Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN NHÓM 7 QLRR
TIỂU LUẬN NHÓM 7 QLRR
---------***--------
TIỂU LUẬN:
Lớp: DC57KTDN
Giảng viên: Huỳnh Đăng Khoa
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 7
1.2 Phân tích rủi ro (sử dụng mô hình xương cá) ..............................................................10
2.4 Các cách quản trị rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế phổ biến là:............27
2.5 Cách quản trị rủi ro đạo đức các phương thức thanh toán quốc tế phổ biến là: .............29
CHƯƠNG 3: RỦI RO THỎA THUẬN TRỌNG TÀI BỊ VÔ HIỆU HOẶC KHÔNG THỰC
HIỆN ĐƯỢC 31
3.2.2 Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được ....................................................33
Ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong hợp đồng này, người mua và người bán đã ký kết
với nhau điều kiện giao hàng là CIF HCMC port Incoterms 2010. Khi xét điều khoản về
giao hàng (Delivery), có một số rủi ro xuất hiện như sau:
- Quy cách đóng gói (packing) được để là theo tiêu chuẩn xuất khẩu (export standard)
nhưng không nói cụ thể là tiêu chuẩn xuất khẩu của nước nào, do cơ quan nào ban
hành. Điều này sẽ dẫn đến việc người bán có thể đóng gói bằng quy cách xuất khẩu
nào đó tùy theo ý họ (vì hợp đồng không nêu rõ) và điều này có thể dẫn đến tranh
chấp giữa người mua và người bán.
- Kế đến, khi xét đến cảng dỡ hàng (Port of Discharge) thì cả hai bên có thỏa thuận là
cảng dỡ có thể là cảng tại TP.HCM hoặc là cảng hàng không Tân Sơn Nhất. Qua
điều khoản này ta có thể hiểu rằng người mua cho phép người bán có hai sự lựa chọn:
Nếu chuẩn bị hàng kịp và tiết kiệm chi phí thì có thể vận chuyển bằng đường biển
còn nếu chuẩn bị hàng không kịp thì có thể vận chuyển đến gấp cho người mua thông
qua đường hàng không. Tuy vậy, cũng chính vì điều này mà khiến cho bên người
bán Trung Quốc gặp khó khăn trong các khâu phía sau và tạo ra rủi ro lớn cho họ.
- Cụ thể, trong các điều khoản về chứng từ giao hàng bao gồm: Hóa đơn, phiếu đóng
gói, vận đơn, CO thì người bán sẽ không thể nhận được tiền hàng nếu như vận
chuyển lô hàng này bằng đường hàng không (Trong trường hợp người bán cảm thấy
có thể sẽ giao trễ lô hàng này và hợp đồng cũng đã cho phép cảng đích là cảng hàng
không Tân Sơn Nhất). Tại sao không thể lấy được tiền hàng vì khi xét điều khoản
về thanh toán trong hợp đồng này, ta có thể thấy phương thức thanh toán là L/C. Mà
L/C sẽ được mở theo đúng như các chứng từ yêu cầu phải xuất trình trong hợp đồng
bao gồm: ⅔ bản vận đơn đường biển gốc, 3/3 phiếu đóng gói đã ký, mộc và chính
xác, 3/3 bản hóa đơn thương mại và 1 bản giấy chứng nhận xuất xứ. Theo nguyên
tắc của L/C, chỉ cần có bất kỳ một sự xuất trình nào không đúng với yêu cầu của L/C
thì sẽ không được thanh toán. Vậy trong trường hợp người bán gửi hàng bằng đường
hàng không thì chắc chắn sẽ không thể có được bất kỳ bản vận đơn đường biển gốc
nào (Bill of Lading) mà chỉ nhận được phiếu gửi hàng hàng không (Airway Bill).
Như vậy, khi xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng mở L/C, người bán xuất trình
Airway Bill thì chắc chắn không bao giờ được thanh toán mà lúc này hàng đã được
gửi đến người mua rồi. Và theo nguyên tắc của Airway Bill, chỉ cần người nhận có
đủ giấy tờ chứng minh mình chính xác là người nhận của lô hàng này (AWB gốc
thường được gửi kèm hàng hóa và chức năng không giống vận đơn) thì chắc chắn
sẽ lấy được hàng.
- Một điểm nữa có thể tạo ra rủi ro trên điều khoản giao hàng của hợp đồng này chính
là không chỉ rõ CO do đơn vị nào cấp, như vậy người mua nếu muốn dùng CO để
xin ưu đãi thuế sẽ gặp khó khăn nếu như đơn vị cấp CO của bên phía Trung Quốc
không đủ thẩm quyền hay không phù hợp. Bên cạnh đó, B/L được yêu cầu cũng
không chỉ rõ là vận đơn sạch, hàng đã trên tàu (Clean, shipped on board B/L), điều
này còn có thể dẫn đến rủi ro hàng hóa bị hư hỏng ngay từ lúc hàng chưa nằm an
toàn trên tàu (Điểm chuyển giao rủi ro khi chọn điều kiện CIF Incoterms 2010).
Tất cả những “dấu hiệu” trên đều quy chung lại một rủi ro vô cùng nghiêm trọng cho cả
phía người mua và người bán đó là rủi ro về bộ chứng từ.
1.1.2 Rủi ro trong quá trình thuê tàu:
Trong một hợp đồng khác, giữa người mua và người bán có một điều khoản thỏa thuận như
sau:
“Tàu được thuê vận chuyển là tàu KỲ VÂN ; năm đóng: 1998; nơi đóng : Anh, cơ quan
phân cấp : Vietnam/Vires; DWT: 23000 MT; GRT: 18400MT; NRT : 3.710 MT, dài tàu:
110m; rộng tàu: 17,5m: số hầm: 3; tầng boong: 1; Công suất máy chính 3745 kW. Nếu con
được chỉ định không đến được thì người chuyên chở phải cung cấp một con tàu thay thế có
các đặc điểm tương tự )”
Như vậy sẽ tồn tại một rủi ro cho bên đi thuê tàu chuyến đó là cụ thể con tàu với “Đặc điểm
tương tự” là như thế nào? Liệu con tàu đó phải có thông số chính xác 100% với những tiêu
chuẩn của các bên đã thống nhất đưa ra hay có một khoảng dung sai nhất định cho các
thông số kỹ thuật này. Đặc biệt, việc tìm ra và book được con tàu có thông số chính xác
như bên trên là vô cùng khó khăn và còn chưa kể đến trường hợp dù cho có con tàu giống
chính xác như vậy thì cũng chưa chắc nó đang trong trạng thái sẵn sàng được thuê để chở.
Điều này khiến cho rủi ro không thuê được tàu là vô cùng lớn.
Rủi ro ấn định Time of delivery: On • Khả năng chuẩn bị hàng của người bán có thể
ngày giao hàng May 13th, 2021 không kịp ngày giao hàng đã cam kết;
cố định • Người bán tự tin làm hàng đúng ngày giao
nhưng phải phụ thuộc vào tàu và lịch tàu. Nếu
tàu delay thì khả năng người bán không đáp ứng
được yêu cầu ngày giao hàng rất cao;
• Trong trường hợp thanh toán bằng L/C, nếu
người bán không đáp ứng được ngày giao hàng
chính xác (do chủ quan hay khách quan như nêu
trên), dẫn tới thông tin ngày giao hàng trên
chứng từ (Vận Đơn đường biển) thể hiện bị sai
so với yêu cầu của L/C, ngân hàng sẽ charge
phí bất hợp lệ chứng từ hoặc tệ hơn là ngân
hàng từ chối thanh toán.
Rủi ro ấn định Port of unloading: ● Cảng được ghi trong hợp đồng gặp trục trặc (về
cảng đến cố định Prince Rupert Port tắc nghẽn mùa cao điểm, bất ổn chính trị) và
nếu không có cảng dự phòng đề cập trong hợp
đồng, việc giao hàng sẽ trì hoãn, dẫn đến người
bán vi phạm hợp đồng.
1.2 Phân tích rủi ro (sử dụng mô hình xương cá)
1.2.1 Rủi ro chứng từ:
Mô hình xương cá kết hợp 5whys để phân tích rủi ro chứng từ:
b. Mô hình 5 WHYS vấn đề Bộ phận soạn thảo hợp đồng chưa được đào tạo bài
bản:
1.3 Đo lường rủi ro
Dựa trên thang đo (mức độ; tần suất) của từng rủi ro, nhóm chia 4 rủi ro này vào bảng ma
trận sau để tìm ra thứ tự ưu tiên trong việc ứng phó (kiểm soát) rủi ro:
Các chứng từ liên quan khác như: Giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm, giấy chứng nhận
xuất xứ hàng hóa trong trường hợp gặp phải rủi ro về chứng từ còn có thể khiến người mua
không thể được hưởng mức thuế suất ưu đãi từ các FTAs hay vượt qua các rào cản về mặt
kỹ thuật trong thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó, nhóm đánh giá rằng rủi ro về mặt chứng từ dù rất nghiêm trọng nhưng vì các
chứng từ cũng là một bộ phận cốt lõi trong thương mại quốc tế nên các doanh nghiệp cũng
đã đầu tư rất nhiều nguồn lực để giảm thiểu rủi ro này.
❖ Kết luận: Rủi ro chứng từ được đo lường với (mức độ; tần suất): (5;3)
1.4.2 Rủi ro không thuê được tàu tương đương:
Rủi ro không thuê được tàu tương đương là một rủi ro khá cụ thể và mức độ nghiêm trọng
là tương đối lớn. Vì việc thuê tàu sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố khác như: vận chuyển hàng
kịp thời, chi phí vận chuyển, thời gian làm hàng, thời gian làm bộ chứng từ,... và rất nhiều
các khoản chi phí, khoản phạt khác liên quan đến việc làm hàng trễ, giao hàng trễ.
Tuy nhiên, các lô hàng liên quan đến việc trực tiếp thuê tàu thường là các lô hàng có số
lượng lớn, giá trị tương đối cao nên bên đi thuê tàu thường rất kỹ lưỡng trong vấn đề soạn
thảo hợp đồng. Mặt khác, đội tàu buôn của các hãng tàu trên thế giới ngày nay lên đến
55.000 chiếc (Theo thống kê của Statista) và hoạt động sôi động quanh năm nên việc thuê
được con tàu ưng ý cho mình là điều hoàn toàn thực hiện được.
❖ Kết luận: Rủi ro không thuê được tàu tương đương được đo lường với (mức độ; tần
suất): (4;1)
1.4.3 Rủi ro cảng ùn tắc:
Tình trạng cảng ùn tắc không phải là một vấn đề xa lạ hiện nay khi thương mại toàn cầu
phát triển dẫn đến nhu cầu phân phối hàng hóa tăng cao. Thời gian tàu chờ đợi ở cảng ngày
càng tăng lên. Lấy ví dụ với cảng Bremerhaven của Đức, thời gian chờ đã tăng từ 45 lên 55
giờ. Phần lớn các cảng điều có tình trạng này nên tần suất xảy ra rủi ro này khá cao. Ở Việt
Nam, hệ thống cảng không có bến cảng cho tàu cập cảng, kết quả là thời gian trung bình bị
trễ của tàu là 1-2 ngày. Cá biệt một số tàu có thời gian khởi hành trễ đến 7-10 ngày theo
lịch; năng suất xếp dỡ trung bình mỗi ngày chỉ còn 20 container/cần cẩu/giờ vì các bãi
container không có khả năng nhận thêm container.
Vì một phần các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng nhận thấy khả năng xuất hiện rủi ro
này, nên khi có tình trạng cảng ùn tắc ảnh hưởng đến việc giao nhận hàng hóa, các bên
thường thương lượng tìm ra giải pháp thích hợp vì suy cho cùng thì việc tắc nghẽn ở cảng
là thực tiễn hiện nay và các doanh nghiệp cũng gần như không có khả năng kiểm soát.
❖ Kết luận: Rủi ro không thuê được tàu tương đương được đo lường với (mức độ; tần
suất): (2;4)
Rủi ro do người xuất khẩu không cung cấp hàng hóa, hoặc cung cấp hàng hóa không
đúng như yêu cầu của nhà xuất khẩu (không gửi đủ hàng hoặc khi nhận hàng không
giống như hình ảnh sản phẩm mẫu, đàm phán trên hợp đồng thương mại.)
Chậm giao hàng do không thu gom và chuẩn bị kịp (Trường hợp nhà xuất khẩu chưa
chuẩn bị kịp hàng)
Rủi ro thanh toán do chứng từ giả, chứng từ không trung thực, mâu thuẫn giữa hàng
hoá và chứng từ.
Do việc thanh toán của ngân hàng (NH) cho nhà xuất khẩu chỉ căn cứ vào bộ chứng
từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra thực tế hàng hoá. NH chỉ kiểm tra
tính hợp lệ bề ngoài của chứng từ. Chính vì thế doanh nghiệp thường gặp phải một
số rủi ro khi nhập khẩu:
Nhà xuất khẩu chủ tâm gian lận, có thể làm các giấy tờ giả để được thanh toán tiền
từ ngân hàng. Như vậy, sẽ không có sự bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng
hoá sẽ đúng như hợp đồng về số lượng, chủng loại và không bị hư hỏng gì. Trong
trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NH
phát hành.
Mâu thuẫn giữa hàng hóa và chứng từ, bởi rất có thể hàng hoá khi nhập khẩu sẽ bị
hải quan tịch thu do không có sự trùng khớp với giấy tờ.
Nguyên nhân do Ngân hàng (NH) không đảm bảo khả năng thanh toán, tín nhiệm kém. Nếu
NH phát hành hoặc NH xác nhận mất khả năng thanh toán thì mặc dù bộ chứng từ xuất
trình có hoàn hảo cũng không được thanh toán. Cũng tương tự như vậy, nếu NH chấp nhận
hối phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không được trả
tiền. Trừ khi L/C được xác nhận bởi một NH hạng nhất trong nước, còn lại nhà xuất khẩu
sẽ phải chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của NH phát hành cũng như rủi ro chính trị hay rủi ro
do cơ chế chính sách của nhà nước thay đổi.
- Quy trình nghiệp vụ L/C tại các doanh nghiệp tùy tiện.
- Thỏa thuận giữa người mua và người bán không rõ ràng về các chi tiết giao hang hoặc
L/C.
- Thiếu kinh nghiệm và thiếu sự phối hợp giữa các phòng ban trong doanh nghiệp.
- L/C không được phát hành chuẩn xác, có chủ ý xấu, hoặc L/C không hoàn chỉnh, không
khả thi.
- Một số nhà nhập khẩu tinh quái đã cài một số điều khoản không khả thi để bắt lỗi chứng
từ làm cơ sở từ chối nhận hàng (do hợp đồng thương mại bị hớ), hoặc làm cơ sở mặc cả để
giảm giá.
Rủi ro trong lựa chọn phương thức rất lớn (tần suất xuất hiện nhiều và đem đến nhiều hậu
quả nghiêm trọng). Nếu xảy ra rủi ro này người bán có thể mất cả lô hàng mà không nhận
được tiền, hoặc đối với người mua đã thanh toán xong theo hợp đồng mà lại không nhận
được hàng hoặc nhận được hàng kém chất lượng, tuy nhiên hiện nay các nhà xuất nhập
khẩu có rất nhiều biện pháp hạn chế rủi ro nên hậu quả đã được giảm bớt. Do vậy rủi ro
trong lựa chọn phương thức thanh toán được đo lường (tần suất; mức độ nghiêm trọng) là
(5:3). Còn đối với rủi ro đạo đức thì rất lớn và nó thường xuyên xảy ra nên (tần suất; mức
độ nghiêm trọng) là (5:5).
2.4 Các cách quản trị rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế phổ
biến là:
2.4.1 Phương thức ghi sổ
- Chủ động né tránh: chỉ áp dụng phương thức này khi cả hai bên là các bạn
hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài, thực sự tin tưởng lẫn nhau, không ký kết
hợp đồng với đối tác đang gặp tình trạng tài chính khó khăn
- Loại bỏ nguyên nhân (mối nguy hiểm): áp dụng biện pháp bảo đảm như
thư bảo lãnh ngân hàng, thư tín dụng dự phòng, đặt cọc,…
- Giảm thiểu rủi ro từ phía ngân hàng phát hành L/C: Bên bán có thể yêu cầu bên mua
mở L/C tại các ngân hàng uy tín, có tên tuổi; Một số trường hợp có thể chỉ định ngân
hàng phát hành L/C là đại lý của ngân hàng tại nước xuất khẩu hoặc ngược lại có
quan hệ đảm bảo.
- Trường hợp nhà xuất khẩu Không xuất trình được bộ chứng từ theo đúng quy định
L/C:
+ Chuẩn bị chứng từ đầy đủ, khi làm thanh toán L/C cần nhân sự giỏi để tránh trường
hợp sửa L/C nhiều lần
+ Cần đàm phán trong hợp đồng tất cả những chứng từ cần chuẩn bị trong bộ chứng
từ hạn chế việc phát sinh thêm sau khi đã ký hợp đồng
+ Kiểm soát chặt chẽ những rủi ro có thể phát sinh khi sử dụng L/C
+ Nhận tham vấn từ ngân hàng thụ hưởng hỗ trợ nhà xuất khẩu
+ Tìm hiểu kỹ về quy định thanh toán L/C và quy định với bộ chứng từ
+ Căn thời gian chuẩn bị chứng từ hợp lý để đàm phán trong ngày mở L/C hạn chế
mơ trước quá sớm hoặc mở trong ngày hàng lên tàu nếu nhà xuất khẩu chưa kịp
chuẩn bị L/C
+ Ngoài những yêu cầu chính trong L/C còn cần chuẩn bị thêm những công cụ của
ngân hàng như : Thư tín dụng dự phòng, Performance bond, Bank guarantee…
- Trường hợp Nhà xuất khẩu gửi chứng từ không hợp lệ, chứng từ giả:
+ Chứng từ liên quan tới hàng hóa như: C/O, I/P, C/Q, Test Report… phải do đơn
vị có thẩm quyền cấp cần xem xét kỹ đơn vị cấp
+ Về vận đơn hãng tàu lập ra sau khi xếp hàng phải được đại diện bên nhập khẩu
kiểm tra giám sát (thông tin ngày tàu chạy, ngày phát hành, tên tàu số chuyến, lịch
tàu…)
+ Nhà nhập khẩu phải được nhận vận đơn gốc để kiểm tra và đối chiếu với bộ chứng
từ trên L/C
+ Chứng từ cần có chữ ký đại diện của bên nhập khẩu kiểm tra, các cơ quan có thẩm
quyền ký phát.
+ Quy định rõ ràng điều khoản phạt trong hợp đồng nếu không thực hiện hợp đồng
- Tìm hiểu thật kỹ đối tác: Xem đối tác có đáng để tin tưởng hay không
- Nên lựa chọn những đối tác đã từng hợp tác làm ăn lâu năm và đáng tin tưởng
- Kết hợp việc thanh toán có bảo lãnh với ngân hàng
+ Xem đó có phải là công ty thực tế hay là công ty ma lừa đảo bằng việc kiểm tra
giấy tờ có tính pháp lý
+ Tham khảo thông tin từ những đối tác đã từng hợp tác làm ăn với công ty đó
+ Ví dụ: Có thể kết hợp 2 phương thức thanh toán là điện chuyển tiền và PTTT L/C,
tức là có thể đặt cọc trước 30% bằng hình thức điện chuyển tiền và 70% còn lại thanh
toán bằng L/C trả ngay không hủy ngang
2.5 Cách quản trị rủi ro đạo đức các phương thức thanh toán quốc tế phổ biến
là:
+ Công ty này thực tế hay là công ty ma lừa đảo bằng việc kiểm tra giấy tờ
có tính pháp lý
+ Tham khảo thông tin từ những đối tác đã từng hợp tác làm ăn với công ty
đó
Trong nhiều trường hợp các bên chọn trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết khi xảy ra
tranh chấp với ưu điểm là sự chủ động về thời gian, địa điểm, tính bảo mật thông tin cao
cũng như sự linh hoạt, mềm dẻo trong việc chọn ngôn ngữ và nguồn luật áp dụng. Tuy
nhiên khi xảy ra tranh chấp thì cơ quan trọng tài được chọn không có thẩm quyền giải quyết
vụ việc khiến thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không thể thực hiện được, nguyên nhân
liên quan đến các yếu tố đề cập trong điều khoản hợp đồng như:
- Cơ quan trọng tài: xét về chuyên môn, số lượng trọng tài viên
- Nguồn luật áp dụng
- Ngôn ngữ áp dụng
- Tính ràng buộc của kết quả xét xử
- Chi phí trọng tài
Từ đó, các bên đưa ra những bằng chứng, lập luận chống lại phán quyết của trọng tài, sau
đó thỏa thuận kết quả của trọng tài bị vô hiệu hóa và một trong hai bên sẽ tiếp tục nộp đơn
lên tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp → gây mất thời gian cho các bên, hoặc đôi khi
khiến tranh chấp không giải quyết được.
Có hai loại rủi ro cơ bản:
- Rủi ro thỏa thuận trọng tài vô hiệu: nghĩa là điều khoản trọng tài quy định không
phù hợp với quy định của pháp luật, khiến thỏa thuận căn bản đã bị vô hiệu ngay từ
ban đầu
- Rủi ro thỏa thuận trọng tài không thể được thực hiện: nghĩa là quy định của điều
khoản là đúng và phù hợp với luật pháp tuy nhiên lúc xảy ra tranh chấp lại xuất
hiện những thay đổi về các nhân tố trong điều khoản, khiến nó không thể được
thực hiện
3.2 Phân tích rủi ro
3.2.1 Thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
3.2.2 Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được
Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được được quy định cụ thể như
sau:
“Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được” quy định tại Điều 6 Luật TTTM là thỏa
thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng
Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và
các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh
chấp.
+ Trung tâm trọng tài bị thu hồi giấy phép, giấy đăng kí hoạt động
- Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng
tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng
tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không
thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc
lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
+ Dịch covid: cấm người dân đi lại giữa các quốc gia đang là tâm dịch, hoặc cần thời
gian cách ly dẫn đến không thể kịp thời tham gia giải quyết tranh chấp
- Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng
tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm
trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa
chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
+ Trọng tài viên có định kiến với vụ tranh chấp hoặc với một trong hai bên tham gia
tranh chấp
+ Trọng tài viên có sức khỏe kém, không đủ sức để tham gia xét xử
- Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa
thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và điều lệ của Trung tâm trọng
tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép điều đó, đồng thời các bên
không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
+ Không tìm hiểu kỹ càng về quy định của trung tâm trọng tài được chọn
+ Thiếu trọng tài viên có chuyên môn phù hợp
- Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài
được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp
soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật TTTM nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng
không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.
+ Vì người tiêu dùng không có nhiều thông tin trong việc chọn trọng tài, có thể dẫn
đến việc trọng tài là người quen của nhà cung cấp
+ Người tiêu dùng không có nhiều kiến thức trong việc tranh chấp bằng luật pháp
3.3 Đo lường rủi ro:
Tần suất Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp
Mức độ
Rất nghiêm Tranh chấp
trọng Một trong Thỏa thuận
không thuộc
các bên bị trọng tài vi
lừa dối, đe lĩnh vực phạm điều
dọa, cưỡng thuộc thẩm cấm của
ép pháp luật
quyền của
Trọng tài
Nghiêm Áp dụng
trọng Người xác
Quy tắc tố
lập thoả
thuận trọng tụng của
tài không có Trung tâm
thẩm quyền,
trọng tài
không có
năng lực khác
hành vi dân
sự
- Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Quy định Luật Trọng tài thương mại
do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- Luật trọng tài thương mại 2010
- Thư Ký Luật (2018), Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được,
nganhangphapluat.thukyluat.vn
- Apolatlegal (2020), Các vấn đề cần lưu ý đối với thỏa thuận trọng tài trong các hợp đồng
thương mại, apolatlegal.com
- Lê Sài Gòn, Điều khoản giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
simex.edu.vn
- Các phương thức thanh toán quốc tế trong xuất nhập khẩu (2020), melodylogistics.com
- Những rủi ro và giải pháp trong thanh toán quốc tế, dathangtrungquoc.com.vn
- Giáo trình thanh toán quốc tế (TS Trần Hoàng Ngân)