Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 50

Thực trạng & Giải pháp phân tích

Cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam


hiện nay

1
LỜI NÓI ĐẦU

Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô
quan trọng phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn
lại của thế giới. Nó có quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác
như bản cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính
vì vậy, cán cân thanh toán đã trở thành công cụ quan trọng để đề ra các chính
sách phát triển kinh tế và những diễn biến trong cán cân thanh toán của một
nước là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách.
Tuy nhiên, để lập được một bản cán cân thanh toán quốc tế đầy đủ
chính xác và kịp thời là một việc rất khó khăn do phạm vi thu thập số liệu cán
cân thanh toán quốc tế quá rộng. Việc phân tích các tình trạng và đưa ra các
giải pháp điều chỉnh cán cân thanh toán trong từng thời kì phát triển kinh tế
của một quốc gia cũng là việc khó do các khu vực trong nền kinh tế có quan
hệ tác động lẫn nhau. Có thể nói rằng việc thành lập, phân tích điều chỉnh cán
cân thanh toán quốc tế đối với Việt Nam là rất mới mẻ và thiếu kinh nghiệm,
để cán cân thanh toán quốc tế trở thành một công cụ phân tích, quản lý tốt các
hoạt động kinh tế đối ngoại thì vấn đề cấp thiết là phải có sự nghiên cứu cả về
lý luận lẫn thực tiễn trong việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân
thanh toán quốc tế.
Mong muốn đưa ra những ý kiến đóng góp về cán cân thanh toán quốc
tế, nhóm chúng tôi đã thực hiện đề tài “ Thực trạng và giải pháp phân tích
cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam hiện nay”. Nguyện vọng đóng góp
thì nhiều, song lực thì có hạn và thiếu kinh nghiệm thực tế nên mặc dù đã có
nhiều cố gắng nhưng bài thảo luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu

2
sót. Do vậy, nhóm chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy và các
bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN VỂ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ.
1. Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế
2. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế
3. Các cán cân bộ phận
II. THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Cán cân vãng lai
1.1 Cán cân thương mại
1.2 Cán cân dịch vụ
1.3 Cán cân thu nhập
1.4 Cán cân chuyển giao vãnh lai một chiều
1.5 Mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và thâm hụt cán cân vãng lai
2. Cán cân vốn
2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài
. GIẢI PHÁP
1. Các biện pháp tác động trực tiếp lên cán cân vãng lai
1.1 Chính sách nhập khẩu
1.2 Chính sách khuyến khích xuất khẩu
1.3 Biện pháp thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam.
2. Các biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài
2.1 Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
3. Biện pháp tăng tiết kiệm

3
4. Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu
4.1. Sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
4.2 Sáng kiến Chiềng Mai
5. Biện pháp điều chỉnh tỷ giá
Danh mục bảng
Bảng 1.1 : Mô phỏng cán cân thanh toán quốc tế.
Bảng 2.1 : Cán cân vãng lai của Việt Nam trong giai đoạn từ 2000-2007
Bảng 2.2 : Cán cân vãng lai của Việt Nam từ năm 2008-2010
Bảng 2.3 : Cán cân vãng lai 6 tháng đầu năm 2010
Bảng 2.4 : Cán cân thương mại của Việt Nam từ năm 2000-2007
Bảng 2.5 : Cán cân thương mại của Việt Nam từ năm 2008 – 2010
Bảng 2.6 : Cán cân thương mại của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010
Bảng 2.7 : Cán cân dịch vụ của Việt Nam từ năm 2000-2010
Bảng 2.8 : Cán cân thu nhập của Việt Nam từ năm 2000-2010
Bảng 2.9 : Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều của Việt Nam từ năm
2000-2010
Bảng 2.10 : Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều 6 tháng đầu năm 2010
Bảng 2.11: Cán cân vốn của Việt Nam từ năm 2000 – 2010
Bảng 2.12: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009
Bảng 2.13: Đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009

4
. TỔNG QUAN VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế
1.1 Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payments) là một bản báo cáo
thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi chép lại tất cả những giao dịch kinh tế
giữa người cư trú và người không cư trú trong một thời kỳ nhất định thường
là một năm.
Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những báo cáo thống kê tổng
hợp quan trọng nhất đối với mỗi quốc gia. Các chỉ tiêu của BOP cho biết: có
bao nhiêu hàng hóa, dịch vụ mà một quốc gia đó xuất khẩu, nhập khẩu; quốc
gia này hiện đang là con nợ hay chủ nợ đối với phần còn lại của thế giới; dự
trữ ngoại hối của Ngân hàng Trung ương tăng lên hay giảm xuống trong kỳ
báo cáo là như thế nào.
1.2. Khái niệm người cư trú và người không cư trú:
Để trở thành người cư trú của một quốc gia cần hội đủ đồng thời hai tiêu
chí:
 Thời hạn cư trú từ 12 tháng trở lên.
 Có nguồn thu nhập từ quốc gia nơi cư trú.
Đối với Việt Nam, khái niệm người cư trú và người không cư trú được
quy định tại khoản 2 và 3 Điều 3 trong Nghị định 164/1999/NĐ-CP, ngày 16
tháng 11/1999 của Chính phủ về cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
2. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế:
Theo thông lệ, BOP bao gồm 2 bộ phận chính: cán cân vãng lai và cán
cân vốn. Những hạng mục thuộc tài khoản vãng lai phản ánh luồng thu nhập,

5
trong khi những hạng mục thuộc tài khoản vốn phản ánh sự thay đổi trong tài
sản có và tài sản nợ giữa người cư trú và người không cư trú.
Các khoản thu như xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ được ghi có, làm
phát sinh cung ngoại tệ; các khoản chi như nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ được
ghi nợ, làm phát sinh cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Về mặt nguyên
tắc, BOP của mỗi quốc gia có thể được ghi chép, hạch toán bằng bất cứ đồng
tiền nào, mặc dù vậy nhưng việc ghi nợ và ghi có luôn tuân thủ:
 Các bút toán ghi có (+) phản ánh cung ngoại tệ.
 Các bút toán ghi nợ (-) phản ánh cầu ngoại tệ.

Kí Nội dung Doanh số Doanh số Cán cân


hiệu thu (+) chi (-) (ròng)
CA Cán cân vãng lai -70
TB Cán cân thương mại -50
- Xuất khẩu hàng hóa (FOB) +150
- Nhập khẩu hàng hóa (FOB) -200
SE Cán cân dịch vụ -40
- Thu từ xuất khẩu dịch vụ +120
IC - Chi cho nhập khẩu dịch vụ -160
Tr Cán cân thu nhập +10
- Thu +20
- Chi -10
Chuyển giao vãng lai 1 chiều +30 +10
- Thu
- Chi -20
K Cán cân vốn +50
KL Vốn dài hạn +90
- Chảy vào +140
- Chảy ra -50
KS Vốn ngắn hạn -35
- Chảy vào +20
- Chảy ra -55
KTr Chuyển giao vốn 1 chiều +5 +5
OM Lỗi và sai sót -10 -10
OB Cán cân tổng thể -20
OFB Cán cân bù đắp chính thức +20

6
R Thay đổi dự trữ +15 +15
L Vay IMF và các NHTW khác +5 +5
# Các nguồn tài trợ khác +0 +0
Tổng doanh số +500 -500 0
Bảng 1.1 : Mô phỏng cán cân thanh toán quốc tế
Về cơ bản, BOP bao gồm 4 cán cân bộ phận chính như sau:
- Cán cân vãng lai.
- Cán cân dịch vụ.
- Cán cân tổng thể.
- Cán cân bù đắp chính thức.
- Ngoài ra, BOP còn bao gồm một khoản mục là “ lỗi và sai sót”.
3. Các cán cân bộ phận
3.1 Cán cân vãng lai-CA.
Cán cân vãng lai là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia
ghi chép lại những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú và
người không cư trú. Bao gồm 4 cán cân bộ phận là:
- Cán cân thương mại.
- Cán cân dịch vụ.
- Cán cân thu nhập.
- Cán cân chuyển giao vãng lai 1 chiều..

3.1.1 Cán cân thương mại -TB.


Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân hữu hình vì nó phản ánh
chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và những khoản chi cho nhập
khẩu hàng hóa mà các hàng hóa này lại có thể quan sát được bằng mắt thường
khi di chuyển qua biên giới. Khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập
khẩu, thì cán cân thương mại thặng dư. Ngược lại, khi thu nhập từ xuất khẩu
thấp hơn chi cho nhập khẩu thì cán cân thương mại thâm hụt.
Các nhân tố ảnh hưởng lên cán cân thương mại bao gồm các nhân tố
ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa. Các nhân tố ảnh

7
hưởng lên giá trị xuất khẩu là giống với các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị nhập
khẩu nhưng có tác động ngược chiều.Bao gồm:
- Tỷ giá
- Lạm phát
- Giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu
- Thu nhập của người không cư trú
- Thuế quan và hạn ngạch ở nước ngoài
3.1.2 Cán cân dịch vụ.
Cán cân dịch vụ bao gồm các khoản thu, chi về vận tải, du lịch, bảo
hiểm, bưu chính viễn thông, hàng không, ngân hàng, thông tin, xây dựng và
các hoạt động dịch vụ khác giữa người cư trú và người không cư trú.
Tương tự như xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh
cung ngoại tệ, nên khi hạch toán vào BOP được ghi có và ghi dấu (+), nhập
khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ, nên nó được ghi bên nợ và có dấu
(-). Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như
các yếu tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa.
3.1.3 Cán cân thu nhập.
Cán cân thu nhập bao gồm:
 Thu nhập của người lao động: là các khoản tiền lương, tiền
thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú
trả cho người cư trú và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của
người lao động bao gồm: số lượng và chất lượng của những người lao động ở
nước ngoài.
 Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu trực tiếp,
lãi từ đầu tư giấy tờ có giá và các lãi đến hạn trả của các khoản vay giữa
người cư trú và người không cư trú.
Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát
sinh cung ngoại tệ, nên khi hạch toán vào BOP được ghi bên có (+), các
khoản thu nhập trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên
được ghi nợ (-). Nhân tố ảnh hưởng lên giá trị về đầu tư là số lượng đầu tư và
tỷ lệ sinh lời của các dự án đầu tư nước ngoài. Yếu tố tỷ giá chỉ đóng vai trò

8
thứ yếu, bởi vì tỷ giá chỉ ảnh hưởng lên giá trị chuyển hóa thu nhập sang các
đồng tiền khác.
3.1.4 Cán cân chuyển giao vãng lai 1 chiều.
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu
nhập của người cư trú với người không cư trú. Các khoản thu làm phát sinh
cung ngoại tệ và các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ.Nhân tố ảnh hưởng
chủ yếu lên cán cân chuyển giao vãng lai 1 chiều là lòng tốt, tình cảm và mối
quan hệ giữa người cư trú và người không cư trú.
3.2 Cán cân vốn – K
Cán cân vốn là một bộ phận cán cân thanh toán của một quốc gia, nó
ghi lại tất cả những giao dịch về vốn và tài sản (gồm tài sản thực và tài sản tài
chính) giữa người cư trú và người không cư trú. Bao gồm:
 Cán cân vốn dài hạn
 Cán cân vốn ngắn hạn
 Chuyển giao vốn 1 chiều
Luồng vốn chảy vào phản ánh hoặc làm giảm tài sản Có hoặc làm tăng
tài sản Nợ của người cư trú đối với người không cư trú. Những luồng vốn
chảy vào làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi có (+) trên tài khoản vốn.
Luồng vốn chảy ra phản ánh hoặc làm tăng tài sản Có hoặc làm giảm
tài sản Nợ của người cư trú đối với người không cư trú. Các nguồn vốn chảy
ra làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi nợ (-) trên tài khoản vốn.
3.2.1 Cán cân vốn dài hạn.
Luồng vốn dài hạn chảy vào và chảy ra khỏi một quốc gia được phân
theo tiêu chí “chủ thể” và “khách thể”.
Theo tiêu chí chủ thể, vốn dài hạn được phân chia theo khu vực tư nhân
và khu vực nhà nước.
Theo tiêu chí khách thể, các luồng vốn dài hạn được chia thành đầu tư
trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vốn dài hạn khác. Tiêu chí để đưa một nguồn vốn
dài hạn vào đầu tư trực tiếp là mức độ kiểm soát của công ty nước ngoài. Về

9
mặt lý thuyết, mức độ kiểm soát của công ty nước ngoài chiếm từ 51% vốn cổ
phần trở lên thì được xem là đầu tư trực tiếp, thực tế, hầu hết các quốc gia đều
coi các khoản đầu tư nước ngoài chiếm từ 30% vốn cổ phần trở lên là đầu tư
trực tiếp. Đầu tư gián tiếp bao gồm các khoản đầu tư mua trái phiếu công ty,
trái phiếu chính phủ và đầu tư mua cổ phiếu nhưng chưa đạt tới mức độ để
kiểm soát công ty nước ngoài.
3.2.2 Cán cân vốn ngắn hạn.
Cán cân vốn ngắn hạn bao gồm nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu
là: tín dụng thương mại ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn,
kinh doanh ngoại hối,… Ngày nay, trong môi trường tự do hóa tài chính, các
luồng vốn đầu cơ tăng lên nhanh chóng , làm cho cán cân vốn ngắn hạn có
ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán nói chung của mỗi quốc gia.
Nguyên nhân chính khiến cho các luồng vốn ngắn hạn tăng lên nhanh chóng
là xu hướng thả nổi tỷ giấ sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton-Woods vào năm
1973.
3.2.3 Chuyển giao vốn 1 chiều.
Hạng mục này bao gồm các khoản viện trợ cho mục đích đầu tư, các
khoản nợ được xóa.
 Một số nhân tố ảnh hưởng lên cán cân vốn:
 Lãi suất: vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Giả sử ban đầu
tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất r. Khi lãi suất trong nước
tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn đi vào tăng, trong
khi dòng vốn ra giảm. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược
lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi. Khi lãi suất ở
nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Khi lãi suất nước
ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện.
 Tỷ giá: khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có
nghĩa là tỷ giá danh nghĩa giảm, dòng vốn vào giảm đi, trong khi dòng vốn ra
tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Còn khi đồng tiền trong nước mất
giá (tỷ giá danh nghĩa tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện.
3.3 Cán cân cơ bản – BB
Cán cân cơ bản bao gồm cán cân vãng lai và cán cân vốn dài hạn:

10
Các cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập, mà đặc trưng của
chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú và người
không cư trú, chính vì vậy, tình trạng của cán cân vãng lai có sự ảnh hưởng
lâu dài đến nền kinh tế, mà đặc biệt là tỷ giá hối đoái.
Mặt khác ta thấy, các khoản đi vay có kỳ hạn càng dài có đặc trưng gần
với thu nhập là tạo được các yếu tố ổn định cho nền kinh tế , tương tự các
khoản cho vay dài hạn càng mang đặc trưng những khoản thu từ thu nhập,
nghĩa là các khoản đi vay và cho vay dài hạn có sự ảnh hưởng lâu dài lên nền
kinh tế mà đặc biệt là tỷ giá hối đoái.
Như vậy, tính chất ổn định của cán cân cơ bản có ảnh hưởng lâu dài lên
nền kinh tế vả tỷ giá hối đoái.
3.4 Cán cân tổng thể - OB
Nếu công tác thống kê đạt độ chính xác tuyệt đối thì cán cân tổng thể
bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Tuy nhiên, trong thực tế, do
có rất nhiều vấn đề phức tạp trong quá trình thu thập số liệu và lập cán cân
thanh toán nên thường phát sinh nhầm lẫn và sai sót, do vây:
Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai + cán cân vốn + nhầm lẫn và sai
sót
3.5 Cán cân bù đắp chính thức – OFB
Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các hạng mục:
 Dự trữ ngoại hối của quốc gia - R
 Quan hệ với IMF và các NHTW khác
 Thay đổi dự trữ của các NHTW khác bằng đồng tiền của quốc
gia lập cán cân thanh toán.
Khi cán cân tổng thể thặng dư thì cán cân bù đắp chính thức là âm.
Điều này là do NHTW tiến hành mua ngoại tệ vào, nghĩa là tăng cầu ngoại tệ
đối với nền kinh tế, nên OFB phải ghi âm, đồng thời làm cho dự trữ ngoại hối
tăng.
Khi cán cân tổng thể thâm hụt, thì cán cân bù đắp chính thức là dương.
Điều này là do NHTW tiến hành bán ngoại tệ ra, nghĩa là tăng cung ngoại tệ

11
ra cho nền kinh tế, nên OFB phải ghi dương đồng thời làm dự trữ ngoại hối
giảm.
3.6 Nhầm lẫn và sai sót.
Do việc hạch toán BOP áp dụng nguyên tắc hạch toán kép (mỗi giao
dịch giữa người cư trú và người không cư trú bao gồm 2 vế: vế thu và vế chi),
nên tổng của cán cân tổng thể và cán cân bù đắp chính thức bằng 0, tức là:
OB + OFB = 0  OM = - (CA + K + OFB)
Từ đây cho thấy, số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ
lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân
vốn.
Sau khi xem xét tổng quan về cán cân thanh toán, chúng ta hãy cùng
nhau đi vào phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam để
thấy rõ hơn.

12
II. THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong phạm vi bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi. Chỉ xin đề cập tới
thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam từ năm 2000 trở lại
đây, giai đoạn mà Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Sau đây là thực trạng của cán cân vãng lai và cán cân vốn, hai thành phần chủ
chốt trong cán cân thanh toán của Việt Nam, để có thể thấy rõ hơn những biến
động cũng như nguyên nhân của những biến động đó đối với cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua.
1. Cán cân vãng lai (Current Account – CA)
a. Giai đoạn từ năm 2000-2007
Thực hiện đường lối cải cách, mở cửa nền kinh tế, trong nhiều năm trở
lại đây, Việt Nam đã hội nhập một cách sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Các
hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng được mở rộng và các
giao dịch kinh tế quốc tế đã tăng lên một cách nhanh chóng. Trong giai đoạn
từ năm 2000-2007, nhìn chung cán cân vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt
(trừ các năm 2000,2001), tuy nhiên mức độ thâm hụt chưa nhiều và nhìn
chung vẫn ở mức an toàn.
Bảng 2.1 Cán cân vãng lai của Việt Nam trong giai đoạn từ 2000-2007
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
CA 1.108 682 -603 -1.931 -1.591 479 164 6.992
%GDP 3,6 2,1 1,7 4,9 3,5 0,9 0,3 9,8
(Đơn vị : Triệu USD)
Căn cứ vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy trong hai năm 2000, 2001
cán cân vãng lai của Việt Nam thặng dư, chủ yếu do cán cân thượng mại
thặng dư và nguồn chuyển giao vãng lai một chiều thặng dư, đủ sức bù đắp
thâm hụt của cán cân dịch vụ và cán cân thu nhập. Tuy nhiên, xu hướng thâm

13
hụt cán cân vãng lai đã trở lại năm 2002-2007, đặc biệt năm 2007 với mức
thâm hụt kỷ lục 6.992 tỷ USD tương đương với 9,8% GDP, vượt quá mức an
toàn 5%.
Hầu hết các nước trong khu vực Châu Á (Thái Lan, Philippin,
Malaysia, Trung Quốc…) năm 2007 đều có thặng dư tài khoản vãng lai trong
khi đó Việt Nam lại thâm hụt với mức độ lớn.
b. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay.
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ vào cuối năm 2007 đã
lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng, trở thành cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ
cuộc đại suy thoái 1929-1933. Các tác động của cuộc khủng hoảng trên lan
tràn trên diện rộng, không chỉ trong hoạt động của các ngân hàng, mà tất cả
các nền kinh tế, các thị trường bước vào thời kì suy thoái nghiêm trọng, cán
cân vãng lai của hầu hết các quốc gia đều bị ảnh hưởng, trong đó có Việt
Nam.
Theo số liệu ước tính của IMF, trong năm 2008 cán cân vãng lai của
Việt Nam thâm hụt 11.100 triệu USD, tương đương 10,3 % GDP, vượt
ngưỡng an toàn 2 lần, cao hơn nhiều so với con số cao kỉ lục của thâm hụt cán
cân vãng lai 2007 (6,992 triệu USD), tất cả những con số này cho thấy thâm
hụt cán cân vãng lai của Việt Nam đã thật sự đáng báo động. Nguyên nhân do
những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới tới nền kinh tế
Việt Nam., lạm phát trong nước tăng cao trong những tháng đầu năm 2008,
giá xăng dầu trên thế giới tăng cao… Sang năm 2009, thâm hụt cán cân vãng
lai tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Dự đoán năm 2010, cán cân vãng lai lại
thâm hụt tăng trở lại.
Bảng 2.2: Cán cân vãng lai của Việt Nam từ năm 2008-2010
Năm 2008 2009 2010
CA -11,1 -8,0 -10,6
Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

14
Đơn vị: tỷ USD
Bảng 2.3 : Cán cân vãng lai 6 tháng đầu năm 2010
Thời gian Quý I/2010 Ước Quý II/2010 Ước 6 tháng đầu năm
CA -1.892 -1.678 -3570
Đơn vị: Triệu USD - Nguồn: NHNN
Sau đây chúng ta đi vào phân tích thực trạng của các cán cân bộ phận
của cán cân vãng lai.
1.1. Cán cân thương mại (TB)
a. Giai đoạn từ năm 2000-2007
Ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2.4: Cán cân thương mại của Việt Nam từ năm 2000-2007
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
XK 14.448 15.027 16.706 20.149 26.485 32.447 39.826 48.561
NK 14.072 14.546 17.760 22.730 30.339 34.886 42.602 58.921
TB=XK- 376 481 -1.054 -2.581 -3.854 -2.439 -2.776 -10.360
NK
% so với 1,2 1,5 -3,0 -6,5 -8,6 -4,6 -4,6 -14,5
GDP(%)
Đơn vị: triệu USD
Nhìn vào bảng trên, ta thấy trong hai năm 2000,2001 cán cân thương
mại của Việt Nam thặng dư. Bước sang năm 2002 cán cân thương mại lại
thâm hụt 1.054 triệu USD, con số này tiếp tục lên cao trong các năm 2003,
2004. Đến năm 2005, 2006 mức thâm hụt cán cân thương mại tuy có giảm
nhưng vẫn ở mức cao, và dặc biệt trong năm 2007, cán cân thương mại thâm
hụt ở mức kỷ lục cao lên tới 10.360 triệu USD, chủ yếu do tốc độ tăng của
xuất khẩu nhỏ hơn tốc độ tăng của nhập khẩu.
b. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Ta có bảng số liệu sau:

Bảng 2.5: Cán cân thương mại của Việt Nam từ năm 2008 – 2010

15
Năm 2008 2009 2010
TB -14,2 -8,9 -10,1
Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đơn vị: tỷ USD
Năm 2008. cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt cao hơn năm 2007,
lên tới 14,2 tỷ USD. Nguyên nhân chính là do giá cả hàng hóa trên thế giới
tăng cao. Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng
12/2008 ước tính đạt 4,9 tỷ USD, tăng 16,2% so với tháng trước chủ yếu do
sản lượng dầu thô khai thác tăng, mức tiêu thụ hàng dệt may mạnh hơn vào
tháng cuối năm và lượng gạo xuất khẩu đã tăng trở lại.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt
62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng
kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%,
chiếm 50,3%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm
hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông
sản chiếm 16,3%.
Các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam trong năm 2008 là Hoa Kỳ
đạt 11,6 tỷ USD, ASEAN đạt 10,2 tỷ USD, EU đạt 10 tỷ USD, Nhật Bản đạt
8,8 tỷ USD. Các thị trường nhập khẩu của Việt Nam, ASEAN đạt 19,5 tỷ
USD, Trung Quốc đạt 15,4 tỷ USD, EU đạt 5,2 tỷ USD, Nhật Bản đạt 8,3 tỷ
USD.
Một thực tế có thể nhận thấy là trong nhiều năm trở lại đây, Việt Nam
xuất siêu với Hoa Kỳ và EU nhưng nhập siêu từ Trung Quốc và các nước
ASEAN rất lớn, trong năm 2008, Việt Nam đã nhập siêu hơn 10 tỷ USD với
Trung Quốc và hơn 9 tỷ USD với các nước ASEAN, nguyên nhân là do suy
thoái kinh tế thế giới khiến cho thị trường các nước này cũng bị giảm sút và
hàng hóa giá rẻ của các nước này đã ồ ạt nhập khẩu vào Việt Nam.

16
Năm 2009 là năm kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới, giá cả hàng hóa thế giới sau thời kì tăng giá
vào khoảng 3 quý đầu năm 2008 đã có chiều hướng giảm mạnh trên thị
trường thế giới cùng với xu hướng giảm mạnh của giá dầu, điều này gây ra
khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của nhiều nước và Việt Nam.
Từ bảng số liệu của IMF, chúng ta nhận thấy, thâm hụt cán cân
thương mại Việt Nam gia tăng rất nhanh qua các năm. Trong khi IMF dự báo
mức thâm hụt cán cân thương mại năm 2009 là 7 tỉ đô la Mỹ trong bối cảnh
suy thoái kinh tế, thì thông tin trong tháng 11-2009 cho biết, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã ước tính con số đó cho cả năm 2009 là 11 tỉ đô la Mỹ.
Nếu như trong các năm 2005-2006, kiều hối (chiếm hơn 90% khoản
mục “Chuyển giao”) đã vượt quá nhu cầu cần bù đắp thâm hụt cán cân thương
mại, làm giảm nhẹ đáng kể thâm hụt của cán cân vãng lai, thì nay, tình hình
trên đã trở nên xấu hơn nhiều trong năm 2009.
Thông tin từ Ngân Hàng Nhà nước chi nhánh TPHCM cho biết, trong
10 tháng đầu năm, lượng kiều hối nhận được tại các ngân hàng trên địa bàn
vào khoảng 2,6 tỉ đô la Mỹ, chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm ngoái. Chúng
ta biết rằng, TPHCM là nơi nhận gần 60% tiền kiều hối cả nước. Con số kiều
hối cả nước nhận được trong năm 2009 được giới chuyên môn ước tính sẽ xấp
xỉ 6 tỉ đô la.
Kết hợp với nguồn số liệu của IMF, nếu như các luồng tiền ròng về
dịch vụ và thu nhập của năm 2009 không đổi so với năm 2008 (thâm hụt xấp
xỉ 4,2 tỉ đô la) thì với thâm hụt thương mại ước tính 11 tỉ đô la, sau khi trừ đi
6 tỉ đô la kiều hối, thì thâm hụt cán cân vãng lai có thể ước tính ở mức 9-10 tỉ
đô la Mỹ cho năm 2009.
Bảng 2.6: Cán cân thương mại của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010
Thời gian Quý I/2010 Ước quý II/2010 Ước 6 tháng đầu năm
TB -1.892 -1,678 -3,570

17
Nguồn:NHNN Đơn vị: triệu
USD
Qua bảng số liệu ở trên, cho thấy 6 tháng đầu năm 2010 cán cân
thương mại vẫn thâm hụt. Theo ước tính của cơ quan lập báo cáo, cán cân
thương mại năm 2010 có thể thâm hụt 10,1 tỷ USD Có thể đến thời điểm hiện
tại và thậm chí trong một thời gian nữa thặng dư cán cân vốn và tài chính vẫn
có thể bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng lai nhưng về lâu dài thì vấn đề mấu
chốt vẫn phải cải thiện được cán cân thương mại vì đây mới là nguồn cung
ngoại tệ bền vững nhất.
Điều này không dễ dàng gì vì giá cả trên thế giới đang tăng, trong khi
đó các biện pháp kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu của VN lại chưa thể một sớm
một chiều triển khai được, ví dụ việc xây dựng và thực hiện các hàng rào kỹ
thuật đối với hàng nhập khẩu chuyên ngành, phát triển các ngành công nghiệp
hỗ trợ để tăng xuất khẩu v.v...
Để bù đắp tài chính cho nhập siêu thường có 3 giải pháp: Tín dụng
thương mại (các nhà nhập khẩu xin được thanh toán chậm); vay bằng ngoại tệ
(ngân hàng rồi cho doanh nghiệp vay lại hoặc doanh nghiệp vay trực tiếp);
trích từ dự trữ ngoại hối của NHTƯ (thị trường thiếu ngoại tệ, NHTƯ phải lấy
ngoại tệ trong dự trữ quốc gia ra để đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của thị
trường).
Nhìn lại cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thấy một nền kinh
tế được bù đắp thương mại dựa vào kiều hối và vay nợ thì chưa thể bền vững.
Vấn đề mấu chốt để giải quyết vấn đề thâm hụt cán cân vãng lai và ổn định
sức mua của đồng VN là phải giảm nhập siêu về từ 20%/tổng kim ngạch xuất
khẩu trở xuống.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng phải thu hút được tất cả các nguồn
ngoại tệ có trong nước và tập trung lại để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ. Để thực

18
hiện được hai vấn đề trên thì vai trò điều tiết của Nhà nước (áp dụng những
biện pháp để ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối) là rất quan trọng.
1.2.Cán cân dịch vụ (SE)
Đối với nhiều nước phát triển thì cán cân dịch vụ là một phần quan
trọng trong cán cân vãng lai nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói
chung, tuy nhiên đối với Việt Nam thì cán cân dịch vụ chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong cán cân vãng lai cũng như toàn bộ cán cân thanh toán.
Bảng 2.7: Cán cân dịch vụ của Việt Nam từ năm 2000-2010
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
SE -550 -572 -749 -778 61 -219 -8 -1.300
XK 2.702 2.810 2.948 3.272 3.867 4.176 5.100 6.030
NK 3.252 3.382 3.697 4.050 3.806 4.395 5.108 6.924
XK
trong
tổng 15,7 15,7 15 14 12,7 11,4 11,3 11
KNXK
(%)

Năm 2008 2009 2010


SE -1.000 -1.200 -1.900
Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đơn vị: triệu USD
Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy quy mô xuất khẩu của Việt
Nam nói chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khẩu dịch
vụ trong tổng kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch
vụ) thì tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi,
nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị
trường thế giới còn chưa cao, tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu dịch vụ
luôn thấp, còn thấp hơn tốc độ tăng của xuất khẩu hàng hóa.
Mặt khác, cơ cấu xuất khẩu dịch vụ còn một số điểm bất hợp lí và
chuyển dịch chậm. Dịch vụ du lịch (xuất khẩu tại chỗ) luôn chiếm tỷ trọng

19
cao nhất (55,2% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ) nhưng tốc độ tăng còn
thấp và “mật độ” khách du lịch quốc tế đến Việt Nam còn thấp so với các
nước trong khu vực, ở Châu Á và trên thế giới.
Ngoài du lịch, một số dịch vụ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch
vụ bảo hiểm, chỉ chiếm 1,1%, dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng
1,7%, dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5,5%.
Về mặt tổng thể, cán cân dịch vụ của nước ta hầu hết đều thâm hụt
qua các năm. Đến năm 2007 thì thặng dư 14,3 tỷ USD và năm 2008 con số
thặng dư chỉ còn 0,3 tỷ USD. Trong năm 2009, cán cân thanh toán của Việt
Nam thâm hụt 8,8 tỷ USD.Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam trong năm 2010 có thể thâm hụt gần 4 tỷ
USD. Như vậy, rất có thể đây là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam có thâm hụt
cán cân thanh toán tổng thể ở mức khá cao.
1.3.Cán cân thu nhập (IC)
Theo IMF cán cân thu nhập bao gồm cả các khoản thu nhập của người
lao động (là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác
bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại)
và các khoản thu nhập đầu tư (là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp,
lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các
khoản vay giữa người cư trú và người không cư trú). Tuy nhiên, trong cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam công bố cũng như của Ngân hàng thế giới và
IMF thì hạng mục này chỉ bao gồm thu nhập đầu tư do thiếu dữ liệu của
người thu nhập lao động. Do vậy trong phạm vi bài nghiên cứu của nhóm
chúng tôi cũng chỉ xin đề cập tới các khoản thu nhập về đầu tư trong cán cân
thu nhập của Việt Nam.
Bảng 2.8: Cán cân thu nhập của Việt Nam từ năm 2000-2010
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
IC -451 -477 -721 -811 -891 -1.219 -1.429 -2.168

20
Thu 331 318 167 125 188 364 668 1093
Chi 782 795 888 936 1.079 1.583 2.097 3.261

Năm 2008 2009 2010


IC -4.900 -4.900 -5.400
Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)-
Đơn vị: triệu USD
Phần thu từ đầu tư của Việt Nam thì chủ yếu là tiền lãi của các khoản
tiền gửi của người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên
những khoản tiền lãi đó rất nhỏ, thậm chí còn giảm đi vì ta rút ngoại tệ về cho
vay trong nước. Ngược lại, những khoản phải thanh toán ngày càng tăng lên
do phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài. Những khoản nợ này khá lớn,
hàng năm Việt Nam phải trả lãi khoảng mấy trăm triệu USD. Thêm vào đó
những khoản chuyển lợi nhuận đầu tư cũng tăng lên do các dự án FDI được
thực hiện dần. Tuy các khoản lãi tiền gửi có tăng lên nhưng các khoản chuyển
lợi nhuận và trả lãi nợ nước ngoài tăng mạnh dẫn đến thu nhập đầu tư ngày
càng bị thâm hụt.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới kéo theo suy thoái kinh tế thế
giới hầu hết NHTW các nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, cắt giảm
lãi suất, trong đó điểm hình như FED, trong năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi
suất, xuống mức thấp kỷ lục là 0,25%...điều này sẽ tác động làm giảm lãi suất
của các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ của người cư trú ở nước ngoài, làm giảm
nguồn thu chủ yếu của cán cân thu nhập của Việt Nam. Mặt khác, do khó
khăn về mặt tài chính nên nhiều doanh nghiệp FDI, chi nhánh các công ty
nước ngoài có xu hướng chuyển khoản các khoản lợi nhuận về nước để hổ trợ
công ty mẹ, làm tăng các khoản chi trong cán cân dịch vụ do đó trong hai năm
2008, 2009 cán cân thu nhập của Việt Nam tiếp tục thâm hụt với mức độ cao
hơn so với năm 2007 và các năm trước đó. Dự đoán trong năm 2010, cán cân
thu nhập vẫn thâm hụt với mức cao hơn.

21
1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Tr)
Từ năm 2000 đến nay, cán cân chuyển giao vãng lai một chiều luôn
thặng dư, là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai của Việt
Nam.
Bảng 2.9: Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều của Việt Nam từ
năm 2000-2010
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tr 1.732 1.250 1.921 2.239 3.093 3.380 4.049 6.430
Tư 1.585 1.100 1.767 2.100 2.919 3.150 3.800 6.180
nhân
Chính 147 150 154 139 174 230 249 250
phủ

Năm 2008 2009 2010


Tr 8.100 7.000 6.900

Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đơn vị: triệu USD
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy, trong cán cân chuyển giao
vãng lai của Việt Nam thì bộ phận chiếm tỷ trọng chủ yếu là chuyển giao tư
nhân, còn bộ phận chuyển giao chính phủ chiếm tỷ trọng không đáng kể và
thường xu hướng ổn định. Chuyển giao tư nhân của Việt Nam chủ yếu là
chuyển tiền của người Việt Nam sống ở nước ngoài (kiều hối)… Tháng
10/1999, Thủ tướng đã kí quyết định số 170/1999/QD-TTG theo đó đã
khuyến khích kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về. Kết quả là
trong năm 2000, nguồn chuyển giao tư nhân đạt tới 1585 triệu USD. Hơn nữa,
việc thiết lập thêm những kênh chuyển tiền mới đã giúp cho người Việt Nam
ở nước ngoài yên tâm chuyển tiền qua các kênh chính thức và giúp giảm các
chi phí chuyển tiền cũng như các rủi ro. Thêm vào đó, chính sách thu hút kiều
hối ngày càng thông thoáng chẳng hạn như cho phép người Việt Nam trực

22
tiếp mang tiền về nước mà không giới hạn số lượng chỉ cần khai báo hải quan,
cho phép Việt kiều mua nhà hay đầu tư tại Việt Nam… Đặc biệt, việc Chính
Phủ cho phép mở rộng đối tượng làm đại lí chi trả kiều hối đã tạo thêm nhiều
kênh chuyển tiền từ nước ngoài về, làm tăng sự cạnh tranh giữa các tổ chức
dịch vụ chi trả ngoại tệ tạo áp lực buộc các tổ chức này phải giảm chi phí
chuyển tiền và nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính những điều này đã tạo nên
sự tăng vọt của lượng kiều hối chuyển về nước từ năm 2003 trở lại đây, khiến
cho chuyển giao tư nhân của Việt Nam tăng lên không ngừng, nhờ đó Chính
phủ bù đắp được một phần thâm hụt của cán cân vãng lai.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế sẽ khiến
cho đại bộ phận thu nhập của người lao động trên thế giới giảm xuống, cuộc
sống trở nên khó khăn hơn, trong đó có bộ phận người Việt Nam sống ở nước
ngoài, do đó sẽ khiến cho dòng kiều hối chảy về Việt Nam trong những năm
gần đây giảm sút.
Theo ước tính của cơ quan lập báo cáo, thu nhập đầu tư (bao gồm trả
nợ lãi các khoản vay nước ngoài, lãi từ hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài…) thâm hụt 5,4 tỷ USD. Chỉ duy nhất mục chuyển tiền trong cán cân
vãng lai có thặng dư khoảng 6,9 tỷ USD.
Bảng 2.10: Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều 6 tháng đầu năm
2010
Thời gian Quý I/2010 Ước Quý II/2010 Ước 6 tháng đầu năm
Chuyển tiền một 2.051 1.828 3.879
chiều (ròng)
Đơn vị: Triệu USD - Nguồn: NHNN
Cụ thể, tính chung 6 tháng đầu năm 2010, chuyển tiền một chiều ròng
đạt gần 3,9 tỷ USD, tăng 24% so cùng kỳ năm 2009. Chuyển tiền kiều hối 6
tháng đầu năm 2010 đạt khá (ước khoảng 3,6 - 3,7 tỷ USD, tăng hơn 20% so
cùng kỳ năm 2009). Ngay cả quý II, dù không phải là "mùa kiều hối", lượng

23
kiều hối vẫn duy trì được ở mức khá cao (bình quân 500-600 triệu
USD/tháng).
1.5. Mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và thâm hụt cán cân vãng
lai.
Giữa tiết kiệm, đầu tư và cán cân vãng lai có mối quan hệ với nhau
thông qua đẳng thức: CA = S – I
Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai của Việt Nam phần lớn là
thâm hụt trong giai đoạn trong giai đoạn từ 2000-2010 (trừ hai năm 2000,
2001). Nhìn vào đẳng thức trên có thể thấy nguyên nhân làm cho cán cân
vãng lai của Việt Nam thâm hụt liên tục trong thời gian qua là do đầu tư ở
mức cao so với mức tiết kiệm của quốc gia, thâm hụt NSNN liên tục xuất hiện
qua các năm, các nguyên nhân này có thể xuất hiện một cách đơn lẻ hoặc
đồng thời xuất hiện tác động lên cán cân vãng lai. Chúng ta sẽ đi phân tích
từng nhân tố làm cho cán cân vãng lai của Việt Nam trong thời gian qua.
a. Đầu tư ở mức cao so với tiết kiệm.
Nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Á 1997, luồng vốn FDI chảy vào Việt Nam trong 2 năm 2000, 2001
giảm thị trường chứng khoán còn trong giai đoạn đầu phát triển, khiến cho
hoạt động đầu tư trở nên kém sôi động. Bên cạnh đó, đầu tư luôn ở mức thấp
hơn so với tiết kiệm nên trong hai năm này có thể thấy cán cân vãng lai của ta
đã thặng dư. Từ năm 2002 trở lại đây thì đầu tư lại có xu hướng cao hơn so
với tiết kiệm, điều này cũng tất yếu dẫn đến cán cân vãng lai của Việt Nam
liên tục thâm hụt, một số nguyên nhân chính làm cho đầu tư trong giai đoạn
này tăng cao là:
Thứ nhất, do để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai
đoạn này, NHNN Việt Nam đã thực hiện một chính sách tiền tệ nới lỏng (từ
năm 2007 trở lại trước) kích thích đầu tư trong nước.

24
Trong năm 2008 tuy đã thực hiện quyết liệt một chính sách tiền tệ
theo hướng thắt chặt song cũng do độ trễ của chính sách tiền tệ mà lạm phát
lên cao, điều này tiếp tục làm cho cán cân thương mại của Việt Nam xấu đi,
hơn cả năm 2007. Năm 2009 do lạm phát được đẩy lùi cùng với một chính
sách tiền tệ nới lỏng để kích cầu, đầu tư trong nước để chống suy giảm kinh tế
nên sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam được cải thiện, mức thâm hụt
của cán cân vãng lai giảm đi so với năm 2008, xuống chỉ còn 8 tỷ USD. Tuy
nhiên, sang năm 2010, theo dự đoán thì mức thâm hụt có xu hướng tăng lên
đến 10,6 tỷ USD.
Thứ hai, do sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán Việt
Nam. Trong các năm 2006, 2007 thị trường chứng khoán Việt Nam được coi
như bùng nổ, VN Index có lúc đã chạm ngưỡng 1100 điểm. Với sự sôi động
của thị trường như vậy, một loạt các doanh nghiệp đã thực hiện IPO để huy
động vốn cho sản xuất. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua kênh thị
trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của Việt Nam đã tăng lên rất
nhiều. Hệ quả tất yếu của việc này là sự gia tăng thâm hụt của cán cân vãng
lai.
Thứ ba, cùng với việc tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài trong những năm gần đây khiến cho dòng vốn FDI chảy vào Việt
Nam tăng mạnh, đặc biệt là trong hai năm 2008 và 2009, sự tăng trưởng của
FDI cũng khiến cho tổng đầu tư của cả nước tăng lên, dẫn đến thâm hụt cán
cân vãng lai, do sự tăng trưởng của FDI cũng mang lại sự tăng về nhập khẩu
cho Việt Nam, trong khi các dự án của FDI ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở
lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực ít có khả năng xuất khẩu.
b. Mức tiết kiệm quốc gia thấp.
Nhìn chung mức tiết kiệm của Việt Nam còn khá thấp so với nhu cầu
đầu tư trong nước.

25
Từ năm 2000-2005 mức tiết kiệm có xu hướng tăng lên, do thu nhập
của người dân tăng nên mức tiết kiệm cũng tăng. Tuy nhiên trong năm 2006
thì mức tiết kiệm bắt đầu có xu hướng giảm xuống, nguyên nhân chủ yếu là
do mức tiêu dung tăng cao đột biết. Trong hai năm 2006, 2007 có thể thấy có
nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng của người dân
Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chính là hiệu ứng tài sản do sự tăng
trưởng nhanh chóng của thị trường chứng khoán, cũng như thị trường bất
động sản của Việt Nam gây ra.
2. Cán cân vốn (Capital Balance – K)
Bảng 2.11: Cán cân vốn của Việt Nam từ năm 2000 – 2010
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
K -754 220 1.980 2.533 2.753 3.087 3.088 17.540

Năm 2008 2009 2010


K 13.400 12.300 9.200

Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và


Đầu tư)-Đơn vị: triệu USD
Cán cân vốn của Việt Nam bao gồm các bộ phận cơ bản: vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FII), các khoản nợ ngắn hạn,
tín dụng thương mại, các khoản nợ trung – dài hạn và tài sản ngoại tệ của các
Ngân hàng thương mại.
Nhìn vào cán cân vốn của Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2010 có
thể thấy rõ xu hướng chuyển dịch của cán cân vốn từ thâm hụt vào năm 2000
đến bắt đầu có thặng dư vào năm 2001 và tiếp tục thặng dư mạnh trong các
năm tiếp theo cho tới trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 nổ
ra, kể từ sau cuộc khủng hoảng thì thặng dư của cán cân vốn bắt đầu có xu
hướng giảm xuống.

26
Sau đây nhóm chúng tôi xin đi vào phân tích thực trạng của các thành
phần vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, là
những thành phần dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi khủng hoảng kinh tế xảy ra.
2.1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Bảng 2.12: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
FDI 1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.889 2.315 6.550 10.000 7.400
Nguồn: SBV, IMF, WB Đơn vị: triệu USD
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy trong năm 2000 con số FDI được
giải ngân đạt 1.298 trệu USD, thấp hơn nhiều so với năm 1999, trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á vừa mới kết thúc, nên sự suy giảm đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam cũng có nguyên nhân khách quan gắn với cuộc
khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và tiếp đó là sự suy giảm kinh tế thế giới.
Mặt khác, tuy là nước chịu ảnh hưởng không nhiều từ cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Á song Việt Nam lại là một trong số những nước có FDI sụt giảm
mạnh nhất. Tình hình giảm sút của FDI của Việt Nam trong thời gian này
ngoài nguyên nhân khách quan nêu trên còn có nguyên nhân chủ quan xuất
phát từ hệ thống pháp luật thiếu minh bạch, nhất quán, cho đến việc thực thi
pháp luật không nghiêm minh, thủ tục hành chính phiền hà, chi phí đầu tư và
kinh doanh tương đối cao, đã làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam
kém hấp dẫn hơn trước.
Từ năm 2001 đến năm 2004 là thời kì phục hồi chậm của hoạt động
FDI, quân số FDI giải ngân hàng năm vẫn tăng lên song tốc độ tăng trưởng rất
chậm.
Từ năm 2005, hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam mới thật sự
khởi sắc, khi Việt Nam thật sự trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà
đầu tư nước ngoài với sự thông thoáng hơn trong cơ chế cũng như nhiều ưu
đãi hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, con số dự án đăng ký có vốn đầu

27
tư nước ngoài năm 2005 là 970 dự án, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 2
tỷ USD.
Năm 2006 đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Tới năm
2007 thì đầu tư nước ngoài đã thực sự bùng nổ ở Việt Nam với những con số
hết sức ấn tượng, tổng số đã có 1.544 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký
đạt 20,3 tỷ USD, tổng số vốn giải ngân là 6,5 tỷ USD, nguyên nhân chính là
do năm 2007 là năm đầu Việt Nam thực hiện các cam kết của mình khi gia
nhập WTO, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư.
Dòng tiền FDI của năm 2008 là 7 tỷ USD, tăng vọt so với các năm
trước giúp làm bội thu cán cân thanh toán tài khoản vốn. Tuy nhiên, so với
các nước Đông Nam Á thì thu hút vốn FDI của Việt Nam chỉ đứng thức 4
sau Singapore (22,7 tỷ USD), Thái Lan (10,1 tỷ USD), Malaysia (8,1 tỷ
USD); và trong các năm này, xu hướng dòng vốn FDI không tập trung
vào các ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp, mà tập trung vào các
ngành bất động sản, khách sạn, nhà hàng (chiếm 63%) nhằm tìm kiếm lợi
nhuận cao. Sự dịch chuyển dòng vốn FDI như vậy cần được xem xét dưới
góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực
xuất khẩu trong tương lai.
Trong năm 2009 con số FDI được giải ngân đạt 7.400 trệu USD,
thấp hơn so với năm 2008 là 2.600 triệu USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục là nhân tố quan trọng giúp giảm thâm hụt cán
cân thanh toán, trong hoàn cảnh thâm hụt cán cân thương mại 6 tháng khoảng
trên 6,5 tỷ USD.
Với mức giải ngân vốn FDI tháng 6/2010 đạt 900 triệu USD, tổng
mức giải ngân 6 tháng đầu năm đã đạt 5,4 tỷ USD, tăng khoảng 6% so với
cùng kỳ năm 2009. Tính bình quân từ đầu năm đến nay, chúng ta đã giải
ngân khoảng 900 triệu USD vốn FDI mỗi tháng. Một điều đáng chú ý là, chỉ

28
tiêu thu hút vốn đăng ký mới tiếp tục khởi sắc. Trong tháng 6, đã có 78 dự án
được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 800 triệu USD.
Như vậy tính chung 6 tháng, đã có 438 dự án đăng ký cấp mới với tổng vốn
cam kết đầu tư đạt trên 7,9 tỷ USD, so với năm 2009 tuy chỉ bằng 80% về số
dự án nhưng tăng tới 43% về vốn. Nếu tính cả các dự án tăng vốn, trong nửa
đầu đầu năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký số vốn bằng khoảng
hơn 80% cùng kỳ năm trước, đạt ở mức 8,43 tỷ USD.
Không ai phủ nhận vai trò tích cực của FDI đối với sự tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia; tuy nhiên, cần phải hiểu biết những mặt trái của FDI
nhằm có chính sách thu hút và sử dụng FDI hiệu quả hơn. Tác động tích cực
của FDI trước tiên là dòng ngoại tệ vào làm tăng tài khoản vốn giúp nâng cao
khả năng thanh khoản của tài khoản quốc gia; nhưng tác động tiêu cực của
vốn FDI thường bị tác động bởi ba nhân tố chủ yếu: 1) Tác động thông qua
cán cân thương mại; 2) tác động thông qua chuyển lợi nhuận đầu tư ra nước
ngoài; 3) Tác động do tăng chi phí mua patent, know-how nhằm độc quyền kỹ
thuật cao.
2.2.Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII)
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư xuyên biên giới. Nó
chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức
đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và
nghiệp vụ vủa doanh nghiệp giống như trong hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Việt Nam đã có những thành công trong thu hút FDI, song việc thu hút
FII thì vẫn còn nhiều những hạn chế.
Bảng 2.13: Đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
FII -- -- -- -- -- 865 1.313 6.243 - 600 100
Nguồn: SBV, IMF, WB Đơn vị: triệu USD

29
Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu
hướng tăng, nhưng quy mô còn rất nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI,
đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004 trong
báo cáo của IMF về Việt Nam thậm chí còn không được ghi nhận.
Năm 2005, nguồn vốn FII vào Việt Nam mới thực sự khởi sắc, với
vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam ước đạt 865
triệu USD, cùng với sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán Việt
Nam năm 2006 và nửa đầu 2007, con số vốn đầu tư gián tiếp đổ vào Việt
Nam cũng tăng lên rất nhanh, lên đến 1.313 triệu USD vào năm 2006 và
6.243 triệu USD vào năm 2007. Một phần nguyên nhân khiến FII tăng trưởng
cao trong các năm 2006 và 2007 là có sự hoạt động mạnh mẽ của các quỹ đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ dẫn tới TTCK toàn
cầu suy giảm, trong đó có TTCK Việt Nam khiến cho FII có xu hướng thoái
lui khỏi TTCK Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Tuy nhiên năm 2009, khi
TTCK Việt Nam bắt đầu có những tín hiệu hồi phục với những phiên tăng
điểm liên tiếp và khá bền vững thì dòng vốn này đã có xu hướng quay trở lại.
Luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tiếp tục duy trì xu hướng
thặng dư. Trong quý II/2010, các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng trên thị
trường chứng khoán khoảng 500 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm
2010, vốn FII ròng đạt mức thặng dư 1,8 tỷ USD . Vốn FII thặng dư lớn là do
đầu năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái
phiếu ra thị trường quốc tế (theo phương pháp luận thống kê cán cân thanh
toán quốc tế giao dịch này phải được thống kê vào hạng mục FII thay vì vay
nợ của Chính phủ). Nếu loại trừ phát hành trái phiếu của Chính phủ thì trong
6 tháng đầu năm 2010 các nhà đầu tư nước ngoài vẫn mua ròng trên thị
trường chứng khoán Việt Nam khoảng 800 triệu USD (bao gồm cả thị trường
OTC), trong đó quý I/2010 là 290 triệu USD.

30
. Giải pháp

Ông Peter Naray - chuyên gia của Mutrap bình luận rằng các vấn đề
của VN chưa tới mức nghiêm trọng và vẫn có thể kiểm soát được. Vì nhiều lí
do, cán cân thanh toán của VN vẫn chưa bị coi là tình trạng báo động. Lý do
thứ nhất là do các món nợ ngắn hạn của VN có thể được trả đúng hạn. Mức
độ dự trữ hiện nay là cao hơn so với các năm trước và vì có ít yêu cầu trả các

31
khoản nợ nhỏ ngắn hạn, nên không có thúc bách lớn cần phải dự trữ quốc tế
trong ngắn hạn và trung hạn. Các dự trữ đủ lớn với kim ngạch nhập khẩu và
sự mất cân đối thương mại của VN đã có dấu hiệu chứng tỏ được phục hồi.
Hơn nữa, các dòng vốn quốc tế được dự báo sẽ trở lại xu thế như trước đây,
khi nền kinh tế thế giới khởi sắc vào năm 2010. Điều quan trọng là VN vẫn
giữ được niềm tin đối với nền kinh tế, đảm bảo làm giảm thiểu sự di chuyển
vốn.

Thứ nhất, VN có thể xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu cao về nhập khẩu
của một số nước, việc áp các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ làm mất tính
cạnh tranh trong xuất khẩu của VN. Thứ hai, việc áp dụng chính sách thương
mại thay đổi như vậy có thể dẫn đến tình trạng một số dự án đầu tư có vốn
trực tiếp nước ngoài sẽ rút về hoặc đóng băng, vì những dự án này cần nhập
khẩu cho đầu vào hoặc công nghệ của họ. Thứ ba, những biện pháp như vậy
có thể gây mất lòng tin của nhà đầu tư đối với viễn cảnh kinh tế của VN. Điều
này có thể sẽ dẫn đến tình trạng di chuyển vốn và tạo ra áp lực làm mất giá
đồng tiền VN.

Tiến sĩ Võ Trí Thành - chuyên gia kinh tế khi nhìn nhận về viễn cảnh
kinh tế và tầm nhìn chính sách VN 2010 cho rằng: Cần phải tính đến việc can
thiệp của chính sách vĩ mô trong giai đoạn của khủng hoảng và rút lui ra khỏi
khủng hoảng như thế nào ? Vấn đề mất cân đối có mang tính chất bền vững
không ? Không có nền kinh tế nào có thể cân đối cả bên trong và bên ngoài,
trong nền kinh tế có mức độ đôla hóa như của VN các chính sách tài khóa và
tiền tệ rất khó thống nhất điều này tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ tài chính.
Cơ cấu xuất nhập khẩu của VN có vấn đề, nợ nước ngoài tăng nhanh... trong
2 năm qua VN đã sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính nên đặt nền kinh tế
hiện tại trong một trạng thái rất khó. Ví dụ: trần lãi suất, trần về thâm hụt

32
ngân sách... các mất cân đối đang diễn ra nghiêm trọng và có xu hướng tăng.
Các giải pháp: thắt chặt chính sách tiền tệ, đồng VN phải được bảo vệ bằng
cách tăng lãi suất, nhưng vấn đề đặt ra là tiến độ chính sách là ngay lập tức
hay từ từ ?

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, mặc dù có nhiều
chuyển biến tích cực song vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực lạm phát
tăng cao, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam về hàng hóa xuất khẩu
còn kém, mức tiết kiệm trong nước còn rất thấp, thiếu vốn đầu tư, tỷ lệ thất
nghiệp vẫn còn cao, nhập siêu vẫn kéo dài… Tuy cán cân thanh toán quốc tế
của Việt Nam đã thặng dư và sẽ tiếp tục thặng dư song cán cân thương mại
ngày càng thâm hụt do nhập siêu. Sự thặng dư ở đây là do nguồn đầu tư vào
trong nước ngày càng tăng và lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng
mạnh. Mà đối với một nước luôn nhập siêu như Việt Nam hiện nay thì việc
cán cân thanh toán thặng dư do thặng dư cán cân vốn bù đắp cho thiếu hụt cán
cân vãng lai thì chưa chắc đã là một dấu hiệu tốt. Nếu Việt Nam sử dụng vốn
đầu tư ( vốn vay) kém hiệu quả thì nợ quốc gia sẽ nhanh chóng trở thành gánh
nặng, gây áp lực phải trả nợ rất lớn đối với Ngân sách Nhà nước. Như vậy,
mức thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có thể tài trợ đư,ợc nhưng chính
phủ cũng nên có các biện pháp tích cực để cải thiện cán cân vãng lai nhàm
đảm bảo cân đối bên ngoài một cách vững chắc. Nhiệm vụ chính của các
chính sách kinh tế Việt Nam hiện nay là phải đảm bảo thiết lập được cả cân
đối bên trong và cân đối bên ngoài. Định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
- Tăng cường hơn nữa thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách nâng
cao hiệu quả sư dụng vốn nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự
trữ ngoại tệ và phục vụ cho phát triển kinh tế.

33
- Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam không thể đảm bảo cân bằng
cán cân vãng lai và phải chấp nhận sự thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng vấn đề
là phải duy trì được khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai. Tức là
phải duy trì khả năng thanh toán của quốc gia. Một yêu cầu đặt ra đối với Việt
Nam là phải tạo ra thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai (không bao gồm
các khoản trả lãi) đủ để hoàn trả các khoản nợ hiện tại. Nhưng sự đảo ngược
trong các chính sách kinh tế (như một sự thắt chặt đột ngột) kèm theo một sự
khó khăn vĩ mô như giảm mạnh các hoạt động kinh tế và tiêu dùng thì sự
thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong hiện tại mới được coi là có khả
năng chịu đựng.
Như vậy trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần phải hạn chế mức độ
thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng không để ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
và việc làm. Đồng thời cố gắng duy trì và nâng cao khả năng chịu đặng thiếu
hụt cán cân vãng lai để không xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán bằng
cách cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô trên:
1. Các biện pháp tác động trực tiếp lên cán cân vãng lai
Các biện pháp này bao gồm chính sách hạn chế nhập khẩu, chính sách
khuyến khích xuất khẩu và chính sách thu hút chuyển giao vãng lai từ nước
ngoài về Việt Nam. Đây là những biện pháp chuyển dịch chi tiêu có chọn lọc
và nhằm mục đích kiểm soát các nhân tố cụ thể trong cán cân thanh toán.
1.1 Chính sách nhập khẩu
Chính sách hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích cố gắng dịch chuyển chi
tiêu nội địa từ nước ngoài và hàng hóa trong nước. Các biện pháp hạn chế
nhập khẩu bao gồm: thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, yêu cầu bắt buộc
kết hối ngoại tệ, cấm nhập khẩu, yêu cầu cấp giấy phép nhập khẩu… Tác
dụng của biện pháp này là làm giảm số lượng hay giá trị nhập khẩu trong một
khoảng thoài gian nhất định. Do đó, ban đầu nó có tác động trược tiếp cải
thiện cán cân thương mại nói riêng và cán cân vãng lai nói chung. Tuy nhiên,

34
các biện pháp này chỉ có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân vãng lai lúc ban
đầu. Nhưng sau đó, do giảm suất khẩu, người tiêu dùng trong nước sẽ quay
sang mua hàng hóa sản xuất trong nước làm tăng tổng cầu đối với nền kinh tế
dẫn đến sản lượng và thu nhập quốc dân tăng lên. Thư nhập quốc dân sẽ làm
cho nhập khẩu tăng và cuối cùng làm cho sự cải thiện cán cân vãng lai ban
đầu giảm đi.
Song trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, do luồng vốn đầu
tư vào trong nước ngày càng tăng mạnh kèm thao nhu cầu nhập khẩu lớn để
tăng trưởng kinh tế nên Chính phủ đã phải thực hiện một số nới lỏng trong
chính sách hạn chế nhập khẩu. Thêm nữa, Việt Nam đang tăng cường chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế nên việc sử dụng các hạn chế thương mại sẽ
dần dần được loại bỏ. Như vậy, trong tương lai, việc sử dụng các biện pháp
hạn chế nhập khẩu sẽ rất khó thực hiện và có thể không thể thực hiện nữa.
Để vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế, vừa giảm bớt được tình trạng
nhập siêu trong giai đoạn hiện nay,Việt Nam cần thực hiện các việc sau:
 Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ
cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản
xuất được để tiết kiệm ngoại tệ và pháy triển hàng hóa sản xuất trong nước.
 Thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu như
bông, nguyên liệu thuốc lá, ngô, đậu tương, đa nguyên liêu…và áp dụng các
công cụ thuế mới nhằm giảm kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này
 Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và kiểm soát chặt
chẽ việc nhập khẩu ô tô và linh kiện xe hai bánh gắn máy.
 Thực hiện chính sách giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số
ngành dịch vụ có nhập khẩu các loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và

35
vật liệu rẻ tiền mai hỏng mà tập trung tạo điều kiện sacr xuất để thay thế
hàng nhập khẩu…
Nói chung, những biện pháp hạn chế nhập khẩu chỉ là tạm thời, hiệu
quả không cao và có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. trong tình
thế hiện nay, để giảm được thâm hụt thương mại, Việt Nam có thể tập trung
vào các biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu thay vì việc tập trung để
giảm nhập khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu như trước đây.
1.2 Chính sách khuyến khích xuất khẩu
Chính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm mục đích chuyển dịch chi
tiêu nước ngoài vào các sản phẩm nội địa. Các biện pháp khuyến khích xuất
khẩu bao gồm: mở rộng thị trường xuất khẩu, giảm và bỏ thuế xuất khẩu, xóa
bỏ hạn ngạch xuất khẩu, cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt
động xuất khẩu… Tác dụng của các biện pháp này là làm tăng khối lượng
xuất khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại và đồng thời còn làm tăng
khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai. Nó cho pháp cán cân vãng lai thiếu
hụt lớn mà không dẫn đến một cuộc khủng hoảng bên ngoài nào. Đặc biệt
trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay, khuyến khích xuất khẩu lại
càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Đẩy mạnh xuất khẩu là cách tốt nhất để Việt Nam có thể cải thiện được
cán cân thương mại, đẩy lùi được tình trạng nhập siêu và có nguồn vốn để trả
nợ nước ngoài. Hơn nữa vẫn đảm bảo được mục tiêu cân đối bên trong như
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và giải quyết việc làm.Trong những năm tiếp
theo, Việt Nam cần phải đảm bảo tốc độ tăng xuất khẩu lớn hơn tốc độ tăng
nhập khẩu để có thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững.Chính vì vậy ,Chính phủ cần quan tâm đến các biện
pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Trong thực tế,hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt với
một số trở ngại.Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu là các chính sách thuế

36
nhập khẩu,hạn ngạch nhập khẩu..làm mất đi các lợi thế xuất khẩu của Việt
Nam. Do hệ thống thuế và hệ thống quản lý thương mại là nhằm sản xuất thay
thế hang nhập khẩu và sản xuất các loại hàng hóa,dịch vụ thương mại dẫn đến
việc bảo hộ cho những ngành không có hiệu quả. Còn những ngành có lợi thế
và khả năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng.Hơn
nữa,khi vực kinh tế tư nhân có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì không được đầu
tư các nguồn lực thích đáng. Hơn nữa,khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng
xuất khẩu thì chưa được chú ý phát triển. Thêm vào đó, thị trường xuất khẩu
của Việt Nam trên thế giới đang bị cạnh tranh gay gắt mà sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam thì yếu, thì trường thương mại dịch vụ chưa đáp
ứng được yêu cầu của xuất khẩu,tình trạng gian lận trong buôn bán vẫn còn
xảy ra. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của của Việt Nam thì tỷ trọng hàng
thô và sơ chế còn cao, hàng gia công chiếm tỷ trọng lớn.. khiến cho giá trị
xuất khẩu chưa cao và không có sức cạnh tranh.Mặt khác,các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam còn nhiều hạn chế về kỹ thuật kinh doanh, chưa am hiểu
đầy đủ về luật pháp và thông lệ quốc tế,chưa có độ nhanh nhạy nắm bắt thông
tin thị trường nên dẫn đến việc bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh có lợi,phải chịu
những thiệt hại không đáng có trong hoạt động sản xuất..Vậy nên,Chính phủ
cần có những biện pháp vừa giải quyết được những khó khăn trở ngại trong
hoạt động xuất khẩu lại vừa đẩy nhanh tốc độ tăng xuất khẩu nhằm cải thiện
được tình trạng thâm hụt thương mại hiện nay.
Một số biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới:
- Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển,cải tiến
chế độ phân phối,chế độ xuất nhập khẩu,tạo ra một sự phân phối nhịp
nhàng,chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cùng làm nhiệm vụ kinh doanh xuất
nhập khẩu với cùng một ngành hàng,không phân biệt đó là doanh nghiệp nhà
nước hay tư nhân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để nâng cao vị thế và sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

37
Bên cạnh đó,trong tiến trình hội nhập,Việt Nam cần phấn đấu thực hiện
những mục tiêu như: đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên cơ sở tự
nguyện cùng có lợi với tất cả quốc gia trên mọi lĩnh vực,thúc đẩy tự do hóa
thương mại bằng các biện pháp giảm bớt thuế,dần tiến tới phi thuế;hủy bỏ
việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; tăng năng suất lao động,giảm bớt chi phí
sản xuất hàng hóa để tăng sức mạnh về giá;đơn giản hóa thủ tục xuất nhập
khẩu,thủ tục đầu tư,thủ tục hải quan,ngoại hối,ngân hàng..
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của
hàng hóa xuất khẩu.Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất
các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu.Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có
khả năng tăng trưởng ổn định ,sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu trong
nước,đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa lên hàng đầu,gắn
sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm…
Đồng thời chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng đầu tư Nhà nước
để phát triển các ngành dịch vụ và một số ngành sản xuất với công nghệ cao
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh
tế dịch vụ và kinh tế tri thức.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu,phát triển và đa dạng hóa với
những mặt hàng chủ lực,gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản
phẩm chính.Về đổi mới cơ cấu hàng xuất, Việt Nam cần phải chuyển nhanh
và mạnh sang phần lớn hàng chế biến,giảm mức tối đa xuất hàng nguyên liệu
và hàng sơ chế.
- Chính phủ cần quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân
có tiềm năng,nhất là các doanh nghiệp trong các ngành chế tạo có định hướng
xuất khẩu cao.Hỗ trợ nhiều hơn cho các tổ chức ,doanh nghiệp và cá nhân để
phát triển các mặt hàng mới và thị trường mới.
- Việt Nam cần mở rộng thị trường xuất khẩu.Thực hiện phương châm
đa dạng hóa,đa phương hóa thị trường và đối tác,hạn chế việc xuất khẩu một

38
mặt hàng bị phụ thuộc vào một số thị trường,chú trọng các thị trường có sức
mua lớn như :Mỹ,EU,Nhật Bản,Trung Quốc,Đông Nam Á..đồng thời tìm cách
thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở các thị trường
châu Phi,Mỹ La tinh;tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi hàng…
- Chính phủ cũng nên tăng cường rà soát và xác định cụ thể những
nguyên nhân làm chậm trễ hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách hỗ trợ
và khuyến khích xuất khẩu để xử lý kịp thời.Đồng thời thực hiện bổ sung,sửa
đổi các cơ chế,chính sách,quy định chưa hợp lý;tiếp tục cải cách hành chính
tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
1.3 Biện pháp thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt
Nam.
Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước được mở rộng và gắn kết với nhau nên
lượng người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài và lao động xuất khẩu ngày
càng tăng lên.Và thực tế cho thấy,số tiền do những người Việt Nam ở nước
ngoài gửi về nước luôn là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng
lai.Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, nguồn kiều hối
gửi về Việt Nam đã bị giảm sút do phần còn lại của thế giới cũng lâm vào tình
trạng khó khăn.Để có thể khai thác triệt để nguồn ngoại tệ này,Chính phủ cần
có những biện pháp nhằm khắc phục một số vướng mắc hiện tại.Các biện
pháp có thể áp dụng như thiết lập thêm mấy kênh chuyển tiền mới giúp cho
kiều bào an tâm chuyển tiền,nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền,đơn
giản hóa các thủ tục có liên quan tới hệ thống ngân hàng,cải thiện môi trường
đầu tư,khuyến khích kiều bào tăng cường đầu tư vào thị trường trong
nước,tiếp tục thực hiện chính sách thu hút kiều hối thông thoáng…
Các biện pháp kiểm soát trực tiếp nêu trên đếu có tác dụng làm giảm
thiếu hụt cán cân thương mại,tăng khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai
nên Việt Nam cần phải chú trọng tới những biện pháp này.Nhất là trong tình

39
hình hiện nay thì việc đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút tối đa luồng kiều hối là
hết sức quan trọng.Nó không những cải thiện cán cân vãng lai trong hiện tại
mà còn đảm bảo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai giúp thanh toán
những khoản nợ nước ngoài,đảm bảo ổn định nền kinh tế.
2. Các biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài
Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đứng trước hai vấn
đề quan trọng có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao và bền vững:
- Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các
khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư.
- Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu
công nghiệp hóa đất nước dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và sự thiếu hụt
ngoại tệ trong một thời gian dài.
Cả 2 vấn đề này có thể giải quyết bằng cách thu hút vốn ngoài
nước,trong đó có FDI và ODA.Cho nên để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng
lai,cải thiện cán cân thanh toán,Chính phủ nên thu hút các luồng vốn này.Tuy
việc thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ có tác dụng làm tăng sản
lượng,tạo việc làm và tài trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng cũng sẽ làm
tăng thiếu hụt cán cân vãng lai do tăng nhập khẩu và tăng các khoản trả lợi
nhuận,lãi vay cho nước ngoài.Do vậy,để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế,tăng xuất khẩu giải quyết việc làm,Việt Nam phải chấp nhận thâm hụt cán
cân vãng lai trong giới hạn khả năng chịu đựng để không dẫn đến cuộc khủng
hoảng bên ngoài.
2.1 Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
Trong các luồng vốn nước ngoài vào,đầu tư nước ngoài vào,đầu tư trực
tiếp được coi là luồng vốn không tạo ra dư nợ nên Chính phủ cần tập trung

40
khai thác luồng vốn này.Để thu hút được nhiều vốn FDI,Chính phủ có thể
thực hiện có biện pháp sau:
- Tìm kiếm thị trường và đối tác mới:trong khi vẫn coi trọng các
thị trường và đối tác hiện nay,mà chủ yếu là Châu Á và các doanh nghiệp
vừa,cần mở rộng việc thu hút FDI từ thị trường mới nhất là Mỹ - một nước có
tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong
những năm qua.
- Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới:trên cơ sở
thường xuyên quan tâm đến việc xếp hạng của các tổ chức quốc tế về năng
lực cạnh tranh trong đầu tư của từng nước,cũng như sự đánh giá của các nhà
đầu tư nước ngoài đối với nước ta để sửa đổi,bổ sung những nhân tố có liên
quan làm cho vị thế nước ta ngày càng cao hơn trong bảng xếp hạng của thế
giới.
- Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất:đảm bảo tính minh bạch và ổn
định của luật pháp để các nhà đầu tư có thế tính được xu thế phát triển của dự
án đầu tư.Cải cách cơ bản thủ tục hành chính theo nguyên tắc hoạt động đầu
tư thuộc quyền của các doanh nghiệp.
- Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể thu hút vốn FDI phù
hợp và gắn liền với quy hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng chủ
lực, khả năng thu hút lao động cao… từ đó lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu
tiên đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép triển
khai nhanh hoạt động xử lý linh hoạt chuyển đôi các hình thức đầu tư. Ngoài
các dự án không cấp phép đầu tư do yêu cầu an ninh quốc gia, cần mở rộng
danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn các hình
thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả kinh doanh.
- Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng: Khả năng tiếp cận FDI của nền
kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng là nhân tố quyết định

41
đến hiệu quả đầu tư. FDI chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi Việt Nam có khả
năng tiếp năng tiếp nhận vốn và ngược lại sẽ bị phụ thuộc vào nước ngoài. Để
tiếp nhận hiệu quả vốn FDI đòi hỏi phải có một tỉ lệ vốn đối ứng hợp lý.
2.2 Quản lý, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức(ODA)
So vơi FDI, Việt Nam sẽ tiếp nhận nguồn vốn ODA sớm hơn. Nhưng
thực chất nguồn vốn ODA là nguồn vốn ưu đãi.vì chỉ có khoảng 10-15% là
viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn này
là hết sức cần thiết.
Các biện pháp cụ thể là:
- Sức hấp dẫn của ODA nằm ở chỗ khâu lập hồ sơ nhanh chóng,
sát với nhu cầu thực tế, các chủ dự án có năng lực cao. Vì vậy, chính phủ Việt
Nam cần giải quyết các vấn đề này để thu hút thêm nhiều ODA phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội. Công tác vận động vốn ODA cần được đổi mới
cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện, chú trọng khâu lập dự án
nghiên cứu khả thi bảo đảm chất lượng trước khi đàm phán. Trong quá trình
vận động tổ chức vốn cần xuất phát từ lợi ích tổng thể quốc gia, hiệu quả
công việc trên cơ sở nâng cao tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước
ngoài, cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
- Thực hiện nghiêm chỉnh các nghi quyết của Đảng và Chính phủ
đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả những côngty lớn
trong hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt. Một khi chính những công ty nhà
nước đã thực hiện đa sở hữu hóa thì đây chính là một động lực để thúc đẩy
tiến độ giải ngân vốn ODA.
- Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quan trọng này, bao gồm cả
yêu cầu về giải ngân, Chính phủ cần đổi mới công tác tổ chức điều hành các
dự án công trình quan trọng quốc gia có sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với
những công trình, hạng mục công trình quan trọng nên tổ chức đấu thầu chọn

42
chủ dự án, công trình, mà tốt nhất là doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần
hóa hay công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước. Vốn đối ứng để thực hiện
dự án công trình, ngoài ngân sách nhà nước, cần huy động thêm từ xã hội
thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu công trình.
- Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về vốn ODA. Nếu
coi là nguồn viện trợ thuần túy thì dẫn đến sử dụng kém hiệu quả, lãng phí,
không tră được nợ và cuối cùng bị lệ thuộc vào bên ngoài. Viện trợ không
hoàn lại cần đựoc quản lý như đối với nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN)
dành cho đầu tư phát triển, phần vay ưu đãi được hạch toán bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước, kiên quýêt không vay cho chi thường xuyên.
- Để cải thiện tình hình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn ODA, chính phủ cũng cần tiếp tục cải thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo môi
trường rõ ràng hơn và thuận lợi hơn cho quản lý và sử dụng ODA.
3. Biện pháp tăng tiết kiệm
Như phần trên đã phân tích, chúng ta biết rằng thiếu hụt cán cân vãng
lai bằng lỗ hổng tiết kiệm và đầu tư của 1 quốc gia. Đối với Việt Nam thì lỗ
hổng này chủ yếu xuất phát từ khu vực tư nhân. Chính vì vậy, để giảm thâm
hụt cán cân vãng lai đòi hỏi chính phủ phải có các biện pháp nhằm tăng cường
tiết kiệm quốc gia, đặc biệt là tiết kiệm tư nhân. Mặt khác, nếu chính phủ thu
hút được nguồn vốn này để phục vụ cho đầu tư trong nước thì sẽ giảm đựoc
vay vốn nước ngoài. Giảm vay vốn đầu tư nước ngoài sẽ giảm được nhập
khẩu, do đó giảm được thâm hụt thương mại và giảm bớt các khoản nợ nước
ngoài.
Hiện tại, Việt Nam chủ yếu thu hút các nguồn tiết kiệm tư nhân thông
qua hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm. Song lượng tiền gửi vào
chưa nhiều và phần lớn các luồn tiền gửi vào ngân hàng là tiền gửi ngắn hạn.
Kết quả là trong thực tế, Việt Nam là thiếu vốn trung và dài hạn đầu tư cho

43
phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngân hàng cần tích cực thu hút các luồng vốn
trung và dài hạn bằng cách khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu.
Để đạt được ti lệ tích lũy cao hơn, Chính phủ cần phải cải thiện môi
trường tổng thể sao cho thuận lợi hơn, cải thiện khuôn khổ các biện pháp
khuyến khích và cần có 1 chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu để tăng
mức thu nhập. Ngoài ra, nâng cao vai trò quan trọng ccủa nhà nước trong việc
duy trì môi trường với lãi suất thực dương; đảm bảo về mặt pháp lý cho tính
chất toàn vẹn lâu dài của các quyền về tài sản và sở hữu của caỉ vật chất; điều
chỉnh tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để cho người gửi tiền tiết
kiệm có thể yên tâm về giá trị lâu dài của đồng tiền; xây dựng 1 hệ thống
ngân hàng an toàn và lành mạnh để người dân yêu tâm gửi tiền; và một hệ
thống thuế công bằng, hợp lý không de dọa tịch thu tiết kiệm và của cải trong
tương lai.
4. Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu
4.1. Sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Ngoài những biện pháp kiểm soát trực tiếp, để điều chỉnh cán cân thanh
toán,các chính phủ còn có thể sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như các
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Chính sách tiền tệ liên quan đến
cung tiền của NHTƯ của một nước và chính sách tài khóa liên quan đến
những thay đổi trong chi tiêu Chính phủ và thuế quan. Việc sử dụng hai chính
sách này vẫn đảm bảo được cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để có thể phát huy một cách có hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ
mô cho việc thiết lập cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế,yêu cầu
phải có thị trường tài chính và đặc biệt phải tự do hóa về tài chính.
Theo quan điểm của Mundell ,trong điều kiện tự do hóa thương mại và
tài chính với chế độ tỷ giá cố định,cân đối bên trong và bên ngoài có thể đạt
được thông qua chính sách tiền tệ và tài khóa hợp lý. Như vậy là chính sách
tài khóa được phân cho mục tiêu cân đối bên trong và chính sách tiền tệ được

44
phân cho mục tiêu cân đối bên ngoài (vì chính sách tiền tệ có lợi thế tương
đối trong thực hiện cân đối bên ngoài và chính sách tài khóa có lợi thế tương
đối trong thực hiện cân đối bên trong). Trên cơ sở đó, Mundell đã đưa ra một
số gợi ý chính sách điều chỉnh như sau:
Chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm thiết lập cân đối bên trong và bên
ngoài.
Trạng thái nền kinh tế Chính sách tiền tệ Chính sách tài khóa
Thất ngiệp và thặng dư Mở rộng Mở rộng
Lạm phát và thặng dư Mở rộng Thắt chặt
Lạm phát và thâm hụt Thắt chặt Thắt chặt
Thất nghiệp và thâm hụt Thắt chặt Mở rộng

NHTW điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ điều chỉnh
như: nghiệp vụ thị trường mở,tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,lãi suất triết khấu… Chính
phủ điều hành chính sách tài khóa thông qua biện pháp tăng hoặc giảm chi
tiêu của chính phủ và thuế.
Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tức là tăng cung tiền
bằng cách mua vào các trái phiếu trên thị trường mở,dẫn đến giá trái phiếu
tăng và mức lãi suất giảm; lãi suất giảm kích thích đầu tư tăng;đầu tư tăng
làm tăng thu nhập quốc dân; thu nhập quốc dân tăng làm tăng nhập khẩu. Như
vậy ,chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm cho cán cân thanh toán xấu đi.
Ngược lại, khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là giảm
cung tiền bằng cách bán ra các trái phiếu trên thị trường mở, dẫn đến giá trái
phiếu giảm và mức lãi suất tăng : lãi suất tăng kìm hãm đầu tư; đầu tư giảm
làm giảm thu nhập quốc dân ; thu nhập quốc dân giảm làm giảm nhập khẩu.
Như vậy ,chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cho cán cân thanh toán được cải
thiện.

45
Còn khi Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng tức là tăng
chi tiêu của chính phủ bằng cách bán ra trái phiếu trên thị trường mở, dẫn đến
tăng thu nhập thông qua thừa số chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên ,chính sách
tài khóa mở rộng cũng không hẳn làm cho cán cân thanh toán xấu đi. Do
chính phủ bán trái phiếu ra nên giá trị trái phiếu giảm và lãi suất tăng;lãi suất
tăng dẫn đén giảm đầu tư;điều này phần nào làm giảm đi hiệu ứng tăng thu
nhập thông qua thừa số chi tiêu của Chính phủ ;đồng thời lãi suất tăng sẽ kích
thích luồng vốn chảy vào làm cho cán cân thanh toán được cải thiện. Tương
tự ,khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt cũng vậy,nó không
hẳn làm cho cán cân thanh toán được cải thiện. Do việc khó xác định được
chính xác ảnh hưởng của chính sách tài khóa lên cán cân thanh toán cho nên
tùy thuộc vào từng thời kỳ cụ thể mà các nước cần có sự kết hợp hài hòa giữa
các chính sách tài khóa và tiền tệ .
Đối với tình hình Việt Nam hiện nay,các chính sách tiền tệ và tài khóa
cần phải đảm bảo cả mục tiêu cân đối bên trong và mục tiêu cân đối bên
ngoài. Do đó,Chính phủ có thể áp dụng các chính sách cụ thể như sau:
Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mở rộng
tiền tệ. Việc tăng cung tiền sẽ được thực hiện chủ yếu thông qua tăng dự trữ
quốc tế (do cán cân thanh toán thặng dư) và tăng số nhân tiền bằng cách thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc .Kết hợp vói giảm lãi suất để duy trì cung tiền bằng
cầu tiền. Cụ thể:
- Tăng dự trữ quốc tế phù hợp với yêu cầu tăng nhập khẩu phục vụ
phát triển kinh tế ,đồng thời có tác dụng hạn chế việc tăng giá đồng Việt Nam
khi thu hút vốn nước ngoài và hạn chế được tốc độ tăng lạm phát.
- Giảm lãi suất để hạn chế thu hút vốn ngắn hạn và tăng vốn đầu tư
trong nước.
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có ý nghĩa là giảm thuế đánh vào hệ
thống ngân hàng, có tác dụng giảm lãi suất nội địa và giảm chênh lệch lãi suất

46
cho vay. Do đó ,nó đảm bảo vừa tăng được đầu tư vừa khuyến khích được tiết
kiệm trong nước.
Chính sách tài khóa mở rộng hiện nay là: Giảm thuế suất và mở rộng
diện nộp thuế;tăng chi tiêu đầu tư và xã hội để xây dựng cơ sở hạ tầng,xóa đói
giảm nghèo, phát triển giáo dục đồng thời hạn chế chi tiêu thường xuyên
.Thiếu hụt NSNN được bù đắp bằng cách Chính phủ bán công trái và trái
phiếu kho bạc .Cụ thể:
- Mở rộng diện thu thuế là cần thiết để tăng thu ngân sách vì Việt
Nam còn nhiều nguồn thu bị bỏ qua như thu thuế,phí từ thị trường đất đai,bất
động sản,thu nhập cá nhân…
- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,việc để thuế giá trị gia
tăng,thuế suất nhập khẩu cao là không hợp lý làm triệt tiêu động lực của sản
xuất ,giảm sức cạnh tranh.Việc giảm thuế này về dài hạn sẽ thu lại nguồn thu
lớn nhờ sản xuất được mở rộng.
- Để phát triển kinh tế bền vững lâu dài,cần tăng chi cho đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng ,giáo dục,xóa đói,y tế,môi trường… Đồng thời trong ngắn
hạn đây cũng là một biện pháp làm tăng tổng cầu và giải quyết việc làm.
- Bán công trái và trái phiếu kho bạc sẽ có tác dụng thu hút các
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân làm tăng tiết kiệm tư nhân.
Mặc dù tác động cải thiện cán cân vãng lai không rõ ràng nhưng chính
sách tiền tệ và tài khóa lại có tác dụng cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô đảm
bảo cho khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai để tránh không gây
ra một cuộc khủng hoảng bên ngoài như chỉ số: tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng ;tỷ
lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa/GDP tăng ,tỷ giá đồng nội tệ giảm phù hợp với
tỷ giá thực…
4.2 Sáng kiến Chiềng Mai
Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN +3 tổ chức tại Phuket ,Thái Lan
ngày 22 tháng 2 năm 2009 để bàn về các biện pháp đối phó với những bất ổn

47
của thị trường tài chính toàn cầu. Theo đó ,hội nghị đã thông qua việc nâng
cao mức tín dụng của cơ chế “Đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai”
(CMIM) từ 80 tỷ lên 120 tỷ USD và phát triển một cơ chế giám sát mạnh mẽ
và hiệu quả hơn để hỗ trợ việc vận hành CMIM. Sáng kiến Chiềng Mai bao
gồm 2 nội dung chính:
Thứ nhất, mở rộng Thỏa thuận hoán đổi ASEAN (ASA) cho 10 nước
thành viên ASEAN tham gia.Thỏa thuận đã được các nước ký kết vào tháng
11/2000 và tổng giá trị thỏa thuận là 1 tỷ USD ,trong đó mức cam kết của
Việt Nam là 60 triệu USD và mức vay tối đa của Việt Nam trong khuôn khổ
thỏa thuận Hoán đổi ASEAN là 120 triệu USD.
Thứ hai, thiết lập một mạng lưới các thỏa thuận Hoán đổi song phương
(BSA) và thỏa thuận mua lại (Repo) giữa các nước ASEAN và ba nước đối
tác Trung Quốc ,Nhật Bản và Hàn Quốc. Mục đích của BSA là để cung cấp
vốn ngắn hạn dưới hình thức hoán đổi ngoại tệ cho các nước tham gia khi gặp
phải khó khăn về cán cân thanh toán hoặc về khả năng thanh toán trong thời
hạn ngắn.
Trong bối cảnh hội nhập càng sâu rộng với những nguy cơ và thách
thức mới,đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai đã được đề xuất nhằm hỗ trợ
các nước gặp khó khăn về thanh khoản ngắn hạn, đặc biệt khi có khủng hoảng
xảy ra, từng bước và cả khu vực sẽ cần một lượng vốn rất lớn kèm theo sự
phối hợp chung về chính sách. 13 nước đóng góp vào một thỏa thuận hỗ trợ
đa phương với tên gọi là “Thỏa thuận dự trữ tự quản”. Theo đó,các nước cam
kết đóng góp từ nguồn dự trữ ngoại hối để sử dụng cho vay các nước thành
viên gặp phải thiếu hụt thanh khoản tạm thời.
Đây là giải pháp hữu hiệu giữa các nước ASEAN để tự giúp mình
chống đỡ những tác động bất lợi mang lại từ cuộc khủng hoảng kinh tế.
5. Biện pháp điều chỉnh tỷ giá

48
Thực tế cho thấy, các hệ số co giãn nhu cầu hàng xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia phụ thuộc vào cơ cấu hàng xuất khẩu của quốc gia đó.
Qua phân tích, chúng ta thấy rằng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ
yếu là những mặt hàng thô, sơ chế, những mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng
nhỏ. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều phụ thuộc vào nhu
cầu trên thị trường thế giới và giá cả do thị trường thế giới quyết định. Do đó,
Việt Nam có giảm giá các mặt hàng này cũng không thể tăng được số lượng
xuất khẩu và tăng giá thì không xuất khẩu được. Còn những mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thì chủ yếu là hàng gia công, nguyên liệu đầu
vào phàn lớn phải nhập khẩu và có giá trị gia tăng thấp. Do đó nếu Việt Nam
phá giá đồng nội tệ thì cũng không giảm được giá xuất khẩu đối với những
mặt hàng này. Có thể nói, hệ số co giãn nhu cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam
là rất thấp và gần như không co giãn nên việc phá giá sẽ không làm tăng được
doanh thu xuất khẩu của Việt Nam. Đối với hàng nhập khẩu của Việt Nam
cũng vậy, hệ số co giãn nhu cầu nhập khẩu là rất thấp, thậm chí là không co
giãn ở Việt Nam. Vì hiện nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa
đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nên rất cần nhập khẩu các máy móc
thiết bị, phụ tùng và nguyên nhiên liệu ( trong nước không sản xuất được).
Đây cũng chính là những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam. Do đó,
việc phá giá đồng nội tệ cũng không thể giẩm bớt những chi phí nhập khẩu
của Việt Nam.
Như vậy là việc phá giá đồng nội tệ ở Việt Nam hoàn toàn không có tác
dụng cải thiện can cân thương mại cả trong ngắn hạn và dài hạn, không đẩy
nhanh được tốc độ tăng trưởng kinh tế, không giải quyết được thất nghiệp.
Không những thế, phá giá đồng nội tệ còn làm cho lạm phát ở Việt Nam tăng
cao. Vì vậy, khi xem xét vấn đề phá giá đồng Việt Nam cho việc thanh toán
các khoản nợ nước ngoài, ảnh hưởng không tốt đến quá trình công nghiệp hóa

49
đất nước( do hạn chế nhập khẩu)… Trong bói cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện
nay, chính phủ không nên phá giá đồng nội tệ.
Một số biện pháp về chính sách tỷ giá trong thời gian tới mà Việt Nam
cần thực hiện là:
- Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng
ngoại.
- Ổn định tỷ giá trên mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất
khẩu,kích thích xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu,cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế và tăng dự trự ngoại tế.
- Từng bước nâng cao uy tín VNĐ,tạo điều kiện cho VNĐ có thể
trở thành đồng tiền chuyển đổi.
- Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la
hóa.
Ngoài ra ,Chính phủ cần hoàn thiện hơn chính sách ngoại hối để vừa
tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế vừa thúc đẩy các hoạt động thương
mại,dịch vụ,du lịch,kiều hối,đầu tư,…nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền
của đồng Việt Nam, thực hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ.

50

You might also like