy định rất khác nhau. Nếu điều luật quy định
rõ hình thức lỗi trong cấu thành tội phạm thì khi định tội chỉ cần xác định thái độ tâm lý
của chủ thể đối với hành vi và hậu quả, sau đó so sánh, đối chiếu với hình thức lỗi trong
cấu thành tội phạm. Ví dụ: tội cố ý gây thương tích (Điều 104 Bộ luật hình sự), vô ý làm
chết người (Điều 98 Bộ luật hình sự)…
Tuy nhiên đa số các trường hợp, điều luật không nêu rõ các hình thức lỗi trong cấu
thành tội phạm cụ thể. Khi đó người định tội phải phân tích nội dung chủ quan của cấu thành
tội phạm để xác định tội phạm được thực hiện bằng lỗi gì. Sau đó, so sánh, đối chiếu với thái
độ cộng tâm lý của chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong vụ án cụ thể để kết
luận có hay không đồng nhất giữa hình thức lỗi được quy định trong cấu thành tội phạm và
lỗi của chủ thể thực hiện hành vi trong vụ án.
2.2.1. Xác định lỗi trong việc định khung hình phạt đối với tội cướp tài sản (Điều
133 Bộ luật hình sự)
- Lỗi đối với tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật hình sự là lỗi cố ý.
- Khoản 4 Điều 133 quy định tình tiết "làm chết người". Lỗi đối với hậu quả chết
người là lỗi vô ý.
- Trong trường hợp người phạm tội cướp tài sản lại có lỗi cố ý đối với hậu quả chết
người thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133.
Người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về 2 tội: tội cướp tài sản và tội giết người.
2.2.2. Xác định lỗi trong việc định khung hình phạt cần áp dụng đối với người
phạm tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự)
- Lỗi đối với tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật hình sự là lỗi cố ý.
- Khoản 3 Điều 111 quy định tình tiết "làm nạn nhân chết". Lỗi đối với hậu quả nạn
nhân chết là lỗi vô ý.
- Trong trường hợp người phạm tội cướp tài sản lại có lỗi cố ý đối với hậu quả chết
người thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 111.
Người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về 2 tội: tội hiếp dâm và tội giết người.

Kết luận chương 2


Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc
định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn.
Định tội danh thể hiện việc đánh giá chính trị - xã hội và pháp lý đối với những hành
vi nhất định. Định tội danh đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi
không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lí cho việc
quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội.
Hậu quả của việc định tội danh rất phức tạp. Nhưng hậu quả cơ bản nhất trong số đó
là việc áp dụng hình phạt hoặc những biện pháp tác động khác do luật quy định.
Việc định tội danh sai không chỉ làm cho việc quyết định hình phạt không đúng,
không công bằng, mà còn áp dụng không có căn cứ, hoặc không áp dụng một loạt các hạn
chế pháp lý khác (quyết định hình phạt bổ sung), áp dụng hoặc không áp dụng đặc xá, miễn
trách nhiệm hình sự, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tính toán không đúng thời hiệu, án
tích… Nếu do sai lầm trong việc định tội danh và sai lầm đó làm cho việc quyết định hình phạt
không phù hợp với hành vi đã thực hiện; làm cho bị cáo phải gánh chịu thì sai lầm đó đã vi phạm
một cách thô bạo các lợi ích hợp pháp của người bị kết án.
Cũng không kém phần có hại và bất công trong những trường hợp ngược lại, khi hành
vi của người có lỗi cấu thành tội phạm nghiêm trọng hơn nhưng lại định tội danh theo tội nhẹ
hơn. Trong trường hợp đó, người có lỗi chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn hình phạt đáng lẽ
người đó phải chịu theo luật, còn tội phạm lại được đánh giá nhẹ về đạo đức, chính trị và
pháp lý một cách thiếu cơ sở. Điều đó làm giảm nhẹ hiệu quả của công tác đấu tranh với tình
hình tội phạm và cùng lúc gây ra sự công phẫn hợp pháp của nhân dân, làm nảy sinh những
quan niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín
của các cơ quan tư pháp. Rõ ràng, đó là những vi phạm nghiêm trọng các đòi hỏi của nguyên
tắc công bằng, pháp chế.

KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất liên quan đến vấn đề lỗi
cố ý trong luật hình sự Việt Nam, chúng tôi xin được đưa ra một số luận điểm có tính chất
tổng kết cho khoá luận tốt nghiệp này như sau:
Thứ nhất, tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm, là
cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận hình thức
buộc tội khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan, các
yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất (tội phạm là sự thống nhất
giữa mặt chủ quan và mặt khách quan). Có thể nói, lỗi là một nguyên tắc trong Luật hình
sự Việt Nam, nên trong Điều 8 Bộ luật hình sự khi định nghĩa về tội phạm đã nêu: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”.
Thứ hai, lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm vì tội phạm nào cũng được
thực hiện do cố ý hoặc vô ý. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra được thực hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vô ý.
Thứ ba, mức độ nặng nhẹ của lỗi thể hiện những mức độ nguy hiểm cho xã hội của
nhân thân người phạm tội. Chính vì vậy, sự phân biệt mức độ lỗi và hình thức lỗi cần phải
được dẫn đến dự phân biệt về thái độ của Luật hình sự đối với các trường hợp khác nhau đó.
Xu hướng rõ nét nhất của Luật hình sự hiện nay là áp dụng trách nhiệm hình sự đối với các
lỗi cố ý. Đối với lỗi vô ý, chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể
nhất định. Đó thường là những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
Thứ tư, việc xác định chính xác lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp có ý nghĩa quan
trọng.
Trước hết, là trong việc định tội danh. Bởi vì: phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp là trường
hợp phạm tội mà người phạm tội mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Đối
với trường hợp này hậu quả mà người đó mong muốn chưa xảy ra hành vi của họ vẫn có thể
là hành vi phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn trong trường hợp phạm do lỗi cố ý
gián tiếp, tức là trường hợp mà người phạm tội để mặc cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy
ra thì chỉ khi xác định được có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, hành vi của người đó
mới được xác định là hành vi phạm tội. Khi hậu quả nguy hiểm cho xã hội chưa xảy ra thì
hành vi của người để mặc cho hậu quả xảy ra không thể bị coi là hành vi phạm tội; nghĩa là
đối với trường hợp phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp không thể có giai đoạn chuẩn bị phạm tội
hay phạm tội chưa đạt.
Xác định chính xác lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp có ý nghĩa trong việc quyết
định hình phạt. Trong những điều kiện giống nhau, phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp phải được
đánh giá là nguy hiểm cho xã hội lớn hơn so với phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp bởi vì phạm
tội do lỗi cố ý trực tiếp thể hiện thái độ chủ động và quyết tâm phạm tội của người phạm tội
lớn hơn. Cùng là lỗi cố ý, nhưng nếu là lỗi cố ý trực tiếp thì nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián tiếp;
cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng sự quyết tâm cao của người phạm tội nguy hiểm hơn người
không có ý thức quyết tâm phạm tội đến cùng; cùng là vô ý thì vô ý vì quá tự tin nguy hiểm
hơn lỗi vô ý vì cẩu thả. Ngoài ra, còn có thể xem xét đến các hình thức lỗi khác để đánh giá
tình chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, như: cố ý có chủ mưu nguy
hiểm hơn cố ý đột xuất; cố ý xác định nguy hiểm hơn cố ý không xác định. Do vậy, hình phạt
đối với trường hợp phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp phải nghiêm khắc hơn so với trường hợp
phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp.
Thiết nghĩ: con người, khi sinh ra không phải đã mang sẵn và ẩn chứa trong mình tố
chất phạm tội. Những hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bao giờ cũng phải xuất
phát từ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, được hình thành lên chủ yếu từ trong môi
trường sống của mỗi con người. Bở vậy, không có lý do gì mà chúng ta lại không cho họ
quay lại con đường lương thiện một khi họ muốn và đã đáp ứng đủ những căn cứ và điều kiện
mà luật hình sự quy định, đồng thời không có lý do gì mà chúng ta lại không tin tưởng vào
công tác giáo dục, cải tạo người bị kết án, đưa họ trở thành một công dân có ích cho xã hội.
Đây chính là quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, một quan điểm được thể hiện rõ
nét trong các nguyên tắc của luật hình sự. Thành công của việc quán triệt sâu sắc và đúng đắn
quan điểm của Đảng và Nhà nước đề ra đó là nền công lý và pháp lý nước ta đã phát triển
nhanh chóng theo những chuẩn đích nhất định, thúc đẩy xã hội Việt Nam tiến từng bước
vững chắc trên con đường cách mạng. Do vậy, chúng ta nên và cần phải có trách nhiệm
không chỉ trong việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự mà còn trong việc
hoàn thiện những quy định đó sao cho chúng phù hợp với thực tế khách quan và được nhân
dân đồng thuận, và chế định lỗi nói chung đặc biệt với chế định lỗi cố ý nói riêng cũng không
nằm ngoài yêu cầu đó.
References
1. Ph. Ănghen (1976), Lutvich-foi-ơ- bắc và sự cáo buộc chung của triết học cổ điển Đức,
Nhà xuất bản Sự thật, H, tr.78.
2. Ph. Ănghen (1997), Chống Đuyrinh, Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội, tr.195.
3. Bộ luật hình sự của Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1985.
4. Bộ luật hình sự của Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1999.
5. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999
được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, Quyển I, Phần chung, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự (Tập I), Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
8. Lê Cảm (2001), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự (Tập III),
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
9. Lê Cảm (2002), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự (Tập IV),
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Lê Cảm (1998), “Hoàn thiện chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 12.
11. Lê Cảm (1999), “Hoàn thiện chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1.
12. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền (Một số vấn đề cơ bản của Phần chung), Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Hà Nội.
13. Lê Cảm (2004), “Lý luận về cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự”, Tạp chí
Luật học, số 2.
14. Lê Cảm (2005), “Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (Trên cơ sở
Bộ luật hình sự năm 1999)”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7(4).
15. Lê Cảm (2005), “Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (Trên cơ sở
Bộ luật hình sự năm 1999)”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 8(4).
16. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa
học luật hình sự (Phần chung), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
17. Lê Cảm (2004), “Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện pháp
luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 11(6).
18. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo phần chung Luật Hình sự (tập I), Nhà
xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 17.
19. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật Hình sự (tập I), Nhà
xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, tr 7 - 8.
20. Lê Duẩn (1963), Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Sự thật, tr.339.
21. Lê Đăng Doanh (1999), Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
22. Trần Văn Độ (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự trong
giai đoạn hiện nay - Lỗi trong luật hình sự.
23. Trần Văn Độ (1998), “Một số ý kiến về cố ý phạm tội”, Tạp chí Toà án nhân dân, số
9+10.
24. Phạm Minh Hạc (1983), Hành vi và hành động, Nhà xuất bản Khoa học giáo dục, H.,
tr.270.
25. Nguyễn Văn Hương (2002), “Lỗi cố ý gián tiếp và tội phạm có cấu thành hình thức”,
Tạp chí Luật học, số 4.
26. Nguyễn Ngọc Hoà (1996), “Đánh giá mức độ lỗi ở các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ,
tính mạng”, Tạp chí Luật học, số 6.
27. Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên) (1997), Luật hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội..
29. Nguyễn Ngọc Hoà (2004), Cấu thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn. Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội.
30. Phạm Mạnh Hùng (1995), “Thế nào là lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp”, Tạp chí
Toà án nhân dân, số 7.
31. Cao Thị Oanh (2002), “Vấn đề mặt chủ quan của đồng phạm”, Tạp chí Luật học, số 2.
32. Đinh Văn Quế (1998), Bình luận án và một số vấn đề thực tiễn áp dụng trong Bộ luật
hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
33. Đinh Văn Quế (1998), Bình luận án, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
34. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm (Tập I),
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, Nhà
xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm
(Tập II) Các tội xâm phạm sở hữu, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần chung, Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Quanh Quýnh (2002), Hình luật tổng quát, Hà Nội, tr.190.
38. Tập hệ thống hoá luật lệ về hình sự, Tập 1, tr. 329.
39. Vũ Ngọc Tiếu (1994), "Lỗi cố ý gián tiếp trong mối quan hệ nhân quả", Tạp chí Toà án
nhân dân, số 4.
40. Trần Quang Tiệp (1999), “Một số vấn đề lỗi trong Luật Hình sự”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 11, tr. 40.
41. Trần Quang Tiệp (1999), “Một số vấn đề lỗi trong luật hình sự”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 11.
42. Kiều Đình Thụ (1996), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh.
43. Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đồng Nai.
44. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa Luật (1994), Giáo trình Luật
Hình sự Việt Nam (phần chung), Hà Nội, tr. 126.
45. Trường ĐH Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản
CAND, Hà Nội, tr. 314.
46. Trích theo Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật Hình sự
(tập I), Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội. Kudriavtxev VN (1972), Lý
luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Sách pháp lý, Matxcơva, tr. 8.
47. Trích theo Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật Hình sự
(tập I), Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội. Kudriavtxev B.A (1984), Những
cơ sở khoa học của định tội danh, Nhà xuất bản Trường Đại học Tổng hợp Quốc
gia Matxcơva, tr. 7.
48. Trích theo Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật Hình sự
(tập I), Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội. Sliapôtrnhikôv A.C (1961), Bàn
về chân lý khách quan trong Luật Hình sự và tố tụng hình sự Xô Viết, Những bút
ký khoa học Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý toàn Liên bang, Quyển 12, tr. 60.
49. Đào Trí Úc (1999), “Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá
nhân và về lỗi trong việc xử lý trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 9.
50. Đào Trí Úc (2001), “Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo
luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6.
51. Trịnh Tiến Việt và Phan Thị Thuỷ (2003), “Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội
phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Khoa học (Chuyên san
Kinh tế - Luật) của Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2.
52. Trịnh Tiến Việt (2003), “Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Khoa học (Chuyên san Kinh tế - Luật) của Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 3.
53. Trương Quang Vinh (2003), “Bàn về khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999”, Tạp chí Luật học, số 3.
54. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1991), Hệ thống hoá các văn bản cần thiết cho công
tác kiểm sát - Tập I Hình sự, tr. 205.

You might also like