Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 101

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ANH THANH

BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT


TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ANH THANH

BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT


TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự


Mã số : 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự chỉ dẫn của thầy hướng dẫn khoa học. Các kết quả nêu trong luận
văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Tác giả luận văn

Hoàng Anh Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................ 8
1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.......... 8
1.2. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt
người ..................................................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH................................................. 30
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt
người ..................................................................................................................... 30
2.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện
pháp ngăn chặn bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ........................................ 45
2.3. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc áp dụng biện pháp
bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 52
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ....................................................... 62
3.1. Một số yêu cầu góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................ 62
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 65
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự


BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CAND: Công an nhân dân
CQĐT: Cơ quan điều tra
CSĐT: Cảnh sát điều tra
ĐTV: Điều tra viên
KSV: Kiểm sát viên
PCTP: Phòng, chống tội phạm
TAND: Tòa án nhân dân
THTT: Tiến hành tố tụng
TTHS: Tố tụng hình sự
VAHS: Vụ án hình sự
VPPL: Vi phạm pháp luật
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong những BPNC thì bắt người chiếm vị trí quan trọng và được áp dụng
thường xuyên để đấu tranh PCTP. Bắt người là một BPNC trong TTHS phục vụ
hiệu quả cho việc ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều
tra, giải quyết VAHS, với mục đích: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có
căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án” [35, tr.101]. Biện pháp bắt
người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ biến trong thực
tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết VAHS. Việc áp dụng
biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan trọng cho việc chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý
công minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội cũng như không để
lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Tuy nhiên, bắt người là biện pháp
ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, những quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, nếu bắt oan, sai thì hậu quả của nó rất phức tạp và có
thể không lường trước được. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là
vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
một số quyền con người và quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến
pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người...; nó liên quan nhiều đến việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó,
những VPPL về biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền
con người trong TTHS rất dễ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tuyên
truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, BLTTHS năm
2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều quy định mới về biện pháp bắt người cũng
chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh,
phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp hai tỉnh Khăm Muộn và Sa Vẳn Na Khệt

1
của nước CHDCND Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị. Quảng Bình có diện tích
tự nhiên là 8.065 km2; dân số đến năm 2019 là 953.914 người. Thời gian qua, trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình, tình hình các loại tội phạm diễn biến phức tạp, có chiều
hướng gia tăng với nhiều loại tội phạm mới, hình thức, thủ đoạn phạm tội hết sức
phức tạp và tinh vi. Theo số liệu báo cáo tổng kết công tác đấu tranh PCTP cho thấy
trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, các lực lượng chức năng trên
địa bàn tỉnh đã phát hiện, khởi tố mới 3.680 vụ phạm pháp hình sự. Theo đó, từ năm
2011 đến năm 2015, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Quảng Bình đã bắt 4.960 đối
tượng, trong đó: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 1.019 đối tượng (chiếm
tỷ lệ 20,54%); bắt người phạm tội quả tang 2.235 đối tượng (chiếm tỷ lệ 45,06%);
bắt người đang bị truy nã 195 đối tượng (chiếm tỷ lệ 3,93%); bắt bị can, bị cáo để
tạm giam 1.511 đối tượng (chiếm tỷ lệ 30,47%) [47, tr.14]. Những số liệu trên đã
cho thấy tính chất công tác bắt giữ đối tượng phạm tội là vấn đề được tiến hành
thường xuyên. Trong khi đó, công tác xử lý các vụ án, các đối tượng gây án còn
nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật
hình sự, nhất là vấn đề áp dụng BPNC bắt người theo pháp luật TTHS.
Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, do khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới
hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có
liên quan đến biện pháp bắt người còn chưa được đề cập, nghiên cứu tới. Vì vậy,
nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả biện pháp bắt người trong TTHS
tại tỉnh Quảng Bình là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình. Xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về nội
dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp
Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều các công trình khoa học, như: giáo
trình, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa

2
học, bài báo khoa học nghiên cứu, đề cập đến biện pháp bắt người theo pháp luật
TTHS Việt Nam, cụ thể như:
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Học viện Cảnh sát nhân
dân, Nxb.CAND, Hà Nội, 2005;
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Phạm Mạnh Hùng
(chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016;
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb. CAND, 2008;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự” của GS.TS Võ Khánh Vinh
(chủ biên), Nxb. CAND, 2007;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của TS. Trần Văn
Biên - TS. Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên), Nxb. Thế giới, 2017;
- Sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng
Phúc, Nxb. Chính trị quốc gia, 2015;
- Sách chuyên khảo “Hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động của lực lượng
Cảnh sát nhân dân” của TS. Trịnh Văn Thanh, Nxb. CAND, 2001;
- Sách chuyên khảo “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình
sự” của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011;
- Luận án Tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ” của Nguyễn Văn
Điệp, Đại học Luật Hà Nội, 2005;
- Luận văn Thạc sĩ “Vấn đề bắt oan, sai trong hoạt động điều tra vụ án hình
sự và một số giải pháp khắc phục của Cơ quan Cảnh sát điều tra hiện nay” của Võ
Quốc Công, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2005;
- Luận văn Thạc sĩ “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Lê Thị
Thu Nguyệt, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017.
Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến biện pháp bắt người theo
pháp luật TTHS Việt Nam. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ cơ

3
sở lý luận về BPNC bắt người, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng BPNC bắt người. Tuy nhiên, nhìn chung biện pháp bắt người được các nhiều
nhà khoa học nghiên cứu, đề cập ở trên với các mức độ, khía cạnh khác nhau và gắn
với các địa bàn khác nhau. Theo khảo sát của tác giả trong những năm gần đây chưa
có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BPNC bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật hoàn toàn đáp ứng
được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về BPNC bắt người.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng BPNC bắt người hiện nay trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng
biện pháp này trong thực tiễn, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người
và phòng ngừa những vi phạm trong việc áp dụng biện pháp này của cơ quan chức
năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi
sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp lý cơ
bản về BPNC bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành.
- Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình áp
dụng BPNC bắt người để minh họa cho quá trình thực tiễn áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới của cơ quan chức
năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy
định tại BLTTHS năm 2003.
- Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy
định tại BLTTHS năm 2015.
- Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu các quy định về biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà
nước và pháp luật nói chung, Nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực
xã hội, mọi hoạt động của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc
hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, Nhà nước pháp
quyền và vấn đề quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong
luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các tài liệu, số
liệu, phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận

5
văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người
trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát.
- Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực tế
thu thập tại địa bàn Quảng Bình nhằm minh họa, làm rõ thực trạng của tình hình áp
dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình từ năm 2015 đến năm 2019 trong chương 2 của luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ yếu tại
chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá trong luận văn,
tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có áp dụng biện pháp
bắt người đạt kết quả cao hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt
động TTHS tại địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019.
+ Phương pháp trao đổi, tọa đàm: được sử dụng để trao đổi, tìm hiểu một số
thông tin thực tế từ các cán bộ điều tra, ĐTV của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh
Quảng Bình có kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và tiến hành hoạt động bắt
người theo pháp luật TTHS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về
BPNC nói chung, biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng.
Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho
các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực
tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và
TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Luận văn là
công trình khoa học đầu tiên khảo sát một cách toàn diện và sâu sắc về thực tiễn áp
dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình từ năm 2015 đến năm 2019. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế,
nguyên nhân những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự, TTHS để thực hiện biện pháp bắt người trong đấu tranh PCTP ở

6
địa bàn tỉnh Quảng Bình. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng
viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan
đến Luật hình sự và TTTHS nói chung, các BPNC nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần
nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương.
Chương 1: Lý luận về bắt người và quy định theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp
ngăn chặn bắt người và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

7
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người
Để làm rõ nội dung pháp lý của biện pháp bắt người trong TTHS chúng ta
cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan như: Biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế trong TTHS.
Thứ nhất, về biện pháp ngăn chặn: Các BPNC trong TTHS được quy định tại
Điều 109, BLTTHS năm 2015 như sau:
“1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị
buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội
hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền THTT trong phạm vi
thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú,
tạm hoãn xuất cảnh. 2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị
cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.” [35, tr.101].
Thứ hai, biện pháp cưỡng chế: Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn
ngữ học biên soạn năm 2010: “Cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức mạnh
quyền lực” [50, tr.599]. Căn cứ vào loại VPPL khác nhau, cưỡng chế cũng có được
chia thành các loại khác nhau, như: cưỡng chế dân sự, cưỡng chế hành chính, cưỡng
chế hình sự và cưỡng chế TTHS. Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS được quy
định tại Điều 126 - BLTTHS năm 2015 như sau: “Để bảo đảm hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan,
người có thẩm quyền THTT có thể áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài
sản, phong tỏa tài khoản” [35, tr.121]. Như vậy, có thể khẳng định rằng biện pháp
bắt người là BPNC mang tính cưỡng chế trong TTHS, là một thuật ngữ đã xuất hiện
từ lâu đời và được mọi người sử dụng thường xuyên trong đời sống xã hội.

8
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010 thì:
“Bắt là một động từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó
không để cho tự do hoạt động hoặc cử động” [50, tr.60]. Còn theo Từ điển Tiếng
Việt của Nguyễn Như Ý xuất bản năm 1998 thì “Bắt là nắm lại, giữ lại, không để
cho tự do hoạt động hoặc cử động” [53, tr.74].
Như vậy, bắt được bắt đầu khi chủ thể thực hiện hành động nắm, giữ và kết
thúc khi hành động nắm giữ đó chấm dứt. Bắt ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Khi
tiếp cận bắt với tư cách là một BPNC trong TTHS, do chưa có định nghĩa pháp lý
về biện pháp bắt người, cho nên đã có nhiều quan điểm khác nhau, đáng chú ý là
một số quan điểm sau:
ThS. Nguyễn Hữu Huân cho rằng: “Bắt người là BPNC có tính cưỡng chế
nghiêm khắc, vì vậy việc bắt người nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ
tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy định” [24, tr.5].
Theo quan niệm của ThS. Nguyễn Hồng Ly: “Bắt người là giữ người phạm
pháp, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng
người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra. Bắt
người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước để trấn
áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong những BPNC
do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa
bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp
luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi
và đúng pháp luật” [27, tr.31-32].
Theo Từ điển Bách khoa CAND của Nxb. CAND xuất bản năm 2005: “Bắt
người phạm tội là một BPNC trong TTHS, được tiến hành theo quy định của pháp
luật và theo lệnh của CQĐT, VKS, Tòa án nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và
không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc đảm bảo thi
hành luật” [4, tr.35].
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm:
“Bắt nguời là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, nguời đang bị
truy nã và trong truờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với
nguời chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ,

9
ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự.” [45, tr.200].
Còn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Đại
học Mở Hà Nội thì: “Bắt người là BPNC trong TTHS do CQĐT, VKS, Tòa án áp
dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn
tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật”
[46, tr.214].
Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm biện pháp bắt người
trong TTHS như sau: “Biện pháp bắt người trong TTHS là BPNC trong TTHS, do
những người có thẩm quyền theo luật định tiến hành áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người đang bị truy nã hoặc người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị
khởi tố khi có những căn cứ do luật định, theo trình tự thủ tục nhất định nhằm ngăn
chặn tội phạm và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật”.
Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người
phạm tội mà là BPNC trong TTHS được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội
phạm, chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm
tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của những cơ quan có thẩm quyền THTT. Bắt
người trong TTHS là giữ người thực hiện hành vi phạm tội, không cho người đó
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đề phòng người đó bỏ trốn hoặc gây khó khăn
cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công cuộc đấu tranh PCTP cũng như yêu
cầu tăng cường pháp chế XHCN; bảo đảm quyền con người của công dân, kế thừa
có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật TTHS trước đây.
BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người gồm: Bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt
bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ [35, tr.101].
1.1.2. Những yêu cầu và vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người
1.1.2.1. Những yêu cầu của biện pháp ngăn chặn bắt người
Trong hệ thống các BPNC của TTHS thì bắt người là biện pháp quan trọng

10
được áp dụng rất phổ biến. Việc áp dụng biện pháp bắt người không chỉ có ý nghĩa
quan trọng đối với công tác đấu tranh PCTP nói chung và việc giải quyết các nhiệm
vụ của quá trình TTHS nói riêng mà còn gắn liền với việc hạn chế quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, nhất là các quyền tự do cá nhân được Hiến pháp ghi nhận và
bảo đảm. Do đó, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS, là cơ
sở cho hoạt động bắt người trên thực tiễn, tránh vận dụng biện pháp bắt người một
cách tuỳ tiện, dẫn đến bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt trái thẩm
quyền. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS các chủ thể
tiến hành cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Yêu cầu về chính trị
Bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan, sai có ảnh
hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của công dân, do đó biện pháp bắt người
theo TTHS luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, liên quan đến
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, có
rất nhiều những thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đang tìm mọi cách
để chống phá Nhà nước ta. Hoạt động bắt người phải đảm bảo tốt cho nhiệm vụ
chính trị của Đảng, Nhà nước và của địa phương trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
phát triển của đất nước.
Công tác đấu tranh PCTP nói chung và việc áp dụng BPNC bắt người trong
quá trình giải quyết VAHS nói riêng đều nhằm mục đích bảo đảm an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội. Xuất phát từ yêu cầy này, Đảng và Nhà nước đã có các
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động bắt người liên quan đến các đối tượng có ảnh hưởng
lớn đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Khi tiến hành áp dụng BPNC bắt người
đối với những đối tượng này thường tạo ra những luồng dư luận, ảnh hưởng đến
những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế dễ bị những thế lực thù địch lợi dụng
xuyên tạc, tuyên truyền nhằm làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nuớc.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần
vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật và tiên quyết thực hiện theo các chỉ
đạo hướng dẫn của Đảng và Nhà nước về BPNC bắt người với những đối tượng đặc
biệt. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hạn chế những tiêu cực xảy ra khi tiến hành.
- Yêu cầu về pháp luật

11
Khoản 2, Điều 20, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013
quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc
phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người
do luật định” [32, tr.25]. Tại Điều 10 BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải
theo quy định của Bộ luật này…” [35, tr.15]. Như vậy, để đảm bảo bắt đúng đối
tượng, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS đây là cơ sở cho
hoạt động bắt trên thực tiễn.
Trong quá trình tiến hành bắt, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần có
tài liệu, chứng cứ cần thiết chứng minh rằng họ là đối tượng bị áp dụng BPNC bắt
người. Hoạt động bắt người được tiến hành không đảm bảo yêu cầu sẽ gây tác hại
nhiều mặt như xâm phạm quyền con người và quyền tự do thân thể của công dân,
làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan THTT,
gây hoang mang trong dư luận Nhân dân, là cái cớ để các thế lực thù địch, phản
động cả trong và ngoài nước xuyên tạc để chống lại Nhà nước ta. Vì vậy, những tài
liệu chứng cứ để bắt người cần thu thập qua quá trình điều tra xác minh, cũng có thể
thu thập bằng những biện pháp nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện hoạt động bắt
cần phải tuân thủ đúng các điều kiện do luật định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
Bắt người về bản chất là biện pháp cưỡng chế, tác động trực tiếp đến quyền
tự do thân thể của công dân tuy nhiên lại không nhằm xâm phạm đến thân thể họ
như là sự trừng phạt hành vi họ đã thực hiện mà chỉ nhằm mục đích ngăn chặn tội
phạm diễn ra và hạn chế sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, cơ quan THTT không
được xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người bị bắt; tuyệt đối không thực hiện
hành vi tra tấn, bức cung, nhục hình hoặc là bất kỳ hình thức đối xử vô nhân đạo
nào khác xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Không được dựa vào các tài liệu chưa được kiểm tra, xác minh hay dựa trên ý chí
chủ quan làm căn cứ để thực hiện hoạt động bắt dẫn đến tình trạng oan, sai, bỏ lọt
tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt. Tuy nhiên, trong quá trình tiến
hành hoạt động bắt người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần phải biết vận

12
dụng linh hoạt, đúng pháp luật trong từng trường hợp bắt cụ thể. Để làm được điều
đó cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần nắm vững các quy định của pháp luật
về biện pháp bắt người và áp dụng một cách chính xác, triệt để và đảm bảo an toàn.
- Yêu cầu về nghiệp vụ
Điều tra VAHS là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan của
vụ án nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. Trong hoạt động điều tra, bắt
người là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn
hành vi phạm tội và có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh PCTP, trốn tránh
pháp luật cũng như gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS. Trong hoạt động bắt
người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn
vững vàng, có như vậy khi thực hiện việc bắt người mới không vấp phải những khó
khăn, vướng mắc. Yêu cầu đối với hoạt động bắt phải đảm bảo tính bất ngờ, khách
quan và chính xác.
Bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc bắt người được tiến
hành một cách hiệu quả nhất, khi tiến hành hoạt động bắt người không để đối tượng
biết, bỏ trốn, hoặc gây cản trở cho cuộc bắt, hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Yếu tố bất ngờ
được biểu hiện trong kế hoạch bắt người như: bí mật về thời gian, địa điểm sẽ tiến
hành bắt đối tượng, bí mật về sự chuẩn bị lực lượng bắt... Bí mật là yếu tố cần thiết
cho sự thành công của hoạt động bắt người, làm sao để đối tượng bắt chỉ biết là
chúng bị bắt khi lực lượng tiến hành bắt xuất hiện và triển khai lệnh bắt. Muốn đạt
được yêu cầu như vậy, đòi hỏi công tác chuẩn bị cho việc bắt cần phải tỉ mỉ, cẩn
trọng và chu đáo. Trước khi bắt người cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nhân thân của
đối tượng và những tài liệu xác minh ban đầu, phải lập kế hoạch của việc bắt người
chi tiết về thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, công cụ phương tiện hỗ trợ...
đặc biệt cần tính toán các phương án có thể xảy ra để chủ động, linh hoạt trong quá
trình tiến hành.
Việc bắt người có thành công phải đảm bảo tất cả những mục tiêu trong kế
hoạch đã hoạch định trước và linh hoạt trong mọi tình huống có thể xảy ra, khi triển
khai bắt phải tiến hành một cách khẩn trương và nhanh chóng.
1.1.2.2. Vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người
Là một trong những quyền cơ bản, quan trọng bậc nhất của công dân được

13
quy định trong Hiến pháp, tuy nhiên quyền nhân thân, quyền tự do về thân thể rất
dễ bị tác động trực tiếp bởi hoạt động bắt trong TTHS. Vì vậy, cần phải có sự cân
nhắc hết sức quan trọng khi quyết định việc bắt người. Hiệu quả đấu tranh PCTP, sẽ
được nâng cao rõ rệt, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi
trốn tránh pháp luật, đồng thời bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án được thuận lợi nếu việc bắt người đúng pháp luật. Ngược lại, việc bắt người
không đúng pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nghiêm trọng hơn
nó sẽ xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước
và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực
phản động, thù địch lợi dụng, mượn cớ để xuyên tạc nói xấu chế độ, nói xấu chính
quyền và chống lại Nhà nước. Quy định và thi hành biện pháp bắt người trong
TTHS có vai trò lớn trong việc giải quyết VAHS, bảo đảm phát hiện chính xác và
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm:
Một là, “BPNC bắt người thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN
trong việc đấu tranh, PCTP” [16, tr.95].
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, khái
niệm tội phạm quy định trong BLHS phải do người có năng lực TNHS hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã
hội mà theo quy định của BLHS hiện hành phải bị truy cứu TNHS. Tội phạm trực
tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến sự bền vững và ổn định của chế độ Nhà nước
XHCN, chế độ chính trị, chế độ kinh tế - xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật XHCN.
Quy định về biện pháp bắt người là thể hiện đường lối, chính sách của Nhà
nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội và thể hiện thái độ kiên quyết, triệt
để của Nhà nước trong việc đấu tranh PCTP.
Hai là, “bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT được
thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
PCTP” [16, tr.95].
Khi tiến hành bắt người, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền THTT phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự

14
cần thiết của biện pháp bắt người đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi BPNC
bắt người nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nhằm đảm bảo
thực hiện đúng Hiến pháp, đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân theo hiến định. Hiện nay, nhiều vụ án do tính chất phức
tạp, người thực hiện hành vi phạm tội cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do đó, nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả
ngay từ đầu những hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn
cho việc xử lý người phạm tội thì việc áp dụng BPNC bắt người là thực sự cần thiết.
Cùng với đó, việc bắt các đối tượng này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những
khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết VAHS.
Ba là, BPNC bắt người giúp việc ngăn chặn tội phạm được kịp thời và hiệu
quả [16, tr.96].
Việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm hậu quả của tội phạm. Kịp
thời ngăn chặn tội phạm góp phần bảo vệ những đối tượng dễ bị tội phạm tác động
tới, đồng thời ngăn chặn và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra.
Bốn là, cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng
BPNC bắt người trong những trường hợp cần thiết, nhằm đạt được mục đích, nhiệm
vụ của TTHS [16, tr.96].
Việc bắt người có tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do về
thân thể bởi vậy khi áp dụng cần phải tính toán hợp lý. Bắt người đảm bảo các quy
định của pháp luật TTHS sẽ góp phần tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh PCTP.
Ngược lại, bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại lớn, không những xâm
thêm lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, lực lượng cứu hộ y tế, bác sĩ các
cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận quần chúng Nhân dân, dễ
pháp y, cơ quan quản lý đường sông, cơ quan quản lý công trình đối với vụ tai xấu
chế độ, chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, việc quy định các cơ sở pháp lý đảm bảo
chặt chẽ sẽ góp phần giúp cho việc áp dụng biện pháp bắt người là một yêu cầu cấp
thiết và quan trọng trong TTHS Việt Nam
1.1.3. Bản chất pháp lý biện pháp bắt người
1.1.3.1. Tính cưỡng chế của Nhà nước
Trong xã hội XHCN, giáo dục, thuyết phục là phương pháp chủ yếu, cơ bản

15
để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trên các phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều này được lý giải từ tính xã hội rộng rãi của
Nhà nước ta: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân....do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” [32, tr.2], trong đó mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của Nhân
dân. Nhưng bên cạnh biện pháp giáo dục, thuyết phục, việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế là cần thiết, phù hợp với bản chất xã hội rộng rãi của Nhà nước ta, bởi lẽ
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong
đó có lợi ích của cá nhân.
Biện pháp bắt người là BPNC nói riêng và là biện pháp cưỡng chế trong
TTHS nói chung. Do đó, bản chất pháp lý của biện pháp bắt người chính là sự
cưỡng chế của Nhà nước mang tính ngăn chặn được áp dụng trong những trường
hợp cần thiết của hoạt động TTHS nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh
PCTP. Về tính chất của sự cưỡng chế, áp dụng biện pháp bắt người chính là sự tác
động trực tiếp của Nhà nước và xã hội lên đối tượng bị áp dụng. Sự tác động này
thể hiện ý chí đơn phương của Nhà nước mà không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý
chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Các quyết định, lệnh bắt người của cơ quan,
người có thẩm quyền THTT có tính chất bắt buộc đối với người tham gia tố tụng,
các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Quyết định, lệnh bắt người làm phát
sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa một bên là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện
pháp bắt người và một bên là người bị bắt, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp
lý của các bên. Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, chủ thể có
thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người chủ yếu là người có thẩm quyền THTT.
Bên cạnh đó, còn có sự tham gia của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và
các cá nhân khác, như: chính quyền địa phương tham gia hỗ trợ việc bắt người,
chứng kiến việc bắt người, lập biên bản và giải người bị bắt phạm tội quả tang đến
CQĐT; đại diện của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là người chứng kiến; cá
nhân tham gia vào việc bắt người với tư cách là người chứng kiến hoặc là người
trực tiếp bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã. Trong trường hợp
người bị bắt chống đối, không chấp hành thì chủ thể có thẩm quyền bắt người có thể

16
áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo đảm, thậm chí cả việc sử dụng vũ
lực để khóa trói, vô hiệu hóa sự kháng cự, chống đối từ phía người bị bắt.
Về nội dung của sự cưỡng chế, áp dụng biện pháp bắt người chính là sự tác
động lên thân thể, tư tưởng, tâm lý và hành vi của chính người bị bắt, qua đó hạn
chế quyền tự do cá nhân của người bị bắt. Áp dụng biện pháp bắt người thực chất là
sự tác động lên thân thể của người bị bắt bằng việc giữ và giải người bị bắt về cơ
quan có thẩm quyền; thậm chí trong trường hợp người bị bắt có hành vi chống đối,
chống trả thì lực lượng thi hành biện pháp bắt người được phép sử dụng vũ lực để
khống chế, trấn áp và vô hiệu hóa sự chống cự của đối tượng. Khi áp dụng biện
pháp bắt người, các quyền thiết thân nhất của người bị bắt bao giờ cũng bị hạn chế
ở mức độ nhất định. Do đó, biện pháp bắt người phải được áp dụng với đầy đủ các
căn cứ luật định, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thẩm quyền và thủ tục áp
dụng. Biện pháp bắt người cùng với biện pháp tạm giữ người, tạm giam người có
mức độ hạn chế quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp dụng nhiều hơn so với các
BPNC khác, bởi vì nó cách ly đối tượng ra khỏi cộng đồng trong một khoảng thời
gian nhất định. Do đó, bắt người là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc.
1.1.3.2. Tính ngăn chặn
Nhìn chung, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn các
quy định về BPNC so với các quy định trong BLTTHS năm 2003 theo hướng quy
định cụ thể và chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công
dân cho người bị buộc tội, cũng như đảm bảo cho quá trình tố tụng được công bằng
và hiệu quả. Biện pháp bắt người không chỉ là biện pháp cưỡng chế trong TTHS mà
còn là một BPNC. Bản chất ngăn chặn của biện pháp bắt người được thể hiện trước
hết ở việc ngăn chặn tội phạm. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế khác
nhau để ngăn chặn mọi hành vi VPPL nói chung và tội phạm nói riêng. Trong đó,
biện pháp bắt người là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ngăn chặn
tội phạm có hiệu quả. Ngăn chặn tội phạm ở đây là sự ngăn chặn không để cho
người phạm tội thực hiện tội phạm được đến cùng. Bên cạnh đó, tính ngăn chặn của
biện pháp bắt người còn thể hiện ở phương diện ngăn chặn người bị buộc tội tiếp
tục phạm tội, ở chỗ diễn biến tâm lý cũng như thái độ chủ quan của người bị buộc

17
tội cũng rất phức tạp. Bên cạnh những người tỏ rõ sự ăn năn hối lỗi, nhận thức rõ về
lỗi lầm cũng như hành vi phạm tội của mình, còn có không ít người có thái độ
ngoan cố, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội, như: chuẩn bị công
cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội mới; kích động, xúi giục người khác
phạm tội… Vì vậy, việc áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp này còn là
ngăn chặn người bị buộc tội tiếp tục phạm tội.
Ngoài ra, bản chất ngăn chặn của biện pháp bắt người còn thể hiện việc ngăn
chặn người bị buộc tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Bên cạnh việc nhiều
đối tượng tự nguyện chấp hành, hợp tác tích cực với các cơ quan, người có thẩm
quyền THTT thì cũng có rất nhiều đối tượng tìm đủ mọi cách để trốn tránh sự trừng
phạt của pháp luật, như: bỏ trốn; có dấu hiệu bỏ trốn. Việc điều tra, truy tố, xét xử
sẽ không còn ý nghĩa giáo dục và răn đe nếu người phạm tội tránh được sự trừng
phạt của pháp luật, việc áp dụng biện pháp bắt người sẽ ngăn chặn được hành vi bỏ
trốn của người bị buộc tội nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
BPNC bắt người chính là biện pháp bảo đảm ngăn chặn kịp thời hành vi cản
trở việc xác định sự thật của vụ án. Cản trở việc xác định sự thật của vụ án được
biểu hiện ở nhiều dạng hành vi khác nhau, như: tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu,
đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục
người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đe dọa, khống chế, trả
thù người làm chứng, bị hại… Đây rõ ràng là những hành vi cần phải được ngăn
chặn ngay để đảm bảo tính khách quan của những thông tin, tài liệu, chứng cứ thu
thập được, góp phần giải quyết vụ án được chính xác, kịp thời.
Như vậy, bản chất ngăn chặn luôn được thể hiện ở biện pháp bắt người, trong
mọi trường hợp bắt người. Tuy nhiên, mức độ thể hiện tính ngăn chặn được thể hiện
khác nhau ở các trường hợp bắt người, như: bắt người phạm tội quả tang thể hiện rõ
tính ngăn chặn tội phạm; bắt người đang bị truy nã, bắt tạm giam bị cáo tại phiên
toà thể hiện rõ sự ngăn chặn việc người bị buộc tội trốn tránh sự trừng phạt của
pháp luật;…
1.1.4. Mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các biện pháp ngăn chặn
khác trong tố tụng hình sự
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, các BPNC bao gồm: giữ

18
người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh [35, tr.101]. Bắt người và các
BPNC khác đều thể hiện bản chất pháp lý là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được
thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực Nhà nước, gắn liền với việc hạn chế quyền
tự do của đối tượng bị áp dụng. Giữa biện pháp bắt người và các BPNC khác luôn
tồn tại mối quan hệ nhất định. Bắt người là BPNC độc lập nhưng có mối quan hệ
tác động qua lại với các BPNC khác. Trong mối quan hệ này, biện pháp bắt người
thường được áp dụng liền trước hoặc “là tiền đề cho việc áp dụng BPNC khác” [40,
tr.20]. Tất nhiên không phải mọi trường hợp bắt người đều dẫn đến việc áp dụng
các BPNC khác như tạm giữ, tạm giam; đồng thời không phải mọi BPNC đều bắt
nguồn từ việc áp dụng biện pháp bắt người, chưa kể đến có BPNC được tiến hành
trước, khởi đầu cho việc áp dụng biện pháp bắt người như biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp. Mối quan hệ tố tụng liên quan đến thẩm quyền quản lý
hành chính với trách nhiệm, quyền hạn TTHS trong các cơ quan tiến hành TTHS,
nhận thức rõ về mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các BPNC khác trong
TTHS là cơ sở để áp dụng đúng biện pháp bắt người, vì đây một BPNC có vai trò
quan trọng trong việc ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người bị buộc tội tiếp tục
phạm tội hoặc có những hành vi cản trở, gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS.
1.2. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp bắt người
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, cùng với việc củng cố chính quyền còn non trẻ, thiết lập trật tự xã
hội mới, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật,
trong đó có các văn bản pháp luật TTHS. Nhằm đấu tranh chống Việt gian, phản
động và những tội phạm nguy hiểm khác, thời kỳ này Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật quy định về các BPNC, trong đó có BPNC bắt người và bắt
người được xem là phương tiện sắc bén để đấu tranh. Tuy nhiên, có thể thấy rằng
giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 chưa có các văn bản pháp luật
quy định riêng, cụ thể, chi tiết về BPNC bắt người mà mới chỉ được đề cập, quy

19
định xen kẽ trong một số văn bản pháp luật và một số cơ quan tư pháp, bảo vệ pháp
luật được hình thành, ra đời liên quan đến việc bắt người, cụ thể:
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán quy định:
"Ban Tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không có quyền bắt
bớ, giam giữ ai trừ khi có trát nã của một Thẩm phán hay khi thấy người phạm tội
quả tang". Theo điều luật này, bắt người được coi là một hoạt động thuộc lĩnh vực
tư pháp, có 2 trường hợp bắt người là bắt người theo trát nã và bắt người phạm tội
quả tang và chỉ Thẩm phán mới có quyền ra lệnh bắt người. Sắc lệnh số 40/SL ngày
29/3/1946 về bảo vệ tự do cá nhân.
Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của Nhân dân; Sắc luật số
002/SLt ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những
trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang.
Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 của Chủ tịch nước về việc thành lập Việt
Nam Công an vụ (tiền thân của Bộ Công an). Theo Sắc lệnh này thì lực lượng Công
an vụ có nhiệm vụ “Điều tra về những hành động trái phép và truy tìm người can
phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị”; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/07/1946 về tổ
chức bộ máy Tư pháp Công an tại Điều thứ 2: “Tư pháp Công an có nhiệm vụ truy
tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang
chứng, bắt giao người phạm pháp cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn
định”; Sắc lệnh số 85/Sl ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp thì: “Tư pháp
Công an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các Tòa án xét xử” [49,
tr.34]. Nội dung của các văn bản trên thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là tôn trọng và bảo vệ quyền tự do thân thể của Nhân dân
đối với các phần tử xâm phạm đến lợi ích và sự an toàn của Nhà nước.
Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954, nước ta tạm thời chia
làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 qua sông Bến Hải, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
làm ranh giới. Đây là giai đoạn tiến hành khôi phục, phát triển kinh tế, tiến hành cải
tạo XHCN ở miền Bắc, chuẩn bị cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 - 1965). Để đáp ứng nhiệm vụ chính trị và xã hội trong thời kỳ

20
mới, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan đến công tác
bắt, tạm giữ, tạm giam như:
Luật số 103-SL/L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của Nhân dân. Tại Điều 4
của Sắc lệnh ghi nhận BPNC bắt người phạm tội quả tang là một BPNC bắt người
đặc biệt: “Đối với những người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có
quyền bắt và phải giải ngay đến Ủy ban hành chính, TAND hoặc đồn Công an nơi
gần nhất. Trong những trường hợp khẩn cấp, cơ quan Công an có thể bắt giữ trước
nạn có liên quan đến công trình giao thông hoặc các công trình khác trên đường đó
biết. Những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp là những
trường hợp đặc biệt do luật quy định”.
Sắc lệnh 002/SLT ngày 18/6/1957 của Chủ tịch nước quy định về các trường
hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp và các trường hợp khám người phạm pháp quả
tang, trong đó Điều 1 quy định: Ðể kịp thời giữ kẻ phạm pháp đã gây thiệt hại đến
an toàn của Nhà nước, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nước, đến tính mệnh
tài sản của Nhân dân, nay quy định những trường hợp sau đây là phạm pháp quả
tang mà người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Uỷ ban hành
chính, TAND hoặc Ðồn công an nơi gần nhất:
1- Ðang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay.
2- Ðang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp.
3- Ðang bị giam giữ mà lẩn trốn.
4- Ðang có lệnh truy nã.
Nghị định số 301/TTG quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày
20/5/1957 bảo đảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở,
đồ vật, thư tín của Nhân dân. Nghị định ghi nhận trình tự thủ tục bắt giữ đối với các
quân nhân trong trường hợp bị bắt phạm pháp quả tang: Trừ những trường hợp
phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp, những quân nhân phạm pháp
luật Nhà nước do các cán bộ trong quân đội nói ở Điều 1 đoạn b Nghị định này ra
lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam. Những quân nhân phạm pháp bị bắt trong những
trường hợp quả tang hoặc những trường hợp khẩn cấp thì trong hạn 24 giờ phải giải
lên Tòa án nơi gần nhất.

21
Hiến pháp năm 1959 đã có sự sửa đổi: “Không ai có thể bị bắt nếu không có
sự quyết định của TAND hoặc sự phê chuẩn của VKSND”, đây là sự khác biệt lớn
so với Hiến pháp năm 1946, khi mà bản Hiến pháp năm 1946 quy định chỉ có
TAND mới có quyền bắt người. Như vậy, Hiến pháp năm 1959 đã quy định thẩm số
yêu cầu trước khi khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông quyền là do theo
Hiến pháp năm 1946 chỉ có Viện Công tố của Tòa án mà không có VKS, trong khi
Hiến pháp năm 1959 đã quy định VKS có chức năng kiểm sát chung và kiểm sát
các hoạt động tư pháp cho nên việc bắt phải có sự phê chuẩn của VKS là hoàn toàn
phù hợp.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số
02/SL-76 ngày 15/3/1976 quy định về việc bắt, giam, giữ. Về cơ bản việc bắt giam
giữ quy định trong Sắc luật này giống luật 103/SL-L005 ngày 20/5/1957, tuy vậy
thẩm quyền bắt được mở rộng đến cấp huyện.
Điều 3 Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/3/1976 quy định về việc bắt người,
khám người, khám nhà ở, khám đồ vật trong trường hợp khẩn cấp: Đội trưởng đội
tuần tra của cơ quan an ninh hoặc của quân đội, trưởng hoặc phó đồn an ninh,
trưởng hoặc phó cơ quan an ninh huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trưởng
hoặc phó ban của cơ quan an ninh từ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở
lên, trong khi làm nhiệm vụ, có quyền ra lệnh hoặc tự mình bắt, khám người, khám
nhà ở, khám đồ vật trong những trường hợp khẩn cấp [30, tr.3].
Tóm lại, phải khẳng định rằng, những quy định của pháp luật về việc bắt
người trong những văn bản pháp luật nêu trên đã có tác dụng tích cực trong những
giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng trật tự
xã hội mới. Song khi bước sang giai đoạn cách mạng mới, những quy định bắt
người này bắt đầu không phù hợp tình hình thực tiễn. Sự tản mạn, thiếu chặt chẽ, cụ
thể của những quy định về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục bắt người đã làm
khó khăn cho việc áp dụng và dễ gây ra vi phạm. Do đó việc phải xây dựng một Bộ
luật quy định thống nhất quá trình TTHS nói chung và bắt người nói riêng đã trở
thành một yêu cầu cần thiết khách quan.
Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước ta đã thông qua Hiến pháp năm 1980. Liên

22
quan đến việc bắt người, Hiến pháp năm 1980 quy định: “Không ai có thể bị bắt,
nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND…”.
So với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã bổ sung thêm thẩm quyền ra
quyết định bắt của VKSND để phù hợp với việc bổ sung chức năng thực hành
quyền công tố cho VKS trong bản Hiến pháp này. Hiến pháp năm 1980 ra đời đánh
dấu sự hoàn thiện từng bước của hệ thống pháp luật, nhiều văn bản pháp luật được
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để phù hợp với các nguyên tắc hiến định trong
Hiến pháp 1980.
1.2.2. Từ Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003
1.2.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Nhằm thể chế hóa những quy định về TTHS trong Hiến pháp năm 1980,
BLTTHS năm 1988 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua
ngày 28/6/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989, để bảo vệ chế độ XHCN,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. BLTTHS đã quy định những BPNC
thành một hệ thống tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh tại một chương riêng trong Bộ
luật tại các Điều 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67 trong đó quy định cụ thể về BPNC bắt
người bao gồm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. BLTTHS năm 1980 sau đó
được sửa đổi 3 lần vào các năm 1990, 1992, 2000.
- Về thẩm quyền bắt người được quy định cụ thể hơn
Tại Khoản 1 Điều 62 quy định thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
“1- Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người: a) Viện trưởng, Phó viện
trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp; b) Chánh án, Phó chánh án TAND và Toà
án quân sự các cấp; c) Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự
cấp quân khu trở lên chủ toạ phiên toà; d) Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp
huyện, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên. Trong
trường hợp này lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”
[33, tr.76].
Khoản 2 Điều 63 quy định thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp
khẩn cấp: “2- Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp

23
khẩn cấp: a) Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng CQĐT cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên; b) Người chỉ huy của đơn vị quân
đội độc lập cấp trung đoàn; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo hoặc biên giới;
c) Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng” [33, tr.77].
Khoản 1 Điều 64 quy định thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã: “1- Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực
hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì
bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, VKS hoặc
UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt
đến CQĐT có thẩm quyền” [33, tr.78].
- Về thủ tục khi tiến hành bắt người
Khoản 2 và khoản 3 Điều 62 quy định việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
“2- Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh;
họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra
lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh phải đọc và giải thích lệnh cho người bị
bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Khi tiến hành bắt người, phải có đại diện chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư
trú hoặc làm việc và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến.
3- Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang quy định tại Điều 63 và Điều 64 Bộ luật này” [33, tr.76].
Khoản 4 Điều 63 quy định về việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp: “4-
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp
bằng văn bản để xét phê chuẩn. Nếu VKS không phê chuẩn thì trả tự do ngay cho
người bị bắt.” [33, tr.77].
Điều 64 quy định về việc thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã: “1- Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ
người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, VKSND hoặc
UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt
đến CQĐT có thẩm quyền. 2- Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị

24
truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt” [33, tr.78].
- Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt
Điều 65 quy định: “1- Sau khi nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, CQĐT phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải
ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. 2- Đối với người bị truy nã thì
sau khi lấy lời khai, CQĐT phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh truy nã và
giải ngay người đó đến trại giam nơi gần nhất.” [33, Điều 77].
1.2.2.2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó có cải cách tư pháp, BLTTHS năm 1988 không còn phù hợp nữa và đã bộc
lộ một số hạn chế nhất định. Với tinh thần các nghị quyết của Đảng, BLTTHS năm
2003 được Quốc hội khoá XI tại kì họp thứ tư thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu
lực từ ngày 01/7/2004. BLTTHS này thay thế BLTTHS được Quốc hội thông qua
ngày 29/6/1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được Quốc
hội thông qua năm 1990, năm 1992 và năm 2000. BPNC bắt người được quy định
tại các điều từ thuộc Chương VI Những biện pháp ngăn chặn, BLTTHS năm 2003.
Có ba trường hợp bắt người đó là:
a) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS năm 2003)
- Khái niệm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình
sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn
bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
- Đối tương và điều kiện áp dụng: Đối tượng của việc bắt người để tạm giam
chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Chỉ được bắt để tạm giam đối với một người khi có
đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội mà xét thấy đáng bắt
để tạo điều kiện cho việc điều tra xử lý tội phạm. Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu,
tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt tạm giam. Đối với những bị can, bị cáo
đoàn tàu, việc xử lý của tài xế, trưởng tàu sau tai nạn, các dấu vết, vật lạ, các yếu an
ninh quốc gia, giết người, cướp tài sản… hoặc phạm các tội mà BLHS quy định
nguyên nhân đoạn đường này thể hiện chất lượng của đường sắt phạm tội hoặc có

25
hành động cản trở việc điều tra, xét xử thì cần kiên quyết bắt để tạm giam.
- Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Khoản 1 Điều 80
BLTTHS năm 2003 thể hiện sự chuyển động, thể hiện tốc độ ra lệnh bắt bị can, bị
cáo để tạm giam: “a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các
cấp; b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; c)
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao; Hội đồng xét xử; d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong
trường tiến hành khám nghiệm phải VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
- Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Khoản 2 và khoản 3 Điều 80
BLTTHS quy định:
2. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh;
họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra
lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và
nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Khi tiến hành bắt người
tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người
hoạt động của phương tiện đường sắt hoặc đường bộ, có thể gây ùn tắc giao làm
việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến
hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Để bảo đảm lợi ích chính đáng của người bị bắt, thân nhân của họ và của
những người láng giềng và tránh tình trạng căng thẳng do việc bắt người gây ra,
khoản 3 Điều 80 của Bộ luật còn quy định: “Không được bắt người vào ban đêm,
trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.”
Theo quy định về việc tính thời hạn tại BLTTHS, ban đêm được tính từ 22
giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau.
b) Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS năm 2003)
- Khái niệm: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
thông, ảnh hưởng đến sự đi lại, thì đánh dấu vị trí, tư thế của tử thi, chụp ảnh hiện
tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
- Những trường hợp khẩn cấp: Khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy

26
định chỉ được bắt khẩn cấp khi có một trong các căn cứ (trường hợp) sau đây:
“a) Khi có căn cứ rồi đưa tử thi vào lề đường hoặc ra khỏi phạm vi giới hạn
an toàn hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người giấy tờ có liên quan đến phương tiện và
người điều là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi
thực phương tiện và người điều khiển phương tiện người đó trốn hoặc tiêu huỷ
chứng cứ.”
- Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Khoản 2 Điều
81 BLTTHS năm 2003 quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn
cấp: “a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; b) Người chỉ huy đơn vị quân
đội độc lập tụng hình sự nhằm phát hiện dấu vết, vật chứng của tội phạm, góp và
biên giới; c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân
bay, bến cảng.”
- Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Thủ tục bắt người trong
trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được BLTTHS quy định và áp dụng tương tự
như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác: (1) Lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của VKSND cùng cấp
trước khi thi hành. (2) Sau khi đã bắt người, việc bắt khẩn cấp phải báo ngay cho
nạn giao thông có người chết tại hiện trường hoặc gây hậu quả từ nghiêm trọng
VKSND không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt (thời hạn xét phê
chuẩn lệnh bắt khẩn cấp quy định cho VKSND là 12 giờ kể từ khi nhận được đề
nghị phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp). (2) Trong trường hợp
khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm.
- Quyền và trách nhiệm của công dân về việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp: Mặc dù các trường hợp khẩn cấp mang tính chất rất cấp bách, cần phải
nạn giao thông có người chết tại hiện trường hoặc gây hậu quả từ nghiêm trọng tội
nhưng việc nhận biết các hành vi đó không dễ dàng, thường phải tiến hành theo dõi,
thẩm tra, tham gia khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông quy định công
dân không được quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp nhưng có trách nhiệm

27
giúp đỡ CQĐT kịp thời phát hiện và bắt ngay những kẻ phạm tội để bảo vệ lợi ích
của Nhà nước và lợi ích chính đáng của công dân.
c) Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS năm 2003)
- Khái niệm: Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang
thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi
bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần
phải điều tra, xác minh.
- Các trường hợp phạm tội quả tang: Điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định
cụ thể ba trường hợp phạm tội quả tang sau đây: (1) Người đang thực hiện tội phạm
thì bị phát hiện. (2) Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. (3) Đang bị
đuổi bắt.
* Việc bắt người đang bị truy nã: Bắt người đang bị truy nã không nằm trong
các trường hợp bắt người phạm tội quả tang, vì hành vi của người đang bị truy nã là
hành vi bỏ trốn sau khi đã thực hiện tội phạm. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn rõ
về diễn biến của vụ tai nạn giao thông phục vụ cho yêu cầu điều tra, xử lý tai với việc
ngăn chặn người phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt
người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang.
- Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: BLTTHS
năm 2003 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang
hoặc nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động điều tra và kiểm tra từng giả thuyết trong
bản kế hoạch chúng Nhân trong đấu tranh PCTP, kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
tội và hành vi lấy lời khai người bị hại, xem xét những dấu vết ích của Nhà nước,
tính mạng, sức khỏe và các lợi ích hợp pháp của công dân.
Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: Việc bắt người
trong trường hợp này không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào, bất kỳ
cá nhân nào cũng có thể bắt đối tượng. Mọi công dân đều có quyền bắt và có quyền
tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc
người đang bị truy nã, công dân phải giải ngay đến cơ quan công an, VKS hoặc
UBND nơi gần nhất để các cơ quan này thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền luật
định, tuyệt đối không được đánh đập, tra tấn hay giam giữ họ. Các cơ quan sau khi
tiếp nhận người bị bắt phải lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hoặc biên bản

28
bắt người đang bị truy nã, giải ngay người bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền.
Ngoài các các quy định về bắt người nói chung, khi tiến hành bắt người là
các đối tượng đặc biệt, các cơ quan chức năng còn phải căn cứ vào một số quy định
khác của pháp luật. Ví dụ: Việc bắt người phạm tội là người thuộc các cơ quan dân
cử như đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải đảm bảo
một số thủ tục được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
các quy định ở các Điều 80, 81 và 82 BLTTHS năm 2003, đồng thời còn phải đảm
bảo một số thủ tục được quy định trong các đạo luật khác.

Tiểu kết Chương 1


Trong chương 1 luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
biện pháp bắt người và quy định theo pháp luật TTHS Việt Nam. Trong đó, luận
văn làm rõ ý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trên các
phương diện: phân tích khái niệm biện pháp bắt người, những yêu cầu và vai trò của
BPNC bắt người, bản chất pháp lý biện pháp bắt người và mối quan hệ giữa biện
pháp bắt người với các BPNC khác trong TTHS. Đồng thời, chương 1 luận văn
cũng đã trình bày lược sử quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp bắt
người cụ thể theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988. Giai đoạn hai từ BLTTHS năm
1988 đến BLTTHS sự năm 2003. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả nghiên
cứu các quy định hiện hành và thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình ở chương 2 luận văn.

29
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn
chặn bắt người
Các nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013 đặt ra nhiều yêu cầu mới,
quan trọng, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ nhằm bảo đảm tốt hơn quyền
con người, quyền công dân. Những yêu cầu này đòi hỏi phải được thể chế hóa trong
BLTTHS. Đồng thời, qua tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003
cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, còn bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, làm
ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả công cuộc đấu tranh PCTP. Thời gian qua, nhiều
đạo luật liên quan đến TTHS đã được Quốc hội ban hành; Việt Nam là thành viên các
điều ước quốc tế liên quan đến đấu tranh PCTP, đặt ra yêu cầu phải sửa đổi BLTTHS
nhằm bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để
đẩy mạnh hợp tác trong phát hiện và xử lý tội phạm. Việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS
năm 2003 là khách quan và rất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Với
những đòi hỏi như trên của thực tiễn, ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam khoá XIII (kỳ họp thứ 10) thông qua BLTTHS số 101/2015/QH13
và Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành BLTTHS, Bộ luật có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/7/2016.
Các BPNC được quy định tại Mục I Biện pháp ngăn chặn thuộc Chương VII
Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế của BLTTHS năm 2015. Theo quy định
tại Điều 109 BLTTHS năm 2015 các trường hợp bắt người được quy định cụ thể,
gồm 05 trường hợp sau đây: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người
phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt
người bị yêu cầu dẫn độ.
2.1.1. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Trước đây Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định là bắt người trong trường

30
hợp khẩn cấp, thì hiện nay BLTTHS năm 2015 quy định là bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, bởi vì trong quá trình áp dụng bắt người trong trường hợp
khẩn cấp theo quy định của Điều 81 BLTTHS năm 2003 thì có thể “bắt trước, phê
chuẩn sau”, tuy nhiên theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì “Không ai bị bắt
nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS”. Chính
vì vậy BLTTHS năm 2015 đã có sự sửa đổi thành biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và thực tiễn thi hành
biện pháp này trong thực tế.
- Căn cứ pháp lý: Không có điều luật nào quy định hẳn về biện pháp bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà được quy định chuyển tiếp tại Điều 110
về “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”, BLTTHS năm 2015.
“1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:
a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm
mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc
trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn
cấp: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; b) Thủ trưởng đơn vị độc lập
cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên
phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc
trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng
Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc
nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực
lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát
biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm PCTP ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục
trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu
biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

31
3. Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của
người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung
quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Việc thi hành lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này.
4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc
nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy
định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt
người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền kèm theo
tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm
c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc
giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến CQĐT nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu
tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, CQĐT phải
lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra
quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự
do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi
ngay cho VKSND cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét
phê chuẩn.
Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ
của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội
dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
5. Hồ sơ đề nghị VKS phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp gồm: a) Văn bản đề nghị VKS phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp; b) Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ; c) Biên bản giữ người trong
trường hợp khẩn cấp; d) Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp; đ) Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường
hợp khẩn cấp.
6. VKS phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều

32
này. Trường hợp cần thiết, KSV phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp do KSV lập phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Trường hợp VKS quyết định không phê chuẩn lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, CQĐT đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải
trả tự do ngay cho người bị giữ.” [35, tr.102].
- Khái niệm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn là bắt người khi có căn
cứ xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện
tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ [49, tr.76].
- Trường hợp áp dụng: Khoản 2, Điều 110, BLTTHS năm 2015 quy định khi
thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau:
“a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm
mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc
trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.”
- Người có thẩm quyền: Khoản 2, Điều 110, BLTTHS năm 2015 quy định
những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
“a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp;
b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng
Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội
biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên
phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội

33
biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội
biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và
pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm PCTP ma túy lực
lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,
bến cảng.”
- Trình tự, thủ tục bắt: Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp này phải ghi
rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1
Điều 110 và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 BLTTHS 2015. Trong thời
hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT, Cơ quan được xác định và lấy lời khai người
làm chứng, trưng cầu giám định và những biện pháp, kế hoạch phối kết hợp với lực
lượng trinh sát phải thực hiện: lấy lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp; nếu thấy có căn cứ thì ra quyết định tạm giữ giả thuyết hướng chạy trốn và nơi
ẩn náu của thủ phạm hồ sơ đề nghị VKS phê chuẩn.
Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp này phải gửi ngay cho VKS cùng cấp
kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn bao gồm: Văn bản
đề nghị VKS phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Lệnh giữ
phạm theo dấu vết nóng, lấy lời khai người bị hại, xem xét những dấu vết trên
Quyết định tạm giữ; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản ghi
lời khai người kế hoạch phối kết hợp với lực lượng trinh sát cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Trường hợp VKSND quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ
trong đưa ra giả thuyết về thủ phạm, về vũ khí và công cụ gây hợp khẩn cấp, CQĐT
đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị
giữ.
* Lưu ý: VKSND phải kiểm sát nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động điều tra
và kiểm tra từng hợp khẩn cấp. Trường hợp cần thiết, KSV phải trực tiếp gặp, hỏi
người bị giữ trong xác định và lấy lời khai người làm chứng, trưng cầu giám định và
những biện pháp, kế hoạch bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản
ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do KSV lập và nơi ẩn náu

34
của thủ phạm.
2.1.2. Bắt người phạm tội quả tang
- Căn cứ pháp lý: Điều 111. Bắt người phạm tội quả tang
“1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ giả thuyết về thủ phạm, về vũ khí
và công cụ với lực lượng Công an, VKS hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này
phải lập biên bản phối kết hợp với lực lượng trinh sát hoặc báo ngay cho CQĐT có
thẩm quyền.
2. Khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí,
hung khí của người bị bắt.
3. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ,
tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản
tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ
hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho
CQĐT có thẩm quyền.” [35, tr.103].
- Khái niệm: Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang
thực hiện phối kết hợp với lực lượng trinh sát hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị
đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội đã cụ thể, rõ ràng, do
đó không cần quá nhiều thời gian để điều tra, xác minh. Về cơ bản ai nhìn thấy cũng
có thể khẳng định đây là người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc vừa thực hiện
xong hành vi phạm tội.
- Trường hợp áp dụng: Khi thuộc một trong các trường hợp sau: (1) Người
đang thực hiện tội phạm; (2) Người ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát
hiện; (3) Đang bị đuổi bắt.
- Người có thẩm quyền: Để huy động và phát huy tính tích cực của quần
chúng Nhân dân trong cuộc đấu tranh PCTP, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi
phạm tội và xác định và lấy lời khai người làm chứng, trưng cầu giám lợi ích của
Nhà nước, tập thể và công dân, Điều 111 BLTTHS năm 2015 quy định bất kỳ người
nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang.
- Trình tự, thủ tục bắt: Việc bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh của
cơ quan và người có thẩm quyền. Mọi người đều có quyền bắt và tước vũ khí, khác

35
hỗ trợ cho hoạt động điều tra. Sau khi bắt người phạm tội quả tang, công dân không
được đánh đập, tra tấn người phạm tội và cũng không tự ý giam giữ họ mà cần giải
ngay người bị bắt đến CQĐT, VKS hoặc UBND nơi gần nhất. Các này phải lập biên
điều tra cần đưa ra giả thuyết về thủ phạm hoặc báo ngay cho CQĐT có thẩm quyền.
- Lưu ý: Được bắt người vào ban đêm. Trường hợp Công an xã, phường, thị
trấn, Đồn phối kết hợp với lực lượng trinh sát và lực lượng khác hỗ trợ cho hoạt
động điều tra tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí vật có liên quan, lập biên
bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp
luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho CQĐT có thẩm quyền.
2.1.3. Bắt người đang bị truy nã
- Căn cứ pháp lý: Điều 112 BLTTHS năm 2015
“1. Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và
giải ngay phối kết hợp với lực lượng trinh sát và lực lượng khác hỗ trợ cho hoạt
động điều tra nhận người bị bắt và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho CQĐT
có thẩm quyền.
2. Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí,
hung khí của người bị bắt.
3. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ,
tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài
liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay
người bị bắt hoặc báo ngay cho CQĐT có thẩm quyền” [35, tr.74].
- Khái niệm: Theo quy định của BLTTHS 2015, khi bị can, bị cáo bỏ trốn thì
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra quyết định truy nã. Trường hợp người đang
chấp hành hình phạt tù trốn khỏi nơi giam thì Giám thị trại giam ra quyết định truy
nã. Người đang bị truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc
đã bị bắt, bị tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù mà bỏ trốn và đã bị cơ quan có
thẩm quyền ra lệnh truy nã.
Tình trạng bị can, bị cáo sau giám định thương tích của người bị hại, giám
định pháp luật diễn ra ngày càng phổ biến. Hiện tượng này đã gây khó khăn rất
nhiều quyết nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động điều tra và kiểm tra giả thuyết vậy việc
người phạm tội bỏ trốn trong nhiều trường hợp họ còn gây ra nhiều hậu quả xấu

36
khác cho xã hội. Vì thế, hoạt của người bị hại, xác định và lấy lời khai người làm
truy tìm, bắt giữ họ để các cơ quan THTT xử lý theo quy định của pháp luật nhằm
trừng trị, cải tạo, giáo dục, ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất hệ quả xấu mà họ
có thể tiếp tục gây ra cho xã hội.
- Trường hợp áp dụng: Người đang bị truy nã được hiểu là: bị can, bị cáo,
người bị kết án còn lại của vụ án chống người thi hành công vụ và tiến hành; người
đang chấp hành án phạt tù, người bị kết án tử hình; người được tạm đình chỉ chấp
hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu.
Các cơ quan THTT thông thường chỉ ra quyết định truy nã khi: Có đủ căn cứ xác
định đối tượng trên đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện
pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả và đã xác định chính xác lý lịch,
cũng như các đặc điểm bên ngoài để nhận dạng đối tượng truy nã bỏ trốn.
- Người có thẩm quyền: Đối với bắt truy nã thì bất kỳ người nào cũng có
quyền bắt và những biện pháp trinh sát hỗ trợ cho hoạt động điều tra nơi gần nhất.
Người bắt cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
- Trình tự, thủ tục bắt: Việc bắt người bị truy nã không cần lệnh của cá nhân
hoặc cơ quan, tổ chức nào. Mọi công dân đều có quyền những biện pháp trinh sát
hỗ trợ cho hoạt động điều tra. Sau khi bắt người đang bị truy nã, công dân không
được đánh đập, tra tấn người những biện pháp trinh sát hỗ trợ cho hoạt động điều
tra ngay đến CQĐT, VKS hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên
bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay người bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền.
Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận
người đang bị truy nã thì chống người thi hành công vụ đã xảy ra, đối tượng gây án
chưa rõ hoặc đã rõ nhưng đã bỏ trốn, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban
đầu, giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho CQĐT có thẩm quyền. Trường hợp
người bị bắt có nhiều chống người thi hành công vụ đã xảy ra, đối tượng gây án
chưa rõ hoặc đã rõ nhưng đã bỏ giao người bị bắt cho định truy nã nơi gần nhất.
- Lưu ý: Được bắt người đối với trường hợp bắt người bị truy nã, sau khi lấy
lời khai theo quyết định truy nã thì CQĐT chống người thi hành công vụ đã xảy ra,
đối tượng gây án chưa rõ hoặc đã rõ nhưng đã bỏ trốn nhận người bị bắt.vào ban
đêm. Sau khi nhận người bị bắt chống người thi hành công vụ đã xảy ra, đối tượng

37
gây án chưa rõ hoặc đã rõ nhưng đã bỏ trốn ra ngay quyết định đình nã.
2.1.4. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
- Căn cứ pháp lý: Điều 113 BLTTHS năm 2015
“1. Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để
tạm giam: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt
phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; b) Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp; c) Chánh
án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội
đồng xét xử.
2. Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa
chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của
Bộ luật này.
Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh,
quyết định, chống người thi hành công vụ đã xảy ra, đối tượng gây án chưa rõ hoặc
đã rõ nhưng đã bỏ trốn; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người chống người thi hành công vụ đã xảy
ra, đối tượng gây án chưa rõ hoặc đã rõ nhưng đã bỏ trốn chứng kiến. Khi tiến hành
bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc, kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến
của đại diện chính quyền tỉnh, huyện, thành phố nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang
hoặc bắt người đang bị truy nã.”
- Khái niệm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là trường hợp bắt người do
những người có thẩm quyền theo luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có
những căn cứ nhất định nhằm ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội và bảo đảm cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự được tiến hành nhanh chóng, kịp
thời và đúng pháp luật.
- Trường hợp áp dụng: Khi thuộc một trong các trường hợp sau: Đối tượng
bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. (1) Bị can là người bị khởi tố về
hình sự; (2) Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Những người
chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử

38
không phải là đối tượng bắt để tạm giam.
Cũng giống như BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 cũng không quy
định trực tiếp trường hợp áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Tuy
nhiên, biện pháp này có mối quan hệ rất chặt chẽ với biện pháp tạm giam. Bắt bị
can, bị cáo trong trường hợp này là để tạm giam, cho nên căn cứ áp dụng biện pháp
bắt bị can, bị cáo để tạm giam chính là căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam quy định
tại Điều 119 BLTTHS năm 2015. Theo đó, bắt bị can, bị cáo để tạm giam chỉ áp
dụng đối với xem xét những dấu vết trên thân thể đối tượng đã bị bắt giữ, dấu vết
trên thân thể của người bị hại, xác định và lấy lời khai người làm chứng; (2) Bị can,
bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên
02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp (Đã bị áp
dụng BPNC khác nhưng vi phạm; Không xem xét những dấu vết trên thân thể đối
tượng đã bị bắt giữ, dấu vết trên thân thể của người bị hại, xác định và lấy lời khai
người làm chứng; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác xem xét những dấu vết trên thân thể đối
tượng đã bị bắt giữ, dấu vết trên thân thể của người bị hại, xác định và lấy lời khai
người làm chứng đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này). (3) Bị can, bị cáo
về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định chống người thi hành công vụ đã xảy ra
bây giờ truy nã.
- Điều kiện áp dụng: Mục đích của bắt người trong trường hợp này là để tạm
giam nên thủ phạm và người bị hại ở hiện trường, giả thuyết có cần thiết bắt bị can, bị
cáo đó để tạm giam hay không. Thông thường, các cơ quan có thẩm quyền THTT căn
cứ vào tính chất quyết nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động điều tra và kiểm tra từng
nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải
quyết vụ án. Những vấn đề này có thể được xem những dự kiến chiến thuật truy bắt
thủ tội gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội.
Bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp này thì việc bắt để tạm giam là
cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định việc xử lý rất nghiêm
khắc án, diễn biến hành vi của thủ phạm và người bị hại ở hiện trường, giả thuyết
phạm tội cũng nhận thức được trách nhiệm pháp lý mà họ phải chịu vì đã thực hiện

39
hành vi phạm tội đó là rất nặng nề cho nên thường tìm mọi cách để trốn tránh, gây
khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, nhằm đảm bảo cho việc bắt để tạm giam là đúng đắn và thật sự
cần thiết, các giải quyết nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động điều tra và kiểm tra từng.
Chẳng hạn, có trường hợp mặc dù bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố hoặc bị
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng (tội phạm gây nguy hại không lớn hoặc gây nguy hại lớn cho xã hội)
nhưng nhân thân xấu cũng như có căn cứ khẳng định bị can, bị cáo sẽ trốn hoặc có
hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố hoặc bị Tòa án quyết định thân thể
người bị hại, xác định và lấy lời khai người làm chứng, trưng cầu giám (tội phạm
gây nguy hại không lớn hoặc gây nguy hại lớn cho xã hội) nhưng nhân thân xấu
cũng như có hoạch phối kết hợp với lực lượng trinh sát và lực gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử thì việc quyết định bắt để tạm giam đối với họ là cần
thiết
- Người có thẩm quyền: Nhìn chung, BLTTHS năm 2015 cơ bản giữ nguyên
thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam so với Điều 80
BLTTHS năm 2003, tuy nhiên sửa đổi theo hướng thu hẹp về thẩm quyền, cụ thể là
bỏ quy định Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm
TAND tối cao có thẩm quyền này. Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định
khai người bị hại, xem xét những tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015:
“a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt
phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; b) Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp; c) Chánh
án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội
đồng xét xử.”
- Trình tự, thủ tục bắt: Thủ tục bắt bị can để tạm giam được quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 113 BLTTHS năm 2015:
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền;
lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa
chỉ của người bị bắt và lí do bắt. Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc và
giải thích lệnh bắt, giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Khi bắt phải

40
lập biên bản bắt người. Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại
diện chính hành khởi tố bị can và khẩn trương lập kế hoạch bắt, khám xét đối tượng
kiến. Khi tiến hành bắt người của đối tượng phạm tội chống người thi hành công vụ
thường nơi người bị bắt làm việc chứng kiến. Không bắt bị can vào ban đêm, (tức là
từ 22 giờ hôm nay đến 6 giờ sáng ngày hôm sau). Việc quy định và thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định nêu trên về việc bắt người để tạm giam vừa thể hiện sự
Điều tra viên cần phải tính toán chu đáo cẩn thận. Trước khi bắt, Điều tra viên bản
của công dân, tránh mọi tác động trái pháp luật tới các quyền này. Sau khi giữ cần
thu thập những tài liệu phản ánh về bị can như đặc điểm nhân thân, thói thông báo
ngay cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người
đó cư trú hoặc can một cách nhanh gọn, an toàn cho việc, học tập biết.
2.1.5. Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ
Trong tình hình tội phạm diễn biến ngày một phức tạp, không chỉ bó hẹp trong
phạm vi biên giới quốc gia những tài liệu chứng cứ đa quốc gia, quốc tế. Hiện nay,
không ít trường hợp công dân Việt Nam sau khi phạm tội đã tìm cách trốn ra nước
ngoài nhằm trốn tránh sự truy cứu TNHS của các cơ quan chức năng Việt Nam.
Trong những trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền THTT của Việt Nam không thể
tự Trước khi bắt, Điều tra viên để chịu trách nhiệm hình sự. Tương tự thì công dân
của nhiều quốc gia trên thế giới cũng đến Việt Nam nhằm tránh sự truy cứu của quốc
gia mà họ phạm tội. Chính vì vậy, chính sách tương trợ tư pháp, hoạt động dẫn độ tội
phạm được thỏa thuận giữa các quốc gia nhằm tạo điều kiện để đẩy mạnh công tác
đấu tranh PCTP, bắt giữ người phạm tội ở cả phạm vi trong nước và quốc tế. Tuy
nhiên, trên thực tế, do có sự khác nhau về quy đình của pháp luật nên nhiều trường
hợp công dân Việt Nam bị chính quyền các nước từ chối dẫn độ dẫn đến khó khăn
trong hoạt động giải quyết VAHS, bắt giữ người phạm tội.
- Căn cứ pháp lý: Điều 502, 503 BLTTHS năm 2015
“1. Việc bắt người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam hoặc thi hành quyết định
dẫn độ được thực hiện theo quy định tại Điều 113 của Bộ luật này.
2. Thời hạn tạm giam để xem xét yêu cầu dẫn độ không quá thời hạn trong
lệnh bắt giam của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ hoặc thời hạn
phải thi hành hoặc còn phải thi hành hình phạt tù trong bản án, quyết định hình sự

41
của Tòa án nước yêu cầu dẫn độ.
Trường hợp cần thiết, TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao có thể gửi văn bản yêu
cầu cơ quan có Điều tra viên cần tiến hành khám xét ngay người, nơi ở hoặc tạm
giam hoặc gia hạn tạm giam người đang chở hàng lậu, hàng cấm, khi khám cầu dẫn
độ; văn bản yêu cầu được gửi thông qua Bộ Công an.”
- Khái niệm: Bắt người bị yêu cầu dẫn độ là trường hợp bắt người do những
người có thẩm quyền theo luật định áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ để bảo
tính toán chu đáo cẩn thận. Trước khi bắt, Điều tra viên cần thu thập những tài liệu
phản ánh về bị can như đặc điểm bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp
luật đang có mặt trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam [49, tr.84].
- Trường hợp áp dụng: Nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của
người bị yêu cầu dẫn độ, khoản 2 Điều 502 BLTTHS năm 2015 quy định biện pháp
này chỉ được áp dụng đối với người bị xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc bị dẫn độ khi
có đủ hai điều kiện sau: (1) Tòa án đã tiến hành hỏi cung có hiệu quả, Điều tra viên
cần nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đặc điểm nhân thân của bị can người
đó đã có hiệu lực pháp luật; (2) Có căn cứ cho rằng người bị yêu cầu nhân, động cơ
mục đích của bị can chống người thi dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ. Căn
cứ này cũng được xác định giống như bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
- Người có thẩm quyền: Xuất phát từ đặc thù về thẩm quyền xem xét yêu cầu
dẫn độ và ra quyết định dẫn độ thuộc về TAND cấp tỉnh và thẩm quyền xem xét
nhằm làm rõ những đối tượng còn lại của vụ án hiện đang lẩn trốn để chối dẫn độ
của TAND cấp cao, khoản 3 Điều 502 BLTTHS năm 2015 quy định qua đó xác
định lỗi của bị can, lỗi của người về Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc
Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp cao.
- Trình tự, thủ tục bắt: Khoản 1 Điều 503 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Việc bắt người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam hoặc thi hành quyết định dẫn độ
được thực hiện theo quy định tại Điều 113 của Bộ luật này” [35, tr.415]. Nói cách
khác, việc bắt người bị yêu cầu dẫn độ được thực hiện như đối với bắt bị can, bị cáo
để tạm giam.
Về thời hạn tạm giam, khoản 2 Điều 503 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Thời hạn tạm giam để xem xét yêu cầu dẫn độ không quá thời hạn trong lệnh bắt

42
giam của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ hoặc thời hạn phải thi
hành hoặc còn phải thi hành hình phạt tù trong bản án, quyết định hình sự của Tòa
án nước yêu cầu dẫn độ” [35, tr.415]. Việc quy định giới hạn thời gian áp dụng bắt
tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ nhằm bảo đảm việc áp dụng biện pháp này được
thực hiện đúng quy định của pháp luật TTHS, bảo đảm không vi phạm các quyền và
lợi ích hợp pháp của người nước ngoài. Trường hợp cần thiết, để có thêm thời gian
cho việc thu thập, khai thác thêm thông tin phục vụ quá trình giải quyết VAHS,
“TAND cấp tỉnh, TAND cấp thời gian địa điểm gây án, công cụ phương tiện gây án
và hình thức gây án, diễn biến vụ, quyết định tạm giam hoặc gia hạn tạm giam
người bị yêu cầu dẫn độ để bảo đảm việc để làm rõ ý thức chủ quan của bị can, có
biết được được gửi thông qua Bộ Công an”.
* Thông báo sau khi bị bắt
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt, CQĐT nhận người
bị giữ, bị bắt phải thông báo cho: (1) Gia đình người bị giữ, bị bắt; (2) Chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú. (3) Hoặc để làm rõ ý thức chủ quan của bị
can, có biết được ắt là công dân nước ngoài để làm rõ ý thức chủ quan của bị can,
có biết được giao của Việt Nam để thông báo quan đại diện ngoại giao của nước có
công dân bị giữ, bị bắt. Nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản
trở nhất là bị can ngoan cố thường đổ lỗi cho phương pháp, cách giải, lệnh hoặc
quyết định bắt người, CQĐT nhận người bị giữ, người bị bắt phải thông báo ngay.
* Bắt người là Đại biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân và người dưới 18 tuổi
Ngoài các trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm
tội quả tang, bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người để dẫn độ, Hiến pháp, Luật
tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (nay là Luật
tổ chức chính quyền địa phương năm 2015) và Chương XXVIII BLTTHS năm
2015 quy định cụ thể bắt một số đối tượng đặc biệt: Đại biểu quốc hội, Đại biểu Hội
đồng nhân dân và người dưới 18 tuổi.
Trường hợp bắt người là Đại biểu Quốc hội: Điều 81 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự
đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nhất là bị can ngoan cố thường đổ lỗi cho phương

43
pháp, cách giải quyết tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo
để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.” [32, tr.27]. Tại
khoản 1 Điều 37 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định: “Không được bắt,
giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu
Quốc hội nếu nhất là bị can ngoan cố thường đổ lỗi cho phương pháp, cách giải
quyết Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Việc đề nghị bắt, giam, giữ, gây ra sự xô sát trước rồi bị can chống đỡ Viện trưởng
VKSND tối cao. Trường hợp đại biểu Quốc hội bị tạm gây ra sự xô sát trước rồi bị
can chống đỡ báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ quá trình điều tra Quốc
hội xem xét, quyết định.” [38, tr.28].
Trường hợp bắt người là Đại biểu Hội đồng nhân dân: Khoản 1 Điều 115
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho
người làm chứng, nhằm giải quyết mâu thuẫn trong là khai của họ, kiểm tra tài liệu
chứng cứ đã thu thập được và thu thập thêm những tài liệu chứng cứ để của mình và
của Hội đồng nhân dân, trả lời tồn tại mâu thuẫn cần phải tiến hành đối chất đốc
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động
Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính tiến hành đối chất, Điều tra viên
phải tiến hành đảm bảo đúng quy định của pháp luậ quản l nhà nước”. Điều 100
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định: “Trong thời gian Hội đồng
nhân dân họp, nếu không khai mà còn tồn tại mâu thuẫn cần phải tiến hành đối chất
để giải quyết mâu n. Nếu vì phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp mà
đại biểu Hội đồng nhân dân nhằm giải quyết mâu thuẫn trong là khai của họ, kiểm
tra tài liệu chứng cứ đã kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho Chủ tịch
Hội đồng nhân dân cùng cấp”.
Trường hợp bắt người dưới 18 tuổi phạm tội: Bắt người dưới 18 tuổi phạm
tội được quy định tại Điều 419 BLTTHS 2015 quy định đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội: Chỉ áp dụng BPNC, biện pháp áp giải trong trường hợp thật cần thiết. Chỉ
áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp
giám sát và các BPNC khác không hiệu quả. Lưu ý, Điều tra viên tiến hành tổ chức
cho người bị hại, người làm chứng, nhận dạng đối tượng nghi vấn, hoặc phương

44
tiện mà kẻ phạm tội tuổi 18 trở lên. Như vậy, việc bắt người chưa thành niên phạm
tội phải đảm bảo các điều kiện sau: Thứ nhất, Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chỉ có thể bị tạm Điều tra viên tiến hành tổ chức cho người bị hại về tội phạm quy
định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 nếu có căn cứ giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và các căn cứ tạm giam
quy định tại các điều 110, 111, 112 và điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS
2015. Thứ hai, người đủ từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ chứng tiến
hành nhận dạng đối tượng nghi vấn qua an bom ảnh hình sự nhằm xác định những
đối tượng đang lẩn trốn, phục vụ cho việc truy bắt đối tượng hợp khẩn cấp, bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và các căn cứ tạm giam quy định tại
các điều 110, 111, 112 và điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS 2015. Thứ
ba, bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù
đến 02 tổ chức nhận dạng cũng như đánh giá kết quả của công tác nhận dạng, Điều
tra viên cần chú ý đối tượng gây án có thể tạo ra những đặc điểm mới bằng 24 giờ
kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra
lệnh giữ, lệnh nhằm đánh lừa người nhận dạng phải thông báo cho người đại diện
của họ biết.
2.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về biện pháp ngăn chặn bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Đặc điểm tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2015 đến năm 2019
Quảng Bình là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía
Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp hai tỉnh Khăm Muộn và Sa Vẳn Na Khệt nước
CHDCND Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị. Tỉnh Quảng Bình có diện tích tự
nhiên là 8.065 km2; dân số đến năm 2019 là 953.914 người (mật độ dân số trung
bình là 118 người/km2). Những năm gần đây, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình diễn biến phức tạp, có chiều tiến hành tổ chức nhận dạng luôn phải
đảm bảo đúng quy trình càng tinh vi, xảo quyệt. Theo số liệu báo cáo tổng kết công
tác đấu tranh PCTP cho thấy trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019,
các lực lượng chức năng trên địa bàn tỉnh đã phát hiện, khởi tố mới 3.6580 vụ phạm

45
pháp hình sự, bắt 4.960 đối tượng. Đáng chú ý, nhiều đối tượng ngoại tỉnh đến địa
bàn hoạt động phạm tội liên quan đến “tín dụng đen”, cho vay lãi nặng diễn biến
phức tạp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự (ANTT) và hệ lụy nhiều
mặt đời sống xã hội; tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc dưới hình thức chơi game
online, thu hút nhiều học sinh, sinh viên tham gia. Chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tội
phạm là trộm cắp tài sản 1.774 vụ (chiếm 48,2%) và cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác 680 vụ (chiếm 18,47%). Số vụ án kinh tế liên
quan đến tàng trữ, mua bán, vận chuyển pháo trái phép phát hiện, khởi tố tăng cao,
nguyên nhân là do sau khi Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn chi tiết về giám
định tang vật là pháo nổ, tạo thuận lợi công tác giám định, khởi tố các vụ án liên
quan đến pháo, tình trạng một số cán bộ chức năng (Kiểm lâm, lâm trường) bao
che, dung túng đối tượng vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng; phát hiện,
xử lý nhiều vụ cho vay lãi nặng trọng giao dịch dân sự. Tội phạm về ma túy: Tiếp
tục diễn biến phức tạp, nhất là tuyến biên giới giáp biên với Lào qua Quảng Bình,
nhiều vụ vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tổng hợp với khối lượng lớn;
tình hình vận chuyển trái phép chất ma túy từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh vào địa
bàn và đi các tỉnh phía Nam tiêu thụ, mua bán, sử dụng ma túy tổng hợp dạng đá,
viên, “cỏ Mỹ” gia tăng; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, chất gây nghiện ở
các cơ sở kinh doanh dịch vụ, lưu trú diễn biến phức tạp, hoạt động “bay lắc” diễn
ra ở nhiều địa bàn. Phát hiện, khởi tố nhiều vụ phạm tội về môi trường, đáng chú ý,
tình hình VPPL trong khai thác trái phép cát, sỏi lòng sông vẫn diễn biến phức tạp.
Trong 05 năm, từ năm 2015 đến hết năm 2019, tổng số vụ án khởi tố mới là
3.680 vụ với 5.694 bị can. Trong đó, số vụ án khởi tố và số bị can thấp nhất là năm
2019 với 694 vụ/1.001 bị can. Mặt khác, việc phát hiện, xử lý tội phạm của các cơ
quan chức năng còn hạn chế, nhất là tội phạm về chức vụ và tham nhũng, tội phạm
về kinh tế. Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong thời gian qua cho thấy, số vụ án
khởi tố mới và số bị can mới khởi tố có chiều hướng giảm qua 05 năm, song có sự
tăng giảm không đều giữa các năm tùy theo sự biến động của điều kiện kinh tế, xã
hội cũng như công tác đấu tranh PCTP [Xem bảng 2.1 - Phụ lục]. Tuy nhiên, tính
chất, mức độ và hậu quả của tội phạm ngày càng nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ
yếu của tình hình tội phạm nêu trên là do công tác quản lý nhà nước về kinh tế - xã

46
hội ở một số lĩnh vực còn thiếu sót, sơ hở nhưng chậm được khắc phục; tác động
tiêu cực của tình hình suy thoái kinh tế và nền kinh tế thị trường; hệ thống pháp luật
chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh
PCTP; ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế; sự xuống cấp về đạo
đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ và người dân; công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật và phòng ngừa tội phạm đã được quan tâm nhưng chưa đáp ứng yêu
cầu;... trong đó phải kể đến công tác đấu tranh PCTP và VPPL trong một số lĩnh
vực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
Những nguyên nhân đó làm cho tỷ lệ các vụ án, bị can, bị cáo phải đình chỉ
trong 05 năm chiếm tỷ lệ không nhỏ, cụ thể: CQĐT đình chỉ điều tra đối với 91 vụ
với 115 bị can; VKS đình chỉ 22 vụ với 47 bị can; Tòa án đình chỉ 13 vụ với 21 bị
cáo [Xem bảng 2.1 - Phụ lục].
2.2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình
sự từ thực tiễn Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Từ năm 2015 đến hết năm 2019, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã bắt 4.960
đối tượng (tính trung bình số đối tượng bị bắt là 992 đối tượng/năm). Trong đó năm
2015 bắt 991 đối tượng; năm 2016 bắt 1.005 đối tượng; năm 2017 bắt 970 đối
tượng; năm 2018 bắt 993 đối tượng; năm 2019 bắt 1.001 đối tượng. Có thể thấy số
đối tượng bị bắt có sự tăng giảm không đều giữa các năm và có xu hướng tăng trong
05 năm qua. Xu hướng này đã thể hiện sự tương ứng với tính chất phức tạp của tình
hình tội phạm với xu hướng tăng của các vụ án và số bị can qua các năm. Tình hình
áp dụng biện pháp bắt người theo các trường hợp bắt cụ thể như sau: số đối tượng bị
bắt quả tang là 2.235 đối tượng (chiếm tỷ lệ 45,06%); số đối tượng bị bắt tạm giam
là 1.511 đối tượng (chiếm tỷ lệ 30,47%); số đối tượng bị bắt trường hợp bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là 1.019 đối tượng (chiếm tỷ lệ 20,54%); số đối
tượng bị bắt truy nã là 195 đối tượng (chiếm tỷ lệ 3,93%) [Xem bảng 2.2 - Phụ lục].
Khái quát chung có thể thấy trong thời gian qua, việc áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã từng bước đi vào nề
nếp và có những chuyển biến tích cực. Chất lượng áp dụng biện pháp bắt người
được quan tâm thực hiện; những khó khăn, vướng mắc cũng như những tồn tại, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng đã dần được khắc phục. Tỷ lệ bắt người sau đó khởi tố

47
hình sự chiếm tỷ lệ cao (94,17%). Nhìn chung phần lớn các trường hợp bắt người
đều có căn cứ và đảm bảo quy định của pháp luật. Tình trạng bắt oan người tiến
hành tổ chức nhận dạng luôn phải đảm bảo đúng quy trình. Việc tuân thủ những quy
định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục bắt người cũng đã được các chủ thể
tiến hành quan tâm thực hiện. CQĐT cấp trên đã quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra các CQĐT cấp dưới nhằm thực hiện tốt chức năng của mình. Sự giám sát,
phê chuẩn hồ sơ bắt người của CQĐT đã được VKS các cấp được thực hiện thận
trọng, qua đó góp phần hạn chế thấp nhất những trường hợp bắt người không có căn
cứ, tình trạng lạm dụng việc bắt người. Từ những kết quả áp dụng nêu trên đã góp
phần không nhỏ giúp công tác đấu tranh PCTP, bắt người phạm tội, bảo đảm yêu
cầu của hoạt động TTHS.
2.2.2.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Trường hợp bắt người này chiếm tỷ lệ cao thứ ba trong số các trường hợp bắt
người (với tỷ lệ 20,54%). Tính trung bình, số đối tượng bị bắt trường hợp bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là 204 đối tượng/năm. Trong những năm qua, bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có sự biến động qua trong các năm [Bảng
2.2 - Phụ lục]. Trong đó năm 2015 bắt 195 đối tượng; năm 2016 bắt 196 đối tượng;
năm 2017 bắt 201 đối tượng; năm 2018 bắt 210 đối tượng; năm 2019 bắt 217 đối
tượng. Năm 2015 bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là ít nhất, với 195 đối
tượng và năm 2019 có số đối tượng bị bắt khẩn cấp cao nhất với 217 đối tượng; số
đối tượng bị bắt trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tăng dần
qua từng năm. Qua nghiên cứu ngẫu nhiên 50 hồ sơ mà CQĐT đề nghị VKS phê
chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cho thấy các trường hợp bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được thể hiện như sau: thứ nhất, bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp theo căn cứ quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 110
BLTTHS năm 2015: có 01 hồ sơ (chiếm tỷ lệ 2%); thứ hai, bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp theo căn cứ quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 110 BLTTHS
năm 2015: có 39 hồ sơ (chiếm tỷ lệ 78%); thứ ba, bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp theo căn cứ quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015: có
10 hồ sơ (chiếm tỷ lệ 20%). Kết quả này cho thấy, trên thực tế, việc bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp theo căn cứ quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 110

48
BLTTHS năm 2015 chiếm tỷ lệ ít nhất. Thực trạng này xuất phát từ nguyên nhân là
do việc thu thập tài liệu, chứng cứ và các hồ sơ khác phục vụ việc xác minh, xác
định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng là rất khó khăn và phức tạp. Do đó, CQĐT phải cực kỳ thận
trọng và đảm bảo các điều kiện theo luật định khi quyết định bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp theo căn cứ này. Việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp căn cứ quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 thông
thường được thực hiện dựa vào lời khai của người bị hại hoặc lời khai của người
cùng thực hiện tội phạm với đối tượng và CQĐT xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn. Cơ quan chức năng dựa trên dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại
chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm được phát hiện thông qua lấy lời khai
của người làm chứng, người bị hại hoặc người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc bị can
của vụ án hoặc qua khám xét người, khám xét chỗ ở… để tiến hành việc bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là chủ yếu, theo các căn cứ quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015.
Khảo sát về thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp cho thấy việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chủ yếu do
CQĐT tiến hành với 998 đối tượng (chiếm tỷ lệ 97,94%), các cơ quan khác tiến
hành bắt khẩn cấp 21 đối tượng (chiếm tỷ lệ 2,06%) [Bảng 2.5 - Phụ lục]. Nguyên
nhân các cơ quan khác tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chiếm
tỷ lệ thấp là do số lượng các cơ quan có thẩm quyền tạm giữ hình sự và bắt người
phạm tội theo luật định là không nhiều trong khi đó thẩm quyền áp dụng của các cơ
quan này bị chế ước và được thực hiện trên quy định ở phạm vi hẹp.
2.2.2.2. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là trường hợp bắt người chiếm tỷ lệ cao nhất
trong số các trường hợp bắt người (với tỷ lệ 45,06%). Như vậy, tính trung bình, số
đối tượng bị bắt quả tang là 447 đối tượng/năm [Bảng 2.2 - Phụ lục]. Điều này
được lý giải xuất phát từ thực tiễn các tính chất của hành vi phạm tội quả tang và
thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Phạm tội quả tang là những hành vi phạm tội
mà diễn biến đã rõ ràng, dễ dàng nhận biết, quá trình kiểm tra, xác minh đơn giản
và nhanh gọn, công tác thu thập tài liệu được thực hiện nhanh chóng và thẩm quyền

49
bắt người phạm tội quả tang là bất kỳ ai nhìn thấy và có khả năng bắt người phạm
tội. Chính vì vậy, hoạt động bắt người phạm tội quả tang được đông đảo quần
chúng Nhân dân tham gia.
Nghiên cứu cho thấy số đối tượng bị bắt phạm tội quả tang nhiều nhất là vào
năm 2019 với 468 đối tượng; số đối vũ khí công cụ gây ra thương tích là vào năm
2016 với 438 đối tượng. Như vậy, nhìn chung số đối tượng bị bắt quả tang có xu
hướng tăng trong những năm gần đây, tuy có diễn biến tăng, giảm không đều qua
các năm từ năm 2015 đến năm 2019.
Nghiên cứu về chủ thể bắt người phạm tội quả tang [Bảng 2.3 - Phụ lục] cho
thấy, việc bắt người phạm tội quả tang chủ yếu được thực hiện bởi quần chúng
Nhân dân và các lực lượng chức năng khác (chiếm tỷ lệ 73,06%), trong khi đó
CQĐT bắt quả tang chiếm tỷ lệ 26,94%. Kết quả này đã cho thấy vai trò quan trọng
của quần chúng Nhân dân trong công tác phát hiện và bắt giữ người phạm tội quả
tang. Đồng thời cũng phần nào cho thấy công tác phòng ngừa tội phạm và công tác
nghiệp vụ cơ bản, công tác trinh sát của CQĐT cũng có nhiều hạn chế nhất định.
CQĐT thực hiện việc bắt người phạm tội quả tang với mọi loại tội phạm, nhưng chủ
yếu là thực hiện với các đối tượng phạm vào các nhóm tội như: tội phạm về mại
dâm, tội phạm về cờ bạc, tội phạm về ma túy; tội phạm về môi trường.... Theo đó,
các trường hợp bắt quả tang của CQĐT có thể là những trường hợp đột xuất phát
hiện tội phạm xảy ra hoặc phục kích bắt quả tang theo kế hoạch định trước. Số đối
tượng bị bắt phạm tội quả tang do quần chúng Nhân dân xác định mức độ hoặc lực
lượng khác bắt vũ khí công cụ gây ra thương tích sở hữu như cướp tài sản, cướp
giật tài sản, trộm cắp tài sản....
2.2.2.3. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
Sự biến động của số đối tượng bị bắt truy nã qua các năm được thể hiện như
sau: năm 2015 bắt 40 đối tượng; năm 2016 bắt 41 đối tượng; năm 2017 bắt 42 đối
tượng; năm 2018 bắt 32 đối tượng; năm 2019 bắt 40 đối tượng, qua các năm, số đối
tượng bị bắt truy nã có sự tăng, giảm nhưng không đáng kể [Bảng 2.6 - Phụ lục].
Tính trung bình số đối tượng bị bắt truy nã là 39 đối tượng/năm. Là trường hợp bắt
chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các trường hợp bắt, bắt truy nã chiếm tỷ lệ 3,93%. Qua
nghiên cứu số liệu của Công an tỉnh Quảng Bình về số đối tượng truy nã phát sinh

50
mỗi năm thì thấy rằng giữa số đối tượng bị bắt truy nã hằng năm với ố đối tượng
truy nã phát sinh có sự chênh lệch khá lớn, suy ra số đối tượng truy nã chưa bắt
được đang ở ngoài xã hội còn khá nhiều.
CQĐT là lực lượng chủ công trong việc bắt truy nã là do các đối tượng phần
lớn do CQĐT ra quyết định truy nã cho nên CQĐT cũng chủ động tiến hành các
biện pháp nghiệp vụ để bắt đối tượng phục vụ cho việc giải quyết VAHS do đó chủ
thể bắt người đang bị truy nã được thực hiện chủ yếu bởi CQĐT với 140 đối tượng
(chiếm tỷ lệ là 71,79%); quần chúng Nhân dân và các lực lượng khác bắt 55 đối
tượng bị truy nã (chiếm 28,21%), nhưng có sự biến động đáng kể giữa các năm
[Bảng 2.6 - Phụ lục]. Hiện nay, các đối tượng truy nã thường rất cảnh giác, trốn xa
khỏi đánh giá kết luận giám định, Điều tra viên cần chú ý những căn cứ mà giám
định viên dùng làm cơ sở kết luận, tính chất mức độ thương tích của người cho nên
đã gây rất nhiều khó khăn cho quần chúng Nhân dân cũng như các lực lượng khác
trong việc phát hiện và bắt giữ.
2.2.2.4. Tình hình áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là trường hợp bắt người chiếm tỷ lệ cao, chỉ
sau bắt người phạm tội quả tang (với tỷ lệ 30,47%). Tính trung bình, số đối tượng bị
áp dụng biện pháp này là 302 đối tượng/năm. Năm 2015 bắt 317 bị can, bị cáo; năm
2016 bắt 330 bị can, bị cáo; năm 2017 bắt 287 bị can, bị cáo; năm 2018 bắt 301 bị
can, bị cáo; năm 2019 bắt 276 bị can, bị cáo. Trong đó số đối tượng bị áp dụng biện
pháp người này thấp nhất là năm 2019 và cao nhất là năm 2016, qua các năm nhận
thấy số bị can, bị cáo bị bắt để tạm giam có xu hướng giảm, nhưng không đều qua
các năm [Bảng 2.2 - Phụ lục].
Nghiên cứu việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam dựa theo phân loại tội phạm
cho thấy, trong số 1.511 bị can, bị cáo bị bắt để tạm giam thì có 1.124 bị can, bị cáo
phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (chiếm 74,39%); 387 bị
can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định
hình phạt tù trên hai năm (chiếm tỷ lệ 25,61%) [Bảng 2.4 - Phụ lục]. Như vậy, việc
bắt bị can, bị cáo để tạm giam được áp dụng chủ yếu đối với bị can, bị cáo phạm tội
rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, qua nghiên cứu hồ
sơ 20 bị can (phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng) mà

51
Cơ quan CSĐT ra lệnh bắt tạm giam, cho thấy có: 4 trường hợp trong hồ sơ đề nghị
phê chuẩn của Cơ quan CSĐT có tài liệu, chứng cứ xác định có dấu hiệu bỏ trốn,
tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án (chiếm tỷ lệ 20%); 16
trường hợp trong hồ sơ đề nghị phê chuẩn của Cơ quan CSĐT không có các tài liệu,
chứng cứ xác định các dấu hiệu trên (chiếm tỷ lệ 80%). Trong đó, các tài liệu,
chứng cứ khi gửi bản kết luận Điều tra đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án sang Viện
kiểm sát cùng cấp theo đúng yêu cầu pháp luật. Kết quả này cho thấy việc bắt tạm
giam còn chú trọng vào loại tội mà bị can bị khởi tố hơn là tính có căn cứ trong việc
áp dụng biện pháp bắt bị can để tạm giam.
Về chủ thể áp dụng, thực tiễn thời gian qua cho thấy biện pháp này được áp
dụng chủ yếu bởi CQĐT, cụ thể: CQĐT ra lệnh bắt bi can để tạm giam đối với
1.356 bị can (chiếm tỷ lệ 89,74%); VKS ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với 37
bị can (chiếm tỷ lệ 2,49%); Tòa án ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với
118 bị can, bị cáo (chiếm tỷ lệ 7,77%) [Bảng 2.4 - Phụ lục]. Sở dĩ VKS là chủ thể
áp dụng biện pháp này ít nhất là vì khi các bị can có căn cứ để bắt tạm giam thì đã
được CQĐT trường hợp có đủ căn cứ theo qy định tại Điều 164, Bộ luật Tố tụng
hình sự điều tra. đình chỉ điều tra phải tuân thủ đúng các quy định tiếp ra lệnh bắt bị
can để tạm giam thì VKS sẽ yêu cầu CQĐT thực hiện lệnh bắt tạm giam.
2.3. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc áp dụng
biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình
2.3.1. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
2.3.1.1. Trong việc áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Một là, thực tiễn vẫn còn xảy ra một số vụ bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp khi tính “khẩn cấp” không còn, khi mà người phạm tội tự thú hoặc do
người phạm tội bị nghi vấn được CQĐT mời lên làm việc và tiến hành bắt khẩn cấp,
vì lúc này ý thức trốn tránh của đối tượng không cao, đối tượng không có khả năng
tiêu hủy chứng cứ, khó có thể gây khó khăn cho cơ quan THTT.
Hai là, thực tiễn có trường hợp CQĐT triệu tập đối tượng nghi vấn lên làm
việc tại trụ sở CQĐT hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người bị bắt

52
khi tiến hành những biện pháp điều tra cần thiết để thu thập tài liệu chứng cứ chứng
minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ, xét thấy nên không có sự
tham gia đầy đủ của người chứng kiến, nhất là người láng giềng của người bị bắt.
Hoặc cá biệt thập được có đủ cơ sở, căn cứ vào Điều 163, Bộ luật Tố tụng hình sự,
Điều tra viên sắp, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người
bị bắt cư trú hoặc làm việc biết.
2.3.1.2. Trong việc áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang
Một là, việc xác định căn cứ bắt người phạm tội quả tang trong nhiều trường
hợp chưa chính xác dẫn đến việc lạm dụng biện pháp này. Thực tiễn cho thấy đã có
sự nhầm lẫn giữa phạm tội quả tang và phạm pháp quả tang dẫn đến việc bắt quả
tang cả đối với người có hành vi vi phạm hành chính trong nhiều trường hợp khó có
thể xác định được ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, nhất là các
trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác,
trộm cắp tài sản.
Hai là, ở một số địa phương, khi bắt người phạm tội quả tang xảy ra ở địa
bàn xã, Công xã thường lập biên bản và tự giải quyết đối với những trường hợp đơn
giản, xem như là hình thức cảnh cáo, dọa nạt, sau đó là hòa giải bỏ qua... Đối với
những sự việc phức tạp, Công an xã bàn giao người và tài liệu có liên quan cho Cơ
quan CSĐT Công an cấp huyện nhưng Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện lại tự
giải quyết mà không thông báo cho VKS cùng cấp.
Ngoài ra, nhiều trường hợp việc bắt người phạm tội quả tang không tuân thủ
các quy định về TTHS như: không lập biên bản bắt người hoặc có lập biên bản bắt
người nhưng không có chữ ký của bị hại, người làm chứng; sau khi bắt hoặc nhận
người bị bắt, CQĐT không lấy lời khai ngay đối với người bị bắt quả tang và trong
thời hạn 24 giờ, không kịp ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
2.3.1.3. Trong việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
Một là, công tác kiểm tra, xác minh trước khi ra quyết định truy nã trong một
số trường hợp thực hiện chưa đầy đủ. Trên thực tế có nhiều trường hợp CQĐT ra
quyết định truy nã ngay sau khi bị can bỏ trốn mà không tiến hành các biện pháp
xác minh, truy bắt, chưa xác định được các đặc điểm để nhận dạng đối tượng.
Hai là, thông tin cần thiết trong quyết định truy nã còn chưa đáp ứng được

53
yêu cầu phát hiện, truy bắt đối tượng, như: thiếu ảnh của đối tượng; đặc điểm nhận
dạng; lý lịch gia đình…. đã gây ra không ít khó khăn đối với các đơn vị chức năng
và Nhân dân trong việc phát hiện, xác minh, bắt giữ và áp giải đối tượng bị truy nã.
2.3.1.4. Trong việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Một là, tình trạng lạm dụng việc bắt người còn xảy ra đối với cả bắt bị can, bị
cáo để tạm giam, thể hiện qua việc chưa xác định đủ căn cứ áp dụng biện pháp bắt
bị can, bị cáo để tạm giam. Trong nhiều vụ án không cần thiết phải áp dụng biện khi
chuẩn bị các điều kiện cần thiết phục vụ cho việc đánh bạc, tổ chức đánh bạc, các
đối tượng hoạt động phạm tội chuyên, có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân không có
tiền án, tiền sự, không có dấu hiệu bỏ trốn nhưng CQĐT vẫn ra lệnh bảo vệ, dùng
các tín hiệu báo động khi có người lạ hoặc lực. Kết quả này cho thấy, biện pháp bắt
canh gác nhiều nấc trên đường vào nơig được áp dụng nhiều. Việc bắt bị can để tạm
giam trong một số trường hợp chưa đảm bảo đúng căn cứ theo luật định, CQĐT đã
dùng biện pháp này để thay thế cho hoạt động điều tra mà chưa thực sự đề cao việc
bảo vệ quyền của người tham gia tố tụng.
Ví dụ: Ngày 12/6/2016, Lâm Văn Long (hộ khẩu thường trú: xã Quảng
Thanh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, chưa có tiền án, tiền sự) điều khiển
xe ô tô tải biển kiểm soát 73B-8215 lưu thông trên quốc lộ 1 thuộc địa phận xã
Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình thì va chạm với xe mô tô biển
kiểm soát 73E1-3121 do anh Hoàng Đình Ban điều khiển đi ngược chiều. Hậu quả
anh Hoàng Đình Ban chết. Ngày 01/7/2016, Cơ quan CSĐT, Công an huyện Quảng
Trạch đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối với Lâm Văn
Long. Tiếp đó ngày 30/7/2016, Cơ quan CSĐT, Công an huyện Quảng Trạch đề
nghị VKSND huyện Quảng Trạch thay đổi BPNC bắt tạm giam sang biện pháp cấm
đi khỏi nơi cư trú đối với Lâm Văn Long. Có thể thấy, trong vụ việc trên, bị can
Lâm Văn Long là người phạm tội lần đầu với tội phạm ít nghiêm trọng, có nơi cư
trú rõ ràng nhưng Cơ quan CSĐT - Công an huyện Quảng Trạch vẫn ra lệnh bắt bị
can để tạm giam mà không áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ngay từ đầu.
Hai là, còn để xảy ra tình trạng triệu tập bị can đến cơ quan hoặc trụ sở chính
quyền địa phương, sau đó tiến hành bắt đối tượng. Vì vậy, CQĐT bắt tạm giam
không mời người láng giềng hoặc đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn chứng

54
kiến; ĐTV đã tự hoàn tất các thủ tục theo quy định của pháp luật làm cho việc bắt
không được khách quan, đặc biệt là sai quy định của pháp luật TTHS.
Ngoài ra, một số trường hợp căn cứ ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
chưa được thể hiện rõ ràng, cụ thể. Nhiều công văn đề nghị VKS phê chuẩn lệnh bắt
của CQĐT chỉ canh gác nhiều nấc trên đường vào nơi “thấy rằng cần thiết phải tạm
giam bị can, nếu để bị can ở ngoài xã hội tín hiệu báo động khi có người lạ động
điều tra”, “có thể tiếp tục phạm tội”, nhưng không thể hiện rõ qua các tài liệu,
chứng cứ đã thu thập để làm căn cứ.
2.3.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng
biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Những tồn tại, hạn chế và vi phạm trong việc áp dụng biện pháp bắt người
bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:
2.3.2.1. Những nguyên nhân khách quan
Một là, những khó khăn, vướng mắc từ các quy định của pháp luật TTHS về
biện pháp bắt người.
Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp. Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định: “Các trường hợp bắt người
gồm bắt người bị giữ trong đánh bạc được xây tường rào cao, có dây thép gai, bắt
người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn
độ”. Các điều luật sau đó quy định cụ thể về biện pháp bắt người như bắt người
phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng
lại không có điều luật nào quy định cụ thể về biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, việc bắt người trong trường hợp này được đề cập đến trong
nội dung của Khoản 4, Điều 110 đó là sau khi giữ người, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành lấy lời khai, và trong vòng 12 giờ “phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt
người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó”. Bên cạnh đó, Khoản 1, Điều 117
quy định về biện pháp tạm giữ như sau: “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị
giữ trong trường hợp đánh bạc được xây tường rào cao, có dây thép gai hợp phạm
tội quả tang, điểm tổ chức đánh, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định
truy nã”. Như vậy, dẫn đến việc nhận thức khác nhau là sau khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp là sẽ tạm giữ hay là bắt rồi mới tạm giữ.

55
Không quy định về việc dùng vũ lực để thực hiện biện pháp giữ người và nơi
giữ người. Khi CQĐT áp dụng biện pháp này mà người bị giữ không chấp hành,
thậm chí có hành vi chống trả thì lực lượng tiến hành được dùng vũ lực đến mức độ
nào để thực hiện chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Ngoài ra, luật cũng không quy
định về địa điểm giữ người nên quá trình thực hiện gặp khó khăn, lúng túng. Ngoài
ra, việc khám người bị giữ để tước vũ khí, thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ
án. BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 đều quy định “có thể tiến hành
khám người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người” [35, tr.140]. Tuy
nhiên, trước đây luật quy định là bắt người trong trường hợp khẩn cấp nên ngay sau
khi bắt, lực lượng bắt có quyền khám xét người để tước vũ khí và thu giữ đồ vật, tài
liệu có liên quan, còn hiện nay biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp khác
với biện pháp bắt nên lực lượng thi hành không được phép khám xét người bị giữ,
muốn khám người bị giữ phải có lệnh của người có thẩm quyền. Ngoài ra, cách tính
thời hạn tạm giữ sau khi giữ người cũng không thống nhất. Sau 12 giờ từ khi giữ
người, cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định trả tự do hoặc tạm giữ. Trong
trường hợp tạm giữ thì thời hạn tạm giữ được tính như thế nào cũng không có sự
thống nhất. Một số đơn vị, địa phương tính thời hạn tạm giữ từ khi bắt đầu giữ
người nhưng cũng có đơn vị, địa phương khác lại tính thời hạn từ thời điểm tạm
giữ, tức là sau khi giữ người 12 giờ. Trong BLTTHS năm 2015, căn cứ áp dụng
biện pháp bắt người trường hợp bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị
truy nã là khá cụ thể, rõ ràng còn lại đều được quy định rất chung chung, mang tính
dự báo, phỏng đoán định tính dẫn đến nhận thức và vận dụng không thống nhất.
Đối với biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, các tình tiết
“người bị nghi thực hiện tội phạm”; “xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn”; “xét thấy dụng những nơi dễ nguỵ trang như khách sạn, nhà nghỉ, cơ quan, xí
nghiệp thế nào để xác định có cần thiết bắt đối tượng hay không? Hoặc quy định về
việc thông báo cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết là cần thiết, tuy nhiên nếu
thông báo đó cản trở đến việc điều tra thì chỉ thông báo khi cản trở đó không còn
nữa, nhưng hiểu như thế nào là “cản trở điều tra” cũng là vấn đề chưa có quy định
cụ thể. Có thể thấy việc xác định các căn cứ áp dụng này phụ thuộc phần lớn vào ý

56
thức chủ quan của chủ thể áp dụng. Nếu chủ thể áp dụng biện pháp bắt người nắm
vững pháp luật, có kinh nghiệm và thái độ khách quan thì việc xác định là có cơ sở.
Ngược lại, nếu chủ thể áp dụng có tư tưởng “bắt nhầm còn hơn bỏ sót” thì sẽ dẫn
đến những sai phạm, bắt tràn lan cả những trường hợp không đáng bắt. Điều 111
BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan bắt người phạm tội quả tang hoặc tiếp nhận
người bị bắt phải giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho CQĐT có thẩm quyền
nhưng không quy định thời hạn để CQĐT có thẩm quyền đến tiếp nhận người bị bắt
là bao lâu (kể từ khi nhận được thông báo).
Ngoài ra, theo khoản 2 các điều 111, 112 BLTTHS năm 2015, khi bắt người
phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước
vũ khí, hung khí của người bị bắt. Quy định này đã kế thừa nội dung khoản 2 Điều
82 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên hiểu như thế nào là tước vũ khí, hung khí của
người bị bắt. Về vấn đề này, kể từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực cho đến nay
cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể.
Hai là, ý thức pháp luật của một bộ phận quần chúng Nhân dân trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình hiện nay còn hạn chế.
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ quần chúng Nhân dân chưa nhận thức đầy
đủ về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc áp dụng biện pháp bắt người. Họ
coi bắt người là biện pháp mang tính trừng phạt; coi việc áp dụng biện pháp bắt người
là trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Bên cạnh đó, hiểu biết
pháp luật của người dân về các BPNC nói chung và biện pháp bắt người nói riêng
còn hạn chế nên nhiều trường hợp khi bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị
truy nã thì tỏ ra lúng túng, không xác định được các công việc phải làm, dẫn đến các
vi phạm về thủ tục bắt, cá biệt xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
bắt. Những hạn chế này đã tạo ra tâm lý thụ động, e dè khi họ tham gia phối hợp
trong việc áp dụng biện pháp bắt người của các cơ quan có thẩm quyền, thậm chí
nhiều cá nhân bất hợp tác, có những vi chống đối lại các cơ quan chức năng.
Ba là, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, công cụ, phương tiện phục vụ cho việc
áp dụng biện pháp bắt người cũng như chế độ, chính sách chưa thỏa đáng.
Một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc bắt đó
là cơ sở vật chất, công cụ, phương tiện phục vụ cho việc áp dụng biện pháp bắt người.

57
Tuy nhiên hiện nay cơ sở vật chất, công cụ, phương tiện phục vụ cho việc áp dụng
biện pháp bắt người còn thiếu thốn và chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Về công
cụ, phương tiện phục vụ cho việc áp dụng biện pháp bắt người gồm có: camera, súng,
máy ghi âm, còng số 8, áo giáp, lựu đạn cay, dùi cui điện..phương tiện giao thông
như ô tô, xe máy mặc dù đã được trang bị nhưng còn thiếu. Trong khi đó, hiện nay
các đối tượng phạm tội thường sử dụng công cụ, phương tiện hiện đại, với thủ đoạn
gây án tinh vi, nhanh chóng tẩu thoát sau khi gây án làm cho công tác bắt giữ gặp
nhiều khó khăn. Nhiều trường hợp bắt đối tượng, cán bộ thi hành lệnh bắt người phải
sử dụng đến phương tiện cá nhân, như: điện thoại di động, xe máy, không có phương
tiện chung, có những trường hợp phải sử dụng xe taxi vào việc bắt. Sự thiếu thốn này
đã gây nhiều khó khăn cho việc chỉ đạo, thông tin liên lạc khi bắt người và việc trấn
áp đối tượng nhất là việc bắt các đối tượng nguy hiểm, có vũ khí, vụ án có đông
người tham gia... Việc chuẩn bị phương tiện dẫn giải đối tượng sau khi bắt người còn
thiếu chủ động, khi bắt được đối tượng có khi phải chờ lực lượng khác mang xe tới
hoặc phải dùng xe mô tô để áp giải đối tượng về cơ sở giam giữ. Đây là nguyên nhân
dẫn đến những nguy hiểm cho lực lượng dẫn giải, đồng thời còn là điều kiện cho đối
tượng bị bắt có thể lợi dụng để bỏ trốn. Ngoài ra, có thể thấy, chế độ, chính sách có
ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động TTHS nói chung và việc áp dụng biện pháp
bắt người nói riêng, vì nó tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm, cũng như động cơ
tu dưỡng, phấn đấu của cán bộ tư pháp nói chung và ĐTV nói riêng. Tuy nhiên hiện
nay, nhìn chung chế độ, chính sách chưa thực sự thỏa đáng cho nên nhiều trường hợp
không đủ để ĐTV chi trả cho các hoạt động truy tìm và bắt đối tượng.
2.3.2.2. Những nguyên nhân chủ quan
Một là, xuất phát từ năng lực, trình độ, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp
của những người có thẩm quyền THTT.
Nguyễn nhân xuất phát từ năng lực, trình độ, trách nhiệm và đạo đức nghề
nghiệp của một bộ phận cán bộ các cơ quan THTT tỉnh Quảng Bình là nguyên nhân
của tình trạng bắt sai, bắt chưa đảm bảo quy định thời gian qua. Một số người có
thẩm quyền THTT có trình độ pháp luật và nghiệp vụ còn hạn chế dẫn đến lúng
túng, thiếu chính xác trong việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về biện
pháp bắt người. Kết quả khảo sát đối với khối Cơ quan CSĐT cho thấy, về trình độ

58
nghiệp vụ Công an vẫn còn 03 đồng chí tốt nghiệp các trường ngoài ngành Công an,
mới qua đào tạo lớp bồi dưỡng nghiệp vụ 06 tháng; 80 đồng chí vẫn còn trình độ
trung cấp (chiếm tỷ lệ 19,23%) và 19 đồng chí đạt trình độ cao đẳng (4,57%) [Xem
bảng 2.10 - Phụ lục]. Bên cạnh đó số lượng ĐTV thiếu so với yêu cầu thực tế. Hiện
nay, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình có 126 ĐTV (đến tháng 12/2019)
trong khi đó phải thụ lý điều tra khoảng 740 vụ án/năm. Như vậy, tính trung bình 01
ĐTV phải thụ lý điều tra gần 06 vụ án/năm. Đặc biệt ở Cơ quan CSĐT Công an cấp
huyện, tính trung bình 01 ĐTV phải thụ lý điều tra 9 vụ án/năm, chưa kể công tác
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm [Xem bảng 2.1 và bảng 2.9 - Phụ
lục], gây áp lực lớn đối với cán bộ điều tra, ảnh hưởng đến chất lượng điều tra và
xử lý tội phạm. Do đó, các ĐTV phải chịu sự “quá tải” từ công việc. Thực tế này
dẫn đến việc tham mưu, đề xuất cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra những
quyết định bắt người thiếu chặt chẽ, chưa đủ căn cứ, thậm chí trái hoặc không đúng
với mục đích áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS. Bên cạnh đó, một số người
có thẩm quyền THTT đã thiếu tinh thần trách nhiệm, có biểu hiện sa sút về đạo đức
nghề nghiệp; cá biệt còn có những trường hợp tiêu cực về kinh tế, bệnh thành tích
hoặc động cơ khác.
Hai là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra và kiểm sát việc áp
dụng BPNC nói chung, biện pháp bắt người nói riêng chưa sâu sát để kịp thời phát
hiện và ngăn chặn những trường hợp sai phạm.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra việc áp dụng biện pháp bắt
người có vai trò rất quan trọng trong việc ngăn ngừa những sai phạm có thể xảy ra
khi áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra xử lý tội phạm nói
chung, công tác bắt người phạm tội nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tế công tác
thanh tra, kiểm tra việc áp dụng biện pháp bắt người của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT và của các đơn vị chức năng ở một số địa phương có lúc chưa được
kịp thời và chưa đảm bảo chặt chẽ. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng CQĐT ở một số đơn vị, địa phương vẫn còn tình trạng khoán trắng cho
ĐTV; do không đọc kỹ hồ sơ, tài liệu nên quá trình quản lý còn chưa sâu sát rồi cho
ý kiến chỉ đạo chung chung, mang tính chủ quan, kinh nghiệm. Mặt khác, công tác
thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn của CQĐT cấp trên đối với CQĐT cấp dưới trong

59
các tình huống bắt người còn ít và phần lớn là hướng dẫn chung chung, hiệu quả
không cao. Việc xử lý, rút kinh nghiệm đối với cán bộ vi phạm trong áp dụng biện
pháp bắt người theo TTHS thời gian qua còn có những lúc chưa kịp thời, thiếu tính
răn đe.
Đối với các hoạt động kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố của
VKSND hai cấp tỉnh Quảng Bình chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu đặt ra. VKS có
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS nhằm dụng những nơi dễ nguỵ trang như khách sạn, nhà nghỉ, cơ quan, xí
nghiệp pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vô tội; mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh. Tuy
nhiên, việc kiểm sát quá trình điều tra nói chung, việc áp dụng biện pháp bắt người
nói riêng của VKS chưa đáp ứng với yêu cầu đặt ra. Bởi lẽ, trong quá trình điều tra
VAHS, CQĐT có thể phân công nhiều cán bộ điều tra, ĐTV; huy động nhiều lực
lượng để tham gia hoạt động điều tra, trong khi VKS không đảm bảo đủ số lượng
KSV để kiểm sát mọi hoạt động tố tụng của ĐTV. Do đó, công tác kiểm sát việc áp
dụng biện pháp bắt người không được sâu sát, chặt chẽ nên chưa phát hiện kịp thời
những sai phạm của CQĐT trong việc bắt người để đưa ra các kiến nghị cần thiết
nhằm khắc phục những vi phạm đó.
Ba là, mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT với các đơn vị khác trong quá trình
áp dụng biện pháp bắt người, nhất là đối với VKS còn có những hạn chế nhất định.
Trong thời gian qua, về cơ bản CQĐT đã thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp
với các đơn vị trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người. Tuy nhiên có lúc, có
nơi mối quan hệ này còn chưa nhịp nhàng, đồng bộ; bên cạnh đó trong nhận thức
của một số cán bộ còn cho rằng việc phối hợp này chỉ là trách nhiệm nên chưa nhiệt
tình, sâu sát. Các thông tin từ CQĐT đến các đơn vị phối hợp nhiều khi chưa được
cung cấp hết vì tâm lý cho rằng nếu cung cấp hết sẽ lộ bí mật, lộ công tác nghiệp vụ
hoặc cá biệt còn cho rằng thực hiện yêu cầu trong quan hệ phối hợp này là làm thay,
làm hộ... Việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo phục vụ hoạt động bắt người từ
các đơn vị khác hoặc ở các đơn vị cấp huyện đến cấp tỉnh còn chưa nghiêm túc,
nhiều báo cáo trùng lặp, ít có giá trị trong nhận định, đánh giá tình hình phục vụ
việc áp dụng biện pháp bắt người. Trong quan hệ phối hợp với các đơn vị trong việc

60
áp dụng biện pháp bắt người, nhất là đối với VKS còn tình trạng “quyền anh”,
“quyền tôi”, dẫn đến các kiến nghị, yêu cầu của VKS chưa được CQĐT thực hiện
đầy đủ và kịp thời. Có thể thấy nhiều kiến nghị, yêu cầu của VKS chưa được CQĐT
thực hiện triệt để, điều này sẽ dẫn đến các VPPL khi áp dụng biện pháp bắt người
chậm được khắc phục.
Tiểu kết Chương 2
Trong chương 2, luận văn đã đi sâu làm rõ những quy định của BLTTHS
năm 2015 về BPNC bắt người. Phân tích cụ thể, chi tiết 05 trường hợp bắt người
phạm tội. Cùng với đó, chương 2 tác giả đã nghiên cứu, phân tích thực trạng áp
dụng BPNC bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019. Theo đó, tác giả đã làm rõ được đặc điểm tình hình tội phạm, VPPL trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019; thực trạng áp dụng biện
pháp biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang,
bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Từ đó, đánh giá được
những ưu điểm, những việc đã làm được, đánh giá những khó khăn, vướng mắc và
nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Đây chính là những bước
tiền đề, là cơ sở thực tiễn mà học viên dùng để đưa ra những yêu cầu cũng như đưa
ra những giải pháp ở chương 3 của luận văn.

61
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Một số yêu cầu góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 đã đề cập đến vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền
đánh bạc được xây tường rào cao, có dây thép gai, cửa sắt, dùng chó dữ để bảo vệ,
dùng các tín hiệu thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đồng thời, yêu cầu
đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu
lực của pháp luật XHCN phương tiện mà đối tượng sử dụng trong quá trình đánh
bạc, tổ chức đánh bạc là những vật chứng quan trọng để chứng minh hành vi phạm
tội trong sạch, vững mạnh, luật nhằm góp phần phấn đấu đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao mức sống của Nhân dân. Xây
dựng và hoàn thiện các quy định của Nhà nước về việc bảo hộ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, nhất là các
cơ quan THTT trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm hành vi xâm phạm
đồng thời khắc phục việc xử lý oan, sai. Với phương hướng chủ đạo hoàn thiện
pháp luật về đấu tranh PCTP theo phương châm xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp
luật (Tòa án, VKS, Công an) là nòng cốt, phát huy sức mạnh của quần chúng Nhân
dân trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Hoàn thiện chính sách
hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm là chính; hạn chế

62
hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền; cải tạo không
giam giữ đối với các loại tội ít nghiêm trọng [14, tr.4].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã xác định phương hướng “hoàn thiện các thủ tục
tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người” [16, tr.3] nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, nâng cao hiệu quả đấu tranh
chống tội phạm.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong
những quan điểm phát triển trong phương tiện mà đối tượng sử dụng trong quá trình
đánh bạc, tổ chức chứng quan trọng để chứng minh hành vi phạm tội tố con người;
coi con người là là mục tiêu đánh bạc là những vật của sự phát triển.
Quốc hội nước ta đã thông qua một loạt các bộ luật, luật có liên quan đến
việc bắt người với những quy định thể hiện rõ nét việc đề cao quyền con người,
như: Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Luật Tổ chức điều tra hình sự năm 2015 và các đạo luật khác có liên
quan. Như vậy xu hướng chung hiện nay là không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Yêu cầu này
sẽ tác động không nhỏ việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
3.1.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Trước tình hình tội phạm có xu hướng tăng và ngày càng tiềm ẩn nhiều yếu
tố phức tạp trên nhiều phương diện, yêu cầu công tác đấu tranh PCTP trong thời
gian tới đòi hỏi phải quán triệt nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ
trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện
làm việc, đầu tư phương tiện, công cụ hỗ trợ cho CQĐT, trong đó có các trang bị
phục vụ hoạt động bắt người. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất
là ĐTV, KSV, Thẩm phán theo vụ tàu đâm va phương tiện giao thông đường bộ
trong phạm vi khổ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp

63
vụ và là phạm vi khu vực ghi xảy ra tai nạn cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi
tuyển đối với một số chức danh.
Chương trình PCTP ban hành kèm theo Quyết định số 199/QĐ-TTg ngày
14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực hiện Kết luận số
05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ
thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác PCTP trong tình hình mới và chiến lược quốc gia PCTP đến năm 2020
nêu rõ: Nâng cao ý thức trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của các cấp, các ngành,
các tổ chức xã hội và Nhân dân chủ động phòng ngừa, tích cực tham gia đấu tranh
chống tội phạm, VPPL, cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng
dân cư. Nâng cao năng lực, trình độ, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp đối với cán
bộ ĐTV, KSV, thẩm phán và cán bộ làm công tác thi hành án hình sự. Tấn công
trấn áp mạnh đối với các loại tội phạm, nhất là các tội phạm nổi lên hiện nay, nhất
là tội phạm xuyên quốc gia, có tổ chức, các tội phạm ma túy, hình sự, kinh tế, tham
nhũng, chức vụ, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mua bán
người và các tội phạm phi truyền thống nổi lên. Nâng cao hiệu quả chuyển hóa các
địa bàn trọng điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội; đồng thời tập trung nâng cao
hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm xảy ra bảo đảm kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, công tác
PCTP trong thời gian tới phải đảm bảo đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Nhân dân,
bảo vệ quyền con người.
3.1.3. Yêu cầu về nâng cao hiệu quả hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Ngày 25/10/2017 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban
hành Nghị quyết số 18-NQ/TW một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã xác định
mục tiêu tổng quát là tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN, trong đó có các cơ quan THTT; sắp xếp bộ máy kết hợp với

64
tinh giản biên chế gắn với sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ.
Trên cơ sở Nghị quyết này, ngày 31/01/2018, Ban cán sự đảng VKSND tối
cao đã ban hành Kế hoạch số 13-KH/BCSĐ về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả” trong ngành Kiểm sát nhân dân và ngày 22/5/2018.
Ban cán sự đảng TAND tối cao đã ban hành Kế hoạch số 889-KH/BCSĐ về
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng trong TAND, theo đó,
trong thời gian tới, ngành Kiểm sát và Tòa án sẽ tiếp tục tiếp tục kiện toàn, sắp xếp
lại cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc cấp vụ, cấp phòng theo hướng giảm đầu mối,
tinh gọn thành một đơn vị thực hiện nhiều nhiệm vụ có tính chất tương đồng để phát
huy năng lực, hiệu quả công tác, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, số lượng công việc.
Đối với lực lượng Công an, ngày 15/3/2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 22-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Bộ Công an
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày
06/8/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BCA. Trong đó khối CQĐT Công an
cấp tỉnh cũng được thu gọn đầu mối. Đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra được tăng
cường cho tuyến huyện sẽ làm tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác
điều tra.
Như vậy, trong thời gian tới cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan có thẩm
quyền THTT trong đó có CQĐT của CAND sẽ có sự biến động theo hướng thu hẹp
đầu mối bảo đảm tính chuyên sâu.
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến
biện pháp bắt người
Tội phạm là một hiện tượng có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để
loại trừ được vấn oan, sai trong công tác bắt, giam giữ, điều tra, xử lý tội phạm,
chúng ta phải có một hệ thống pháp luật thống nhất, hoàn thiện trên mọi lĩnh vực để
tạo cơ sở pháp lý cho những người áp dụng pháp luật vận dụng đúng, chính xác, dễ

65
dàng từng qui phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, Nhà nước phải
có chiến lược và những biện pháp để tăng cường công tác xây dựng pháp luật, đảm
bảo trong tương lai gần phải xây dựng được một hệ thống pháp luật phát triển, tiên
tiến để cùng với những biện pháp khác góp phần khắc phục tiến tới loại trừ việc
oan, sai. Nếu không làm được điều này thì vấn đề oan, sai vẫn sẽ xảy ra.
BLTTHS 2015 ra đời đã sửa đổi, khắc phục nhiều điểm bất hợp lý của một
số quy định pháp luật liên quan việc bắt người, ví dụ như đã quy định rõ thẩm
quyền bắt người trong trường hợp bắt khẩn cấp và bắt bị can để tạm giam là Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp, không còn Trưởng Công an, Phó trưởng
Công an huyện như trước; đã quy định lại thủ tục, trình tự bắt người để đảm bảo
tính khả thi trên thực tế…Tuy nhiên, căn cứ vào BLTTHS năm 2015 và BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), một số vấn đề sau đây xét thấy vẫn còn thiếu
chặt chẽ cần được khắc phục, cụ thể:
Những quy định pháp luật về căn cứ bắt người còn mang tính dự báo, mà cụ
thể là các cụm từ: "xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ
chứng cứ" trong trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, hoặc: " có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội"
trong trường hợp bắt bị can để tạm giam. Những quy định trên mang tính dự báo và
đòi hỏi người cán bộ điều tra phải dự báo trên thực tế, đây là điều rất khó khăn, dễ
tuỳ tiện và cũng dễ vi phạm. Để việc áp dụng pháp luật trong quá trình bắt người
được thuận lợi, đúng đắn, Quốc hội và các cơ quan thẩm quyền cần nghiên cứu
hoàn thiện những vấn đề nêu trên, hoặc phải có những văn bản hướng dẫn, giải
thích mang tính pháp lý để các cơ quan THTT áp dụng thống nhất, chính xác. Đối
với vấn đề định giá tài sản trong quá trình giải quyết VAHS, các cơ quan có thẩm
quyền cần sớm ban hành quy định về vấn đề này để tháo gỡ những vướng mắc, khó
khăn hiện nay, tránh xảy ra sai phạm.
Việc quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ về căn cứ và thủ tục áp dụng biện
pháp này. Đặc biệt việc quy định chặt chẽ về căn cứ bắt người sẽ tránh được sự tùy
tiện khi áp dụng, tránh được sự lạm quyền mà dẫn đến bắt oan, bắt sai hoặc xâm
phạm đến quyền con người, quyền công dân. Do đó, bên cạnh việc triển khai thi
hành các quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp bắt người, cần tiếp tục

66
hoàn thiện một số quy định trong Bộ luật này, đồng thời xây dựng các văn bản dưới
luật để hướng dẫn cụ thể, tránh nhận thức không thống nhất, gây khó khăn cho việc
vận dụng trong thực tiễn.
Liên ngành tư pháp Trung ương (Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối
cao) cần ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn việc áp dụng biện pháp “Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp”. Trong đó, cần thống nhất là trong thời hạn 12 giờ kể từ
khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai ngay, sau đó nếu có đủ
căn cứ thì ra lệnh bắt, quyết định tạm giữ và gửi hồ sơ cho VKSND cùng cấp đề
nghị phê chuẩn, nếu VKSND không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị
giữ. Bên cạnh đó, cũng cần có hướng dẫn cụ thể về nơi giữ người và cách tính thời
hạn tạm giữ sau khi giữ người, hướng dẫn về việc sử dụng vũ lực trong trường hợp
người bị giữ không chấp hành lệnh hoặc chống đối.
Cần phải nghiên cứu tách riêng trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp được quy định thành một điều luật riêng biệt nhằm tạo điều kiện thuận tiện
cho việc nhận thức và vận dụng trong thực tiễn. Đối với bắt người phạm tội quả
tang và bắt người đang bị truy nã, việc quy định thời hạn CQĐT nhận người bị bắt
là cần thiết bởi vì nó liên quan đến việc quản lý người bị bắt trong thời gian chờ
chuyển giao người bị bắt; đến việc kịp thời thực hiện các quyền của người bị bắt,
như: quyền gặp thân nhân, quyền lựa chọn người bào chữa của người thân thích.
Trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần phải có văn bản hướng
dẫn cụ thể về phạm vi những trường hợp được tước vũ khí, hung khí của người bị
bắt. Cần sửa đổi quy định về căn cứ tạm giam quy định tại Điều 119 BLTTHS bởi
vì điều luật này quy định về ba trường hợp tạm giam theo việc phân loại tội phạm,
trong đó đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng được luật quy
định rõ về căn cứ áp dụng nhưng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng lại không quy định về căn cứ cứ áp dụng. Do đó, chúng tôi kiến
nghị trong Điều 119 quy định về tạm giam cần dẫn chiếu quy định về căn cứ áp
dụng BPNC nói chung trong Điều 109. Về thời hạn thông báo về việc bắt cần sửa
đối theo hướng là là không quá 24 giờ kể từ khi bắt hoặc người người bị bắt là hợp
lý (phù hợp với quy định tại đoạn 2 Điều 116 BLTTHS năm 2015) và đối tượng

67
nhận thông báo về việc bắt trong trường hợp người bị bắt không có nơi cứ trú cố
định và không có gia đình là người thân thích của họ hoặc người mà họ tin tưởng
nếu người đó đề nghị. Cần nghiên cứu để thu hẹp thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt
người. Tòa án có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người thì sẽ không thể đáp ứng
được thực tiễn công tác đấu tranh PCTP. Tuy nhiên, trong tương lai, để phù hợp với
luật pháp quốc tế và nhiệm vụ của Tòa án, cần nghiên cứu sửa đổi BLTTHS theo
hướng chỉ giao cho Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người có lệnh.
Ngoài ra, qua thời gian triển khai thực hiện cho thấy ngoài những nội dung
mới, tiến bộ thì BLTTHS năm 2015 cũng đã bộc lộ một số vướng mắc khi được áp
dụng vào thực tế. Do đó, trong thời gian tới cần có sự rà soát để sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp.
3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp
Con người luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành bại của
mọi hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả
biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS thì việc nâng cao trình độ pháp luật,
nghiệp vụ và tăng cường trách nhiệm đối với những người có thẩm quyền trong
hoạt động bắt người là biện pháp quan trọng đầu tiên. Cần nâng cao trình độ về
pháp luật nói chung, pháp luật TTHS nói riêng cho người có thẩm quyền trong việc
bắt người theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, tăng cường đào tạo, đào tạo
lại đội ngũ cán bộ tư pháp.
3.2.2.1. Đối với Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra
Rà soát, đánh giá đội ngũ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT. Điều
tra, xử lý tội phạm là hoạt động trực tiếp đụng chạm đến tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, danh dự, nhân phẩm và những quyền tự do dân chủ khác của công dân, là một
lĩnh vực được xã hội rất quan tâm. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT là
những chủ thể rất quan trọng của Cơ quan CSĐT, quyết định sự đúng đắn của hoạt
động điều tra, xử lý tội phạm. Xuất phát từ yêu cầu ngày càng cao từ cuộc sống,
không để xảy ra những sai sót xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân đòi hỏi chúng ta phải hết sức nghiêm túc trong việc bổ nhiệm vị trí Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT. Đảm bảo mỗi đồng chí được bổ nhiệm đều đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, không để xảy ra những sai sót dẫn đến oan, sai.

68
Mỗi đồng chí Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT cần đề cao tinh thần
trách nhiệm của bản thân mình đối với công việc, đối với sinh mạng chính trị, danh
dự, nhân phẩm, những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời phải
thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ chiến sỹ
của mình thấy được tính chất phức tạp của hoạt động điều tra, xử lý tội phạm cũng
như những hậu quả của nó nếu không thực hiện đúng theo qui định pháp luật, phải
thực hiện nhiệm vụ bằng chính lương tâm, trách nhiệm của mình để xử lý đúng
người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, tăng cường
công tác quản lý cán bộ, đề cao kỷ cương, kỷ luật trong địa phương, đơn vị mình để
phòng ngừa, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những sai phạm, tiêu cực có thể xảy ra,
phải xử lý nghiêm, không bao che những vi phạm của cán bộ chiến sỹ để đảm bảo
kỷ cương, kỷ luật của địa phương, đơn vị. Trong quá trình lãnh đạo chỉ huy, thực thi
thẩm quyền bắt người phải khách quan, thận trọng trong từng trường hợp bắt, quan
tâm theo dõi, kiểm tra những vụ án với những tội danh thường xảy ra bắt oan, sai
như đã khảo sát ở phần thực trạng, mọi quyết định đều phải đảm bảo có căn cứ và
đã được kiểm tra, không được chủ quan, tin tưởng vào cấp dưới.
Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng về chuyên đề áp dụng áp dụng BPNC,
trong đó có biện pháp bắt cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT. Trong
thời gian qua, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã tổ chức các đợt bồi dưỡng theo
chuyên đề cho lực lượng ĐTV. Hoạt động này đã mang lại những hiệu quả thiết
thực, cung cấp cho ĐTV những vấn đề về pháp luật, nghiệp vụ còn vướng mắc và
hướng dẫn cách giải quyết, đồng thời tạo điều kiện các ĐTV học tập lẫn nhau, nhân
điển hình những việc làm tốt, rút kinh nghiệm những việc chưa tốt. Trong thời gian
tới, Bộ Công an cần có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng định kỳ bắt buộc cho đội ngũ
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT, đặc biệt và trước hết ưu tiên cấp
huyện.
3.2.2.2. Đối với lực lượng trực tiếp làm công tác bắt người phạm tội
Kết quả nghiên cứu thực trạng bắt người phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình cho thấy, một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra những hạn chế, thiếu
sót là do lực lượng bắt, đặc biệt ở cấp huyện còn thiếu về số lượng và chưa đảm bảo
về pháp luật, nghiệp vụ. Vì vậy, việc xây dựng lực lượng bắt đảm bảo về số lượng

69
và chất lượng cũng là một trong những biện pháp quan trọng góp phần khắc phục
những hạn chế, thiếu sót trong công tác này. Rà soát tổng thể lực lượng làm công
tác điều tra trong Cơ quan CSĐT:
Số đồng chí đã là ĐTV và đảm bảo tiêu chuẩn theo Luật định thì có thể tiếp
tục bổ nhiệm ĐTV và bố trí làm công tác điều tra tố tụng chuyên sâu theo đội, tổ
công tác, theo từng loại án, nhóm tội phạm... Số đồng chí trước kia làm công tác
điều tra tố tụng nhưng chưa bổ nhiệm ĐTV hoặc làm công tác điều tra trinh sát ở
các cơ quan trinh sát trước đây (hình sự, kinh tế, ma tuý) nhưng đảm bảo tiêu chuẩn
để bổ nhiệm ĐTV theo luật định thì tuỳ yêu cầu, nhiệm vụ từng địa phương, đơn vị
có thể bổ nhiệm ĐTV để làm công tác điều tra tố tụng hoặc tiếp tục bố trí làm công
tác điều tra trinh sát. Số đồng chí chưa đảm bảo theo tiêu chuẩn nhưng có khả năng
phát triển để bổ nhiệm ĐTV hoặc làm công tác điều tra trinh sát thì tạo mọi điều
kiện cho đi học để phát triển nguồn ĐTV. Số đồng chí không đảm bảo tiêu chuẩn,
thiếu tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức kém thì dứt khoát chuyển công tác
khác, không nên bố trí làm công tác điều tra.
Để nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng ĐTV, căn cứ chỉ
tiêu Bộ cho phép, Công an tỉnh cần chủ động liên hệ các trường Công an để phối
hợp tổ chức tuyển sinh, đào tạo cho lực lượng CSĐT theo hình thức liên kết giữa
các địa phương và nhà trường hoặc cử cán bộ về trường học tập. Đồng thời, mỗi cán
bộ chiến sỹ của Cơ quan CSĐT, tự mình phải không ngừng rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tinh thần pháp lý, lòng nhân đạo, phải biết thông
cảm và xót xa trước những nỗi đau của người khác, đề cao tinh thần trách nhiệm đối
với công việc.
Đồng thời, để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra đảm bảo có
thể kịp thời ngăn chặn, phát hiện những vi phạm, sai lầm trong quá trình điều tra nói
chung, bắt người nói riêng trước hết cần giải quyết vấn đề tổ chức, biên chế, trình
độ năng lực của lực lượng KSV. Giải quyết vấn đề này thuộc thẩm quyền Quốc hội
và VKSND tối cao, trong phạm vi nghiên cứu của mình luận văn xin đề xuất:
VKSND tối cao nghiên cứu đề xuất Quốc hội tổ chức lại Cơ quan VKS để đảm bảo
việc kiểm sát hoạt động điều tra chặt chẽ, xuyên suốt; tăng cường biên chế và có
biện pháp nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ cho lực lượng KSV; tăng cường

70
cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Cơ quan VKSND; thực hiện chế độ, chính
sách đãi ngộ phù hợp cho lực lượng này; lãnh đạo VKSND các địa phương cần
quan tâm bổ sung lực lượng KSV từ nhiều nguồn và phải đảm bảo về chất lượng; rà
soát, phân loại và có biện pháp phù hợp lực lượng KSV hiện có để từng bước xây
dựng lực lượng KSV đảm bảo về số lượng và chất lượng để nâng cao hiệu quả công
tác kiểm sát, góp phần khắc phục việc oan, sai.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra với
các đơn vị trong áp dụng biện pháp bắt người
Biện pháp bắt người không chỉ là một BPNC trong TTHS mà còn là một hoạt
động nghiệp vụ phức tạp, phải tiến hành nhiều công việc khác nhau do đó cần thiết
phải có sự phối hợp của nhiều cá nhân, lực lượng trong khi áp dụng biện pháp này.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người cần thiết phải tăng cường
hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT với các đơn vị khi áp dụng biện pháp
này. Mục tiêu của giải pháp này là nhằm huy động sự tham gia có trách nhiệm của
các cá nhân, đơn vị, lực lượng có liên quan, nâng cao hiệu quả khi áp dụng biện
pháp bắt người.
Nâng cao nhận thức về mối quan hệ phối hợp khi áp dụng biện pháp bắt
người cho cán bộ điều tra và ĐTV. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp cần
thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho ĐTV, cán bộ điều tra về tầm quan
trọng, vai trò của mối quan hệ phối hợp khi áp dụng biện pháp bắt người. Ngoài ra,
khi sơ kết, tổng kết các cuộc bắt hoặc họp rút kinh nghiệm cần đề cập đến mối quan
hệ phối hợp này trên phương diện là ưu điểm hoặc hạn chế, thiếu sót để mỗi cán bộ
điều tra, ĐTV nhận thức rõ.
CQĐT chủ trì cuộc bắt cần dự kiến được các đơn vị, lực lượng cần phối hợp,
nhất là Công an cấp cơ sở, nội dung phối hợp, trên cơ sở đó phổ biến những thông
tin cần thiết về vụ án cho những đơn vị, lực lượng tham gia phối hợp trong phạm vi
nội dung phối hợp. Các đơn vị, lực lượng tham gia phối hợp thực hiện công tác bắt
phải cùng nhau bàn bạc, lên phương án, kế hoạch, phân công lực lượng và nhiệm
vụ cụ thể cho từng lực lượng tham gia, đồng thời thống nhất phương thức liên lạc và
mệnh lệnh trong tác chiến. Trên cơ sở nhiệm vụ được phân công, mỗi đơn vị, lực
lượng cần chuẩn bị chu đáo các điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm

71
cho việc áp dụng biện pháp bắt người được thuận lợi. Các đơn vị, các lực lượng
tham gia phối hợp thực hiện biện pháp bắt phải kịp thời trao đổi thông tin với nhau,
đồng thời báo cáo xin ý kiến chỉ đạo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT chủ trì
cuộc bắt để kịp thời xử lý những tình huống phức tạp, tình tiết mới của vụ án trong
quá trình phối hợp.
Chú trọng thực hiện có hiệu quả việc phối hợp giữa CQĐT và VKS trong
việc áp dụng biện pháp bắt người. Thực hiện có hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa
CQĐT và VKS được thể hiện cả về hình thức và nội dung phối hợp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam, đây là hai
chủ thể quan trọng trong chứng minh tội phạm. Trong quá trình áp dụng biện pháp
bắt người, CQĐT phải kịp thời thông báo cho VKS cùng cấp theo thời hạn luật
định. Đối với trường hợp áp dụng biện pháp bắt người trong các vụ án phức tạp, thu
hút sự quan tâm của dư luận, cơ quan báo chí thì CQĐT cần chủ động thông báo
ngay cho VKS để cùng thống nhất phương án xử lý. Trong trường hợp qua trao đổi
giữa ĐTV và KSV chưa có sự thống nhất thì phải báo cáo ngay lãnh đạo trực tiếp
để có ý kiến chỉ đạo. Đối với những trường hợp phức tạp có thể tiến hành họp liên
ngành tư pháp (Công an, Kiểm sát, Tòa án) để cùng thống nhất phương án giải
quyết. Cần tập trung vào việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ để
làm rõ căn cứ và sự cần thiết phải áp dụng biện pháp bắt người, như: tài liệu, chứng
cứ về hành vi phạm tội của đối tượng; nhân thân đối tượng; dấu hiệu bỏ trốn, tiếp
tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS.
Để nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT với VKS trong áp
dụng biện pháp bắt người, lãnh đạo Bộ Công an, VKSND tối cao cần ban hành quy
chế quy định cụ thể về cơ chế phân công, phối hợp giữa các đơn vị, lực lượng tham
gia cuộc bắt nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các thành phần tham gia cuộc
bắt, đảm bảo tính khoa học, kịp thời và hiệu quả trong việc tổ chức quan hệ phối
hợp khi áp dụng biện pháp bắt người. Trong quy chế phối hợp, ngoài các nội dung
nêu trên cần phải quy định trách nhiệm pháp lý đối với đơn vị, lực lượng, cá nhân
có sai phạm trong việc phối hợp áp dụng biện pháp bắt người, nếu xảy ra hậu quả
nghiêm trọng phải xem xét trách nhiệm hình sự. Trong đó, chú ý xây dựng và thực
hiện tốt quy chế phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông để phục vụ kịp thời các

72
yêu cầu của hoạt động điều tra nói chung và áp dụng biện pháp bắt người nói riêng.
Đồng thời, thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp với các lực lượng khác có liên quan
trong công tác bắt nhằm đem lại hiệu quả cao nhất có thể.
3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, thanh tra đối với
công tác bắt người phạm tội
Trên cơ sở phân tích những hạn chế của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,
kiểm tra, để nâng cao hiệu quả công tác bắt người phạm tội cần tiến hành những
biện pháp sau đây :
3.2.4.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Thủ trưởng Cơ quan CSĐT là người đứng đầu, lãnh đạo, có thẩm quyền quyết
định mọi vấn đề của Cơ quan CSĐT cả về mặt hành chính và mặt tố tụng. Trước hết,
đứng về mặt hành chính, ổn định tổ chức, phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các
đơn vị, các bộ phận và cơ chế quan hệ phối hợp điều tra. Thủ trưởng Cơ quan CSĐT
phải làm tốt công tác tổ chức cán bộ, thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm
chất đạo đức, lương tâm, trách nhiệm cho cán bộ chiến sỹ của mình, có biện pháp lựa
chọn, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ một cách hiệu quả, tăng cường công tác quản lý
cán bộ, đề cao kỷ cương, kỷ luật trong đơn vị để phòng ngừa, kịp thời phát hiện và
ngăn chặn những sai phạm, tiêu cực có thể xảy ra, phải xử lý nghiêm, không bao che
những vi phạm của cán bộ chiến sỹ để đảm bảo kỷ cương, kỷ luật đơn vị. Đứng về
mặt tố tụng, thủ trưởng các Cơ quan CSĐT cũng là người có quyền quyết định mọi
hoạt động tố tụng của Cơ quan CSĐT. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của
mình, thủ trưởng các Cơ quan CSĐT phải lãnh đạo, chỉ huy mọi hoạt động điều tra,
quản lý chặt chẽ mọi hoạt động tố tụng từ việc khởi tố bị can, xét duyệt các quyết
định bắt, tạm giữ, tạm giam và các quyết định tố tụng khác nhằm đảm bảo mọi hoạt
động điều tra của cán bộ dưới quyền là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Lãnh đạo Cơ quan CSĐT cấp trên phải
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Cơ quan CSĐT dưới.
3.2.4.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
-Thủ trưởng Cơ quan CSĐT hai cấp phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra đối với công tác bắt người phạm tội ở đơn vị mình.
Là một hoạt động TTHS rất nhạy cảm, dễ xảy ra đụng chạm và được dư luận

73
xã hội rất quan tâm vì hoạt động bắt người là hoạt động liên quan trực tiếp đến tính
mạng, tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân. Chính vì vậy, Thủ
trưởng Cơ quan CSĐT hai cấ phải tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với công tác
bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, xử lý tội phạm đơn vị mình, coi đây là một nhiệm
vụ quan trọng cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Công tác thanh tra kiểm tra
có thể tiến hành theo nhiều hình thức như: trên tàu có chở các chất độc hại, chất nổ,
chất, hiệu quả công tác. Kết quả công tác thanh tra phải được xử lý nghiêm túc theo
quy định của, tuyệt đối tránh những hiện tượng như tiếp tay, bao che, nể nang, dung
túng làm mất hiệu lực công tác thanh tra. Để nâng cao chất lượng công tác thanh tra,
kiểm tra, lãnh đạo Cơ quan CSĐT hai cấp tỉnh Quảng Bình cần tăng cường biên chế
và nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm
tra, khắc phục tình trạng để lực lượng thanh tra trực tiếp tham gia công tác điều tra
nhằm nâng cao năng lực và tập trung cho công tác này. Bộ phận thanh tra thường
xuyên thanh tra công tác bắt người phạm tội đối với các đơn vị nghiệp vụ trong Cơ
quan CSĐT nhằm phòng ngừa hoặc phát hiện, xử lý kịp thời những sai sót hoặc
những biểu hiện tiêu cực của cán bộ chiến sỹ nhằm không để hậu quả xảy ra. "Nhất
nhật tại tù, thiên thu tại ngoại". Một ngày trong tù bằng nghìn thu ở ngoài. Hậu quả
việc bắt oan, sai rất nặng nề, phức tạp và thông thường tỷ lệ thuận theo thời gian. Vì
vậy việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện và giải
quyết việc bắt oan, sai là một vấn đề rất cần thiết nhằm giảm bớt hậu quả việc bắt
oan, sai. Để thực hiện công tác này, định kỳ hàng tháng, bộ phận thanh tra pháp luật
phải kiểm tra việc bắt người phạm tội của Cơ quan CSĐT để kịp thời phát hiện và
báo cáo Thủ trưởng Cơ quan CSĐT biết để có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả việc bắt oan, sai. Bộ Công an cần ban hành thống nhất các
văn bản, biểu mẫu về công tác bắt người phạm tội và quy định chế độ thông tin, báo
cáo hàng tuần, tháng về lĩnh vực này để công an các địa phương thực hiện. Cần xử
lý nghiêm những trường hợp không báo cáo hoặc báo cáo không chính xác. Bộ
phận thanh tra khi có những thông tin, đơn thư phản ánh về việc bắt oan, sai phải
nhanh chóng xác minh, kiểm tra để có biện pháp giải quyết kịp thời, không để kéo
dài xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
-Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thanh tra chuyên đề chấp hành pháp

74
luật trong công tác bắt người phạm tội.
Trong những năm qua, công tác thanh tra chuyên đề chấp hành pháp luật trong
công tác bắt người phạm tội đã mang lại tác dụng tích cực, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế việc bắt oan, sai, tuy nhiên ông tác
thanh tra chuyên đề này vẫn còn những hạn chế nhất định. Trong thời gian tới, Thanh
tra Công an tỉnh cần đổi mới và tăng cường hơn nữa công tác này đối với công tác bắt
người phạm tội của các địa phương. Phối hợp các cơ quan liên quan tổ chức tập huấn
trước khi tiến hành thanh tra. Sau khi thanh tra cần thông báo nhận xét, đánh giá kết
quả thanh tra cho các đơn vị, địa phương và kết quả tổng hợp chung, trong đó nêu rõ
những biện pháp hay, kinh nghiệm tốt trong quá trình tổ chức, thực hiện công tác
thanh tra chuyên đề để các đơn vị, địa phương học tập, vận dụng.
3.2.5. Bổ sung phù hợp kinh phí, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp;
tăng cường cơ sở vật chất, công cụ, phương tiện phục vụ tốt cho hoạt động bắt
người theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
Vấn đề cơ sở vật chất yếu kém, trang thiết bị lạc hậu của các cơ quan có
thẩm quyền THTT cũng như chế độ, chính sách chưa thỏa đáng đã được đề cập đến
trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
phải nhanh chóng xác định vị trí toa xe đó ở hiện trường và yêu cầu ngành: “Cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm
bảo vệ thì công tác khám nghiệm hiện trường không đạt kết quả, không thu, phương
tiện làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu; chính sách đối với cán vụ trật bánh đầu máy
phải bảo vệ nhiệm vụ và chức trách được giao” [14, tr.2].
Hiện nay cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết phục vụ việc áp dụng biện
pháp phản ánh trạng thái làm việc của tài xế, tốc độ của đoàn tàu vụ án nói chung
còn nhiều thiếu thốn. Bên cạnh đó, chế độ chưa tương xứng. Đây chính là nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót trong việc áp dụng biện pháp bắt người. Do
đó, việc bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết phục vụ việc áp dụng biện
pháp bắt người và chế độ, chính sách đối với ĐTV là một giải pháp đáp ứng đòi hỏi
thực tế hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. Mục tiêu của giải
pháp này là nhằm tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết nhất cho việc áp dụng
biện pháp bắt người; giúp ĐTV an tâm công tác, tận tâm với công việc.

75
Thứ nhất, tập trung xây dựng, cải tạo, sửa chữa, trang bị mới trụ sở làm việc,
trang thiết bị thiết yếu phục vụ công tác và các cơ sở vật chất khác của các cơ quan có
thẩm quyền THTT, nhất là CQĐT (là cơ quan áp dụng biện pháp bắt người nhiều
nhất trong thực tiễn thi hành). Để có cơ sở xây dựng, cải tạo, sửa chữa, trang bị mới
trụ sở làm việc, trang thiết bị thiết yếu phục vụ công tác và các cơ sở vật chất khác
cần tiến hành rà soát lại toàn bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cuộc bắt. Trên
cơ sở rà soát, kết hợp với nhu cầu sử dụng của từng đơn vị để đề xuất với các cơ quan
có thẩm quyền trang bị mới hoặc cấp kinh phí mua sắm, sửa chữa, cải tạo. Trong đó
trước mắt tập trung hoàn thiện, nâng cấp các nhà tạm giữ Công an cấp huyện, trại tạm
giam Công an tỉnh, đầu tư các công cụ và phương tiện bảo đảm quá trình vận động
đến địa điểm bắt thuận lợi, nhanh chóng, an toàn; các công cụ, phương tiện bảo đảm
an toàn cho các lực lượng bắt và những người tham gia hỗ trợ cuộc bắt; các công cụ,
phương tiện bảo đảm trấn áp, khống chế mạnh được các đối tượng bắt. Ngoài ra,
cũng cần đầu tư trang thiết bị khoa học, công nghệ cao cho các cơ quan có thẩm
quyền THTT để phục vụ cho công tác lưu trữ, báo cáo thống kê hình sự nói chung và
việc áp dụng biện pháp bắt người nói riêng.
Thứ hai, đầu tư kinh phí cho việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
viết chuyên đề, đề tài khoa học, tổ chức lớp học, khóa học, tập huấn, sơ kết, tổng
kết việc áp dụng BPNC nói chung và biện pháp bắt người nói riêng. Nguồn kinh phí
phục vụ cho các hoạt động này được lấy từ nguồn kinh phí hàng năm của các đơn
vị, kết hợp với sự ủng hộ, tài trợ của các cá nhân, tổ chức khác. Tuy nhiên, việc sử
dụng nguồn kinh phí này cũng cần tính toán sự tiết kiệm, hợp lý, chống lãng phí.
Thứ ba, thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với ĐTV. Bộ Công an cần
nghiên cứu đề xuất Đảng, Nhà nước có chế độ và chính sách đãi ngộ phù hợp với
thực tiễn chiến đấu của cán bộ chiến sỹ CAND nói chung, lực lượng CSĐT nói
riêng để khắc phục những khó khăn trong cuộc sống hiện nay, toàn tâm toàn ý thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao. Nghiên cứu đề xuất thay thế chế độ phụ cấp đặc thù
bằng chế độ ưu đãi nghề cho ĐTV để tương xứng với trách nhiệm pháp lý rất lớn
trong việc điều tra, xử lý tội phạm phải mà ĐTV phải thực hiện. Ngoài ra, các cấp
có thẩm quyền cần nghiên cứu tăng kinh phí phục vụ hoạt động bắt người để bù đắp
cho chi phí ăn ở, đi lại; đồng thời kịp thời động viên, tuyên dương và khen thưởng

76
bằng cả lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất cho các cán bộ, ĐTV và những người
tham gia cuộc bắt thực hiện tốt nhệm vụ. Nguồn kinh phí phục vụ cho các hoạt
động này có thể lấy từ nguồn kinh phí trích lại từ các vụ án theo quy định của Chính
phủ trong việc sử dụng Quỹ PCTP.
3.2.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự
Việc hạn chế nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc áp
dụng biện pháp bắt người cũng như nhận thức về các quy định của pháp luật TTHS
về biện pháp bắt người của một bộ phận quần chúng Nhân dân hiện nay là một
trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế và vi phạm trong việc áp
dụng biện pháp bắt người. Do đó, đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về biện pháp bắt người.
Mục tiêu của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về biện pháp
bắt người là nhằm giúp cho người dân hiểu được các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS; trang bị cho họ những tri thức pháp
luật cơ bản về biện pháp bắt người; bồi dưỡng, vun đắp ý thức pháp luật tích cực;
“hướng dẫn thói quen ứng xử tích cực theo pháp luật” [6, tr.82].
Phát huy vai trò của của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là của những
người đứng đầu. Bởi lẽ “sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền là nhân
tố quyết định sự vững mạnh cũng như chất lượng của việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị tại địa bàn cơ sở”. Công tác tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo của cấp ủy Đảng,
chính quyền đối với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và
pháp luật về biện pháp bắt người nói riêng phải được thực hiện một cách thường
xuyên, có kiểm tra, đôn đốc, phải có sự tham gia tích cực của các cơ quan, ban
ngành đóng trên địa bàn, đặc biệt là sự tham gia của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên.
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về
biện pháp bắt người trên cơ sở phù hợp với đối tượng tiếp nhận. Trong đó cần đặc
biệt phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên
truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về biện pháp bắt người cho người dân. Cụ
thể, Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Bình, Báo Quảng Bình, đài truyền hình,

77
đài phát thanh các cấp cần xây dựng chương trình, chuyên trang, chuyên mục về
pháp luật trong đó có đề cập đến các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp bắt
người, tình hình áp dụng biện pháp bắt người của cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra,
việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về biện pháp bắt người còn được
thực hiện thông qua các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý; xây dựng các tủ sách
pháp luật tại địa bàn cơ sở để cung cấp những tài liệu phổ biến về pháp luật trong đó
có biện pháp bắt người; thông qua chương trình giáo dục pháp luật tại các cơ sở
giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân… Công an tỉnh đẩy mạnh phối hợp với
các ngành, đoàn thể tổ chức hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật về PCTP, tệ
nạn xã hội. Phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy, Hội Cựu Chiến binh tỉnh, Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh ban hành các Chương trình, Kế hoạch công tác liên quan phong
trào toàn dân PCTP; tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, vận động Nhân dân
tham gia tố giác tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Khoản 3 Điều 4 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia PCTP” [37, tr.8]. Vì vậy, tuyên
truyền để người dân có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
là một giải pháp căn bản. Bởi vì, người dân dù có hiểu biết pháp luật đến đâu đi
chăng nữa nhưng nếu ý thức chấp hành chấp luật không nghiêm chỉnh thì việc thực
hiện hành vi VPPL là điều khó tránh khỏi. Việc tuyên truyền về ý thức chấp hành
pháp luật cho người dân phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có sự hướng
dẫn và đôn đốc, kiểm tra. Sau đó, tuyên truyền về các quy định của pháp luật nói
chung và quy định về các biện pháp bắt người trong TTHS nói riêng, quyền, nghĩa
vụ pháp lý của người dân trong công tác đấu tranh PCTP cũng như khi tham gia vào
quan hệ pháp luật TTHS về biện pháp bắt người.

Tiểu kết Chương 3


Trên cơ sở khái quát một số yêu cầu góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam gồm: yêu cầu nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh PCTP; yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; yêu cầu về nâng cao hiệu quả
hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan có thẩm quyền THTT, luận văn

78
đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.

79
KẾT LUẬN

Trong các lĩnh vực pháp luật, TTHS là lĩnh vực rất nhạy cảm bởi mỗi một
trình tự, thủ tục hay quyết định, hành vi trong TTHS đều có khả năng xâm hại trực
tiếp đến quyền con người. Hiện nay, pháp luật TTHS đã thông qua nhiều hình thức
để bảo đảm quyền con người như: các nguyên tắc, các quy định quyền và nghĩa vụ
cho những người tham gia tố tụng, bảo đảm quyền con người trong quy định về các
biện pháp cưỡng chế, quy định quyền được bồi thường và phục hồi danh dự, quyền
lợi. Hoạt động bắt người phạm tội luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị,
xã hội vì bắt người đúng hay không đúng các quy định của pháp luật có liên quan và
leo trượt của các bánh xe trên ray, trạng thái hàng hóa trên toa xe, vị trí các toa xe
trong thành phần bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm…của công dân,
liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước... Do đó, vấn
đề bắt người quy định trong TTHS luôn và từ vị trí khởi điểm trật bánh trở về ngược
hướng, để góp phần phải bảo vệ vì đối với những vụ tai nạn chưa rõ về nguyên nhân
đoạn đường này thể hiện chất lượng của đường sắt việc xử lý của tài xế, trưởng tàu
sau tai nạn, các dấu vết, vật lạ PCTP nhằm phát huy tác dụng tích những hạn chế.
Thực tiễn có thể thấy trong thời gian qua, việc áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã từng bước đi vào nề nếp và
có những chuyển biến tích cực. Chất lượng áp dụng biện pháp bắt người được quan
tâm thực hiện; những khó khăn, vướng mắc cũng như những tồn tại, hạn chế trong
thực tiễn áp dụng đã dần được khắc phục. Tỷ lệ bắt người sau đó khởi tố hình sự
chiếm tỷ lệ cao (94,17%). Nhìn chung phần lớn các trường hợp bắt người đều có
căn cứ và đảm bảo quy định của pháp luật. Tình trạng bắt oan người vô tội, bắt bừa,
bắt ẩu, bắt người vì động cơ cá nhân hầu như không có. Việc tuân thủ những quy
định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục bắt người cũng đã được các chủ thể
tiến hành quan tâm thực hiện. CQĐT cấp trên đã có sự hướng dẫn, chỉ đạo CQĐT
cấp dưới thực hiện tốt chức năng của mình. Sự giám sát, phê chuẩn hồ sơ bắt người
của CQĐT đã được VKS các cấp được thực hiện thận trọng, qua đó góp phần hạn
chế thấp nhất những trường hợp bắt người không có căn cứ, tình trạng lạm dụng
việc bắt người. Những kết quả áp nêu trên đã góp phần quan trọng trong công tác

80
đấu tranh PCTP, đảm bảo yêu cầu của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động áp dụng biện
pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, luận
văn đã phân tích những tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân của những tồn tại, vướng
mắc đó. Đồng thời, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình thời gian tới. Nội dung nghiên cứu của đề tài là
một vấn đề phức tạp, lý luận về biện pháp bắt người và áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật TTHS là rất nhạy cảm, có nhiều khó khăn, vì vậy trong thời gian tới
cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về BPNC này, không ngừng hoàn thiện lý luận và
thực tiễn bắt người phạm tội và vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn đấu tranh
PCTP tại địa phương tỉnh Quảng Bình.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tác giả đã có nhiều cố
gắng, nỗ lực dưới sự chỉ dẫn tận tình, chu đáo của thầy hướng dẫn khoa học, song
kết quả nghiên cứu không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại. Chúng tôi kính
mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn, quý thầy cô và
những người quan tâm để đề tài luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên) (2016), Bình luận khoa
học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
2. Lê Văn Bình (2010), Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Bộ Công an, Viện nghiên cứu Chiến lược và Khoa học Công an (2002), Dự báo
tình hình tội phạm và đề xuất các giải pháp phòng, chống tội phạm đến 2010 và
2020, Hà Nội.
4. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả, Hà Nội.
6. Lê Cảm (2010), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền (Một số vấn đề cơ bản của Phần chung), Nxb. Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1998), Nghị quyết số 08/1998/NQ-TTg
ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới và ban hành chương trình quốc gia phòng,
chống tội phạm, Hà Nội.
8. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg
ngày 8/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 09 và
chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội
9. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1998), Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm, Hà Nội.
10. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2017), Quyết định số 199/QĐ-TTg
ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực hiện
Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và
chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội.
11. Võ Quốc Công (2005), Vấn đề bắt oan, sai trong hoạt động điều tra vụ án hình
sự và một số giải pháp khắc phục của Cơ quan Cảnh sát điều tra hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
12. Công an tỉnh Quảng Bình (2015, 2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo tổng kết
công tác Công an các năm từ 2015 đến 2019, Quảng Bình.
13. Công an Công an tỉnh Quảng Bình (2015, 2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo
tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra các năm từ 2015
đến năm 2019, Quảng Bình.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận
án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Thu Hoài (2015), Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
20. Học viện Cảnh sát nhân dân (2005), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Học viện Cảnh sát nhân dân (2016), Giáo trình Phương pháp điều tra các loại
tội phạm cụ thể, Hà Nội.
22. Học viện Cảnh sát nhân dân (2016), Giáo trình Tổ chức hoạt động phòng ngừa,
phát hiện, điều tra tội phạm cụ thể thuộc chức năng của lực lượng Cảnh sát
hình sự, Hà Nội.
23. Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(1976), Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 của Hội đồng Chánh phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định việc bắt, giam, khám
người, khám nhà ở, khám đồ vật, Sài Gòn.
24. Nguyễn Thị Huân (2013), Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật -
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), (2016) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
26. Trần Minh Hưởng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội
phạm, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
27. Nguyễn Hồng Ly (2011), Biện pháp ngăn bắt người và thực tiễn áp dụng của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Luận án thạc
sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Lê Thị Thu Nguyệt (2017), Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện KHXH, Hà Nội.
29. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
30. Nguyễn Trọng Phúc (2015), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Trọng Phúc (2015), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988), Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988, Hà Nội.
34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Hà Nội.
36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật Hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.
37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức Quốc
hội năm 2014, Hà Nội.
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ chức
chính quyền địa phương 2015, Hà Nội.
41. Trịnh Văn Thanh (2001), Hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự Việt Nam-Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động của lực lượng
CSND, Sách chuyên khảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
42. Nguyễn Tất Thắng (2018), “Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định trong Bộ luật Tốtụng
hình sự năm 2015", Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân, số 110
tháng 11/2018.
43. Trần Quang Thông, ThS. Trần Thảo (2015), “Vấn đề hoàn thiện biện pháp ngăn
chặn bắt người trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”,Tạp chí Khoa học giáo
dục Cảnh sát nhân dân, số 82/2015.
44. Trần Quang Tiệp (2011), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình
sự, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
46. Trung tâm Đào tạo từ xa - Đại học Huế (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015, 2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo
tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm của Ban Chỉ đạo 138 tỉnh
các năm từ 2015 đến 2019, Quảng Bình.
48. Ngô Văn Vịnh (2017), “Những điểm mới trong bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về biện pháp bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã và
một số vấn đề cần trao đổi”, Tạp chí Nghề luật số 1/2017.
49. Ngô Văn Vịnh (2019), Biện pháp bắt người trong pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Viện Ngôn ngữ học (2010), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
51. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015, 2016, 2017, 2018, 2019), Báo
cáo Tổng kết công tác của ngành Kiểm sát năm các năm từ 2015 đến năm 2019,
Quảng Bình.
52. Võ Khánh Vinh - chủ biên (2007), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
53. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - thông
tin, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Bảng thống kê số liệu điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Tiêu chí Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Tổng
Số vụ mới khởi tố 741 762 775 708 694 3680
Số bị can mới khởi tố 1.205 1.224 1196 1068 1001 5694
Tổng số vụ đã khởi tố 936 947 971 916 877 4647
Tổng số bị can đã khởi tố 1.509 1.153 1504 1387 1278 6831
Số vụ CQĐT đình chỉ 17 16 20 17 21 91
Số bị can CQĐT đình chỉ 20 20 22 20 33 115
Số vụ VKS đã truy tố 668 975 655 618 600 3516
Số bị can VKS đã truy tố 1.202 1.211 1176 1093 1010 5692
Số vụ VKS đình chỉ 4 4 5 3 6 22
Số bị can VKS đình chỉ 8 9 8 5 17 47
Số vụ Tòa án thụ lý mới 669 673 655 618 600 3215
Số bị cáo Tòa án thụ lý mới 1.204 1205 1176 1094 1010 5689
Số vụ Tòa án đã xét xử 651 659 642 596 604 3152
Số bị cáo Tòa án đã xét xử 1.171 1174 1161 1057 1015 5578
Số vụ Tòa án đình chỉ 2 3 2 3 3 13
Số bị cáo Tòa án đã đình chỉ 3 4 4 4 6 21
Nguồn: Báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm của Ban Chỉ đạo 138 tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến 2019)
Bảng 2.2. Bảng thống kê số đối tượng bị bắt trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Trường hợp bắt
Tổng số đối tượng
Bắt người bị giữ
Năm bị áp dụng biện Bắt người phạm Bắt người đang Bắt bị can, bị cáo
trong trường hợp
pháp bắt tội quả tang bị truy nã để tạm giam
khẩn cấp
2015 991 195 439 40 317
2016 1005 196 438 41 330
2017 970 201 440 42 287
2018 993 210 450 32 301
2019 1001 217 468 40 276
Tổng 4960 1019 2235 195 1511

Nguồn: Báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm của Ban Chỉ đạo 138 tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến 2019)
Bảng 2.3. Bảng thống kê tương quan giữa các chủ thể tham gia bắt người phạm tội quả tang
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Chủ thể bắt người phạm tội quả tang

Số đối tượng bị bắt quả Người dân và các lực lượng chức năng
Năm CQĐT
tang khác

Số đối tượng Tỷ lệ (%) Số đối tượng Tỷ lệ (%)

2015 439 120 27.33 319 72.67


2016 438 131 29.91 307 70.09
2017 440 113 25.68 327 74.32
2018 450 124 27.56 326 72.44
2019 468 114 24.36 354 75.64
Tổng 2235 602 26.94 1633 73.06
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến năm 2019
Bảng 2.4. Bảng thống kê tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và chủ thể áp dụng
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
BC, BC phạm tội RNT,
241 251 211 221 200 1124
ĐBNT
Các trường hợp bắt BC, BC
BC, BC phạm tội INT, phạm
để tạm giam (theo loại tội)
tội INT mà BLHS quy định 76 79 76 80 76 387
hình phạt tù trên 2 năm
CQĐT 290 293 258 255 260 1356
Chủ thể áp dụng VKS 7 9 7 8 6 37
Tòa án 20 28 22 38 10 118

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình các năm từ
2015 đến năm 2019)
Bảng 2.5. Bảng thống kê tương quan giữa các chủ thể bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Tổng số đối tượng bị bắt trường hợp Chủ thể áp dụng
Năm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp CQĐT Chủ thể khác

2015 195 192 3

2016 196 192 4


2017 201 193 8
2018 210 207 3
2019 217 214 3
Tổng 1019 998 21

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến năm 2019)
Bảng 2.6. Bảng thống kê tương quan giữa các chủ thể bắt đối tượng bị truy nã
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019

Chủ thể áp dụng


Tổng số đối tượng Chủ thể khác
Năm
bị bắt truy nã CQĐT (quần chúng nhân dân,
các lực lượng khác...)
2015 40 28 12
2016 41 29 12
2017 42 30 12
2018 32 24 8
2019 40 29 11
Tổng 195 140 55

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến năm 2019
Bảng 2.7. Bảng thống kê tình hình áp dụng biện pháp bắt người
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019
Năm Năm Năm Năm Năm
Tổng
Tiêu chí 2015 2016 2017 2018 2019
Số đối tượng bị bắt khẩn cấp 195 196 201 210 217 1019
Bắt người phạm tội quả tang 439 438 440 450 468 2235
Bắt người đang bị truy nã 40 41 42 32 40 195
Tổng số người bị tạm giữ 761 769 763 679 628 3600
Số đã giải quyết 752 760 754 671 622 3559
Khởi tố chuyển tạm giam 558 568 563 477 445 2611
Khởi tố áp dụng BPNC khác 136 140 145 150 141 712
Số truy nã chuyển tạm giam 31 30 32 31 18 142
VKS không phê chuẩn bắt khẩn cấp 1 1 1 1 1 5
VKS phê chuẩn bắt khẩn cấp sau trả tự do không xử lý
hình sự 3 4 9 3 4 23
Bắt quả tang trả tự do chuyển xử lý hành chính 4 4 3 4 3 18
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến năm 2019
Bảng 2.8. Bảng thống kê tình hình áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019

Năm Năm Năm Năm Năm


Tiêu chí Tổng
2015 2016 2017 2018 2019
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam 317 330 287 301 276 1511
Số bị can VKS không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 2 1 1 2 1 7
Số bị can VKS phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 315 329 286 299 275 1504
Số bị can CQĐT đình chỉ do không tội 0 0 0 0 0 0
Số bị can VKS đình chỉ do không tội 0 0 0 0 0 0
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình các năm từ 2015
đến năm 2019
Bảng 2.9. Bảng thống kê chức danh ĐTV Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình
(tính đến tháng 12/2019)

Trình độ Tổng số Cấp tỉnh Cấp huyện


ĐTV Cao cấp 6 5 1
ĐTV Trung cấp 74 25 49
ĐTV Sơ cấp 46 17 29
Tổng cộng 126 47 79

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình năm 2019
Bảng 2.10. Bảng thống kê trình độ nghiệp vụ Công an Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình
(tính đến tháng 12/2019)
Trình độ Tổng số Cấp tỉnh Cấp huyện
Chưa học 00 00 00
BDNV 6 tháng 03 01 02
Sơ cấp 00 00 00
Trung cấp 10 00 80
Cao đẳng 6 04 15
Đại học 372 97 195
Thạc sĩ, Tiến sĩ 25 15 10
Tổng 416 116 300
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Quảng Bình năm 2019

You might also like