Professional Documents
Culture Documents
Sự Phát Triển Của Hành Vi Ăn Uống- Báo khoa học
Sự Phát Triển Của Hành Vi Ăn Uống- Báo khoa học
Trong một nghiên cứu với đối tượng tham gia là trẻ sơ sinh từ 7-14 tuần tuổi,
lượng sữa tiêu thụ liên quan đến thời gian kể từ lần ăn cuối. Mối liên hệ giữa thời
gian trôi qua và lượng sữa tiêu thụ là tương đối bất ngờ, vì các loài động vật thí
nghiệm sơ sinh lại tối đa hóa lượng sữa có sẵn. Đến giờ vẫn chưa có thông tin
chính xác về thứ mà trẻ sơ sinh cảm nhận như là mối tương quan về thời gian kể
từ lần ăn cuối, nhưng nó có thể bao gồm năng lượng tiêu hao, cảm giác lấp đầy dạ
dày, hoặc ham muốn bú sữa.
Trẻ sơ sinh bú sữa mẹ giảm lượng sữa tiêu thụ với việc sử dụng núm vú giả, điều
này chỉ ra vai trò của việc cho con bú trong khả năng tự điều chỉnh lượng tiêu thụ.
Cũng có thể các cơ chế hormone làm tăng khoái cảm liên quan đến việc cho ăn
sau khi một thời gian đã trôi qua. Việc trẻ sơ sinh tự điều chỉnh được lượng tiêu
thụ để cân bằng năng lượng hay làm dư thừa năng lượng vẫn là một ẩn số, nhưng
cũng là một trong những câu hỏi khoa học quan trọng nhất liên quan đến việc cho
trẻ ăn sớm và nguy cơ mắc bệnh béo phì.
Ngay cả ở người trưởng thành, cũng không có thông tin về việc liệu năng lượng
được điều chỉnh quanh điểm đặt/điểm đã cho, điểm ổn định, hay một mô hình
khác mà có thể giải thích rõ hơn về mối tương tác giữa gen-môi trường. Các
nghiên cứu hành vi và nghiên cứu cơ bản mà thử nghiệm những yếu tố kích thích
cảm giác no và sự thỏa mãn của trẻ sơ sinh, đồng thời tập hợp các nghiên cứu
theo thời gian về những chiến lược cho ăn khác nhau với sự đo lương cẩn thận
của các bộ điều chỉnh tiềm năng hứa hẹn sẽ giải được câu đố quan trọng này.
Các cơ chế khen thưởng liên quan đến ăn uống
Những tiến bộ gần đây trong khoa học thần kinh liên quan đến hành vi ăn uống
đối với các hệ thống khen thưởng/tự thưởng não bộ hứa hẹn cung cấp sự hiểu
biết về các rối loạn do ăn quá ít và ăn quá nhiều (Biểu đồ 2). Các hệ thống khen
thưởng dựa vào não bộ phối hợp với các bộ điều chỉnh hormone cân bằng năng
lượng.
Mặc dù sự phát triển ban đầu của các hệ thống khen thưởng vẫn chưa được hiểu
rõ hoàn toàn, nhưng có vẻ như niềm vui thú và sự mãn nguyện sẽ xuất hiện ở trẻ
nhỏ. Con người không có khả năng ăn quá nhiều thức ăn nhạt, nhưng những loại
thực phẩm ngon miệng lại thường được ăn nhiều hơn nhu cầu năng lượng. Các
loại thực phẩm hấp dẫn được biết là có thể cải thiện tâm trạng bằng cách kích
hoạt hệ thống khen thưởng.
Các vùng vân, vùng thùy đảo (insula), vùng vành cung vỏ não trước trán và vùng
não giữa bao gồm vùng chỏm não VTA (ventral tegmental area) và vùng chất đen
(substantia nigra) có hiệu lực trong việc thể hiện sự mãn nguyện/tự thưởng nhằm
phản ứng với thực phẩm. Chất dẫn truyền thần kinh dopamine liên quan đến
phản ứng tự thưởng đối với việc tiêu thụ thực phẩm ngon miệng. Ngoài ra, vùng
vỏ não trán ổ mắt (orbitofrontal cortex) mã hóa các loại kích thích tự thưởng cụ
thể bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau của thực phẩm: mùi; đầu vào trực quan;
nhiệt độ, độ nhớt/tính sệt, tính chất làm se và kết cấu chất béo; và vị.
Các tế bào thần kinh phản ứng mạnh mẽ khi bắt đầu một giai đoạn ăn uống và trở
nên ít phản ứng hơn khi đã được cảm giác no đối với một loại thực phẩm cụ thể.
Nghiên cứu hành vi chỉ ra rằng hiện tượng này đã xuất hiện ở trẻ em từ 2,5-5 tuổi.
Khi sự quan tâm, hứng thú giảm dần đối với một loại thực phẩm, tế bào thần kinh
vẫn có thể phản ứng tự thưởng với các loại thực phẩm khác. Việc có sẵn nhiều
loại thực phẩm có thể làm tăng việc tiêu thụ. Điều này có thể mang lợi thế tiến
hóa trong việc đảm bảo lượng tiêu thụ nhiều loại dưỡng chất. Trong thời đại hiện
nay, nó có thể là một yếu tố liên quan đến nguy cơ bị béo phì.
Những điểm tương đồng giữa việc ăn quá nhiều trong bệnh béo phì và lạm dụng
chất gây nghiện quá mức trong tình trạng nghiện thuốc cho thấy rằng cả hai có
thể liên quan đến sự thay đổi từ “thích đến muốn.” Các chiến lược nghiên cứu
mới lạ đang tập trung kết hợp cân bằng nội môi năng lượng và cân bằng nội môi
tự thưởng trong những mẫu/mô hình điều chỉnh khẩu vị/cảm giác thèm ăn mới
để giải quyết vấn đề từ “thích” mà chuyển sang “muốn.”
Ghi chú hình:
Lateral hypothalamus: vùng dưới đồi bên
Ventral tegmental area: vùng chỏm não, vùng VTA
Substantia nigra: vùng chất đen
Amygdala: hạch hạnh nhân
Nucleus accumbens: vùng nhân não
Dorsal striatum: vùng vân lưng
Insula: thùy đảo
Orbitofrontal cortex: vỏ não trán ổ mắt
Biểu đồ 2: Các vùng não hoạt động để phản ứng với thực phẩm hợp khẩu vị hoặc
các tín hiệu liên quan đến thực phẩm
Sự phát triển của các sở thích giác quan – gen và sự tiếp xúc
Khả năng nhận thức vị và mùi phát triển trước khi sinh với sự tiếp xúc của thai nhi,
vì thai nhi sẽ nuốt/uống nước ối có lẫn hương vị từ chế độ dinh dưỡng của người
mẹ bao gồm các hợp chất thơm từ tỏi, cây hồi và hành tây. Trẻ sơ sinh được tiếp
xúc với nước ép cà rốt từ chế độ ăn uống của người mẹ trong tam cá nguyện thứ
ba hoặc trong giai đoạn cho bú có khả năng thích các loại ngũ cốc dành cho trẻ sơ
sinh mà được làm từ nước cà rốt hơn là những đứa trẻ thiếu đi trải nghiệm tiếp
xúc đầu đời.
Có một mối quan tâm đáng kể về việc lập trình sở thích vị trước khi sinh vì nó có
thể dẫn đến những biện pháp can thiệp ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận sớm
các loại thực phẩm bổ dưỡng. Các nghiên cứu theo thời gian/nghiên cứu theo
chiều dọc về sở thích vị của trẻ sơ sinh có thể được thiết kế bằng cách tập trung
vào đối tượng tham gia là những đứa trẻ sơ sinh có mẹ tham gia vào các thử
nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng mà thử nghiệm các biện pháp can thiệp để thúc
đẩy những chế độ dinh dưỡng lành mạnh hơn trong thời kì mang thai.
Sau khi sinh, trẻ sơ sinh được nuôi bằng sữa mẹ vẫn tiếp xúc với những hương vị
từ chế độ dinh dưỡng của mẹ chúng. Nhiều tháng trước khi được nếm những
hương vị đầu tiên của thức ăn trẻ em hoặc các loại đồ uống không phải là sữa,
những trải nghiệm tiếp xúc này đã thiết lập và sửa đổi sở thích vị ở trẻ sơ sinh, chí
ít là trong một thời gian ngắn.
Vào những năm tháng đầu đời, hầu hết trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đều thích vị ngọt và
vị mặn, các sở thích được tăng cường bằng việc tiếp xúc ngày càng nhiều và giảm
nhẹ trong giai đoạn trưởng thành. Vị đắng chát, như của một số loại rau củ,
thường bị từ chối vào lần trải nghiệm đầu tiên, nhưng càng tiếp xúc nhiều với vị
này thì sự ưa thích đối với nó càng tăng. Ví dụ, quá trình tiếp xúc với đậu nành và
các công thức protein thủy phân vào giai đoạn còn ẵm ngửa có liên quan đến việc
chấp nhận những công thức này vào 4 năm sau.
Trong giai đoạn thơ ấu, việc tiếp xúc lặp lại với nhiều loại thực phẩm khác nhau có
liên quan đến những thực phẩm không được yêu thích lúc đầu. Ở một số nền văn
hóa, trẻ em được cố tình cho tiếp xúc với các hương vị mạnh. Ví dụ ở Mexico,
chúng được cho ăn các món ăn thêm ớt với độ cay tăng dần. Việc học cách thích
những thực phẩm ban đầu không hợp khẩu vị có thể là một phần của quá trình xã
hội hóa.
Sở thích vị liên quan đến trải nghiệm trước đó, giai đoạn phát triển, và các gen
ảnh hưởng đến nhận thức về hương vị. Một ví dụ đã được nghiên cứu kĩ lưỡng là
khả năng nếm hợp chất đắng, 6-n-propylthiouracil (PROP), được trung hòa một
phần bởi gen TAS2R38. Trẻ em không nếm được PROP có khả năng dễ tiếp nhận
các loại rau củ hơn. Sự thiếu nhạy cảm với PROP xuất hiện ở khoảng 30% dân
châu Âu và khác biệt trên toàn thế giới. Khả năng nếm PROP có liên quan đến việc
cảm nhận các loại thực phẩm đắng là ít ngon miệng hơn, tiêu thụ ít rau hơn,
ghét/không muốn ăn nhiều loại thức ăn hơn, và liên quan đến cả nguy cơ mắc
bệnh béo phì ở trẻ em.
Sự phát triển sớm
Trong vòng 2 năm đầu tiên, trẻ sơ sinh tiến triển qua ba giai đoạn cho ăn/nuôi
dưỡng phát triển: giai đoạn cho bú, giai đoạn cho ăn chuyển tiếp, và giai đoạn cho
ăn theo chế độ dinh dưỡng của người trưởng thành nhưng đã điều chỉnh. Sự phát
triển trong việc cho ăn thường diễn ra dựa vào các mốc phát triển thần kinh được
mô tả hiệu quả (Bảng 1).
Bảng 1
Các mốc phát triển thần kinh được chọn lọc liên quan đến việc cho ăn
18–24 Bú
Kiểu nuôi dạy con đặc trưng bởi mức độ đáp ứng thấp cũng là một nguy cơ gây ra
bệnh béo phì và dẫn đến tình trạng ăn theo cảm xúc (liên quan đến việc ăn uống
không điều độ và nguy cơ mắc bệnh béo phì) ở học sinh lớp một tại Mỹ, được lấy
mẫu từ một nghiên cứu theo thời gian của NICHD, cụ thể là Nghiên cứu Chăm sóc
Trẻ Sớm. Trong cả hai mẫu Mỹ và Anh – được lần lượt lấy mẫu từ một nghiên cứu
theo thời gian quy mô lớn và một nghiên cứu quan sát thuần tập quy mô nhỏ –
cách nuôi dạy con quyết đoán và sự nhiệt tình/nồng hậu giúp bảo vệ trẻ khỏi tình
trạng ăn uống theo cảm xúc cũng như nguy cơ bị béo phì.
* Hạn chế, kiểm soát và giám sát
Việc bố mẹ kiểm soát việc ăn uống của con trẻ đã được nghiên cứu rộng rãi so với
kiểu cho ăn mang tính chỉ thị cao, bao gồm việc hạn chế. Điều quan trọng là phải
phân biệt rõ ràng việc kiểm soát công khai và kiểm soát che đậy của cha mẹ đối
với hành vi ăn uống và lựa chọn thực phẩm của trẻ.
Kiểm soát công khai bao gồm cả việc hạn chế và tạo áp lực trong việc ăn uống.
Kiểm soát che đậy bao gồm những chiến lược như là chỉ mua thực phẩm tốt cho
sức khỏe cho cả gia đình và tránh các cửa hiệu cũng như hàng quán bán các món
ăn không lành mạnh.
Kiểm soát công khai có thể bị phát hiện bởi trẻ, trong khi kiểm soát che đậy lại
liên quan đến việc kiểm soát mà đứa trẻ có thể không nhận ra. Các hành vi ăn
uống của bố mẹ cũng giữ một vai trò quan trọng trong kiểm soát che đậy, vì bố
mẹ làm mẫu các hành vi ăn uống lành mạnh cho con của họ.
Hầu hết các bậc làm cha mẹ thường áp dụng một số chiến lược kiểm soát công
khai cùng một số chiến lược che đậy. Hơn nữa, họ có thể kiểm soát trong một số
tình huống nhất định này mà không phải những tình huống khác.
Cha mẹ có báo cáo là họ thay đổi chiến lược khi nhu cầu của con họ phát triển. Vì
việc cho trẻ ăn liên quan đến quá trình hai chiều, nên tính cách của cả cha mẹ và
đứa trẻ đều là công cụ trong việc xác định chiến lược kiểm soát của cha mẹ đối
với hành vi ăn uống của trẻ. Chiến lược kiểm soát của cha mẹ cũng bị ảnh hưởng
bởi các chuẩn mực gia đình và văn hóa liên quan đến chế độ dinh dưỡng và đến
hành vi ăn uống của trẻ.
Các thói quen cho ăn kiểm soát hoặc hạn chế đóng một vai trò quan trọng trong
sự phát triển của hành vi cho ăn. Một khối lượng nghiên cứu đồ sộ đã cho thấy
rằng việc hạn chế quá mức khả năng tiếp cận những loại thực phẩm nhất định hay
hạn chế ăn một số lượng thực phẩm mong muốn có thể phản tác dụng, và liên
quan đến sự gia tăng lượng calo tiêu thụ và ăn uống thiếu kiềm chế hay ăn uống
mất phản xạ, ăn uống thất thường.
Ví dụ, những bé gái bị cha mẹ hạn chế gắt gao trong 5 năm, thường dễ ăn uống
thiếu kiềm chế hơn, được đo một cách thực nghiệm trong phòng thí nghiệm như
là “ăn khi không đói” ở độ tuổi 7 và 9. Mối quan hệ này mạnh mẽ hơn nếu các bé
bị thừa cân. Các nhà nghiên cứu đã đặt ra giả thuyết rằng việc hạn chế và kiểm
soát công khai có thể làm giảm đến khả năng tự điều chỉnh cân bằng calo và nhu
cầu năng lượng, dẫn đến các mức độ khác nhau của việc ăn không kiểm soát, tăng
cân, béo phì, và nguy cơ bị rối loạn ăn uống.
Trong nghiên cứu theo thời gian này, tình trạng béo phì ở trẻ em không phải một
điều kiện trước hết của sự hạn chế. Trong các nghiên cứu khác, sự hạn chế của
cha mẹ đã được chứng minh là phát triển trong mối quan hệ với việc nhận thức
trẻ bị thừa cân hoặc với xu hướng ăn quá nhiều, hoặc với hình ảnh cơ thể của
người mẹ.
Nghiên cứu quan trọng của Birch chủ yếu được dựa vào một nghiên cứu thuần
tập theo thời gian với sự tham gia của khoảng 200 bé gái da trắng thuộc tầng lớp
trung lưu đến từ vùng ngoại ô Pennsylvania, và được hiểu rõ nhất trong bối cảnh
đó. Birch cùng đội nghiên cứu đã tiếp tục nghiên cứu những mối quan hệ này khi
các đối tượng tham gia lớn tuổi hơn bằng cách sử dụng cả thiết lập dựa trên
phòng thí nghiệm lẫn thiết lập tự nhiên. Mô hình ăn uống khi không đói đã được
sử dụng trong nghiên cứu cho nhiều bối cảnh khác nhau, bao gồm thanh thiếu
niên người Latino và các mẫu đô thị.
Những khía cạnh khác trong việc kiểm soát của cha mẹ mà đáng được nhắc tới
bao gồm phần thưởng, nhắc nhở/hối thúc ăn uống, sự xâm phạm và giám sát.
Hơn 20 năm trước, Birch đã chỉ ra rằng việc sử dụng phần thưởng để thúc đẩy trẻ
tiêu thụ thực phẩm lành mạnh, hoặc để “ăn hết thức ăn trong đĩa” cuối cùng đã
làm giảm sự yêu thích đối với chính những loại thực phẩm đó.
Trong một nghiên cứu khác, những người mẹ có trình độ học vấn thấp hơn lại hay
nhắc nhở/hối thúc con cái từ 3-6 tuổi của họ ăn hơn. Điều này đặc biệt đúng nếu
đứa trẻ ít tuổi hơn và loại thực phẩm đó mới lạ. Mặc dù những bà mẹ béo phì
không hối thúc con mình ăn nhiều như những bà mẹ không bị béo phì, nhưng một
khi được nhắc nhở thì con của họ lại có nhiều khả năng tiếp nhận món ăn đó (một
cách tuân thủ) hơn là con cái của những người mẹ không bị béo phì.
Nghiên cứu này đã nhấn mạnh sự phức tạp của sự tương tác hai chiều liên quan
đến việc cho ăn và chỉ ra rằng các biến không đo lường được (cụ thể là mối quan
hệ giữa mẹ-con, gen) có thể thúc đẩy đứa trẻ ăn nhiều hơn trong những thiết lập
nhất định.
Ngược lại, việc khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ cũng đã được ghi nhận là ảnh
hưởng xấu đến sự tăng trưởng ở trẻ sơ sinh không phát triển mạnh, trong một số
cài đặt nhất định. Những hành vi nuôi dạy con cái khác thường/sai lệch hơn, bao
gồm xâm phạm, đã được chứng minh là có liên quan đến các rối loạn ăn uống ở
trẻ sơ sinh.
Các mô hình cho ăn xâm phạm biểu hiện khi cha mẹ không đáp ứng tín hiệu ăn
uống của trẻ, để có lợi cho chính nhận thức hoặc nhu cầu của chúng. Các ví dụ
bao gồm việc khăng khăng bắt trẻ ăn miếng cuối, thúc ăn, và cực đoan nhất là cho
ăn theo kiểu ép buộc. Cho đến nay, các nghiên cứu liên quan đến việc gây áp lực
và xâm phạm khi cho trẻ ăn chủ yếu là các nghiên cứu cắt ngang, gây khó khăn
cho việc suy ra ưu tiên tạm thời (temporal precedence).
Việc giám sát của cha mẹ đối với lượng tiêu thụ của trẻ, một trong ba yếu tố đánh
giá thái độ và thực hành kiểm soát của phụ huynh trong công tác xác nhận của
Birch từ Bảng câu hỏi Nuôi dưỡng trẻ, đã được bao gồm trong cấu trúc kiểm soát
của cha mẹ mà liên quan đến sự gia tăng nguy cơ ăn uống thiếu kiềm chế/ăn uống
thất thường.
Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây, đánh giá hoạt động giám sát như một cấu trúc
riêng biệt, lại chỉ ra rằng hoạt động này của cha mẹ thực chất có thể ảnh hưởng
tích cực đến sự tăng trưởng cũng như hành vi ăn uống của trẻ.
Hoạt động giám sát đã được chứng minh là không chỉ liên quan đến việc tăng cân
phù hợp mà còn có mối liên hệ với khả năng giảm cân trong trường hợp béo phì.
Ba năm sau, các nghiên cứu mà vận dụng Nghiên cứu Chăm sóc Trẻ Sớm của
NICHD đã cho thấy rằng việc giám sát ăn uống của cha mẹ có con gái học lớp 3
không liên quan đến sự giảm thiểu nguy cơ mắc các chứng rối loạn ăn uống, và
xác nhận sự khác biệt rõ ràng việc hạn chế và giám sát. Hơn nữa, các chương trình
giảm cân dựa vào bằng chứng bao gồm việc giám sát và kiểm soát, và những
chương trình này không thúc đẩy các chứng rối loạn ăn uống ở trẻ em béo phì
(những đối tượng được biết là có nguy cơ gia tăng).
Tóm lại, một khối lượng nghiên cứu lớn về hành vi nuôi dạy con cái liên quan đến
việc ăn uống của trẻ đã chỉ ra rằng hầu hết các bậc cha mẹ đều áp dụng một số
chiến lược công khai hoặc che đậy liên quan đến việc thúc đẩy những gì mà họ
nhận thức là hành vi ăn uống và chế độ dinh dưỡng tối ưu.
Trong môi trường dễ gây béo phì như hiện nay thì việc kiểm soát và giám sát môi
trường thực phẩm của trẻ là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, một số chiến lược có
thể phản tác dụng, chẳng hạn như việc khen thưởng khi trẻ tiêu thụ các loại thực
phẩm nhất định, một số thói quen kiểm soát công khai và các chiến lược cho ăn
theo kiểu xâm phạm.
Ảnh hưởng về mặt xã hội đối với năng lượng tiêu thụ và hành vi ăn uống
Ăn uống là một trong những hoạt động mang tính xã hội nhất của con người. Các
bằng chứng thực nghiệm đã cho thấy những ảnh hưởng về mặt xã hội đối với khả
năng điều chỉnh năng lượng ở trẻ sơ sinh.
Trong một thử nghiệm với trẻ sơ sinh từ 7-14 tuần tuổi, lượng tiêu thụ có liên
quan đến tương tác xã hội. Trẻ sơ sinh được bế/giữ, so với trẻ được cho ăn trong
ghế dành cho trẻ sơ sinh, có lượng tiêu thụ liên quan tuyến tính với thời gian kể
từ lần cho ăn cuối. Tuy nhiên, khi một người cho ăn mới giao tiếp trực quan với
trẻ sơ sinh, thì mức độ liên quan giữa khối lượng và thời gian kể từ lần cho ăn
cuối lại thấp hơn.
Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng “những ảnh hưởng xã hội đã ngay lập tức tác
động mạnh mẽ đến việc bú/mút sữa.” Việc bú sữa cung cấp dinh dưỡng và cơ hội
để có được thông tin xã hội về người cho ăn. Tình trạng rối loạn khối lượng từ lần
cho ăn cuối không xảy ra nếu người mẹ là người cho ăn và tham gia xã hội với trẻ
sơ sinh trong suốt quá trình cho ăn.
Việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt xã hội, hành vi gia tăng dựa vào thị giác và âm
thanh của những người khác có cùng hành vi, đã được chứng minh là yếu tố
quyết định hành vi ăn uống của bộ Linh trưởng, và trẻ em cũng như người trưởng
thành. Việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt xã hội được tin là dựa trên sự gia tăng
cảm giác kích thích hoặc kéo dài thời gian. Trong một nghiên cứu thực nghiệm, trẻ
em trước độ tuổi đi học đã cho thấy mức tiêu thụ tăng, khi các nhóm có quy mô
lớn và thời gian ăn nhẹ dài hơn (≥11 phút). Trẻ em trong các nhóm lớn hơn bắt
đầu bữa ăn nhẹ nhanh hơn và ăn cũng khẩn trương hơn một chút. Mức tiêu thụ
tăng chỉ có ý nghĩa khi có đủ thời gian, vì tốc độ ăn uống chỉ khác nhau một chút.
Khi trẻ xã hội hóa trong bữa ăn, mức tiêu thụ cùa chúng sẽ thấp hơn. Việc nhắc
nhở và thúc giục của cha mẹ không ảnh hưởng đến lượng thực phẩm được tiêu
thụ.
Sự chứng nhận và hoạt động làm mẫu của cha mẹ giúp thúc đẩy khả năng tiếp
nhận và sở thích của trẻ đối với các món ăn mới lạ. Trẻ em từ 18 tháng tuổi đã
nhận ra rằng chúng có thể không hứng thú với những loại thực phẩm mà người
lớn thích, nhưng có nhiều khả năng vẫn thử những loại thực phẩm mà người lớn
giới thiệu.
Đến năm lên 3 tuổi, trẻ hiểu được rằng sự chứng nhận của người lớn không phải
lúc nào cũng đáng tin cậy, thế nhưng chúng vẫn có xu hướng thử các món ăn dựa
vào lời giới thiệu/khuyến nghị của người lớn.
Về sau, trẻ có khả năng nhớ những hương vị này, và trẻ em trên 4 tuổi đã tăng tỷ
lệ thích hương vị đó. Sự chứng nhận liên quan đến vị ngon thường được trẻ từ 3-
6 tuổi tin tưởng, nhất là khi những lời lẽ mang tính tuyệt đối (ví dụ như “tuyệt
vời,” “ngon lành”) thay vì lời lẽ tương đối (cụ thể là “ngon hơn,” “nhiều hơn”)
được sử dụng.
Hoạt động làm mẫu/ăn mẫu của người lớn là một phương pháp cực hiệu quả
trong việc thuyết phục trẻ trước tuổi đi học thử những món ăn mới. Khả năng tiếp
nhận thực phẩm mới lạ được tăng cường nếu thức ăn được một người lớn thân
quen cung cấp, người cũng đang ăn món ăn có cùng hình dạng, kích thước và màu
sắc. Việc này phân biệt trẻ em với các loài linh trưởng chưa trưởng thành mà chỉ
đơn thuần tiếp nhận các loại thực phẩm mới lạ dựa vào sự tạo thuận lợi xã hội.
Những đề xuất xã hội cũng có thể thay đổi sở thích/ưu tiên thực phẩm của trẻ
em. Vào năm 1938, nhà tâm lý học xã hội, Karl Duncker, đã nghiên cứu hiệu quả
của đề xuất xã hội trong việc tác động đến hành vi ăn uống và sở thích được xác
nhận của trẻ em trước tuổi đi học tại Anh Quốc. Trẻ em nếm thử và xếp hạng
theo thứ tự ưu tiên 6 loại thực phẩm khác nhau. Một tuần sau, chúng được tiếp
xúc với sở thích của bạn học cùng lớp. Hầu hết trẻ em đã thay đổi thứ hạng để
khớp với các bạn cùng lớp, nhất là nếu những người bạn đó lớn hơn chúng một
chút, hoặc được đặc biệt ngưỡng mộ. Sự thay đổi trong sở thích thực phẩm có
khả năng tồn tại trong 2 tháng liền nếu giai đoạn đó diễn ra nhiều lần tiếp xúc
trong vòng vài tuần.
Trong một thử nghiệm khác, những đứa trẻ được nghe câu chuyện xã hội về một
người anh hùng “giải cứu dân thường” bằng cách cung cấp một loại thực phẩm
không ngon miệng, thường chọn ăn loại thực phẩm không ngon miệng đó thay vì
sôcôla. (Chúng đã thử cả hai loại thực phẩm trước đó). Sở thích được kéo dài
bằng cách nghe lại câu chuyện.
Có vẻ như đề xuất xã hội là một công cụ sửa đổi mạnh mẽ đối với sở thích/ưu tiên
thực phẩm của trẻ em. Điều này trở nên quan trọng với sự gia tăng ảnh hưởng
của bạn bè đồng trang lứa trong giai đoạn thanh thiếu niên và giai đoạn mới
trưởng thành, và thường dẫn đến những sở thích/ưu tiên dành cho các loại thực
phẩm kém lành mạnh hơn.
Hơn nữa, sức mạnh của đề xuất xã hội không hề bị mất trong các ngành công
nghiệp mà đã thành công trong việc tác động đến sở thích và lựa chọn thực phẩm
của trẻ, những tác động mạnh mẽ nhất đối với các loại thực phẩm kém lành mạnh
nhất. Tóm lại, nghiên cứu hành vi chỉ ra rằng các yếu tố xác hội từ gia đình, bạn bè
đồng trang lứa cùng các nhóm xã hội lớn hơn có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự lựa chọn và phát triển sở thích thực phẩm.
Kết luận
Mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa tìm được lời đáp liên quan đến sự phát triển
của hành vi ăn uống, nhưng chúng ta vẫn đang trong giai đoạn mở rộng nhanh
chóng vốn hiểu biết của mình về các quy trình phức tạp và tinh vi của khả năng
điều chỉnh/điều tiết năng lượng và điều chỉnh khen thưởng/phần thưởng.
Những tiến bộ trong khoa học thần kinh và bộ gen/hệ gen hứa hẹn sẽ làm sáng tỏ
những khác biệt cá nhân trong khả năng điều tiết năng lượng, sở thích vị, và hành
vi tìm kiếm phần thường liên quan đến thực phẩm.
Các nghiên cứu tương lai hứa hẹn sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận và suy nghĩ
về việc điều chỉnh năng lượng cũng như khen thưởng bằng cách giải quyết nhiều
câu hỏi, bao gồm những câu hỏi sau: Làm thế nào mà việc tiếp xúc có thể làm
tăng sở thích? Ở mức độ nào thì các tín hiệu giác quan cụ thể cùng với những ảnh
hưởng xã hội có thể lý được giải khả năng tiếp nhận và sở thích thực phẩm? Liệu
thức ăn có phải một chất gây nghiện với một số người không?
Ngoài ra, các nghiên cứu hành vi cũng đang giải thích cách các trải nghiệm nuôi
dưỡng/cho ăn, sự tương tác giữa cha mẹ-con cái và những ảnh hưởng xã hội rộng
lớn hơn thay đổi hành vi ăn uống.
Việc hiểu rõ sự phát triển của hành vi ăn uống là rất quan trọng vì nhiều vấn đề y
tế công cộng cũng như các vấn đề lâm sàng, bao gồm tình trạng kém phát triển,
rối loạn ăn uống cùng với bệnh béo phì, sẽ được hiểu thấu đáo hơn khi khía cạnh
phát triển được xem xét kĩ càng.
Các hệ thống sinh học, phát triển, tâm lý và xã hội phức tạp thúc đẩy sự phát triển
cũng như duy trì các hành vi ăn uống. Việc tăng sự hiểu biết về từng cấp độ sẽ
giúp cung cấp thông tin về việc phòng ngừa, can thiệp, và điều trị các tình
trạng/bệnh chứng liên quan đến hành vi ăn uống.
Lời cảm ơn
Sự hỗ trợ được cung cấp bởi Quyết định số R01HL088530 (PI: Gahagan) từ Viện
Tim, Phổi, và Máu Quốc gia. Nội dung hoàn toàn là trách nhiệm của tác giả và
không nhất thiết thể hiện quan điểm chính thức của Viện Tim, Phổi, và Máu Quốc
gia hay Viện Y tế Quốc gia.
• Bản gốc: The Development of Eating Behavior – Biology and
Context
• Tác giả: Sheila Gahagan, M.D., M.P.H.
• Doi: 10.1097/DBP.0b013e31824a7baa
• Người dịch: Tống Hải Anh, nhóm Hạ Mến, hướng dẫn ăn đúng