Professional Documents
Culture Documents
kịch bản đàm phán
kịch bản đàm phán
Bên A: Công ty T&T Việt Nam - Bên Xuất khẩu gạo (VN).
Bên B: Công ty 4P Group Hoa Kỳ - Bên Nhập khẩu gạo (HK).
Nội dung đàm phán: Thoả thuận về địa điểm nhập hàng.
Thành viên đoàn đàm phán:
Nhân viên Nhân viên Nhân viên Phiên dịch
Trưởng đoàn
thương mại pháp lý kỹ thuật viên
Bà Nguyễn
Bà Trần Thị Vũ Tùng
Bà Nguyễn
Thu Thảo Bà Đinh Lâm
Thị Thu
Chuyên Thảo Hoa Chuyên viên Bà Vũ Thị
Bên A: T&T Trang
viên cao cấp Trưởng ban cao cấp Hiền Thu
Giám đốc
phòng pháp lý phòng Kỹ
công ty
Thương mại thuật - Đầu
tư
Mrs Hoa
Mrs
Phạm
Mrs Katherin Mrs Jenny
Chuyên viên
Jennifer Thuý Phương
Bên B: 4P cao cấp Mrs Quỳnh
Hiên Chuyên viên Trưởng
Group phòng Kỹ Tạ
Giám đốc cao cấp phòng Pháp
thuật - Kiểm
công ty phòng lý
định chất
Thương mại
lượng
Địa điểm đàm phán: Phòng Hội thảo - Công ty T&T tại Việt Nam.
Bối cảnh: Hai bên đã thoả thuận thông qua hình thức thư và điện thoại, và đã nhất trí về
loại hàng hoá, số lượng bên B nhập của bên A, giá cả, hình thức vận chuyển (đường biển)
… Điểm còn chưa thống nhất cuối cùng là địa điểm nhập hàng. Bên A muốn xuất hàng
hoá từ cảng Chùa Vẽ () do chi phí vận chuyển từ cảng Chùa Vẽ sang cảng Los Angeles là
chấp nhận được Hải Phòng) sang cảng Los Angeles (bang Califorrnia. Bên B muốn hàng
hoá được nhập vào cảng Seattle (bang Washington) do tiện về địa điểm công ty gần đó, sẽ
giảm chi phí vận chuyển từ cảng Los Angeles sang cảng Seattle. Cuộc đàm phán (gặp mặt
trực tiếp lần này) có nội dung thống nhất địa điểm bên A đưa hàng sang bên B nhận.
Trong lần sang Việt Nam này, đoàn đàm phán của bên B sang với hi vọng thoả thuận xong
về địa điểm nhận hàng và ký kết hợp đồng.
Thảo - Như thông tin qua điện thoại, bên chúng tôi sẽ xuất hàng hoá từ cảng
Chùa Vẽ thuộc tỉnh Hải Phòng sang cảng Los Angeles thuộc bang
California, do quá trình, phương tiện và chi phí vận chuyển mà chúng tôi
chi trả hoàn toàn. Tuy nhiên, bên quý vị có thông tin bày tỏ mong muốn
được nhận hàng hoá tại địa điểm cuối cùng là cảng Seattle thuộc bang
Washington, do một vài lý do. Bên chúng tôi có tính toán là nếu hàng
hoá được nhập vào cảng Seattle thì chi phí tổ chức và vận chuyển mà
bên A chúng tôi chịu sẽ quá lớn, vượt quá khả năng chi trả của mình.Vì
vậy, chúng ta cần có sự nhất trí về địa điểm giao nhận hàng hoá này.
Thuý - Vâng. Chúng tôi đã nhận được tài liệu bên các vị gửi. Bên chúng tôi
cũng đã có trao đổi nội bộ và đưa ra quyết định là chi phí phát sinh do
thay đổi địa điểm giao nhận hàng của bên các vị sẽ được công ty chúng
tôi hỗ trợ một phần. Đề nghị của chúng tôi là 30-70, bên chúng tôi chịu
30% chi phí, bên các vị chịu 70%.
Lúc đầu là bên công ty cậu nhập ở cảng Los Angeles là các cậu chịu
100% chi phí, bây giờ công ty tớ muốn các cầu nhập ở cảng Seattle thì
công ty tớ chỉ hỗ trợ 40% chi phí và các cậu chịu 60% chi phí chứ. Sao
bọn tớ lại chịu 60% được đáng lẽ là bọn tớ k phải chịu tí chi phí nào ý.
Như thế ở phía dưới sẽ k hợp lý lắm nên tớ nhé (chỗ màu đỏ ý)
Trang có chút thảo luận với Thảo và Hoa.
Thảo - Thông tin của bên các vị gửi cho thấy rằng, chi phí chênh lệch giữa
việc vận chuyển từ Việt Nam sang hai cảng biển của Hoa Kỳ vào khoảng
950 $/tấn hàng. Tuy nhiên, theo thông tin chúng tôi được cung cấp từ
phía phòng Thương mại, chi phí vận chuyển do thay đổi địa điểm nhận
hàng đã được chúng tôi tính toán mức chênh lệch vào khoảng 1.250
$/tấn, bao gồm chi phí vận chuyển và các thủ tục liên quan. Nếu để vận
chuyển sang cảng Seattle, chúng tôi chỉ có thể chịu được 60% chi phí
phát sinh do vận chuyển. Do đó, chúng tôi đề nghị tỷ lệ là 40-60. Các vị
chịu 40% tổng chi phí chênh lệch khi vận chuyển hàng đến cảng Seattle
thay vì cảng Los Angeles.
Hiên có thảo luận với Thuý và Phương.
Phươn - Chúng tôi có tìm hiểu thông tin liên quan. Việc nhập hàng hoá vào cảng
g Seattle sẽ được chiết khấu giá trị khoảng 5%/tấn hàng cùng với các ưu
đãi cho doanh nghiệp xuất khẩu do chính sách phát triển kinh tế của
bang Washington. Nghĩa là bao gồm cả chi phí cho các thủ tục hải quan,
tổng chi phí chênh lệch do thay đổi địa điểm giao nhận hàng là 1.000
$/tấn hàng. Chúng tôi nghĩ mức tỷ lệ 30-70 là hợp lý.
Hoa - Với mức giá thực khi nhập hàng vào cảng Seattle là 1.000 $/tấn hàng,
chúng tôi chỉ có thể chịu được mức tỷ lệ không quá 65% chi phí. Nhưng
nếu bên các vị lo được thủ tục hải quan, thì chi phí vận chuyển sẽ giảm
xuống còn khoảng 975 $/tấn hàng. Với phương án này, chúng tôi có thể
chịu được tỷ lệ chi phí 35-65. Chúng tôi nghĩ đây là mức hợp lý.
Hai bên đều có thảo luận của mình. Sau một hồi hai bên đều đưa ra quyết định của
mình.
Phươn - Bên chúng tôi có nhất trí là sẽ lo thủ tục hải quan, và mức tỷ lệ chịu chi
g phí 35-65 là chấp nhận được. Bên chúng tôi đồng ý với phương án này.
Hoa - Vâng. Với phương án này, các công việc pháp lý lúc xuất hàng từ cảng
Chùa Vẽ, Việt Nam chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm. Công việc từ khi hàng
nhập vào cảng Seattle sẽ do các vị quản lý. Trong quá trình vận chuyển
và bảo quản hàng hoá trên đường đi, chi phí sẽ được bên quý vị chịu
35%, bên chúng tôi sẽ chịu 65%.
Phươn
- Chúng tôi đồng ý với phương án đó.
g
Trang và Hiên đưa ra sự nhất trí cuối cùng.
Trang - Vậy là các công việc thoả thuận đã xong. Các điều khoản đã được thoả
thuận được bên chúng tôi soạn thảo, đưa vào hoàn tất hợp đồng.
Hiên - Như đã thoả thuận, bên quý vị sẽ soạn thảo hợp đồng. Và theo kế
hoạch, chúng ta sẽ ký kết vào thời gian như đã thoả thuận.
Trang - Chúng tôi đồng ý.