Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

I

1.Chương I: Quan điểm về đạo đức và đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh.
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận chính trị toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định: "Đảng
ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ
nam cho hành động".

Vấn đề Đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện
trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ lao
động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác đến
sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ gia
đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh
xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính khách
quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và của mỗi
con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là đạo đức Việt Nam vừa là đạo
đức cộng sản, vừa mang cốt cách của văn hóa đạo đức phương Đông vừa mang
dáng dấp của đạo đức phương Tây.

Quan niệm đạo đức truyền thống ở Việt Nam dĩ nhiên không chỉ phụ thuộc
một chiều vào tư tưởng đạo đức Nho học, mà chủ yếu bị chi phối bởi văn hóa xóm
làng qui định cái tình, cái nghĩa, cái lý… cộng đồng hơn là cương thường hay luân
thường Nho giáo. Nội dung và phạm vi của đạo đức Việt Nam là lối sống có tình
nghĩa theo phương châm “thấu tình” sẽ “đạt lý”.

Đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế - xã hội. Giá trị
đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con
người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi
ách bóc lột lao động”. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là
những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả
nhữmg người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới
của những người cộng sản”. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa
học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể
đạt tới. Đạo đức ngoài sự chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội, còn chịu sự
tác động của sự tự ý thức và niềm tin về bản thân mình, về dân tộc, giai cấp theo
những lý tưởng và những định hướng giá trị nhất định. Do đó, đạo đức có tính độc
lập tương đối. Cho nên không thể quả quyết rằng, sự giàu có về vật chất sẽ gắn liền
với sự giàu có về tinh thần đạo đức hay ngược lại.

Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử dụng,
thuật ngữ đạo đức được dùng với 3 nghĩa: Rộng, hẹp, và rất hẹp.

Nghĩa rộng: Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong các
quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng.

Nghĩa hẹp: Đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con
người trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống.

Nghĩa rất hẹp: Đó là hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể
hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể
hiện lương tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù không lặp
lại.

Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối quan hệ
cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc).

Quan điểm “Đức là gốc” của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong học thuyết
“đức trị” của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm “đức là gốc” của Nho giáo chứa đựng
những yếu tố hợp lý nhất định. “Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo
đức mới, đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa của đạo đức nhân loại.

Quan điểm “Đức là gốc” của Hồ Chí Minh được xây dựng trên những nội dung
cơ bản như sau:
Thứ nhất, Đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng, giống như
cây phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian khổ
khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà khi Lênin mất, Hồ Chí Minh đã viết những
dòng đầy xúc động trước tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực của người thầy
vĩ đại : “…Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa
hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức
vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và
đã khiến cho trái tim của họ hướng về người, không gì ngăn cản nổi…”. Còn trong
“Đường Cách mệnh” tác phẩm “gối đầu giường” của những người cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã giành chương đầu tiên để bàn về tư cách người cách mạng,
sau đó mới nói về lý luận và đường lối cách mạng. Với Hồ Chí Minh, “Đức là gốc”
cho nên, đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
mà còn giúp người cách mạng không ngừng cầu tiến bộ và hoàn thiện bản thân
mình.

Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời...
cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự
trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì “Đức là gốc” cho nên đạo
đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng, mỗi
người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc
nhỏ, nhưng bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.

Thứ hai, Trong mối quan hệ giữa Đức và Tài thì “Đức là gốc” nhưng đức
và tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Hồ Chí
Minh yêu cầu: Tài lớn thì Đức càng phải cao, vì khi đã có trí thì cái đức chính là
cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ,
đã chấp nhận và lựa chọn tin theo.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân”. “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến cái trí.
Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn
luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã thấy sức không
vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ người tài đức hơn
mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như vậy, “Đức là gốc” ở đây phải là
“Đức lớn” - đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh vì cách mạng, vì nước vì dân, nó
không đồng nhất với những phẩm chất đạo đức thông thường cụ thể, như hiền lành,
ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời sống hàng ngày.

Thứ ba, "Đức là gốc" trong xây dựng Đảng. Phát triển tư tưởng của Mác,
Ăngghen, Lênin về Đảng của giai cấp công nhân, trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm
30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hình tượng về Đảng kiểu
mới của giai cấp vô sản: "….Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,Ba mươi
năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình. Đảng ta là đạo đức, là văn minh…."

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" trong đó đạo đức
là "gốc", vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Bởi Đảng
cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một đảng tiêu
biểu cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức cách mạng đã đóng góp làm
phong phú thêm tư tưởng đạo đức cách mạng của đạo đức học Mác-Lênin, được
biểu hiện vận dụng nhuần nhuyễn giữa tính nhân văn của các dân tộc Việt Nam với
đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân.

Xét về lý luận, quan điểm “Đức là gốc” của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú,
bao trùm và xuyên suốt toàn bộ tư tưởng đạo đức cách mạng của Người.

1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách mạng
xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm
vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng;
là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người,
sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng… Và đạo đức cách mạng là
cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người cách mạng.
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam, đồng thời kế thừa những tư tưởng đạo đức phương Đông,
những tinh hoa đạo đức của nhân loại và đặc biệt quan trọng là tư tưởng đạo đức
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh có sử dụng một
số khái niệm và mệnh đề tư tưởng đạo đức của Nho giáo, nhưng trên cơ sở mới,
chuyển tải những nội dung mới, vì vậy, về thực chất, đó là đạo đức mới, đạo đức
cách mạng.

 Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo
ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành
công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”.

Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt
đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng,
nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng
đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

Thứ hai, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là bộ phận quan trọng trong di sản lý
luận của Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh nguyên tắc kế thừa được Người vận dụng một cách nhuần nhuyễn và trở
thành nguyên tắc có tính chất chỉ đạo trong việc tiếp thu các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam và nhân loại để xây dựng nên một nền đạo đức mới -
đó là đạo đức cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường gọi.

Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn:

Về mặt lý luận, Người đã để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc
và toàn diện về đạo đức.

Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của
cán bộ, đảng viên.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức là những quan điểm thực sự
khoa học, biện chứng, Mác-xít; phù hợp với sự tiến hoá của xã hội loài người. Đó
là sự kết hợp nhuần nhuyễn những quy tắc đạo đức cách mạng của giai cấp công
nhân, giai cấp tiên tiến nhất trong thời đại ngày nay, với những truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Chính Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là mẫu
mực kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam với đạo đức
cộng sản cao quý của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Những quy tắc đạo đức của Người
nêu ra đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân
tộc khác trên thế giới.

Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền
tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn
của sông nước. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng. Muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có
cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
với cả dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy lại phải thể hiện trong các mối quan hệ xã
hội hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp và với mọi người xung
quanh mình.

Hồ Chí Minh cũng từng đề cập một nội dung mới, phản ánh đạo đức cao rộng
hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm
đạo đức. Nội dung chủ yếu của trung với nước là: Trong mối quan hệ giữa cá nhân
với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách
mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng;
Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

  Một phẩm chất đạo đức nữa luôn gắn liền với những hoạt động hàng ngày của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn được đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất là Cần
Kiệm -Liêm Chính - Chí Công - Vô Tư. Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền
thống Việt Nam. Người chỉ ra rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính
nhưng không thực hiện; ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực
hiện làm gương cho nhân dân noi theo. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự
giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc.
Quán triệt lời dạy của Bác, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, người cán bộ, lãnh đạo,
Đảng viên cũng phải thực hiện “Cần Kiệm Liêm Chính, Chí Công Vô Tư”.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất, hoà quyện giữa chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Tinh thần quốc tế
trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng
lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự thương yêu, tôn trọng tất cả các
dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân
biệt chủng tộc.

Tóm lại, đạo đức, đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự
do cho con người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy tu
dưỡng đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự
nguyện dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi người. Hồ Chí Minh đã viết:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong. Có gì sung sướng, vẻ vang hơn là trau rồi đạo đức cách
mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải
phóng loài người”

2.Chương II: Những nguyên tắc đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo
đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công
việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm
gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài.
Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
2.1. Những chuẩn mực chung của đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng
Việt Nam gồm những điểm sau:
Thứ nhất, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của
xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản
ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một
cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành
động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ
trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Thứ hai, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh
đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao
đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những
người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở
miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai,
không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng
nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết
điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta:
"Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng
người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập
cho tơi bời".
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con
người.
Thứ ba, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng
lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương
hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham
lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ
hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự
đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay,
sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc".
“Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Thứ tư, tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề
"Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp
bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng
hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng
của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người
tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn
của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn
nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh
đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm
gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước
theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ
“người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
Xây đi đôi với chống.
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý
thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh
cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội
xâm” phá từ trong ra.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo
đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực
tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách
mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên
trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên
tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá
bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế
phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát
triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất
hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa".
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động
phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân
có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo
đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những
phẩm chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người,
chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền
kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh "cá nhân",
đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ.
Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại hình
là tham ô, lãng phí quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá
nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc
nội xâm”, “giặc ở trong lòng” phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của
những kẻ tham ô, lãng phí quan liêu cũng nặng như tội lỗi "Việt gian, mật thám".
Người cho rằng: "Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm
còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần,
là một khó khăn, đau xót".
Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo
đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các nguyên
nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ
nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng
làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.
Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người
để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho
Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt
Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

2.2. Liên hệ bản thân về việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức.
*Ưu điểm:
Về ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Đối với một giáo viên
việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên là hết sức cần thiết. Nhận thức
được điều đó bản thân tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về phẩm chất đạo đức, biết
kính trên nhường dưới, cư xử đúng mực, hoà nhã với mọi người; đặc biệt luôn là
tấm gương cho học trò noi theo, phải luôn lluôn kiên định lập trường tư tưởng của
Đảng . Liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng và đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ
những người có hoàn cảnh đặc biệt; không kiêu căng, tự cao, tự đại trong mọi
trường hợp. Đặc biệt không tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Về ý thức trách nhiệm, tâm huyết với công việc: Đối với mỗi một người giáo viên
công việc chính là giảng dạy truyền thụ tri thức và rèn luyện nhân cách cho học
sinh, một công việc hết sức khó khăn nhưng cũng đầy tự hào. Thấm nhuần được
đạo đức, tư tưởng và mong ước của Người tôi đã, sẽ không ngừng học tập nâng cao
trình độ về chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tôi
luôn khát khao mình sẽ đóng góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc trồng
người và cống hiến cho đất nước những người con đủ đức, đủ tài để phần nào thoả
lòng mong ước của Người, tôi luôn tự hào và sẽ cố gắng hết mình để thực hiện tốt
điều đó.
Về chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện ” Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư” theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với
làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm
thì mang nặng đầu óc cá nhân.
Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn
vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực
thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ
Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi
biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
Về ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương Hồ
Chí Minh:
Bản thân tôi luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc,
pháp luật, kỷ cương không kéo bè, kéo cánh để làm rối loạn kỷ cương, để cầu
danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần
chúng…, làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.
Dù ở bất cứ cương vị nào phải gần gũi với mọi người, học tập và có trách nhiệm
với những người xung quanh.
Liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng tức là: Luôn có ý thức phải rất coi trọng tự
phê bình và phê bình. Bản thân tôi không sợ phê bình, không sợ khuyết điểm mà
chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng hơn vì
vậy phải tự nghiêm khắc với chính mình và phê bình luôn có mục đích xây dựng.
Cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu
đá”, nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Luôn động viên những người thân trong gia đình và xã hội giữ gìn đạo đức lối
sống, xây dựng gia đình văn hoá.
*Nhược điểm:

Tôi nhận thấy rằng bản thân mình đã cố gắng rất nhiều trên tất cả các mặt song vẫn
còn có những hạn chế nên kết quả chưa cao.

Trong việc đấu  tranh phê bình và tự phê bình đôi lúc còn rụt rè, còn cả nể trong
việc đánh giá xếp loại.

Việc nắm bắt thông tin, ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ  vào công
việc chuyên môn còn có những hạn chế nhất định .

III. Kết Luận:

Năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề
lên trang đầu Tư cách một người cách mệnh, và nhấn mạnh sự: cần kiệm, cả quyết
sửa lỗi mình, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm,
giữ chủ nghĩa cho vững, ít lòng tham muốn về vật chất... Trải qua 30 năm Đảng ta
lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta là đạo đức, là văn
minh. Trước khi đi xa, Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhấn
mạnh nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Về nâng cao chất lượng đảng viên, Nghị quyết Đại hội X của Đảng yêu cầu: “lấy
đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn
nhiệm vụ người lãnh đạo,người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được
giao”.Như vậy,một lần nữa khẳng định rằng:giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức
cách mạng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng hàng đầu trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng.

Những di sản tinh thần của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
là cực kỳ to lớn và quý báu. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đã xuất hiện những điều kiện thuận lợi và cả những vấn đề mới, thách thức
mới. Vấn đề cốt lõi là các cấp ủy đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải nắm vững tư
tưởng chỉ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: bất kỳ việc gì
cũng vì hạnh phúc nhân dân. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”do Đảng ta phát động là đợt sinh hoạt chính trị lớn có nhiều ý
nghĩa quan trọng, trong đó việc quán triệt về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, nghiên cứu tư tưởng, đạo đức, tác phong và những lời dạy của Người về đạo
đức cách mạng của người đảng viêncàng có ý nghĩa thiết thực. Điều này cũng
khẳng định rằng: Làm tốt công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ đảng viên chính là góp phần giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền
thống vẻ vang của Đảng.

Thực hiện lời dạy bảo đồng thời cũng là mệnh lệnh thiêng liêng xuất phát từ
trái tim, từ tấm lòng tôn kính đối với Bác Hồ, vị Cha già muôn vàn kính yêu của
dân tộc Việt Nam.

You might also like