Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Bài 5 : tính chất ,ý nghĩa và kinh nghiệm của cuộc CMT8

*Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - cuộc cách mạng mang tính thời đại sâu sắc

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 nổ ra trong bối cảnh lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới
đánh bại chủ nghĩa phát-xít Đức - Ý - Nhật, lực lượng xung kích của chủ nghĩa đế quốc, đã gây bao đau
thương, tang tóc cho loài người. Tuy không trực tiếp có quân đội chiến đấu chống các lực lượng phát-xít
như quân đội Xô Viết, Mỹ, Anh… trên chiến tuyến, nhưng các lực lượng vũ trang cách mạng và toàn dân
yêu nước Việt Nam đã tham gia tích cực vào phe Đồng minh chiến đấu chống phát-xít khi phát-xít Nhật
xâm chiếm Đông Dương, góp phần vào thắng lợi chung của các lực lượng yêu hòa bình, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
thức rõ vai trò, khả năng phát triển của cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc khi Chiến tranh
thế giới thứ II nổ ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5-1941) nhận định: “Nếu cuộc
chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc
lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.

Ngày 21-12-1941, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Thông cáo: “Cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, nhận định: Thế giới đã chia thành hai mặt trận
dân chủ và phát-xít, cách mạng Đông Dương là một bộ phận khá quan trọng trong phong trào dân chủ
chống phát-xít quốc tế… Đông Dương là một căn cứ quan trọng của Nhật ở Đông Nam châu Á. Nhật sẽ ra
sức củng cố vị trí Đông Dương để “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Thông cáo của Đảng cho rằng: Xét
chung trong toàn quốc, những điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi. Song, ở những nơi quân Anh, Mỹ
hoặc Trung Quốc vào thì Đảng bộ địa phương phải lập tức khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập chính
quyền cách mạng, rồi nhân danh chính phủ cách mạng của nhân dân mà giao thiệp với họ. Nhận định
trên cho thấy, Đảng ta nhận thức một cách rõ ràng cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam là
một bộ phận của trào lưu dân chủ chống đế quốc, phát-xít trên thế giới.

Cách mạng Tháng Tám đã tỏ rõ tinh thần chống phát-xít và yêu chuộng dân chủ, hòa bình của nhân dân
Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám đã kết thúc vẻ vang thời kỳ chống phát-xít Nhật trong Chiến tranh thế
giới thứ II. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12-3-1945 cũng đã thể hiện rõ tính quốc tế của phong trào cách mạng
Việt Nam khi Đảng ta kêu gọi toàn dân hưởng ứng cao trào kháng Nhật, cứu nước.

Tổng khởi nghĩa - Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước công nông, dân chủ cộng hòa, đã
đóng vai trò chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ
suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới; cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân
tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc.

Cách mạng Tháng Tám thành công đã chứng minh rằng: trong thời đại ngày nay, một cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của một Đảng
theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin, có đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của thời đại, thì
hoàn toàn có thể giành được thắng lợi.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã nêu lên những kinh nghiệm lịch sử, góp phần xây
dựng kho tàng lý luận về cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Đánh giá về ý nghĩa và tính thời đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chẳng
những giai cấp lao động mà nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc
bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc”.

Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng có tính dân tộc, nhân dân rộng lớn và phổ biến

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
trong Chánh cương vắn tắt  là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, nhằm đánh đổ
chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do,
lấy ruộng đất của thực dân, đế quốc chia cho nông dân nghèo. Như vậy, Đảng đã xác định phải tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là dân tộc và dân chủ trong suốt quá trình lãnh đạo toàn dân thực
hiện đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất, công ăn việc làm và đời sống ấm no cho
mọi tầng lớp nhân dân.

Khi Chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra (tháng 9-1939), Đảng đã gấp rút gửi Thông cáo cho các cấp bộ
Đảng (ngày 29-9-1939), vạch ra một số phương hướng và biện pháp cần kíp trước mắt nhằm chuyển
hướng các mặt hoạt động của Đảng. Thông cáo nhận định: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến
vấn đề dân tộc giải phóng”.

Tiếp theo, trong các ngày 6, 7, 8-11-1939, Trung ương Đảng đã họp tại Bà Điểm (Gia Định), dưới sự chủ
trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, nhận định tình hình và nhấn mạnh: Đặc điểm cơ bản của tình hình
Đông Dương lúc này là chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến lên mức đối kháng quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt
nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương. Căn cứ vào sự phân tích, nhận định như
trên, Hội nghị đã xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế
quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Cuộc cách
mạng giải phóng các dân tộc Đông Dương vẫn phải bao gồm hai nội dung chống đế quốc và chống phong
kiến, là hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hội nghị Trung ương tháng 11-
1939 đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược của Đảng là tập trung lực lượng đánh
đổ đế quốc và tay sai, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc
phản đế Đông Dương (MTTNDTPĐĐD), thay cho Mặt trận Dân chủ thời kỳ 1936-1939, với lực lượng
chính là công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác.

Trong năm 1940, tình hình quốc tế và trong nước có những chuyển biến mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu Đảng
cần phải kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương để lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành chính quyền, khi
mà mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, phát-xít Nhật ngày càng trở nên gay
gắt. Hội nghị Trung ương tháng 11-1940 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh), nhận định: Kẻ thù chính của cách
mạng Đông Dương lúc bấy giờ là phát-xít Pháp - Nhật, quyết định đổi tên MTTNDTPĐĐD thành Mặt trận
Dân tộc Thống nhất chống phát-xít Pháp -Nhật (MTDTTNCPXPN) ở Đông Dương.

Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng sau gần 30 năm bôn ba
hoạt động ở nước ngoài. Sau đó, Người đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5-1941) tại
Pắc Bó (Cao Bằng) nhằm tập trung hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trước tình hình đang chuyển
biến mau lẹ và sau các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 27-9-1940), Nam Kỳ (ngày 23-11-1940) và vụ binh
biến Đô Lương (ngày 13-1-1941), tại 3 miền Bắc, Trung, Nam. Hội nghị khẳng định: nhiệm vụ chủ yếu
trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc, bởi “Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của
công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương. Trong lúc này, khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết
phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật”. Hội nghị
nhấn mạnh: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Muốn đánh Pháp, đuổi Nhật, cần phải có một lực lượng thống nhất của tất cả các dân tộc Đông Dương
hợp lại, vì thế, Đảng “phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức
được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)”. Từ lý do đó, Hội nghị
quyết định MTTNCPXPN ở Đông Dương “phải đổi ra cái tên khác có tính dân tộc hơn, cho có một mãnh
lực dễ hiệu triệu hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại”. Hội nghị đã quyết định
thành lập “Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh” (gọi tắt là Việt Minh), theo đề nghị của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, thay cho MTTNCPXPN ở Đông Dương.

Có thể nói, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm
giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc, sẽ được thực hiện bằng một cuộc Tổng khởi
nghĩa.

Để có thể huy động đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa, ngày
25-10-1941, Mặt trận Việt Minh đã công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Chương trình cứu
nước của Việt Minh có tới 44 điểm, là một hệ thống các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, công chức, học sinh, phụ nữ, thiếu nhi,
người già, người tàn tật, tư sản, địa chủ, nhà buôn… Theo đó, tinh thần cơ bản của 44 điểm trong
Chương trình cứu nước là “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1- Làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2- Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”.

Toàn bộ chủ trương, đường lối, chính sách, sách lược của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã được toàn dân
triển khai thực hiện có kết quả trên tất cả các lĩnh vực xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng
chiến khu, căn cứ địa, tổ chức các đoàn thể cứu quốc… nhằm chờ đón thời cơ thuận lợi để đứng lên
giành chính quyền.

Đến giữa tháng 8-1945, được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định:
tình thế trực tiếp cách mạng đã chín muồi. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (ngày 13,14-8-
1945) chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Ủy ban Khởi nghĩa toàn
quốc được thành lập, ra mệnh lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1). Tiếp đó, Quốc dân Đại hội được triệu
tập (ngày 16-8-1945) đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa; thông qua 10 chính sách lớn của Việt
Minh (trong đó chính sách đầu tiên là: Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập); cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Đại hội Quốc dân Tân Trào đã thể hiện sự nhất trí của toàn thể dân tộc trong giờ phút
quyết định vận mệnh của đất nước. Điều đó được phản ánh rõ trong Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta”. Thư kêu gọi  đã thể hiện rõ tính dân tộc, tính nhân dân của cuộc Tổng khởi nghĩa.
Và thực tế, cuộc Tổng khởi nghĩa - cách mạng đã diễn ra đồng loạt, dồn dập, nhanh chóng với lực lượng
nhân dân tham gia rất đông đảo, từ nông thôn tới thành thị, trên phạm vi rộng khắp cả nước. Một điều
cần nhấn mạnh là dù chưa trực tiếp được nghe, được đọc mệnh lệnh khởi nghĩa của Đảng, Thư kêu
gọi khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và dù số đảng viên của Đảng trong toàn quốc lúc đó rất ít (vài
nghìn người), nhưng nhân dân ở hầu hết các địa phương trong cả nước đã thấu hiểu, nắm bắt nhanh
chóng tinh thần, chủ trương của Đảng, tự giác đứng lên khởi nghĩa giành lấy chính quyền. Hàng chục vạn
người ở Hà Nội, Huế; 1 triệu người ở Sài Gòn và hàng triệu người ở các địa phương đã tham gia khởi
nghĩa - là bằng chứng hùng hồn về tinh thần dân tộc, tính nhân dân rộng lớn, phổ biến và sâu sắc của
cuộc Tổng khởi nghĩa.

Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng triệt để, mang đậm tính nhân văn

Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi một cách triệt để trên phạm vi cả nước. Chính quyền
cách mạng nhanh chóng được thiết lập từ Trung ương tới địa phương, thay thế hoàn toàn chính quyền
của thực dân, phát-xít, phong kiến.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một cuộc đổi đời chưa
từng có với mỗi người Việt Nam; đã lật nhào chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách
thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật suốt 5 năm.
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc
sống của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng
chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. So với một số cuộc cách mạng, khởi nghĩa nổ
ra trong khu vực châu Á tại thời điểm đó, khi mà điều kiện khách quan thuận lợi do Chiến tranh thế giới
thứ II tạo ra giống nhau, chúng ta càng thấy rõ tính triệt để của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.

Một điều tưởng chừng mâu thuẫn nhưng lại thể hiện trên thực tế một cách lô-gíc, hợp lý là tuy tính chất
triệt để cách mạng rất cao nhưng cuộc Cách mạng Tháng Tám lại mang đậm tính nhân văn, thể hiện ở
một số điểm sau:

Thứ nhất, hầu như diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương không có tiếng súng, ít đổ
máu, nhân dân giành chính quyền một cách mau lẹ. Lực lượng chủ yếu tham gia khởi nghĩa là lực lượng
chính trị của quần chúng, hình thức chủ yếu của khởi nghĩa là biểu tình, tuần hành thị uy có vũ trang
bằng các loại vũ khí tự tạo, tự mua sắm, bằng đấu tranh chính trị. Lực lượng vũ trang chủ yếu đóng vai
trò hỗ trợ, ít phải sử dụng hành động quân sự. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu nhận xét rằng: Cuộc Tổng
khởi nghĩa - cách mạng diễn ra một cách tương đối hòa bình. Lý do quan trọng lúc đó là Pháp đã chạy,
Nhật đầu hàng, chính quyền thân Nhật thì bất lực, vương triều nhà Nguyễn ở Huế đã suy tàn.

Thứ hai, do là một cuộc cách mạng ít đổ máu, quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng chỉ cần
gây áp lực thì chính quyền thân Nhật từ Trung ương đến các địa phương hoặc là đầu hàng hoặc bỏ
nhiệm sở chạy trốn, ít có hành động chống đối bằng vũ lực, nên chúng ta đã giành thắng lợi nhanh
chóng. Điển hình của tính nhân văn chính là sự kiện vị vua cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn là Vĩnh
Thụy (tức Bảo Đại), làm lễ thoái vị, trao ấn, kiếm, tượng trưng cho quyền lực của vương triều, cho đại
diện chính quyền cách mạng, cùng lời tuyên bố trước nhân dân: Thà làm công dân một nước tự do hơn
là làm vua một nước nô lệ. Đại diện của triều Nguyễn, đại diện của Chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội,
Sài Gòn cũng như một số địa phương cũng nhanh chóng trao quyền cho đại diện Mặt trận Việt Minh.
Chính quyền cách mạng mới thành lập đã có chủ trương không trả thù, truy bức những người từng
chống lại cách mạng, những người từng làm việc cho chính qụyền cũ. Trái lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
mời Bảo Đại, mời Giám mục Lê Hữu Từ, một người vốn không ưa cộng sản, làm Cố vấn cho Chính phủ
lâm thời của nước Việt Nam mới. Nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng cũng được Người mời tham gia Chính
phủ, ứng cử vào Quốc hội.

Thứ ba, đây là một cuộc cách mạng quy tụ được đông đảo các tầng lớp nhân dân, không phân biệt đảng
phái, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, ngành nghề, vùng miền, tham gia khởi nghĩa giành chính
quyền và lại cùng nhau đoàn kết xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền mới, chế độ mới do bản thân
mình làm chủ theo 10 nội dung lớn trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Tuy không phải không có
những mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi, địa vị, về tư tưởng và cách thức xây dựng quản lý, điều hành
chính quyền mới, chế độ mới nhưng một thực tế không thể bác bỏ là đại đa số nhân dân trên cả nước
đã đoàn kết, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, tỏ rõ quyết tâm bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng, dù
có phải tiếp tục chiến đấu, hy sinh cũng không sờn lòng.

* ý nghĩa
1. Ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”, chính thức chấm
dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế
ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cách
mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba
Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan
xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử
của nước ta” . Tiếp tục nhấn mạnh ý nghĩa to lớn đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao
Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười, ngày 6/11/1957, Người tự hào khẳng định: “Năm
1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước và
xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng tôi” . Thắng lợi
của Cách mạng Tháng tám mở kỷ nguyên độc lập với sự kiện lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản
đồ thế giới. Cũng từ đó, dân tộc ta đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư
cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền.

Hai là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một mặt, đã góp phần đánh bại tàn dư của chế
độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy
sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp
giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới. Về vấn đề này, trong Thư gửi đồng bào
toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, ngày 19/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích
thực dân” . Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, kết quả mà Cách mạng Tháng
Tám mang lại thể hiện sự khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và đế quốc), như Hồ
Chí Minh đã chỉ ra: “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa
và thống nhất độc lập” .

Ba là, Cách mạng Tháng Tám khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ra
đời, ngày 03/02/1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách
mạng là giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách
mạng thế giới. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu
thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm (1930
- 1945), Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: cao
trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xôviết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân
sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Tháng 8/1945, với
nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ thuận lợi nhất, lãnh đạo toàn thể
dân tộc Việt Nam tiến hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đưa Đảng ta từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở
thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Trong bài viết Cách mạng tháng Mười Nga mở
đường giải phóng cho các dân tộc trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực tiễn ở Việt
Nam đã chứng tỏ rằng nhờ có sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ
vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội” .

Bốn là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất trong tiến trình
phát triển của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do
hướng tới chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với
dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân
lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam
kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để “có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” .

Năm là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác -
Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính cách mạng,
khoa học của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu
sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác -
Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra” . Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám còn là minh chứng hùng hồn
về sự thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh khi vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng
Tháng Tám đã chứng minh rằng, cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên
theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở
“chính quốc”, nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở “chính quốc”. Trái lại, nó có thể giành được thắng
lợi trước khi giai cấp công nhân “chính quốc” lên nắm chính quyền.
Sáu là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Cách mạng Tháng Tám là tấm gương, là nguồn
cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, nhất là các
nước láng giềng noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của  thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết:
“Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ
thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc
lập” . Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mang tầm
vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám cùng với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ trên thế giới và quân đồng minh đánh đổ
chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Do đó, chiến thắng của Cách
mạng Tháng Tám cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên
toàn thế giới. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia: “Chúng
ta chỉ có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất đối với nhân dân Việt Nam anh hùng... Với
sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ vang nhất trên thế giới...”
[8]. Khái quát đầy đủ ý nghĩa thắng lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử
cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”

*bài học kinh nghiệm

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau
đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm
vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách
mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm
vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước để chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế
quốc phát xít và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải
phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Hai là, thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí
cách mệnh càng quyết” , vì thế “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ
cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của
công nông thôi” [3]. Thực tiễn đã chứng minh chân lý đó. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả
cuộc đấu tranh của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng cách mạng, trong đó động lực
cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Liên minh công - nông
được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì liên minh công -
nông đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây dựng được khối đại
đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt khác, trên cơ sở nhắm đúng mục
tiêu chiến lược hàng đầu của cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một
bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của
Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung
lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ
máu.

Ba là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Nắm
vững quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ
đang thai nghén một xã hội mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho
mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết” , Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng
cách mạng, biết cách sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh phù hợp với từng
hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử, tập dượt đấu tranh từ thấp đến cao. Trong Cách mạng Tháng Tám,
bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi
dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong
đó, vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết
quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của
quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa. Khi thời cơ đến, Đảng đã biết sử dụng tối đa sức mạnh cách mạng theo nguyên tắc “tập
trung, thống nhất, kịp thời” đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của
nhân dân.

Bốn là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vừa vận dụng
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh
nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám. Trong rất nhiều văn
kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho
tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng
thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương
Đảng tháng 03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng
đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi
Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã
bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu
nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cũng nhờ chọn
đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến
hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám. Cách mạng Tháng Tám được một đảng tiên phong thật sự cách mạng lãnh đạo. Đảng ta là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, ngay từ
đầu Đảng đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát
triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và
sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc
phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó với
nhân dân. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất
khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng biết phát huy
triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân
dân đấu tranh. Đảng biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc;
phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ
chính quyền. Với những yếu tố như trên, nên tuy chỉ mới được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh và mặc
dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, một thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử và mang tầm vóc thời đại. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng
chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu,
tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế
lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên.

You might also like