Professional Documents
Culture Documents
Tram Tich Khu Vuc Bac Lieu
Tram Tich Khu Vuc Bac Lieu
Abstract: Khái quát về đới bờ; quan điểm tiếp cận; nghiên cứu địa mạo; nhóm
phương pháp địa chất- trầm tích; phương pháp phân tích viễn thám. Phân tích mối
quan hệ giữa địa hình địa mạo với quá trình tiến hóa trầm tích trong Holocen muộn.
Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa địa hình và sự thay đổi mực nước biển. Nghiên cứu
biến động trầm tích và địa hình đới bờ khu vực từ cửa Cung Hầu đến cửa Định An
trong Holocen muộn trong mối liên quan với các quá trình địa mạo - trầm tích. Trình
bày nguyên nhân biến động địa hình đới bờ biển và đưa ra giải pháp định hướng quản
lý quỹ đất.
Keywords: Trầm tích; Địa hình; Holocen; Cung Hầu; Định An; Địa mạo học
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Đới bờ là dải đất tiếp giáp giữa biển và lục địa, là nơi tập trung các dạng tài nguyên
thiên nhiên phong phú đặc biệt là tài nguyên sinh vật. đới bờ cũng là khu vực nhạy cảm, rất dễ
bị tác động bởi các yếu tố động lực nội ngoại sinh như chuyển động tân kiến tạo, thay đổi
mực nước biển và các yếu tố thủy động lực …
Khu vực đới bờ biển từ cửa Cung Hầu đến cửa Định An (thuộc tỉnh Trà Vinh) biến
động liên tục theo không gian và thời gian trong giai đoạn Holocen muộn. Đặc biệt trong giai
đoạn từ 3000 năm đến 1000 năm cách ngày nay, biển lùi sau giai đoạn biển tiến cực đại, châu
thổ liên tục bồi tụ, phạm vi đới bờ liên tục dịch chuyển về phía biển. Từ 1000 năm cách đây
cho đến nay tốc độ bồi tụ giảm dần do ảnh hưởng của nước biển dâng và sụt lún kiến tạo.
Hiện nay sụt lún kiến tạo trung bình 2mm/năm cùng với mực nước biển dâng 2mm/năm đã
tác động mạnh đến đới bờ, hiện tượng xói lở bờ biển sẽ xảy ra mạnh hơn. Diện tích đất kèm
theo các hệ sinh thái rừng ngập mặn bị mất dần, điều này ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế xã hội
tỉnh Trà Vinh nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Vì vậy đề tài: “Nghiên cứu biến động đới bờ trong Holocen muộn khu vực từ cửa
Cung Hầu đến cửa Định An” đưa ra nhằm xác định được lịch sử biến động đới bờ khu vực
nghiên cứu thông qua nghiên cứu địa mạo – địa chất là hết sức quan trọng góp phần xác định
quy luật và dự báo biến động của chúng trong tương lai từ đó đề xuất các giải pháp phòng
tránh, thích ứng với những tai biến do biến động đới bờ gây nên cũng như lợi dụng quy luật
biến động để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế cũng như định hướng quy hoạch là hết
sức cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm sáng tỏ biến động trầm tích và địa hình đới bờ khu vực từ cửa Cung Hầu đến cửa
Định An trong Holocen muộn trong mối liên quan với các quá trình địa mạo - trầm tích.
2
Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số nghiên cứu về đới bờ trên thế giới:
Năm 1919, Johnson đã tổng hợp nhiều kết quả nghiên cứu ở khu bờ, đã cho ra đời
cuốn sách nổi tiếng đầu tiên về hình thái và động lực bờ biển. Năm 1946, Zenkovic V.P đưa
ra những luận điểm cơ bản của lý thuyết về nguồn gốc và sự phát triển của các dạng địa hình
tích tụ bờ biển với hàng loạt nhân tố mới tạo nên các dạng địa hình tích tụ.
Elliott (1986) đã phân chia vùng ven bờ thành các kiểu bờ khác nhau dựa vào động lực
sóng, thủy triều và dòng chảy ven bờ.
David R.A (1978) cũng đã có những nghiên cứu, phân tích chi tiết về điều kiện sinh
thái và quá trình phát triển của vùng đầm lầy cửa sông, ven biển.
Hiện nay nghiên cứu về quản lý tổng hợp đới bờ rất phổ biển, bởi đới bờ là nơi nhạy
cảm dễ bị tác động của các yếu tố. Quản lý tổng hợp đới bờ là một hướng nghiên cứu hướng
tới phát triển bền vững đới bờ. Một số các tổ chức quốc tế như chương trình: Nghiên cứu
3
khoa học địa chất khu vực Đông và Đông Nam Á (CCOP), Chương trình hợp tác địa chất
quốc tế (IGCP), Clark, 1992, 1996 [16,17]; Harvey, 1999, 2001….
Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu về các khu vực ven biển,
các vùng cửa sông. Đặc biệt ở khu vực Trà Vinh nói riêng và châu thổ sông Mê Kông nói
chung có khá nhiều các công trình về địa chất - địa mạo, đây là nguồn tài liệu rất phong phú:
Trong các nghiên cứu vùng châu thổ sông Mê Kông ở vùng Bến Tre, Sóc Trăng, Cà
Mau, Nguyễn Văn Lập, Tạ Thị Kim Oanh, Tanabe, Tateishi, Kobayashi, Saito, 2001, 2003,
2004, 2005 [20, 22, 23, 24] đã phác họa lịch sử phát triển địa chất của đồng bằng Nam Bộ
trong Holocen
Đinh Văn Thuận, Nguyễn Địch Dỹ (2002, 2004, 2005) [6,7] đã công bố các công
trình về những vấn đề địa tầng, cổ địa lý đồng bằng Nam Bộ trong kỷ Đệ tứ. Trong luận
án tiến sĩ về đồng bằng Nam Bộ, Đinh Văn Thuận (2005) [13] đã tổng hợp những tư liệu
về cổ sinh, đặc biệt đã xây dựng được những phức hệ sinh thái bào tử phấn hoa, cho phép
tái thiết lập môi trường tích tụ trầm tích trong Holocen.
Trong đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước "Nghiên cứu biến động cửa sông và
môi trường trầm tích Holocen - hiện đại vùng ven bờ châu thổ sông Cửu Long, phục vụ phát
triển bền vững kinh tế - xã hội", mã số KC09.06/06-10 do PGS. TSKH. Nguyễn Địch Dỹ chủ
trì [7] đã thu thập, xử lý, phân tích và tổng hợp một số lượng lớn tài liệu, số liệu liên quan đến
vùng cửa sông ven biển.
Như vậy hầu hết các đề tài, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghiên
cứu biến động trầm tích trong giai đoạn Pleistocen, Holocen, biến động đường bờ và cửa sông
trong khoảng 60 năm gần đây. Qua các tư liệu từ các công trình trên, kết hợp với kết quả
nghiên cứu và khảo sát thực địa học viên đã kế thừa và tổng hợp lại để làm rõ những biến
động địa hình và trầm tích trong Holocen muộn trong mối quan hệ với mực nước biển.
4
1.2.1.1. Phƣơng pháp phân tích hình thái - động lực
Thực chất đây là phương pháp hình thái-nguồn gốc. Giữa hình thái địa hình bờ biển và
các nhân tố động lực thành tạo chúng có mối liên quan rất mật thiết với nhau theo quan hệ
nhân - quả.
Thông qua địa hình đáy thể hiện trên các bản đồ địa hình đáy, các hải đồ tỷ lệ và
thời gian khác nhau, các băng đo sâu, phần nào có thể giải thích được nguồn gốc và động
lực thành tạo chúng khi kết hợp với đặc điểm phân bố trầm tích tầng mặt.
- Phân tích độ hạt bằng rây và pipet (đối với trầm tích bở rời), bằng lát mỏng thạch học
dưới kính hiển vi phân cực để tính hàm lượng % các cấp hạt (sạn, cát, bột, sét..) từ đó xây
dựng các biểu đồ tích luỹ độ hạt, biểu đồ phân bố độ hạt, tính toán các tham số Md, So, Sk, C
để xác định tướng trầm tích, chế độ thuỷ động lực của môi trường.
1.2.2.3. Phƣơng pháp nhiệt phát quang (TL) và huỳnh quang kích thích (OSL)
Kỹ thuật nhiệt huỳnh quang và huỳnh quang kích thích quang học có thể sử dụng để
định tuổi thời gian chôn vùi của trầm tích từ 150 nghìn năm trở lại với độ chính xác khoảng
10%. Các phương pháp này cũng có thể sử dụng cho măng đá trong hang động với độ chính
xác tương đương nhưng với dải tuổi gấp đôi.
5
1.2.3. Phƣơng pháp phân tích ảnh viễn thám
Các thế hệ ảnh viễn thám (cả ảnh chụp từ máy bay lẫn ảnh chụp từ vệ tinh) là nguồn
tài liệu cho phép nhận được những thông tin khá chính xác về địa hình bờ biển ở thời điểm
bay chụp.
6
Chƣơng 2.
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN TRẦM TÍCH VÀ ĐỊA HÌNH KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
Khu vực nghiên cứu thuộc tỉnh Trà Vinh, một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nằm trong tọa độ địa lý giới hạn từ: 9o31’46’’ đến 10o04’5” vĩ độ Bắc và 105o57’16”
đến 106o36’04” kinh độ Đông; Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long; Đông giáp sông Cổ
Chiên, ngăn cách với tỉnh Bến Tre; Tây giáp sông Hậu, ngăn cách với tỉnh Sóc Trăng; Nam
và Đông Nam giáp biển với chiều dài hơn 65 km. Trung tâm tỉnh lỵ nằm trên quốc lộ 53,
cách thành phố Hồ Chí Minh gần 200 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km.
Trà Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ven biển, có điều kiện ánh sáng
bức xạ dồi dào, nền nhiệt độ cao và ổn định, tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển
tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như: gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa
ít....Một năm có hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau.
2. Chế độ sóng
Có hai hệ thống sóng đặc trưng theo từng mùa khác nhau, hệ thống sóng trong mùa
gió Đông Bắc và mùa gió Tây Nam. Tháng 1 là tháng đặc trưng cho gió mùa Đông Bắc, sóng
7
tập trung chủ yếu vào hướng Đông Bắc (chiếm 86,69%). Tháng 7 là tháng đặc trưng cho mùa
gió Tây Nam, trường sóng tập trung vào các hướng Tây và Tây Nam chiếm 44,11% và
36,41% tổng số trường hợp tương ứng.
2. Thống Holocen, phụ thống Holocen trên - Hệ tầng Cửu Long (a, am, amb, ab, mb, m)
Q23cl
8
2.1.3.2. Đặc điểm kiến tạo, địa động lực
Khu vực nghiên cứu nằm trọn trong khối sụt sông Tiền – sông Hậu, chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của đứt gãy sông Hậu và đứt gãy sông Cổ Chiên. Hoạt động tân kiến tạo - địa động
lực và các đứt gãy này đã tác động lớn đến quá trình lắng đọng trầm tích: các quá trình
estuary hóa cửa sông, tăng bề dày trầm tích, động đất…
9
Chƣơng 3.
BIẾN ĐỘNG TRẦM TÍCH VÀ ĐỊA HÌNH ĐỚI BỜ BIỂN KHU VỰC TỪ CỬA CUNG
HẦU ĐẾN CỬA ĐỊNH AN TRONG HOLOCEN MUỘN
3.1.1.1. Đặc điểm trầm tích Holocen muộn phần sớm (Q23a)
Trầm tích Holocen muộn đới ven biển phân bố trên tầng mặt ở độ sâu từ 0- 10m tùy
thuộc vào thành phần thạch học và tướng trầm tích.
Có 5 kiểu trầm tích cơ bản trong phạm vi nghiên cứu: Cát, cát bột, bột cát, bùn, than
bùn
NHẬN XÉT:
Theo quy luật phân dị cơ học, nhìn chung trầm tích từ đất liền ra biển có độ hạt giảm
dần: cát → cát bùn → bùn cát → bùn.
10
3.1.2.2. Đặc điểm tƣớng khu vực nghiên cứu
Dựa vào đặc điểm trầm tích và các kết quả phân tích vi cổ sinh và môi trường lắng
đọng trầm tích, khu vực nghiên cứu gồm hai nhóm tướng: nhóm tướng phân bố trên đất liền
và nhóm tướng phân bố dưới phần ngập nước, trong đó có tất cả 16 tướng như sau:
Các tướng trầm tích có tuổi Holocen muộn phân bố trên đất liền (Q23a)
3.1.2.2. Luận giải biến động môi trƣờng trầm tích qua phân tích cộng sinh tƣớng.
Khu vực nghiên cứu có sự cộng sinh tướng từ lục địa ra biển. Theo không gian (chiều
ngang) sự phân bố các tướng trầm tích tuân theo quy luật cộng sinh tướng và có mối quan hệ
chặt chẽ với hướng vận chuyển vật liệu, hướng dịch chuyển đường bờ. Trong giai đoạn
Holocen muộn, quá trình biển thoái, môi trường châu thổ Trà Vinh bồi tụ ra phía biển, cộng
sinh tướng được thể hiện qua sự chuyển tướng từ đất liền ra biển: nhóm tướng bột sét đồng
bằng châu thổ → nhóm tướng cát, bùn cát tiền châu thổ → nhóm tướng bùn sườn châu thổ.
11
Trong mặt cắt trầm tích khu vực nghiên cứu (theo chiều dọc) có thể nhận thấy rất
rõ biến động trầm tích có quan hệ chặt chẽ với mực nước biển dâng. Từ 5000 năm đến nay
biển thoái, từ dưới lên mặt cắt trầm tích thay đổi từ tướng sét sườn châu thổ (tuổi từ 5000
– 3000 năm cách ngày nay) lên tướng bùn pha cát tiền châu thổ và trên cùng là tướng
tướng bùn đồng bằng châu thổ đan xen với tướng cát cồn chắn cửa sông.
3.2.1.1. Địa hình lục địa ven biển tuổi Holocen muộn
- Đồng bằng tích tụ do sóng và thủy triều là chủ yếu.
- Bãi biển được thành tạo do sóng, thủy triều chiếm ưu thế.
- Đồng bằng rìa delta được thành tạo do sóng, thủy triều chiếm ưu thế:
- Sườn delta được thành tạo do sông, sóng, thủy triều chiếm ưu thế
- Đồng bằng xói lở - tích tụ do sóng chiếm ưu thế
12
Từ 3000 năm đến 2000 năm cách ngày nay châu thổ bồi tụ thêm hai đơn vị diện tích
số 10 và 9 với diện tích tương ứng là khoảng 240km2 và 330km2 , tăng diện tích châu thổ
thêm khoảng 560km2. Từ năm 2000 đến 1000 cách ngày nay châu thổ bồi tụ thêm đơn vị số 8
– 5, tăng diện tích đồng bằng thêm khoảng 660km2. Như vậy từ 3000 năm đến 1000 năm cách
nay châu thổ bồi tụ với tốc độ rất nhanh, đường bờ dịch chuyển về phía biển với tốc độ
khoảng 40m/năm.
Từ 1000 năm đến nay đường bờ tiến ra phía biển, tăng thêm 5 đơn vị 4- 1, diện tích
tăng thêm là 580km2, tốc độ dịch chuyển đường bờ khoảng 20m/năm. So sánh với giai đoạn
bồi tụ từ 3000 – 2000 thì giai đoạn từ 1000 đến nay cho thấy tốc độ bồi tụ giảm khá nhanh.
Các tính toán cho thấy hai giai đoạn bồi tụ này tương ứng với hai giai đoạn mực nước biển hạ
và dâng. Trong kết quả nghiên cứu của Trần Nghi [12] mực nước biển từ 3000, 2500 năm đến
1000 năm hạ 4,5m, từ 1000 năm đến nay mực nước biển lại nâng dần từ -2m đến -1m (mốc
thời gian 500 năm cách nay) và tiếp tục dâng ở giai đoạn hiện đại (bảng 3.3).
3.2.3. Biến động địa hình trong giai đoạn hiện đại
Đoạn bờ biển và cửa sông Định An, cửa Cung Hầu từ năm 1952 đến nay luôn biến động,
thường xuyên có những đoạn bồi tụ đan xen với các đoạn xói lở (bảng 3.4).
Bảng 3.4. Các đoạn bờ bồi tụ, xói lở từ cửa Cung Hầu đến cửa Định An
Đoạn bờ phía Đông Bắc Đoạn bờ phía Tây Nam
Giai đoạn 1952 – 1965
Đoạn bờ biển thuộc địa phận xã Hiệp Phát triển các đoạn xen kẽ, thiên về
13
Thạnh – Long Trường Hòa, huyện Duyên Hải xói lở. Các đoạn xói lở chính thuộc xã Đông
có hiện trạng tương đối ổn định, phát triển Hải có chiều dài 5,8km và xã Dân Thành
bồi tụ xói lở xen kẽ nhau trên từng đoạn 5,2km. Vùng xói lở có chiều rộng trung bình
ngắn. Nhìn chung bờ biển trong giai đoạn này 220m và rộng nhất tới 220m, rộng nhất tới
không có biến động lớn 580m, tương đương tốc độ xói lở trung bình
17m/năm và lớn nhất 44m/năm. Vùng bồi tụ
là các bãi triều nằm trước các cửa lạch với tốc
độ bồi tụ 20m/năm đến 35m/năm.
Giai đoạn 1965 -1983
Phát triển bồi tụ xen kẽ. Vùng bồi tụ Bờ biển biến động mạnh, vùng xói lở
mạnh thuộc khu vực bãi tắm Ba Động xã dài từ 4 – 5,2km, chiều rộng vùng xói lở
trường Long Hòa có chiều dài 9km. Vùng bồi trung bình 160m, lớn nhất là 140m, tương
tụ rộng trung bình 120m, rộng nhất là 300m, đương tốc độ xói lở 9m/năm đến 23m/năm.
tương đương tốc độ bồi tụ 6,5m/năm và Giữa các đoạn xói lở là bồi tụ chiều dài từ 4,5
16m/năm - 5,7km. Vùng bồi tụ có chiều rộng trung
bình 500m và rộng nhất là 1200m, tương
đương tốc độ bồi tụ 28m/năm và lớn nhất
66m/năm.
Giai đoạn 1983 -1990
Quá trình bồi tụ xói lở xen kẽ. Bờ Đoạn xói lở có chiều dài 2,8 – 3,4km.
biển xã Trường Long Hòa tiếp tục được bồi Vùng xói có chiều rộng trung bình 90m, lớn
tụ nhẹ tại khu vực bãi tắm Ba Động. Vùng nhất là 220m, tương đương tốc độ xói
bồi tụ dài 3.6km, rộng trung bình 70m, rộng 12,5m/năm, lớn nhất 31m/năm. Vùng bồi tụ
nhất là 140m, tương đương tốc độ 8m/năm và có chiều dài 3 – 3,7km. Vùng bồi có chiều
lớn nhất là 15,5m/năm. Đoạn bờ thuộc xã Mỹ rộng trung bình 160m, lớn nhất là 580m,
Long huyện Cầu Ngang, Hiệp Thạnh huyện tương đương tốc độ trung bình 23m/năm, lớn
Duyên Hải bồi tụ xói lở xen kẽ trên các đoạn nhất 83m/năm.
bờ dài từ 1,5 đến 3km.
14
Giai đoạn 2001 – 2006
Vùng bồi tụ thuộc xã Dân Thành –
Đông Hải có chiều dài 5,8km, rộng trung
bình 110m, rộng nhất 280m, tương đương tốc
độ bồi tụ 18m/năm và lớn nhất 46m/năm
15
- Trục bào xói 1 bắt đầu từ km 11 cách cửa sông, cách trục bồi tụ 1 khoảng 1,7 km về
phía Đông Bắc. Từ km 11, trục chuyển dần sang hướng Nam Tây Nam đến km 15,7 thì
chuyển hẳn hướng Nam đi tiếp đến km 24. Trên đoạn này rãnh bào xói cắt vào bề mặt đồng
bằng rìa delta trong dải rộng 1,5 - 3,5km, sâu 1 - 2,3m.
- Trục bồi tụ 2 bắt đầu từ vị trí cách Cửa Cung Hầu km 11 về phía Đông Nam.
- Trục bào xói 2 bắt đầu từ km7,7 tính từ cửa sông Cổ Chiên. Ở km 7,7, bào xói sâu
3,7m ; km 11,3 và km 14,5 bào xói sâu 0,5 -2m, trục bào xói cách bờ trái 1,7km .
- Trục bồi tụ 3 bắt đầu ở vị trí cách cửa sông Cổ chiên 8,7km. Trục bồi tụ gần như
trùng với mép bờ trái lòng dẫn, kéo dài tới km 16.
3.3. NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỘNG ĐỊA HÌNH ĐỚI BỜ BIỂN VÀ GIẢI PHÁP ĐỊNH
HƢỚNG QUẢN LÝ QUỸ ĐẤT.
16
so với trong mùa đông (mùa khô). Vào mùa hè sóng liên kết với gió mùa phía nam tới tây
nam yếu hơn, vào mùa đông gió mùa tăng cường sóng mạnh từ phía bắc tới đông bắc. Trầm
tích từ sông đem ra biển vào mùa hè lớn, nhưng do mưa nhiều, nước dâng nên được giữ lại
ven biển. Vào mùa đông gió mùa hướng Đông Bắc kết hợp với dòng chảy ven bờ, trầm tích
bồi tụ dọc bờ tạo ra đê cát dài song song với đường bờ. Khi có bão, nước dâng, sóng bão tác
động làm cho cát tích tụ lên cao hơn. Khi đó đê cát nhô lên cao thêm vài mét, không bị ngập
dưới mực nước biển và trở thành cồn cát chắn cửa sông (hay còn gọi là đảo).
Sự hình thành các vùng trũng thấp xen giữa các giồng cát
Phần diện tích ở giữa bờ biển và đê cát mới nổi lên trở thành vũng, không chịu tác
động của sóng biển (còn gọi là các lagun). Sau một thời gian vũng bị ngọt hóa, rừng ngập
mặn không còn phát triển, tạo ra một lớp sét than bùn. Đặc biệt khi nước dâng vào mùa mưa
bão, ngập lụt cục bộ, trầm tích sông dần lấp đầy các vụng biển. Kết quả là tạo ra một vùng
trũng thấp, bên trên là trầm tích cát bùn, bên dưới là trầm tích sét than bùn.
Khi biển thoái đồng bằng châu thổ mở rộng ra phía biển, đơn vị tiền châu t hổ nổi
cao hơn so với mực nước biển trở thành phần phía ngoài của đồng bằng châu thổ, khu vực
địa hình sườn châu thổ được bồi tụ từ vật liệu do sông mang ra. Quá trình đó diễn ra theo
một chu kỳ, liên tiếp tạo ra các cồn cát (mà người dân gọi là các giồng cát) xen giữa các
vùng trũng thấp, kết quả là trong vòng khoảng 3000 năm trở lại đây đồng bằng châu thổ
Trà Vinh đã mở rộng ra phía biển gần 50km.
Vận tải thủy là phương tiện chính của vùng, ngày càng gia tăng, đặc biệt là tàu thuyền
ra vào khu vực cửa sông ảnh hưởng rất lớn sự ổn định của yếu tố thủy thạch động lực, quá
trình lắng đọng và bồi tụ và ở đây.
Các hoạt động quai đê lấn biển cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình phát triển tự
nhiên của đường bờ
17
3.3.2.2. Giải pháp nuôi trồng thủy sản
Vì vậy giải pháp đặt ra là phát triển hài hòa hoạt động nuôi trồng thủy sản, hạn chế
ảnh hưởng đến địa hình ven biển:
- Lập quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản, lồng ghép trong quy hoạch phát triển
tổng thể kinh tế xã hội các huyện ven biển và trong quy hoạch quản lý tổng hợp đới bờ
- Tăng cường dự báo tình hình thị trường thủy sản nội địa và quốc tế để lập kế hoạch
điều phối, phát triển ngành thủy sản. Tăng cường kiến thức nuôi trồng thủy sản cho các hộ
nông dân, liên kết giữa các hộ tạo ra thương hiệu riêng, hạn chế bị thương lái ép giá.
Kết hợp phát triển rừng ngập mặn, làm đê ngăn mặn và giãn dân làm tăng diện tích đất
đồng thời tăng các đơn vị hành chính của tỉnh Trà Vinh. Giải pháp này được người dân thực
hiện từ khá lâu, giúp cho việc quy hoạch dân cư tốt hơn.
Ngoài sông Hậu và sông Cổ Chiên, Trà Vinh có rất nhiều kênh rạch thuận lợi cho việc
giao thương hàng hóa bằng đường thủy. Một số kênh lớn trong khu vực là kênh Trà Ngoa,
kênh 3/2, kênh Quan Chánh Bố, kênh Tắt, kênh Trà Vinh là những kênh quan trọng trong
giao thông thủy, và có vai trò lớn đối với thủy lợi trong vùng. Hiện nay dự án nạo vét luồng
để xây dựng cảng Trà Vinh và Định An đang được triển khai ít nhiều ảnh hưởng đến lượng
phù sa bồi đắp cửa sông và làm tăng diện tích xói lở bờ biển.
Trên địa bàn tỉnh cần củng cố các tuyến dân cư trên 3 hành lang nằm trên các giồng
cát: từ Long Hữu qua Trà Cú, hành lang chạy qua thị trấn huyện về phía sông Hậu và hành
lang ven biển. Di giãn dân và tái định cư khu vực mới khai hoang phía trong đê biển và đê
sông.
3.3.2.7. Quy hoạch đê sông, đê biển thích ứng với biến đổi khí hậu và nƣớc biển dâng
Cần xây dựng hệ thống công trình phù hợp để phòng chống thiên tai, bảo vệ sản xuất,
cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp xây dựng tuyến đê làm đường giao thông
phục vụ nhu cầu đi lại cho dân cư.
18
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trầm tích Holocen muộn vùng ven biển châu thổ Trà Vinh bao gồm 16 tướng phân bố
từ trên đất liền thuộc nhóm tướng đồng bằng châu thổ đến độ sâu 25m nước thuộc tướng sườn
châu thổ. Phần đất liền phía trong từ 50km ra đến bờ biển luôn có sự thay đổi tướng luân
phiên giữa tướng cồn cát chắn cửa sông, tướng bùn đồng bằng châu thổ và tướng bùn đầm lầy
ven biển cổ thể hiện trầm tích biến động trong một thời kỳ biển thoái.
Sự dư thừa trầm trầm tích trong Holocen muộn đã khẳng định khối lượng trầm tích do
sông Mê Kông qua hai nhánh sông Cổ Chiên và Cung Hẩu cung cấp là luôn luôn lớn hơn biên
độ sụt lún kiến tạo trong mọi thời đại.
Sự thay đổi mực nước biển, các hoạt động địa chất và lượng phù sa do sông cung cấp
đã làm cho địa hình khu vực nghiên cứu biến động mạnh, địa hình đồng bằng châu thổ mở
rộng nhờ sự ghép nối của đơn vị tiền châu thổ, sự chuyển tiếp từ địa hình sườn châu thổ sang
địa hình tiền châu thổ. Sự biến động diễn ra tiếp nối liên tục trong giai đoạn Holocen muộn.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu và sự dâng cao mực nước biển hiện đại cửa
sông và đường bờ hiện tại sẽ có xu thế biến động mạnh mẽ hơn. Tốc độ bồi tụ ra phía biển sẽ
chậm lại, ngày càng xuất hiện nhiều đoạn bờ xói lở mạnh đan xen với bồi tụ. Trong khi đó sụt
lún kiến tạo với tốc độ 2mm/năm vẫn đang diển ra sẽ là yêu tố nội sinh làm chậm dần tốc độ
lấn ra biển của đới bờ. Nếu tốc độ dâng cao mực nước biển hiện đại là 2mm thì đáy biển
(chưa tính đền bù trầm tích) sẽ sụt lún 4mm/năm. Tuy nhiên tốc độ đền bù trầm tích hiện tại
vẫn vượt quá 4mm/năm nên đường bờ vẫn được tiếp tục tiến ra biển với tốc độ 20m/năm. Sự
dư thừa trầm trầm tích trong Holocen muộn đã khẳng định khối lượng trầm tích do sông Mê
Kông qua hai nhánh sông Cổ Chiên và Cung Hẩu cung cấp là luôn luôn lớn hơn biên độ sụt
lún kiến tạo trong mọi thời đại.
References
Tiếng Việt
1. Lê Đức An (1996), “Về dao động mực nước biển ở thềm lục địa ven bờ Việt Nam trong
Holocen”, Tạp chí Các khoa học về trái đất, (18/4), tr. 365 -367.
2. Trịnh Việt An và nnk (2000), Đánh giá hiện trạng, xu thế diễn biến và khả năng thoát ra
của các cửa sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Định hướng giải pháp
chỉnh trị tổng thể, Dự án thuộc chương trình phòng chống lũ đồng bằng sông Hồng –
sông Thái Bình, Viện khoa học thủy lợi, Hà Nội.
3. Trịnh Việt An (2005), Nghiên cứu các giải pháp KH – CN chống sa bồi, ổn định lòng
dẫn cửa Định An, Đề tài độc lập cấp Nhà nước (chủ nhiệm).
4. Nguyễn Biểu và nnk (2000), Nghiên cứu lập sơ đồ tướng đá cổ địa lý Pliocen – Đệ tứ
thềm lục địa Việt Nam (0 – 200 m nước) tỷ lệ 1:1.000.000, báo cáo tổng kết đề tài mã
19
số KH – CN 06-11-2, Lưu trữ tại viện KH & CNVN, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Cư, Phạm Quang Sơn và nnk (1990), Động lực vùng ven biển cửa sông Việt
Nam. Phần nghiên cứu cửa sông, Đề tài 48B – 02 – 01. Chương trình nghiên cứu biển
48B – 02 (1986 - 1990), Viện khoa học Việt Nam, Hà Nội.
6. Nguyễn Địch Dỹ (2004). Đặc điểm cổ địa lý đồng bằng sông Cửu Long trong kỷ Đệ tứ,
Hội thảo khoa học: văn hóa Óc Eo và Vương Quốc Phù Nam. Hội sử học Việt Nam.
TP. HCM.
7. Nguyễn Địch Dỹ và nnk (2004). Nghiên cứu biến động cửa sông và môi trường trầm tích
Holocen – hiện đại vùng ven bờ châu thổ sông Cửu Long, phục vụ phát triển bền vững
kinh tế - xã hội. Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số: KC09/06-10.
8. Nguyễn Ngọc Hoa và nnk (1991), Báo cáo thuyết minh bản đồ địa chất – khoáng sản tỷ
lệ 1:200.000 nhóm tờ đồng bằng Nam Bộ, Lưu trữ Cục địa chất và khoáng sản Việt
Nam, Hà Nội.
9. Doãn Đình Lâm (2003), Lịch sử tiến hóa trầm tích Holocen châu thổ sông Hồng, Luận án
tiến sỹ, 129tr.
10. Trần Nghi, Đinh Xuân Thành và nnk (2005), “Quy luật chuyển tướng lòng sông cổ của
trầm tích Neogen muộn – Đệ tứ trong mối quan hệ với hoạt động kiến tạo vùng đồng
bằng Nam Bộ”, Tạp chí khoa học công nghệ biển, số 3 (T5), 2005, tr.1 – 9.
11. Trần Nghi, Đinh Xuân Thành (2000), “Tiến hóa trầm tích và cổ địa lý giai đoạn Pliocen -
Đệ tứ lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam”, Tạp chí địa chất, loạt A, phụ trương 2000, tr. 19
– 29.
12. Trần Nghi, Đinh Xuân Thành và nnk (2004). “Nhìn lại sự thay đổi mực nước biển trong
đệ tứ trên cơ sở nghiên cứu trầm tích vùng ven biển và biển nông ven bờ từ Nha Trang
đến Bạc Liêu”, Tạp chí khoa học và công nghệ biển, số 3, tập 4, tr.1 – 9.
13. Đinh Văn Thuận, 2005. Các phức hệ sinh thái bào tử phấn hoa trong trầm tích Đệ tứ ở
đồng bằng Nam Bộ. Luận án Tiến sĩ Địa chất, 150 tr. 55
14. Phạm Huy Tiến (2005), Dự báo hiện tượng xói lở - bồi tụ ở biển, cửa sông và các giải
pháp phòng tránh, báo cáo tổng kết đề tài KC – 09 – 05.
15. Vũ Văn Vĩnh và nnk (1994), Báo cáo sơ bộ sụp lở đất dọc sông Tiền, sông Hậu, Lưu trữ
liên đoàn bản đồ địa chất miền Nam TP.HCM.
Tiếng Anh
16. Clark. J.R. (1992), Intergrated Management of coastal zones. Food and Agriculture
Organization of the United Nations, Rome. FAO Fisheries Technical Paper No. 327.
17. Clark. J.R. (1996), Coastal zone Management Handbook, Lewis Publisher/CRC Press,
694 p.
20
18. Coleman. J.M. and Roberts. H.H. (1989). “Geology and Management of deltaic
lowlands”, In: Van der Linden, W.J.M., S.A.P.L. Cloetingh, J.P.K. Kaasschieter, J.
Vandenberghe, W.J.E. van der Graaff & J.A.M. van der Gun (eds.): Coastal Lowlands:
Geology and Geotechnology. Proceedings KNGMG Symposium. Geologie en
Mijnbouw, 68, 1-24.
19. Nagothu Udaya Sekhar (2005), “Intergrated coastal zone management in Viet Nam:
Present potential and future challenges”. Ocean & coastal management, Vol. 48, issue
9 -10, 813 – 827.
20. Nguyen Van Lap, Ta Thi Kim Oanh, Masaaki Tateishi (2000), “Late Holocen depositonal
environments evolution of the Mekong River Delta, Souther Vietnam”, Journal of the
Asian Earth Sciences, 18, (2000), 427 – 439.
21. Pilarczyk K. W. (1995), Design of Dikes and Revetments, Dutch Pratice, Delft.
22. Tanabe. S. Et al. (2003), “Song Hong (red River) Delta evolution related to millennium
scale Holocen sea-level changes”, Quaternary Scicen Reviews 22. 2345 – 2361.
23. Tanabe, Ta T. K. O, Nguyen V. L., Tateishi, M. Kobayashi, I., Saito Y. (2003), “Delta
evolution models infered from the Holocen Mekong delta, southern Vietnam”. In
“F.H. Sidi, D, Nummedal, p. imbert, H. Darman, H.W. Posamentier (Ed) Tropical
deltas of Southern Asia: Sedimentary Stratigraphy and petroleum Geology, SEMP
specical Publ. N76, 175 – 188
24. Ta T. K. O., Nguyen V. L., Tateishi, M. Kobayashi, I., Saito Y, Nakamura T. (2002).
“Sedimentary facies and late Holocen progradation of the Mekong River delta in
Bentre province, Southern Vietnam: an example of evolution from a tide – dominated
to a tide-wave dominated delta”. Sedimentary geology, 152, 313-325.
25. Toru Tamura,Yoshiki Saito, Mark D.Bateman,V.Lap Nguyen,T.K.Oanh Ta, Dan
Matsumoto, 2012, “Luminescence dating of beach ridges for characterizing multi-
decadal to centennial deltaic shoreline changes during Late Holocene, Mekong River
delta”, Marine Geology, 326–328 (2012) tr.140–153.
26. Xue Z. et al. (2010), “Late Holocene Evolution of the Mekong Subaqueous Delta,
Southern Vietnam”, Marine Geology 269 (2010) tr.46–60.
21