Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

*************

BÀI THẢO LUẬN


ĐỀ TÀI : QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN TRONG
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG LÝ
LUẬN NÀY Ở VIỆT NAM.

Bộ môn : Triết học Mác-Lênin


Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Liên
Nhóm : 2
Mã lớp học phần : 2184MLNP0221

1
BẢNG THÀNH VIÊN :
STT Họ tên Công việc Ghi chú

9 Trần Thị Thùy Dung

10 Ngô Hương Giang

11 Nguyễn Thị Thanh Hà

12 Vũ Thúy Hà

13 Trần Thị Hạnh

14 Hoàng Thị Hiền

15 An Hoàng Hiệp

16 Hoàng Thị Hòa

2
MỤC LỤC:
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………4
2. Nội dung báo cáo …………………………………………………………..4
PHẦN NỘI DUNG ……………………………………………….6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT ………………………………………...6
1.Khái niệm phát triển ………………………………………………………..6
1.1Khái niệm về quan niệm……… ………………………………………..6
1.2 Khái niệm phát triển ………………………………………………….6
2.Tính chất của sự phát triển .............................................................................8
2.1Tính khách quan .....................................................................................8
2.2. Tính phổ biến ………………………………………………………...9
2.3. Tính kế thừa ………………………………………………………….10
2.4.Tính đa dang, phong phú …………………………………………….. 11
3. Ý nghĩa phương pháp luận …………………………………………………12
CHƯƠNG II:VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN TRONG
TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM ………………………………………………...13
1.Vận dụng, bổ sung, phát triển sáng takp là bản chất vốn có, yêu cầu tồn tại
của chủ nghĩa
…………………………………………………………………………………13
2.Vận dụng quan niệm về sự phát triển trong quá trình xây dựng và thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam………………………………14
3. Vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac là đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của thời đại cũng như sự phát triển của khoa học công nghệ
………………………………………………………………………………... 16
4.Vận dụng chủ nghĩa Mac-Lenin trong phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam …………………………………………………………………... 18
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...21
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………....21

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1Tính cấp thiết của đề tài

Loài người trải qua rất nhiều giai đoạn lịch sử để có thể có được ngày hôm
nay.Từ thời tiền sử đến thời cổ đại đến thời kỳ trung đại, thời kỳ cận đại và hiện
nay là thời kỳ hiện đại . Những thời kì đó đánh dấu cho sự phát triển của xã hội
loài người. Xã hội loài người hôm nay ưu tú hơn, hiện đại hơn, hoàn thiện hơn
xã hội loài người các thời kì khác rất nhiều. Bởi vì nó đã phát triển. Từ trước
đến nay, phát triển là quá trình không thể thiếu đối với vạn vật trong cuộc sống.
Đây là một quá trình có nguồn gốc, khuynh hướng và nhiều tính chất riêng. Như
vậy, khi hiểu được các quá trình của sự phát triển, con người sẽ áp dụng vào
thực tế, vào đời sống với nhiều ứng dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ vi mô
đến vĩ mô.

4
Thực chất phát triển chính là quá trình giải quyết mâu thuẫn bên trong chính
xác sự vật hiện tượng làm cho sự vật hiện tượng đó ngày càng tốt hơn. Phát
triển là đặc trưng phổ biến, phát triển là một tất yếu khách quan. Hơn nữa mọi
nhận thức và thực tiễn trong cuộc sống đều phát triển. Ví dụ trên cũng cho ta
thấy, muốn tiến bộ hơn, muốn ưu việt hơn muốn tồn tại lâu dài, đa phần vạn vật
cần phải phát triển. Nhất là vấn đề của một quốc gia, muốn quốc gia đó tồn tại,
thịnh vượng, văn minh hơn thì cần quốc gia đó cần phải phát triển về mọi mặt.
Tìm hiểu sâu hơn về sự phát triển, chúng ta đề cập tới quan niệm về sự
phát triển trong triết học bởi tính đúng đắn của nó. Và từ đó thấy được quan
niệm về sự phát triển trong triết học Mac-Lenin có tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa ở Việt Nam. Nhận thấy tầm quan
trọng của quan niệm này với cuộc cách mạng đổi mới của Đất nước, nhóm 2
(nhóm chúng em) xin trình bày về đề tài: “Quan niệm về sự phát triển trong
triết học Mac-Lenin và sự vận dụng quan điểm phát triển trong triết học ở
Việt Nam”.
2.Nội dung báo cáo
Bản báo cáo của chúng em gồm 2 chương chính:
 Chương 1:Cơ sở lý thuyết
 Chương 2:Vận dụng quan điểm phát triển trong triết học ở Việt Nam
 Để hoàn thành bài thảo luận này, nhóm 2 chúng em xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến giảng viên cao cấp bộ môn Triết học - cô Nguyễn
Thị Liên. Nhờ những bài giảng sáng tỏ của cô đã giúp chúng em mở
mang những kiến thức về những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy để hoàn thành tốt đề tài
Triết học.
 Do kiến thức có hạn nên đề tài của chúng em không tránh khỏi
những thiếu sót. Chúng em mong cô đóng góp ý kiến để bài thảo
luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
 Chúng em xin chân thành cảm ơn!

5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.Khái niệm phát triển


1.1Khái niệm về quan niệm:
- Quan niệm là cách nhận thức, đánh giá về một vấn đề, một sự kiện, sự
vật, hiện tượng
Ví dụ: Theo quan niệm của Phật giáo con người có hai phần là tinh thần và thân
xác.
- Theo quan niệm của Phật giáo, một con người toàn thiện cần có hai đức
tính phát triển đều nhau: Bi và Trí (tuệ).
- Quan niệm về sự phát triển trong triết học là sự nhận thức và đánh giá
chung của triết học về sự phát triển.

1.2Khái niệm phát triển :


- Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
- Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là
phát triển, mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển.
Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không
thể có phát triển.
Ví dụ 1 : quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao
Ví dụ 2:quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức thức tổ chức xã
hội loài người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời
nguyên thuỷ lên các hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ
tộc, dân tộc...

6
 Cần phân biệt hai khái niệm gắn với khái niệm phát triển là tiến bộ và
tiến hóa :
Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ và thường
là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Thuyết tiến
hóa tập trung giải thích khả năng sống sót và thích ứng của cơ thể xã hội trong
cuộc đấu tranh sinh tồn.
Khái niệm tiến bộ để cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ
là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu. Trong tiến bộ, khái niệm
phát triển đã được lượng hóa thành tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ trưởng
thành của các dân tộc, các lĩnh vực của đời sống con người...
 Quan điểm về khái niệm phát triển :
Quan điểm siêu hình : nói chung phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa
mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Phát triển ở đây là chỉ sự tăng lên hoặc giảm
đi về mặt lượng, chỉ sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về
chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và nguồn gốc của sự “phát
triển” đó nằm ngoài chúng..
Quan niệm biện chứng đối lập với quan niện siêu hình là :xem xét sự
phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra dần dần,
nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, không phải lúc nào sự
phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí
có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả
của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình
diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kì sự vật lặp lại dường như sự vật
ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm biện chứng cũng khẳng
định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.Trên cơ sở khái quát
sự phát triển của sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan điểm duy vật
biện chứng khẳng định phát triển là một phạm trù triết học dùng đề chỉ quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn
bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động –
xu hướng vận động đi lên của sự vật.
Phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm siêu hình và quan điểm
biện chứng về sự phát triển, V.I. Lê nin viết "Hải quan niệm cơ bản về sự phát
triển (sự tiến hóa) : sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và
sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đối của cái

7
thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau
giữa các một đối lập ấy)... Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô
khan. Quan niệm thứ hai là sinh động, cho ta chìa khóa của "sự tự vận động"
của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những
“bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa
thành mặt đối lập", của sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh ra cái mới”.

 Nguồn gốc của sự phát triển


Theo quan niệm của chủ nghĩa Mac - Lenin thì mâu thuẫn là nguồn
gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Mỗi mâu thuẫn bao hàm sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, làm cho sự vật hiện tượng không
thể giữ nguyên trạng thái cũ. Kết quả là mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới
hình thành, sự vật hiện tượng cũ được thay thế bằng sự vật hiện tượng mới. Do
đó, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn) là nguồn gốc vận
động phát triển của sự vật và hiện tượng.

 Đặc điểm chung của sự phát triển :


Sự phát triển có tính tiến lên theo đường xoáy ốc,có kế thừa,dường như
lặp lại sự vât,hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn
Quá trình phát triển diễn ra vừa dần dần, vừa có những bước nhảy vọt...
làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt
lùi tương đối trong sự tiến lên.
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển chỉ là trường hợp đặc biệt
của vận động, chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên
của sự vật, hiện tượng mới trong quá trình thay thế hiện tượng, sự vật cũ.
2.Tính chất của sự phát triển :
2.1Tính khách quan :
- Thế giới mang tính khách quan “nghĩa là một cái gì đó đối lập với khái
niệm độc lập, nhưng cũng có ý nghĩa là cái gì đó tồn tại tự nó và vì nó”. Cái
mang tính khách quan là toàn bộ các quan hệ độc lập đối với con người và “trên
thực tế, đó là cái được mọi người thừa nhận, đó là cái làm đối tượng cho kinh
nghiệm phổ biến, cho sự đồng ý phổ biến”. 
- Phát triển là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng chứ không phải
do sự áp đặt từ bên ngoài, dù muốn hay không thì sự vật, hiện tượng luôn luôn
nằm trong quá trình phát triển. Trong sự vật luôn ẩn dấu những thuộc tính,
những đặc điểm, những quá trình, những quy định biến đổi trái ngược nhau tạo
8
thành những mâu thuẫn biện chứng. Các học giả chống lại quan điểm của Hê-
ghen nói rằng: “mâu thuẫn = vô nghĩa”, nhưng không vô nghĩa chút nào bởi
được Ph.Ăng-ghen cho rằng: mọi sự vật đều hàm chứa mâu thuẫn bên trong và
là nguyên nhân của vận động. Ph.Ăng-ghen nói: “bản thân sự vật và các quá
trình, có một mâu thuẫn tồn tại khách quan, hơn nữa mâu thuẫn đó lại là một lực
lượng có thực”. Và dù các nhà siêu hình có công nhận hay không thì mâu thuẫn
vẫn tồn tại bên trong các sự vật với tính cách là nguồn gốc và động lực phát
triển của nó.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn
nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của bản thân sự vật, hiện tượng, nhờ đó sự
vật luôn phát triển. Vì thế, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. 
- Mọi quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng đều là những quá trình diễn
ra theo tính tất yếu quy luật của nó: những quá trình biến đổi dần về lượng tất
yếu dẫn đến những quá trình biến đổi về chất, quá trình đấu tranh giữa các mặt
đối lập bên trong bản thân sự vật, hiện tượng. 
Ví dụ 1: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một
cách khách quan theo quy luật tiến hóa của giới tự nhiên. Con người muốn sáng
tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó.
Ví dụ 2:Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù
không có con người nhưng nó vẫn phát triển.
2.2.Tính phổ biến :
- Hê-ghen nói rằng: “Cả thời đại lẫn triết học của nó đều mang trong
mình cùng một sự vận động”, chúng ta hiểu sự vận động, phát triển là khuynh
hướng chung của sự vật, hiện tượng và chúng mang tính phổ biến. 
- Phát triển mang tính phổ biến. Phát triển không phải là đặc tính riêng có
của một lĩnh vực nào đó, mà trái lại nó là khuynh hướng vận động được thể hiện
ở tất cả các lĩnh vực trong tự nhiên, xã hội và tư duy, diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
- Tính phổ biến của sự phát triển còn thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện
tượng đều có thể bao hàm trong nó khả năng của sự phát triển, phát sinh từ
chính sự vận động của nó và chịu sự chi phối của nhiều khuynh hướng phát
triển khác.
- Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong
quá trình vận động và phát triển, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển.
Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm
và phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển. 

9
 Trong tự nhiên: Biểu hiện của quá trình phát triển trong tự nhiên là những
biến đổi của cơ thể sinh vật để ngày càng tăng cường sự thay đổi thích
nghi trước những thay đổi của môi trường, nâng cao khả năng tự sinh sản
để thích ứng và hoàn thiện hơn quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường.
Ví dụ: Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ
đến hữu cơ; từ vật chất chưa có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể
sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống phức tạp hơn.

 Trong xã hội:Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên,cải tạo xã hội,tiến
tới mức đọ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người. 
Ví dụ: quá trình phát triển trong lĩnh vực công nghiệp 
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1.0) về sản xuất cơ khí
với máy móc dựa vào động cơ hơi nước. 
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (2.0) về sản xuất hàng
loạt với máy móc dựa vào năng lượng điện. 
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (3.0) về sản xuất tự động
với máy tính, điện tử và cách mạng số hóa. 
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) phát triển trên 3 trụ
cột chính: kỹ thuật số, công nghệ sinh học, vật lý. 

 Trong tư duy:Khả năng nhận thức ngày càng đầy đủ , đúng đắn hơn với
tự nhiên và xã hội
Ví dụ:Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây

2.3Tính kế thừa
- Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ
định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự
vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư
vô, vì vậy, trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các
yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ măt tiêu cực,
lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục
phát triển.
- Kế thừa những mảng, những nhân tố còn hợp lý, có ý nghĩa tích cực
đối với sự phát triển của cái mới. Không có bất cứ cái mới nào ra đời, tồn
taifvaf phát triển mà không dựa vào một phần nào đó những yếu tố tích cực của
cái cũ. Sự vật, hiện tượng ra đời không phải là ngẫu nhiên mà nó hình thành và

10
phát triển trên cơ sở chọn lọc những yếu tố hợp lý và có thể cải tạo được của cái
cũ. 
- Sự phủ định biện chứng dẫn đến ra đời cái mới thay thế cho cái cũ, là
quá trình chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình thái thấp sang hình thái cao
hơn. Quá trình trên diễn ra một cách tự nhiên mang tính quy luật vốn có của nó.
Sự phủ định với cách thức giữ lại những gì tốt đẹp nhất, tích cực nhất ở giai
đoạn cũ để xây dựng cho một giai đoạn mới có hình thức cao hơn hình thức cũ .
Sự phủ định là tự phủ định bản thân, làm kết thúc một trạng thái, một kết cấu
vật chất bởi những lực lượng bên trong của sự vật. 
- Vì vậy, phát triển mang tính kế thừa là sự phát triển mang tính tiến lên,
kế thừa, dường như lặp lại nhưng trên cơ sở cao hơn. 
Ví dụ 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ăngghen xây
dựng, sau đó được V.I. Lênin với sự kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa duy vật chất
phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và thành tựu khoa học đương thời.
Ví dụ 2: Tiến trình phát triển của các kiểu Nhà nước trong lịch sử loài
người:

Công xã
Chiếm Phong Tư bản Xã hội
nguyên
thuỷ hữu nô lệ kiến chủ nghĩa chủ nghĩa
2.4.Tính đa dang, phong phú :
- Quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng không hoàn toàn giống
nhau, phụ thuộc vào không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau…
- Phát triển diễn ra vô cùng phong phú, đa dạng, trong các sự vật, hiện
tượng hay lĩnh vực càng cao, phát triển diễn ra càng phong phú, đa dạng hơn…
Ví dụ 1: lợn được nuôi trong nhà và lợn rừng sống trong điều kiện
khác nhau thì phát triển khác nhau :
 Lợn rừng có màu sẫm, trong khi lợn nhà có nhiều màu khác nhau tùy theo
giống.

11
 Lợn nhà lớn hơn so với lợn rừng.
 Lợn rừng có bộ lông dày hơn so với lợn nhà.
Ví dụ 2: Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơcả
về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa
hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong
thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước của các
quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc
gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc
gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự
hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo và nhân dân
của các nước chậm phát triển và kém phát triển. 
--Như vậy, những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng
có thể có những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác,
nhưng xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của các quá
trình phát triển. 

3.Ý nghĩa phương pháp luận :


Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn
nắm được bản chất, nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng
thì phải tự giác tuân thủ nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Nguyên tắc này yêu cầu:
- Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện
xu hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà
còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
Ví dụ: : Chúng ta dự đoán chúng ta chắc chắn sẽ tốt nghiệp, sẽ lấy
bằng, sẽ ra trường, vậy sau khi ra trường chúng ta sẽ hạ cánh ở đâu. Chúng ta
vạch ra: cơ quan nhà nước, nước ngoài, doanh nghiệp,.... Vậy chúng ta cần
chuẩn bị gì: kĩ năng mềm cần những gì, trình độ ngoại ngữ phải như thế nào…
Chúng ta nên chuẩn bị mọi thứ để có được sự phát triển tốt nhất.
- Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều
giai đoạn , mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần
tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm
sự phát triển đó.
Ví dụ: Đất nước Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và đổi mới
với hàng loạt chính sách phát triển.Tuy nhiên không phải đề ra phát triển mà

12
thực hiện được ngay mà phải trải qua nhiều giai đoạn ,mỗi giai đoạn chỉ ra
những điểm mạnh và điểm yếu để phát huy và khắc phục.
- Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo
điều kiện cho nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Ví dụ:Trong thời đại đất nước đang đổi mới như hiện nay,xã hội ngày
càng tiên tiến thì con người ngày càng trở nên thích nghi và phát triển con người
theo hướng tích cực ,mạnh dạn đổi mớI dám nghĩ dám làm ,dám chịu trách
nhiệm phát huy hết năng lực bản thân để phát triển đất nươc toàn diện nhưng
bên cạnh đó vẫn còn tồn tại tư tưởng bảo thủ ,lạc hậu ,mê tín dị đoan cần phải
lên án và xóa bỏ
- Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải
biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng
trong điều kiện mới.
Ví dụ:Hồ Chí Minh khi kế thừa chủ nghĩa Mac-Lenin,Bác không thừa
kế hoàn toàn,dập khuôn,sao chép mà từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh
dạn, khoa học trong kế thừa và phát triển học thuyết Mác – Lênin, đồng thời
bám sát thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm
sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin trong vấn đề
cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước phương Đông, thuộc địa nửa phong kiến,
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.Và sau này khi Đảng và Nhà Nước ta vận dụng tư
tưởng của Bác cũng đã thay đổi 1 sô điểm sao cho phù h ợp nhất với hoàn cảnh
đất nước .

CHƯƠNG II:VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN


TRONG TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM
1. VẬN DỤNG, BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO LÀ BẢN CHẤT
CÁCH M ẠNG VỐN CÓ, YÊU CẦU TỒN TẠI CỦA CHỦ NGHĨA
MAC.

- Chủ nghĩa Mác về bản chất là một học thuyết phát triển, là hệ thống
mở với bản chất vốn có là luôn được vận dụng, bổ sung, phát triển cho phù hợp
thực tiễn. Ph.Ăngghen đã nói rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát
triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp
lại một cách máy móc”. V.I.Lênin sau này, đã nhắc lại lời khẳng định
Ph.Ăngghen “Học thuyết của chúng tôi - Ăngghen nói về mình và người bạn

13
nổi tiếng của mình - không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho
hành động” và cho rằng quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác
trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá
hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó - tức là phép biện chứng”. V.I.Lênin cũng nhấn
mạnh “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học
thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một
kim chỉ nam sinh động cho hành động, chính vì thế nó không thể không phản
ánh sự biến đổi mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt xã hội.

 Chính vì vậy, nó luôn phải được vận dụng, bổ sung, phát triển.

- V.I.Lenin đã vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mac trong điều kiện
khoa học về thế giới vi mô phát triển như vũ bão; sự chuyển biến của chủ nghĩa tư
bản sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng bản chất ăn bám, bóc lột của nó
không đổi; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga Xô viết đặt
ra nhiều vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử.

- Trong bối cảnh đó, V.I.Lenin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và đã bổ sung, phát triển nhiều luận điểm lý
luận của chủ nghĩa Mac về triết học; kinh tế chính trị và chủ nghĩa cộng sản khoa
học. Chính sách kinh tế mới (NEP) là một trong những minh chứng cho sự vận
dụng, bổ sung, phát triển hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mac vào điều kiện nước Nga
bởi V.I.Lênin. Trong "Cương lĩnh của chúng ta", V.I.Lênin đã khẳng định: "Chúng
ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả
xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa
học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu
họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những
người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận
của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp
dụng nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp
không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga"

 C.Mac, Ph.Ăngghen, V.I.Lenin luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết
vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản sao cho phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa, v.v... của mỗi
nước.Như vậy, yêu cầu vận dụng, bổ sung, phát triển là bản chất đặc trưng
vốn có, là yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mac.

14
2. VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhờ nắm vững phép biện chứng duy vật và quan niệm về sự phát triển
trong Triết học Mac-Lenin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường
lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên
Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á (năm 1945); sau đó qua 9
năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, bằng chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ lập lại hòa bình ở miền Bắc, Đảng ta đã tiến hành công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (năm 1954), đồng thời lãnh đạo đấu tranh chống sự
can thiệp của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
Trải qua 30 năm kiên trì kháng chiến, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử thống nhất đất nước, Đảng ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước (năm 1975). Trước ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa
và uy tín của Liên Xô lúc bấy giờ, chúng ta đã rập khuôn theo mô hình Xô viết
vào Việt Nam một cách máy móc, thiếu sự sáng tạo nên mặc dù cố gắng vận
dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn cách mạng. Đảng ta đã nhận thức
được đặc điểm to lớn của Việt Nam là xuất phát điểm quá thấp, đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, lại bị
ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh… nhưng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội chúng ta đã nôn nóng, đốt cháy giai đoạn như: đẩy quan hệ sản xuất lên
trước một bước, đẩy nhanh việc cải tạo giai cấp tư sản, đẩy mạnh hợp tác hóa
nông nghiệp, đưa hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao một cách ồ ạt…; quản lý kinh
tế bằng phương pháp tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa, xóa bỏ thị trường, phân
phối bao cấp một cách tràn lan; bộ máy nhà nước quan liêu, xa rời quần
chúng… đã đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng, lạm phát kéo dài, sản xuất đình trệ, đất nước bị bao vây, cấm vận về kinh
tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa bị
suy giảm nghiêm trọng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tiến hành
cải cách, đổi mới trong quản lý kinh tế - xã hội.
Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra
chủ trương “đổi mới” một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội:
“Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật

15
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo
đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”.
Quan điểm,chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay chính lấy
quan niệm về phát triển của Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng trong Đảng, đồng thời là cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn
xã hội. Xã hội hiện đại càng tiến hóa, càng phát triển thì một số kết luận cụ thể
nào đó của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có thể không còn hoàn toàn phù hợp trong
mọi lúc, mọi nơi, mọi trường hợp, song những giá trị cơ bản, căn cốt của học
thuyết này ngày càng được chứng minh rõ hơn, những dự báo của của các nhà
kinh điển ngày càng tiến gần đến chân lý hơn, sát thực hơn. Sự phát triển của
nhân loại nói chung và của dân tộc ta nói riêng trong thế kỷ XXI không thể
thiếu vắng tư tưởng của C. Mác.
Dưới góc độ duy vật biện chứng và quan niệm về sự phát triển có thể
nhận thấy đổi mới là một tất yếu lịch sử trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, là một chiến lược cách mạng, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa nước ta đi vào đúng quỹ đạo, theo đúng quy luật khách quan của lịch sử.
3.VẬN DỤNG, BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MAC
LÀ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TIỄN CỦA THỜI ĐẠI CŨNG NHƯ SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ.
- Từ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác,
chúng ta thấy, thực tiễn cuộc sống luôn vận động, biến đổi, phát triển, vì thế,
nhận thức của con người nói chung, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng
cũng luôn phải được vận dụng, bổ sung, phát triển cho phù hợp thực tiễn. Thời
đại ngày nay có nhiều biến động sâu sắc, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp;
xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn; các nước lớn điều chỉnh
chiến lược, vừa hợp tác thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau.
- Những biến đổi mau lẹ của thực tiễn đầu thế kỷ XXI này đang đặt ra
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, mà để giải quyết chúng một cách đúng đắn,
chúng ta đồng thời phải dựa vào phương pháp luận, quan điểm phát triển, lập
trường, thái độ của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải vừa tìm ở chính thực tiễn ngày
hôm nay. Điều đó nói lên rằng, chính thực tiễn ngày hôm nay đang đòi hỏi
chúng ta phải tiếp tục vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin.

16
- Cần có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa phương tiện, những nấc thang
và tiêu chuẩn của sự phát triển. Không thể phủ nhận vai trò của lực lượng sản
xuất. Bởi vì, như Các Mác đã nói, đại ý: “Nhờ có được những lực lượng sản
xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình… Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội có nhà tư bản đại công nghiệp.”
- Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái
gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào.
Lê-nin nói đến đại công nghiệp, tức là xét về mặt tình hình lực lượng sản xuất,
gắn rất chặt với toàn bộ sự phát triển xã hội. Nhưng đó là cơ sở khách quan,
khoa học đánh giá sự phát triển của từng giai đoạn lịch sử.
- Cũng như vậy, yếu tố con người, lực lượng sản xuất quan trọng nhất;
năng suất lao động đều liên quan đến sự phát triển xã hội, nhưng đó chưa phải là
tiêu chuẩn của sự phát triển. Phải chăng, khoa học công nghệ, tăng trưởng GDP,
sự giàu có, ngay cả pháp luật là tiêu chuẩn, mục đích của phát triển? Phải coi đó
chỉ là những nấc thang tiến đến mục đích của sự phát triển. Còn chất lượng dân
sinh, hạnh phúc mới là tiêu chuẩn, mục đích của sự phát triển.
- Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp và đang tiến hành
cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bùng nổ tại Anh vào khoảng
nửa cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc trưng của cuộc cách mạng
công nghiệp này là cơ khí máy móc (chạy bằng sức hơi nước và sức
nước) ra đời và cải tiến, thay thế sức lao động thủ công, qua đó tăng sản
lượng.
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra từ khoảng năm 1870. Đặc
trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc sử dụng năng
lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy
mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát
triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản
xuất và tiêu dùng hàng loạt.
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 bắt đầu từ khoảng thập niên 60 -70
của thế kỉ XX. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng
máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. Cuộc cách

17
mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các
nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản
xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết quả, đã kéo
theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những mối
tương quan giữa các khu vực I, II và III của nền sản xuất xã hội.
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay cuộc cách mạng khoa học
công nghệ 4.0 đang nảy nở từ cuộc cách mạng công nghệ lần 3, nó kết
hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lí, kĩ thuật số
và sinh học. Nắm được xu thế này, mỗi quốc gia đều có một chương trình
hành động cụ thể trong tiếp cận CMCN 4.0.
- Năm 2018, chỉ số phát triển chính phủ điện tử của Việt Nam xếp hạng thứ
88/193 quốc gia trên thế giới. Trong đó, chỉ số thành phần về dịch vụ công trực
tuyến tăng 15 bậc, lên thứ hạng 59/193 quốc gia so với năm 2016.
- Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 27-9-2019 về
"Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư" là sự khẳng định đúng đắn và kịp thời về nhận thức và lý
luận, để định hướng tư tưởng, triển khai hành động một cách chủ động.
- Theo ông Nguyễn Văn Bình - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế
Trung ương, cơ sở hạ tầng viễn thông tại Việt Nam hiện được xây dựng khá
đồng bộ. Vùng phủ sóng di động đạt 99,7% dân số trên cả nước. Trong đó, vùng
phủ sóng 3G, 4G đạt trên 98% với mức cước phí thấp. Mạng 5G đã được cấp
phép thử nghiệm và dự kiến triển khai thương mại từ năm 2020.
- Nước ta đã có một số trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ
KHCN cao, như: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, hai đại học
quốc gia, các đại học vùng... Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
với thế mạnh là lực lượng cán bộ trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực chủ chốt
của CMCN4.0 (công nghệ số, vật lý, khoa học vật liệu và công nghệ sinh học)
và đa ngành khác, có thể phối hợp giải quyết những vấn đề lớn, đòi hỏi tính liên
ngành KHCN cao, phức tạp, là nơi có điều kiện triển khai những nghiên cứu
khoa học cơ bản và phát triển công nghệ nguồn.
- Điểm lại những kết quả tích cực mà Việt Nam đã đạt được trong vòng
một năm qua. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết, chỉ số đổi mới sáng tạo
quốc gia của Việt Nam tăng 3 bậc, từ 45 lên 42. Chỉ số cung cấp dịch vụ công
trực tuyến năm vừa qua tăng 15 bậc, lên thứ 59. Thanh toán điện tử tại Việt
Nam tăng 19,6% số lượng giao dịch, 26,6% giá trị. Đặc biệt, thanh toán qua di

18
động tăng 104% số giao dịch và 155% giá trị. Chỉ số an toàn an ninh thông tin
của Việt Nam tăng 50 bậc từ 100 lên 50.
-Đây là kết quả của sự tổng kết thực tiễn, tiếp thu, vận dụng, bổ sung, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như những thành tựu của tư duy nhân
loại về văn hóa; công nghệ,…. Tất cả những điều này cho thấy Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thành công trong vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin  vào điều kiện thực tiễn Việt Nam.

4. VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MAC-LENIN TRONG PHÁT TRIỂN NỀN


KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.

- Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được nhiều quốc gia lựa chọn phát
triển, trong đó có Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị
trường của Việt Nam từng bước phát triển, tư duy và nhận thức về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được đổi mới.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ
sản xuất vật chất, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất
vật chất.C. Mác khẳng định, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản
chủ nghĩa ở giai đoạn cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng
hóa (kinh tế thị trường) cũng không còn tồn tại. Lênin cũng cho rằng: Chủ nghĩa
xã hô ̣i (CNXH) là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu “không có
kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới
nhất của khoa học hiện đại... thì không thể nói đến CNXH được”. Tuy nhiên,
trước khi không còn cơ sở tồn tại, bản thân nhà nước và kinh tế thị trường lại
cần thiết cho quá trình xây dựng thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản
chủ nghĩa.

- Logic này được Lênin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước
Nga. Khi Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, ngay bản thân Lênin, trong
giai đoạn đầu cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó
ông nhận ra sai lầm, nóng vội nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân và chỉ
làm trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Lênin đã chỉ ra
con đường khắc phục thông qua triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới, tức
chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang khuyến khích phát triển kinh tế hàng
hóa, chấp nhận mức độ nhất định cơ chế thị trường. Để phát triển lực lượng sản
xuất trong điều kiện mới hình thành còn nhiều khó khăn, cần phải duy trì nền
kinh tế nhiều thành phần…

19
- Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh
nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt
Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCH. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập,
sáng tạo của Đảng ta trong quá trình đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ
dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt
là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế mới.

- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;
thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn
lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với
cơ chế thị trường.
- Nền kinh tế ở nước ta có 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Các hình thức sở hữu hỗn
hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát
triển
- Như vâ ̣y, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà
vẫn là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật
giá trị; thực hiện tự do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong
quản lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh
hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm
cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.

- Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở
rộng và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới
nhằm tranh thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt
20
là các quốc gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận
dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài
nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng
khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của
tiến trình hội nhập.

KẾT LUẬN
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công cuộc đổi mới vì CNXH của
Đảng và của nhân dân ta đang đạt được những thành tựu to lớn: đất nước phát
triển và hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Vị thế của đất
nước không ngừng được khẳng định và nâng cao. Những thành công đó chứng
tỏ sự vận động của một đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng Cộng sản Việt Nam
vẫn vững vàng kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin điển hình là quan niệm về phát
triển, tư tưởng Hồ Chí Minh, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập trong hoàn cảnh điều kiện nước ta, không ngừng mở rộng dân chủ XHCN
trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, kiện toàn hệ thống chính trị.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận
thức sự vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ trì trệ định kiến. và bệnh
giáo điều. Trên cơ sở hiểu rõ quy luật phát triển của sự vật một cách biện chứng,
ta có thể khắc phục được bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều thông qua việc
từ bỏ lối nghiên cứu áp dụng lý luận một cách kinh viện, thuần túy, chống lại tư
duy bắt chước, sao chép rập khuôn; từ bỏ những định kiến, đấu tranh với sức ỳ
trong nhận thức và hành động, tăng cường tổng kết thực tiễn từ quá trình vận
động của các sự vật, hiện tượng để bổ sung phát triển lý luận. Trong quá trình
đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm
bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa bỏ

21
mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”

Tài liệu tham khảo


1.Dung, N. T. (2020). Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. tapchitaichinh.vn.
2. Sùng, L. V. (2014). Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới và hiện nay. vksndtc.gov.vn.
3.Vận dụng, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay.
(2019, 5 23). Retrieved from tulieuvankien.dangcongsan.vn:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-
minh/c-mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/van-dung-bo-sung-va-phat-
trien-chu-nghia-mac-trong-thoi-dai-ngay-nay-347

22

You might also like