eBook - Đôi Nét Về Châm Cứu Lục Khí (Lương Y Đặng Đức Thảo)

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 228

11/14/2015

 
Trích từ trang web:
http://luckhiacupuncture.org/

Lương Y Đặng Đức Thảo


Trưởng Bộ Môn Châm Cứu Lục Khí
DANH MỤC CÁC BÀI GIẢNG BỘ MÔN
CHÂM CỨU LỤC KHÍ
Để hỗ trợ cho việc học tập châm cứu lục khí ngày càng trở nên đơn giản
và thuận tiện, chúng tôi xin hướng dẫn cách tìm kiếm các nội dung học
tập của bộ môn châm cứu lục khí của Thầy Đặng Đức Thảo trên
youtube. Theo đó, bạn có thể tìm thấy ngay vấn đề mình yêu thích, quan
tâm hoặc đang thắc mắc một cách dễ dàng.

Cách tìm video bài giảng về châm cứu lục khí của Thầy Đặng Đức
Thảo trên youtube như sau:
Vào website: youtube.com --> trong ô search gõ:
“bài học châm cứu và mạch lý – bài …”
Danh mục bài giảng: Lý luận cơ bản
- Lý luận căn bản về âm dương, thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái,
ngũ hành: bài 1, bài 2
- Tượng chính xác của thái dương, thái âm, thiếu dương, thiếu âm: bài
3a,3b
- Sự tồn tại của khí thử và chứng minh, lý giải đồ hình lục khí: bài 3c,3d
- Sử dụng bảng tử vi chứng minh, giải thích sự hợp lý của hành thử và
đồ hình của lục khí:
bài 4a,4b,4c,4d
- Sự hình thành hai khí quyết âm và dương minh, sự vận hành 6 khí
trong cơ thể: bài 5
- 12 đường kinh trong cơ thể, sự tương ứng của 6 hành với kinh mạch và
tạng phủ: bài 6
- Sự liên hệ của 6 kinh âm và 6 kinh dương trong cơ thể theo châm cứu
lục khí: bài 7
- Chiều vận hành của khí huyết trong 12 đường kinh theo châm cứu lục
khí: bài 8

1
- Bổ, tả, bình bổ bình tả theo châm cứu lục khí: bài 9
- Tổng quan về toàn bộ huyệt vị châm cứu: bài 10
- Sự hình thành bộ mạch của châm cứu lục khí: bài 11
- Ôn tập sự hình thành bộ mạch lục khí: bài 55 từ 16:00 đến hết
- Ngũ du huyệt, nguyên huyệt, lạc huyệt khích huyệt. Giờ chủ đạo của
12 kinh khí theo châm cứu lục khí: bài 12
- Bát cương, tứ chẩn, bát pháp: bài 13a, 13b.
- Sự vận hành lục khí, kinh mạch theo giờ: bài 16a, bài 16b, bài 16c
- Ôn tập so sánh lý luận ngũ hành và lục khí: bài 35a, bài 35b
- Giảng lại về ngũ hành: bài 47 ở 2/3 đầu video
- Lạc huyệt, khích huyệt trong ngũ hành: bài 62
- Lạc huyệt, khích huyệt trong lục khí: bài 63, bài 64 từ đầu à15:00
- Học thêm về lạc huyệt, khích huyệt: bài 67 từ 45:00-> 56:00
- Học thêm về tam tiêu: Bài 76 phần đầu
- Ôn tập thêm về ngũ hành, lục khí trong dùng huyệt: Bài 84 phần đầu
- Mộ huyệt, bối du huyệt: Bài 88 từ đầu đến 14:00

Danh mục bài giảng: Mạch lý


- Phương pháp xem mạch của châm cứu lục khí, ý nghĩa của từng quẻ
dịch trong mạch lý: bài 13b,13c,13d
- Bát quái và chẩn mạch: bài 16d, 16e
- Chẩn mạch trong châm cứu lục khí: bài 17
- So sánh bộ mạch ngũ hành và bộ mạch lục khí: bài 14
- Kĩ thuật xem mạch và tự mình xem mạch: bài 18c
- Mạch lý theo châm cứu lục khí : bài 20a từ đầu đến phút 10:20
- Mạch phù: bài 20a, bài 20b, bài 20c, bài 20d, bài 20e, bài 21a, bài 21b,
bài 21c, bài 21d, bài 21e

2
- Mạch trầm: bài 23a, bài 23b, bài 23c
- Mạch trì: bài 25a, bài 25b
- Mạch sác: bài 27a, bài 27b
- Mạch tế: bài 28b
- Mạch đại: bài 29b
- Thất quái mạch: bài 31b
- Học sâu thêm về mạch trầm: bài 45, 2/3 đầu bài giảng
- Học sâu thêm về mạch phù: bài 46, 2/3 đầu bài giảng
- Học sâu thêm về mạch lý: bài 48 từ đầu đến 01:10
- Các bộ mạch của người xưa: Bài 77

Danh mục bài giảng: Các bộ huyệt trị liệu


- Bộ Thổ: bài 32a, bài 32b, bài 33a, bài 33b
- Bộ Thổ thủ châm thực hành dán huyệt: bài 34a, bài 34b
- Bộ Thổ túc châm: bài 43
- Bộ Thổ tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 49
- Bộ Thổ Âm châm thực hành dán huyệt: Bài 55 từ đầu đến 16:00, bài
57 từ đầu đến 06:00
- Bộ Thổ trao đổi khí huyết với 2 bộ: bài 56
- Bộ Thổ thủ châm kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: bài 64 từ 15:00à hết
- Bộ Thổ túc châm kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: Bài 65
- Bộ Thổ âm châm, dương châm kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: Bài 66
- Bộ Thổ tổng ôn kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: bài 67 từ đầu ->45:00
- Bộ Thổ và nhị hợp, tam hợp, tứ hành xung, lạc huyệt, khích huyệt,
mạch lý: Bài 68, Bài 69, Bài 70, Bài 71, Bài 72, bài 73 từ đầu đến 26:00
*****
- Bộ Thử thủ châm: bài 36a, bài 36b, bài 37a, bài 37b

3
- Bộ Thử túc châm: bài 44
- Bộ Thử trao đổi khí huyết với 1 bộ: Bài 50
- Bộ Thử trao đổi khí huyết với 2 bộ: bài 57
- Bộ Thử kết hợp huyệt lạc, huyệt khích: Bài 73 từ 26:00 đến hết
- Bộ Thử học sâu thêm: Bài 74, Bài 75
*****
- Bộ Hỏa thủ châm: bài 38, bài 39
- Bộ Hỏa túc châm: bài 46 ở 1/3 cuối video
- Bộ Hỏa tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 52
- Bộ Hỏa trao đổi khí huyết với 2 bộ: bài 59
- Bộ Hỏa ôn tập + huyệt lạc, huyệt khích: Bài 82
- Bộ Hỏa ôn tập: Bài 83, Bài 85
****
- Bộ Thủy thủ châm: bài 40
- Bộ Thủy túc châm: bài 45
- Bộ Thủy tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 51
- Bộ Thủy trao đổi khí huyết với 2 bộ : bài 58
- Bộ Thủy ôn tập + huyệt lạc, huyệt khích: Bài 87
- Bộ Thủy ôn tập: bài 88 từ 14:00 -> hết
- Bộ Thủy ôn tập trao đổi khí huyết 2 bộ: Bài 89 từ đầu đến 18:00
*****
- Bộ Kim thủ châm: bài 41
- Bộ Kim túc châm: bài 48 từ 01:10 đến hết
- Bộ Kim tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 54
- Bộ Kim trao đổi khí huyết với 2 bộ : bài 60
- Bộ Kim ôn tập + huyệt lạc, huyệt khích: Bài 80

4
- Bộ Kim ôn tập: Bài 81

*****
- Bộ Mộc thủ châm: bài 42
- Bộ Mộc túc châm: bài 47 ở 1/3 cuối video
- Bộ Mộc tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 53
- Bộ Mộc trao đổi khí huyết với 2 bộ : bài 61
- Bộ Mộc ôn tập, kết hợp với huyệt lạc, huyệt khích: Bài 76
- Bộ Mộc ôn tập trao đổi khí huyết với 1 bộ: Bài 78
- Bộ Mộc ôn tập trao đổi khí huyết với 2 bộ: Bài 79
*****
- Trao đổi khí huyết trong bộ huyết Thủy, Mộc, Thổ+ lạc khích: Bài 89
từ 18:99 đến hết
- Trao đổi khí huyết trong bộ khí Thử, Kim, Mộc + lạc khích: Bài 90
phần đầu nói về xem mạch
- Trao đổi khí huyết 3 bộ: Thổ, Kim, Thủy + lạc khích: Bài 91
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Thử, Mộc, Hỏa + lạc khích: Bài 92 phần đầu
nói về xem mạch
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Kim, Thủy, Thử + lạc khích: Bài 93 từ 15:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Thủy, Thử, Mộc + lạc khích: Bài 95 từ 35:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Hỏa, Thổ, Kim + lạc khích: Bài 96 từ 35:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Mộc, Thủy, Hỏa + lạc khích: Bài 99 từ 14:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Hỏa, Kim, Mộc + lạc khích: Bài 100 từ 30:00
đến hết

5
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Thổ, Thủy, Hỏa + lạc khích: Bài 101
******
-Điều trị cấp cứu: Bài 100 từ đầu đến 30:00

Danh mục bài giảng Huyệt vị lục khí


- Huyệt lục khí trên kinh túc thái âm tỳ và thủ thái âm phế: bài 15a, 15b
- Huyệt lục khí trên kinh thủ thái dương tiểu trường và túc thái dương
bàng quang: bài 22a, bài 22b, bài 22c, bài 22d, bài 22e
- Huyệt lục khí trên kinh túc dương minh vị và thủ dương minh đại
trường: bài 18a, bài 18b
- Huyệt lục khí trên kinh túc thiếu âm thận và thủ thiếu âm tâm: bài 19a
- Thực hành xác định vị trí các huyệt của kinh: tỳ, phế, vị, đại trường,
thận, tâm trên người: bài 19b, bài 19c, bài 19d
- Huyệt lục khí trên kinh túc quyết âm can và thủ quyết âm tâm bào: Bài
24
- Huyệt lục khí trên kinh thủ thiếu dương tam tiêu kinh và túc thiếu
dương đởm:
bài 26a, bài 26b
- Huyệt lục khí trên 3 kinh âm: bài 28a
- Huyệt lục khí trên 3 kinh dương: bài 29a
- Chu kì vận hành của các huyệt lục khí theo bảng tử vi: bài 30a, 30b
- Ôn tập chu kì vận hành của các huyệt lục khí theo bảng tử vi: bài 31a

6
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ
Châm cứu là một phát kiến vĩ đại của Ðông y.Cơ sở của châm
cứu là Kinh lạc. Có thể mô tả ngắn gọn như sau: Con người sống
được là nhờ có khí huyết, khí huyết di chuyển trong cơ thể nhờ hệ
kinh lạc - đó là một hệ thống gồm các đường kinh chính chạy dọc
theo cơ thể và các đường lạc chạy ngang, nối với nhau thành một
hệ thống đi khắp toàn thân. Trên đường kinh có các lỗ hổng gọi
là huyệt, là nơi khí huyết ra vào. Khi dùng kim châm vào huyệt,
tức là tác động vào khí huyết, sẽ có tác dụng điều chỉnh cơ thể
chống lại bệnh tật. Và khác hẳn các lý thuyết Ðông y khác thường
mơ hồ, những tài liệu châm cứu đã mô tả rất tỉ mỉ đường đi của
kinh lạc, vị trí các huyệt

1.Thuyết phản chiếu


- Vũ trụ, con người, xã hội là một thể thống nhất (vạn vật đồng
nhất thể). Do đó, con người là sự phản chiếu của vũ trụ (nhân
thiên tiểu thiên địa). Trong con người mỗi bộ phận đặc thù đều
phản chiếu cái tổng thể của nó (tứ là cơ thể). Bộ mạch thốn khẩu
là tiêu biểu cho toàn cơ thể, mọi trạng thái thuộc về tâm lý, sinh
lý, bệnh lý của con người, đều được thể hiện trên mạch lý. Hay
nói cách khác hơn, bộ mạch chính là tấm gương phản chiếu,ghi
nhận một cách có hệ thống, chọn lọc những gì thuộc về phạm vi
con người, ở trạng thái tĩnh và động của nó. Thuyết này được áp
dụng vào châm cứu lục khí bằng phương pháp chẩn mạch
của châm cứu lục khí

- Tình trạng của khí huyết, âm dương, hư thực, công năng từng
tạng phủ… được phản chiếu lên bộ mach ở cổ tay. Được gọi là
mạch thốn khẩu, được chi làm 3 bộ thốn, quan, xích kết hợp với
3 mức nông sâu là thượng án, trung án và trọng án.Nhờ bắt mạch
mà người làm châm cứu có thể biết được tình trạng khí huyết
trong cơ thể, biết được sự lưu thông tốt hay là không, khí huyết
dưa thừa hay bị thiết, thừa chỗ nào, và thiếu chỗ nào…

7
2.Thuyết biểu hiện:
được biểu hiện dưới 3 góc độ:

- Không gian: những gì bên trong sẽ hiện ra bên ngoài, những gì


bên dưới sẽ hiện ra ở trên

- Thời gian

+ Những gì sắp sảy ra sẽ được dự báo trước

+ Những gì đã xảy ra đều lưu lại dấu vết

+ Những gì đang xảy ra đều lưu lại biểu hiện

- Biểu hiện bệnh lý: Tình trạng của khí huyết trong kinh lạc, tình
trạng của lục khí trong cơ thể đều được thể hiện trên 6 bộ mạch
bằng 8 quẻ của bát quái. Dựa vào quẻ tượng và các bộ thủy-hỏa,
thổ-thử, kim-mộc mà thầy thuốc tìm ra được bộ huyệt nhằm cân
bằng và ổn định lại lục khí toàn của toàn bộ cơ thể

3.Thuyết cục bộ
-Một cơ quan hay một bộ phận nào trong cơ thể, có sự bất ổn
tiềm tàng, hay đang thời kì diễn tiến, thì bộ mạch tương ứng với
đường kinh hoặc tạng phủ bị bệnh sẽ biến đổi thành (dịch) bộ
mạch bị bệnh. Lúc đó bình mạch sẽ chuyển thành mạch bệnh
-Mỗi huyệt có tác dụng ở xa (tới các cơ quan), nó còn có tác
dụng cục bộ (tại chỗ) và lân cận nữa. Vì thế trong châm cứu lục
khí mới nói: dùng thủ chữa cho túc, dùng túc chữa cho thủ, dùng
âm chữa cho dương, dùng dương chữa cho âm, dùng kim chữa
cho mộc, dùng hỏa chữa cho thủy…

4.Thuyết đồng bộ
-Có sự tương ứng về vị trí, tượng mạch, hình thái mạch và thời
kỳ xuất hiện, giữa các loại dấu hiệu báo bệnh giữa toàn thân và
bộ vị tương ứng. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, bộ vị bị bệnh thì

8
có tượng mạch bình thường nhưng lại thấy có sự bất thường ở
bộ vị khác. Đơn giản là vì 12 kinh mạch và 8 kì kinh bát mạch
có liên quan với nhau để vận chuyển lục khí điều hòa khắp toàn
thân. Việc trở ngại của 1 trong 6 khí sẽ ảnh hưởng qua lại với
nhau, phụ thuộc vào sự thông hay tắc của đường kinh. Chình vì
thế cần phải thực hành nhiều để có kinh nghiệm tìm gốc bệnh

5.Thuyết biến dạng


-Các dấu hiệu báo bệnh ở trên bộ mạch không phải là bất biến,
mà bộ mạch sẽ có sự biến đổi tùy vào thời gian,mức độ (nặng,
nhẹ), tình trạng và diễn tiến bệnh tật của từng cá nhân.

6.Thuyết giao thoa


-Bệnh thuộc phần khí có thể ảnh hưởng qua phần huyết
-Bệnh thuộc phần huyết có thể ảnh hưởng qua phần khí
-Nên khi bệnh nhân bị bệnh, bắt mạch tay trái (thuộc huyết) mà
không có bệnh (bình mạch) thì biết chắc rằng bệnh nằm ở phần
khí, hay là bộ mạch bên tay phải sẽ đi theo dạng mạch bệnh và
ngược lại

9
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, THIÊN ĐỊA
NHÂN
ÂM – DƯƠNG

THIÊN – ĐỊA – NHÂN

Quan niệm chỉnh thế thống nhất là nhận thức của Đông y về mối quan hệ
qua lại của sự vật. Người xưa nhận rằng: trong quá trình tồn tại và phát
triển, trời ( thiên ), đất ( địa ) , và người ( nhân ) không tách rời khỏi nhau.
Quan hệ ấy sách kinh điểm gọi là “ tam tài”. Lý luận đông y xây dựng
trên quan niệm chỉnh thể ấy.

Các tạng phủ trong cơ thể con người có quan hệ chặt chẽ với nhau cũng
là dựa trên nguyên tắc đó. Hệ kinh lạc phân bố trong khắp cơ thể, tuần
hoàn không ngừng, hình thành một hệ thống; đường liên lạc giúp cho chức
năng sinh lý của toàn bộ cơ thể được thăng bằng, hoàn chỉnh từ bên trong
ra ngoài và từ ngoài vào trong. Căn cứ vào chức năng, mỗi tạng và phủ có
quan hệ biểu lý. Ví dụ: tạng tâm có quan hệ biểu lý với phủ tiểu trường,
tạng can có quan hệ biểu lý với phủ đởm…Quan hệ biểu lý giúp cho người
thầy thuốc hiểu rõ rằng: hoạt động sinh lý và biến hóa bệnh lý của tạng và
phủ, trong quan hệ ấy có ảnh hưởng qua lại. Biến hóa bệnh lý của từng
tạng phủ còn biểu hiện ra ở nhiều mặt: bệnh thuộc về nhiệt hay hàn? Bệnh
lâu hay mới phát ( hư hay thực ). Nói chung dựa vào quan niệm chỉnh thể
toàn diện,đông y mỗi khi biện chứng đều phải dựa vào vấn đề: biểu – lý ;
hàn – nhiệt; hư – thực để điều trị cho đứng đắn. Tính chất về bệnh tật của
tạng phủ vừa nói trên đều nằm trong lý luận của học thuyết âm dương vì
Đông y tổng hộp hiện tượng biểu lý nói trên như sau:

Biểu , nhiệt , thực thuộc dương chứng

Lý, hàn, hư thuộc âm chứng.

10
Học thuyết âm dương sẽ giúp cho người thầy thuốc dựa vào tạng phủ có
bệnh, phân biệt âm chứng hay dương chứng để điều trị, vì nguyên tắc chữa
bệnh của đông y là: “điều hòa âm dương”.Nói chung: các hiện tượng thiên
về hàn; về suy nhược, về ức chế thuộc âm chứng; các hiện tượng thiên về
nhiệt,về hưng phấn, kích thích thuộc dương chứng.

Trị liệu bằng châm cứu là vận dụng các tính chất của âm dương. Khi có
bệnh tức là âm dương đã mất cân bằng, mất điều hòa, có sự thiên lệch vậy
người châm phải bắt mạch và sử dụng huyệt lục khí ra làm sao để âm
dương trong cơ thể trở lại thăng bằng điều hòa. Ngoài ra, còn vận dụng cả
tính chất đối lập, nhưng thống nhất của âm dương trong khi chữa bệnh
bằng châm cứu. Ví dụ, dùng huyệt tại tay chữa cho bệnh ở chân, dùng
huyệt của bộ huyết chữa cho bệnh của bộ khí, dùng âm chữa cho dương,
dùng dương chữa cho âm, dùng hữu lực chữa cho vô lực, dùng vô lực
chữa cho hữu lực …

Học thuyết âm dương giúp người thầy thuốc phân tách quy luật mâu
thuẫn, nhưng thống nhất của hoạt động sinh lý và biến đổi bệnh lý của
tạng phủ, cũng giúp người ta biết quan hệ của tạng với phủ trong cơ thể
con người. Nhưng trong nhiều trường hợp, chỉ dùng học thuyết âm dương
thì chưa giải thích được tường tận và đầy đủ các quan hệ mật thiết giữa
hoạt động sinh lý và biến đổi bệnh lý của nội tạng đối với hoàn cảnh thiên
nhiên bên ngoài. Do đó cần phải vận dụng thêm những kiến thức của Kinh
Dịch và Y dịch lục khí để giải thích đầy đủ hơn quan hệ chỉnh thể thống
nhất giữa cơ thể với môi trường bên ngoài.

11
TỨ TƯỢNG & Y HỌC THỂ CHẤT TỨ
TƯỢNG
Y học thể chất tứ tượng chi con người theo 4 loại thể tạng là Thái dương
||, thái âm ::, thiếu dương:| , thiếu âm |: dựa trên sự khác nhau về chức
năng tạng phủ dẫn đến sự khác nhau về hệ thống sinh lí và bệnh lý.Lý
luận này cũng cho rằng tùy vào thể tạng mà có sự khác nhau về ngoại
hình, tâm tính, triệu chứng, đồng thời việc chữa trị và chăm sóc dự phòng
đối với các căn bệnh cũng có những phương pháp khác nhau.

Y học thể chất tứ tượng không chỉ căn cứ trên sự phân biệt nguyên nhân
gây bệnh khác nhau để điều trị bệnh tât, mà còn đưa ra phương pháp tu
dưỡng về thân thể, về mặt tinh thần theo từng loại thể chất.

Y học thể chất tứ tượng là hệ thống chăm sóc sức khỏe phù hợp theo thể
chất. Y học thể chất Tứ tượng đã và đang được pháp triển và áp dụng để
chăm sóc sức khỏe về thể chất và tinh thần cho xã hội con người.

Xét đây là phương pháp hay, đơn giản trong chẩn đoán và hiệu quả trong
việc áp dụng vào việ c chăm sóc sức khỏe cho từng người bệnh. Nên
chúng tôi giới thiệu ra đây để góp thêm vào kho tàng kiến thức cho những
ai đang châm cứu lục khí nhằm hoàn thiện hệ thống kiến thức về chẩn
đoán, điều trị và tư vấn sức khỏe, phòng bệnh và chữa bệnh. Mong các
thầy thuốc có thêm được đầy đủ kiến thức về nhiều mặt để mỗi lần tiếp
xúc với người bệnh chúng ta lại mang được nhiều lợi lạc nhất đến với họ.

Sau đây là tiêu chuẩn để phân biệt 4 thể người

Người Thái dương (tượng ||) Người Thiếu dương :|

Ta thấy khí thái dương và tượng của Khí Thiếu dương là khí dương mới
thái dương thể hiện một tình sinh, còn bé, còn ít và xu hướng là sẽ
trang dương khí trong người lúc nào đi lên, bốc ra ngoài,thể hiện một trình
trạng là dương khí có xu hướng bốc

12
cũng vượng, tràn trề, đầy đủ nên họ lên bất cứ khi nào có điều kiện. Đông
có đặc điểm. y xếp vào dạng vị nhiệt. Người thuộc
thể tạng này có đặc điểm sau:
Ngoại hình: Đầu và gáy lớn, vai và
lưng rộng,ngược lại eo và mông Ngoại hình:
nhỏ.Những người có ngoại hình như
vậy khi đi bộ hoặc đứng rất khó khăn. Có thể hình phần trên ngực rộng,
Trán rộng, ánh mắt dữ tợn ngược lại phía dưới mông hình tam
giác ngược, ánh mắt sắc sảo tinh
nhanh, đầu lồi ra phía sau

Tính cách: Cương trực, rộng lượng và Tính cách:


sáng tạo. Thông minh, tham vọng và
cương trực nên khó hòa hoặt với Hành động nhanh gọn, có tinh thần
những người xung quanh. hy sinh, tinh thần xã hội cao, tính tình
trong sáng, vui tính và hay mắc lỗi do
tính hấp tấp, thích xen vào chuyện
người khác.

Người Thái âm :: Người Thiếu âm |:

Khí thái âm thể hiện âm khí đã đầy Khí thiếu âm thể hiện ấm đang còn
đủ, trầm lắng, hài hòa. Đông y xếp nhỏ, đang phát triển lên. Đông y xếp
vào thể đàm trệ. Người này có đặc vào thể tỳ vị hư hàn. Người này có
điểm sau: đặc điểm sau:

Ngoại hình: Ngoại hình:

Eo và bụng ta, đầu và gáy yếu. Thông Vai hẹp, ngực nhỏ, xương chậu rộng
thường hay bị béo phì. Tai mắt mũi và mông lớn. Đa phần có thân thể gầy
miệng to dầy tạo ấn tượng phúc hâu. yếu. Đuôi mắt trễ, tai mũi miệng mắt
Da sẫm màu và thô. nhỏ và thanh tú, da mềm mại mịn
màng.
Tính cách:

13
Hành động đàng hoàng và rộng rãi, Tính cách:
đáng tin cậy nên thường được cho là
bền bỉ trong mọi việc, bản tính chậm Hiền lành, nội tâm, là người khéo léo
chạp và có phần lười biếng. Đôi khi và cẩn thận, nhiều tài lẻ song khi đưa
tỏ ra trầm lắng, ít nói nên có thể khiến ra quyết định có khuynh hướng do dự
hiểu lần là nham hiểm. không quyết đoán nên thường bị phụ
thuộc.

14
LỤC KHÍ TỒN TẠI Ở ĐÂU
Trong hệ thống lý luận của bộ môn châm cứu lục khí, có một vấn đề làm
nhiều người khó hiệu đó là chính là lục khí. Mời các bạn cùng theo dõi
bài viết ở dưới để hiểu rõ về lục khí trong hệ thống lý luận y dịch lục khí
và châm cứu lục khí:

15
16
17
LÀM RÕ HỌC THUYẾT THỦY HỎA
BẰNG Y DỊCH LỤC KHÍ

1) Về thuỷ hoả:
Theo Dịch thì vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi
sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái âm sinh ngũ hành(chất) &
dương sinh lục khí (khí). Là người thầy thuốc ta cần nhận thức rõ một
điều là mọi thứ trong trời đất dù là vô hình, hữu hình đều do sự vận động
của trời đất mà có, hay nói cách khác là do có sự giao hợp lẫn nhau giữa
khí vô hình (lục khí) và chất đất (ngũ hành) mà tạo nên. Khí vô hình bao
gồm: khí trời là dương, trong khí trời có cả ảnh hưởng của mặt trời. Đất
là âm, trong khí đất có cả hơi nước ở đất. Khí trời, khí đất là khí vô hình
tạo thành lục khí; ánh lửa, hơi nước... là hữu hình tạo nên ngũ hành.
Vì thế khi nói là khí âm dương là đã có sự trung hoà lẫn nhau giữa khí vô
hình( lục khí) và chất – ngũ hành. Khí là dương, chất là âm . Trong chất
là âm có ánh lửa thuộc dương, hơi nước thuộc âm, trong khí dương có khí
trời thuộc dương, khí đất thuộc âm. Đó là trong dương và âm đều có âm
dương. Xét như vậy mới thấy trong lục khí có ngũ hành, trong ngũ hành
có lục khí vì đơn giản là đều do sự vận hành của càn khôn mà tạo ra cả
mà thôi.

Trời đất hoá dục muôn vật đều phải do sự xâm nhập của lục khí và ngũ
hành trong bốn mùa, rồi mới có thể phát triển được công năng: sinh,
trưởng, thu, tàng; để làm chung thuỷ cho muôn vật. Vì vậy trời đất lấy lục
khí và ngũ hành mà hoá sinh muôn vật như là con đường từ vô cực đến
bát quái rồi đến lục thập tứ quái và muôn vật vậy. Tối – Sáng = Thuỷ -
Hoả = Nước – Lửa = Khí - Huyết = Phù – Trầm = Biểu – Lý = Tạng –
Phủ = Kinh Âm – Kinh Dương = Tế - Đại = Trì - Sác = Kim – Mộc =
Thổ - Thử = Hư – Thực….như vậy thông qua cặp phạm trù tượng trưng
Thuỷ - Hoả người thầy thuốc sẽ hiểu được lý lẽ của âm dương và cũng
thông qua lý lẽ đó thì sẽ hiểu được sự tương quan và tác động lẫn nhau

18
giữa các đường kinh âm, dương trong cơ thể, vai trò của các huyệt lục khí
toàn thân cũng như vai trò của huyệt lạc, huyệt khích và huyệt kì kinh bát
mạch trong việc đảm bảo chu kì vận hành của khí huyết trong cơ thể

Ẩn ý của phạm trù Thuỷ – Hoả trong thiên nhiên dưới góc nhìn của y
dịch lục khí

Thuỷ hay thủy khí hay là âm khí là nước, chỗ nhiều nước nhất là biển;
gốc của nước là mặn. Nước còn có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ
khác nhau: nước thể lỏng, hơi, mây, mù, sương, mưa, tuyết, nước trong
đất, nước ở trong động vật và thực vật. Nước ở trong ko gian: sông, ngòi,
suối… vì thế khi nói đến thủy(khảm) là ta không thể không nói tới mộc
khí(tốn) và thổ khí(đoài) tức là 3 hành mộc, thủy, thổ tạo nên tam giác với
đỉnh hướng xuống dưới trong đồ hình của lục khí

Hoả hay hỏa khí là lửa hay là dương khí, chỗ có nhiều lửa nhất là mặt trời.
Lửa có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau: lửa mặt trời, lửa
trong lò, trong lòng đất, trong sấm, chớp… vì thế khi nói đến hỏa(ly) là ta
không thể không nói tới kim khí(cấn) và thử khí(chấn) tức là 3 hành hỏa,
kim, thử tạo nên tam giác với đỉnh hướng lên trên trong đồ hình của lục
khí

2) Sự giao hợp của thuỷ hoả


Mọi sự sống trên trái đất đều do sự giao nhau của thuỷ và hoả. Mặt trời
chiếu xuống, hơi nước bốc lên, thì mới có mây mưa- mới có mọi sinh vật
trên trái đất.

Ta thấy mọi sự sống đều phải nhờ có mặt trời, có nước. Nếu chỉ có mặt
trời mà ko có nước thì tất cả sẽ bị đốt khô hoặc nếu chỉ có nước mà ko có
mặt trời thì tất cả tối tăm lạnh lẽo thì làm gì có sự sống được. Cho nên
mọi sự sống xuất hiện đều do ở sự giao tiếp lẫn nhau giữa thuỷ và hoả.
Thuỷ hoả giao nhau gọi là thuỷ hoả ký tế, ký tế thì sinh ra vật. Ngược lại
thuỷ hoả ko giao tiếp với nhau gọi là thuỷ hoả vị tế, vị tế thì vạn vật tiêu
tan. Trong cơ thể con người cũng vậy, nếu kinh âm không đi lên đều đặn,
kinh dương không đi xuống uyển chuyển và sự đi lên, đi xuống của những
19
kinh âm và dương không hài hòa, cần bằng với nhau thì sẽ làm đảo lộn sự
cân bằng âm dương ở trong cơ thể, hay nói cách khác sẽ làm đảo lộn sự
hài hòa của lục khí trong nội bộ các đường kinh âm hoặc đường kinh
dương đó nói riêng cũng như lục khí trong toàn bộ cơ thể của con người
nói chung. Thì chắc chắn cơ thể người đó sẽ từ thủy hỏa kí tế chuyện sang
hỏa thủy vị tế, hay là từ một cơ thể khỏe mạnh chuyển sang một cơ thể
mang trong mình những rối loạn và mầm mống của bệnh tật hiện tại và
tương lai.

Khí nuôi sống mọi vật gọi là ôn dưỡng, huyết nuôi sống muôn vật gọi là
nhu dưỡng. Ôn là ấm ko phải là nóng, nhu là mát chứ ko phải là ướt…
làm có sự ôn, sự nhu là nhờ có khí huyết giao nhau. Sự sống được bình
thường là do ôn dưỡng và nhu dưỡng luôn luôn ở trong sự cân bằng tương
đối.

3) Thuỷ hoả trong con người:


Trong cơ thể con người, làm nền của ôn dương gọi là khí, làm nề của nhu
dưỡng gọi là huyết. Khí huyết luôn luôn tồn tại và hỗ căn lẫn nhau, hai
mà một, một mà hai. Đó là sự hiện hình của âm dương, cũng là thực thể
của khí huyết giao hợp với nhau trong nhân thể.

Khí huyết tiên thiên là nguồn gốc sinh ra con người. Từ nam giới (dương)
và nữ giới (âm), có giao hợp thì mới sinh được con cái. Âm dương có giao
nhau thì khí huyết mới tụ lại những thứ ấy hợp lại là một thì gọi là giao
khí, giao khí: là thứ khí có từ ban đầu gọi là khí tiên thiên. Từ khí tiên
thiên có bẩm khí hậu thiên mới phát triển thành hình thể và thần khí của
con người. Hình thể là âm từ ngũ hành mà sinh ra, thần khí là dương từ
lục khí sinh ra. Nhưng ngũ hành và lục khí đều có chúng nhau một gốc
nên ngũ hành = lục khí, lục khí = ngũ hành. Tùy thời điểm, tùy duyên,
tùy phương pháp trị liệu mà ta sẽ coi cơ thể con người là ngũ hành hay
lục khí. Ví dụ như khi áp dụng môn châm cứu thì chắc chắn phải coi cơ
thể là lục khí vì như thế mới ứng hợp được với 6 đường kinh trong cơ thể.
Không thể nào coi cơ thể thể là ngũ hành rồi dựa trên đó mà thực hành
châm cứu được.

20
Người ta vì có chân thuỷ, chân hoả hay khí huyết trong bẩm khí tiên thiên
nên trong cơ thể mới luôn luôn có sự ôn dưỡng và nhu dưỡng. Chân thuỷ,
chân hoả là cái gốc bẩm sinh từ tiên thiên và được hoàn thiện đầy đủ nhờ
hậu thiên chúng vận hành trong kinh âm và kinh dương, nên người xưa có
câu nói đầy tính triết lý: “Toàn bộ nhan thể ko ra ngoài hai chữ âm dương
tức là ngũ hành và lục khí từ đó mới có thuỷ với hoả, mà hai chữ thuỷ hoả
tức là khí huyết”

21
PHÂN BIỆT HỌC THUYẾT NGŨ VẬN VÀ
Y DỊCH LỤC KHÍ
Ngũ vận - lục khí trong sách Tố Vấn
 Gọi tắt là học thuyết vận khí

 Giải thích sự biến hóa của khí hậu thời tiết đối với vũ trụ và đối với
con người

 Lấy học thuyết Âm dương ngũ hành làm hạt nhân

 Cơ sở quan điểm chỉnh thể: thiên – địa – nhân

 Ngũ vận = kim mộc thủy hỏa thổ kết hợp với thiên can để biết
được năm nào thuộc về vận nào

 Lục khí tức là sáu khí bao gồm: phong, hàn, thử , thấp, táo, hỏa kết
hợp địa chi để biết được năm nào thuộc khí nào

 Học thuyết ngũ vận lục khí được trình bày trong sách hoàng đế nội
kinh tố vấn là công cụ lý luận đơn giản hóa, thuyết minh mọi phương
diện trong hoàn cảnh tự nhiên và mọi thứ quan hệ trong y học

 Mục đích: nắm vững quy luật biến hóa của thời tiết, khí hậu để biết
nhân tố gây bệnh của ngoại cảnh lục dâm à biết tình hình phát triển
bệnh theo ngày, tháng, năm sau đó. Lấy cơ sở để phòng bệnh và
chữa bệnh

Y dịch lục khí của Việt Nam


 Giải thích sự biến đổi của lục khí trong vũ trụ và con người

 Lấy y dịch lục khí làm cốt lõi

 Y dịch: đạo dịch nằm trong y đạo

22
 Lục khí gồm có thổ khí , kim khí, thủy khí, thử khí, mộc khí, hỏa
khí. Sáu khí này mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều so với lục khí
của học thuyết vận khí trong sách Tố Vấn. Theo y dịch lục khí thì
sáu khí này không còn chỉ là sáu khí tự nhiên trong trời đất nữa. Cần
phân biệt cho rõ đây là hai từ đồng âm mà khác nghĩa. Học và thực
hành châm cứu lục khí thì sẽ nắm rõ và hiểu được ý nghĩa thực sự
của sự khác nhau này

 Cần phân biệt cơ sở quan điểm chỉnh thể:

 Học thuyết vận khí nói về Thiên – Địa – Nhân khi nói điều này thì
đã ngầm mặc định thứ tự trên dưới của con người và trời đất, điều
này có được do sự quan sát và tổng hợp dựa trên tư duy của con
người sau nhiều thế hệ.

 Y dịch lục khí nói là Thiên – Địa – Nhân, khi nói điều này thì ta hiểu
rằng đất vạn vật và con người không 1 cũng không 2 tất cả đều được
tạo thành khi đã hội tụ đủ nhân và duyên. Lý luận này có được do
sự “tu tập” trong một thời gian không hề ngắn và được nhận thức
không phải bằng con mắt bằng da bằng thịt mà bằng con mắt của trí
tuệ

 Y dịch lục khí: công cụ lý luận để tìm căn nguyên bệnh tật, xem lý
ở đâu, vì sao lại có sự bất hòa …tức là tìm đến cái gốc của bệnh tật
để mà chuyển hóa nó.

 Mục đích : lập lại sự hòa thuận, hòa hợp của lục khí trong cơ thể từ
đó bệnh tật tự dưng hết duyên mà hình thành, cơ thể con người tạo
có cơ hội để khỏe mạnh và biết cách duy trì sức khỏe.

23
CHÂM CỨU LỤC KHÍ - CON ĐƯỜNG
TRUNG ĐẠO

Các phương pháp châm cứu ngày nay trên thế giới có rất nhiều loại hình
khác nhau, có loại thì dễ học, dễ tiếp thu nhưng kết quả bình thường không
có gì độc đáo cho lắm, và cũng dùng để chữa những bệnh thông thường
mà thôi. Khi gặp bệnh phức tạp, khó chữa, nhiều bệnh phối hợp với nhau
thì các cách châm thông thường tỏ ra khá “vất vả” khi chọn huyệt, chọn
kĩ thuật bổ hay tả để chữa trị bệnh tật. Bên cạnh những phương pháp châm
theo kiểu “công thức” sẵn có, thì cũng vẫn có những người sử dụng các
phương pháp châm cứu rất độc đáo, chữa được những bệnh khó, phức tạp.
Cách họ chữa bệnh bằng châm cứu thường là sau một thời gian đọc sách,
học tập lâu dài, cộng với một quá trình tiếp thu kinh nghiệm từ những bậc
tiền bối khác. Tuy nhiên có thể nói là những phương pháp đó là nằm xung
quanh việc áp dụng lý luận của ngũ hành vào châm cứu mà thôi. Còn các
bậc tiền bối, châm thật là giỏi, thật là tác dụng thì có thể là do trong các
bậc thầy đó đã có sẵn hành Thử rồi, tức là chính họ không ngờ rằng mình
đang sử dụng châm cứu lục khí rồi chứ không còn sử dụng châm cứu theo
ngũ hành nữa. Ranh giới giữa châm cứu ngũ hành và châm cứu lục khí
quả là mong manh nhưng không dễ để vượt qua nếu như không có đầy đủ
mong muốn vượt qua. Châm cứu lục khí là trung đạo không phải theo hệ
ngũ hành, cũng không phải theo hệ ngũ vận lục khí, đơn giản nó chỉ
là châm cứu lục khí mà thôi. Học vừa khó vừa dễ, vừa đơn giản và uyên
thâm, vừa nhanh lại vừa chậm…đây là cái đạo của châm cứu vậy.

24
25
THẾ NÀO LÀ HUYỆT LỤC KHÍ
Khi học về châm cứu lục khí, tức là chúng ta học về cách sử dụng các
huyệt lục khí theo phương pháp của bộ môn này. Vậy huyệt lục khí là gì?
Thế nào là huyệt lục khí? Nó có chức năng gì? Đây là huyệt mới, hay cũ?
Có phải là kiểu bình cũ rượu mới hay là không?...

Chúng tôi xin lần lượt đưa ra các câu trả lời cho những câu hỏi này. Hệ
thống các huyệt lục khí được khám phá ra từ hệ thống ngũ du huyệt, bằng
cách đưa lý luận Y dịch lục khí vào để nhìn lại về hệ thống ngũ du huyệt.
Cũng giống như trong trường hợp nhà bác học Newton, nếu như mọi
người nhìn hiện tượng quả táo rơi là chuyện bình thường và hiển nhiên thì
với Newton ông đã có những suy nghĩ khác về hiện tượng tưởng chừng
như là hiển nhiên này, chính vì thế mà ngày nay chúng ta có định luật vạn
vật hấp dẫn. Các vị Thầy của bộ môn châm cứu lục khí đã đưa con mắt
Lục khí để nhìn vào hệ thống ngũ du huyệt của người xưa để lại và sau
những năm tháng dày công nghiên cứu, các Thầy đã dần khám phá ra
được thêm những công năng, đặc tính vô cùng tuyệt vời của h ệ thống
huyệt này mà những điều mới khám pháp ra này có lẽ từ trước đến nay
chưa ai hoặc chưa quyển sách nào trên thế giới nói đến. Điều này cũng
thuận theo quy luật của tự nhiên, vì tùy theo con mắt của mỗi người mà
chúng ta nhìn thấy những sự khác nhau ở mỗi sự vật hiện tượng trong tự
nhiên và trong cơ thể con người, nếu giả sử ta có thêm kính lúp, kính hiển
vi quang học thậm chí là kinh hiển vi điện tử thì sẽ có hàng ngàng, hàng
vạn những điều lý thú sẽ được tìm ra thêm, những điều mà trước đây tưởng
chừng như là vô cùng vô lý, không thể nào có…

Với thầy chữa sử dụng con mắt ngũ hành nhìn vào các huyệt ngũ du thì
họ sẽ chỉ bảo chúng phải “nghe” theo sự dẫn đường của học thuyết ngũ
hành, ngũ vận lục khí. Nhưng các vị người thầy châm cứu lục khí đã tìm
ra một điều thsu vị nữa là các huyệt lục khí này còn “nghe” theo sự chỉ
đạo của một hệ thống lý luận khác nữa đó là Y dịch lục khí. Sự “vâng
lời” của các huyệt ngũ du theo cả hệ ngũ hành và h ệ lục khí là chuyện
rất tự nhiên và đúng đắn. Ví dụ như banjcos một chiếc tivi, bạn có thể

26
dùng điều khiên chính hãng để chọn kênh tivi mà mình yêu thích, những
nếu bạn dùng một cái điều khiển đa năng, hay thậm chí mà một chiếc
smartphone với những phần mềm viết sẵn thì bạn cũng có thể làm được
điều mình muốn mà không cần chiếc điều khiển chính hãng kia.

Hệ thống ngũ du huyệt có đầy đủ công năng để điều chỉnh được sự mất
cân bằng về khí huyết trong các đường kinh chính, kinh lạc và kì kinh bát
mạch, từ đó giúp đầy lùi bệnh tật, lập lại cân bằng giữa cơ thể và môi
người. Vậy thì bây giờ coi như chúng ta đã có sẵn chương trình tivi ở
trong dây cáp truyền hình và công việc chúng ta là chọn chiếc điều khiển
nào để chọn được kênh mà mình mong muốn xem mà thôi. Chắc chắn là
bạn muốn chọn kênh truyền hình về sức khỏe rồi ^^

Nếu ta dùng hệ thống lý luận cũ, tức là ngũ hành và ngũ vận lục khí để
điều khiển hệ thống huyệt ngũ du thì chúng ta sẽ sử dụng 5 hành với sự
cố định và giống nhau về hành trong 6 kinh âm và trong 6 kinh dương.
Huyệt nguyên, huyệt lạc và huyệt khích sẽ ít được nhắc đến trong các toa
châm khi mà chúng ta sử dụng lý luận ngũ hành để mà điều khiển hệ thống
ngũ du huyệt, tất nhiên là khó mà có thể tiên lượng được mạch sẽ chuyển
thế nào sau khi sử dụng huyệt, khí huyết đã và đang được điều chỉnh ra
sao vì đươn giản là có quá nhiều bộ mạch và các câu hỏi khó có lời giải
làm cho ta phải bối rối.

Còn dùng hệ thống y dịch lục khí , với việc xuất hiện thêm hành Thử, thật
sự là một bước “cải tiến vượt bậc” cho chiếc điều khiển tivi của chúng ta,
đây được gọi là bước “đột phá” về công nghệ điều khiển. Các huyệt sẽ
nghe lời chúng ta răm rắp, có độ chính xác và ổ định cao.Ví dụ khi ta
muốn làm giảm hỏa khí của toàn thân thì sau khí áp dụng một bộ huyệt
(vd: bộ hỏa thủ châm) thì sau khi kích thích đủ các huyệt trong bộ huyệt
này thì các bạn sẽ thấy bộ thốn bên tay phải của ta sẽ chuyển sang dạng
đẹp hơn nhiều so với trước.
Vậy tóm lại huyệt lục khí là gì?
-Nằm trên 12 kinh chính

27
-Chúng được tìm ra bằng việc sử dụng cái nhìn Lục Khí trên hệ thống
ngũ hành cổ huyệt
- Sử dụng 6 hành: Kim, Thủy, Thử, Mộc, Hỏa, Thổ cho hệ thống huyệt
- Chức năng trao đổi khí giữa các kinh, mạch với nhau giúp thông huyệt,
thông kinh, thông khí, thông huyết …
- Có công năng điều hòa, lập lại cân bằng của 6 khí trong cơ thể
- Trên kinh âm sử dụng 5 huyệt: tĩnh, vinh, du, kinh, hợp tương ứng với 5
hành
- Trên kinh dương sử dụng 6 huyệt: tĩnh, vinh, du, nguyên, kinh , hợp
tương ứng với 6 hành
- Các hành của huyệt đã được chuyển biến, thay đổi trở nên vô cùng logic
và tuần hoàn
- Dùng theo bộ, dùng nhiều huyệt cùng lúc trong một liệu trình điều trị
thì hiệu quả điều trị tăng lên cao.

28
BỨC TRANH TỔNG HỢP VỀ HUYỆT VỊ CHÂM CỨU

Các huyệt sử dụng trong châm cứu được phân thành 5 nhóm:
 Huyệt ngũ hành
 Huyệt đặc trị
 Huyệt biệt trị
 Kì kinh, bát mạch
 Tân huyệt

I- Huyệt ngũ hành

Nhóm 1: Tĩnh – Vinh – Du – Kinh – Hợp


 Huyệt Tỉnh: Là nơi kinh khí bắt đầu xuất phát của mỗi đường kinh
‘Sở xuất vi Tỉnh’
 Huyệt Vinh: Là nơi kinh khí chuyển qua ‘Sở lưu vi Vinh’
 Huyệt Du, đồng thời là huyệt Nguyên của các kinh Âm: Là nơi
kinh khí rót vào ‘Sở chú vi Du’
 Huyệt Kinh: Là nơi kinh khí đi qua để vào bên trong ‘Sở hành vi
Kinh’
 Huyệt Hợp: Là nơi kinh khí từ ngoài nhập vào bên trong Tạng Phủ
‘Sở nhập vi Hợp’

Nhóm 2: Nguyên huyệt – Lạc huyệt – khích huyệt – mộ huyệt – bối du


huyệt
 Mộ huyệt: vị trí trên bụng ngực: có tác dụng báo nguy về bệnh ở
nội tạng bên trong đau ở mộ huyệt thì bệnh nặng hơn đau ở bối du
huyệt
 Bối du huyệt: vị trí trên lưng : có tác dụng báo nguy về nội tạng
bên trong
 Nguyên huyệt và lạc huyệt:
 Theo các lài liệu thì tác dụng của huyệt nguyên và huyệt lạc
là cầu nối để trao đổi khí huyết giữa 2 kinh có quan hệ biểu
lý. Nguyên huyệt kinh này nối với lạc huyệt của kinh mà có
quan hệ biểu lý với nó: nguyên huyệt kinh âm liên lạc với lạc
huyệt kinh dương , nguyên huyệt kinh dương liên lạc với lạc
huyệt kinh âm

29
 Người xưa nói: trong kinh âm và kinh dương có đầy đủ 5
hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ nếu có đầy đủ thì không bệnh,
nếu dư thì sẽ đưa về nguyên huyệt và giữ ở đó. Vì thế nguyên
huyệt là kho chứa của những dưa thừa ngũ khí tại những kinh
đó
 Nếu nguyên huyệt nhiều quá dư quá tràn da ngoài thì làm sao
để giải quyếtà sẽ dùng lạc huyệt của kinh có quan hệ biểu lý
với nó nên sẽ châm cùng lúc 2 huyệt nguyên và lạc
 Khích huyệt: các sách xưa chỉ nói đến là khích huyệt chỉ châm sâu
mà thôi. Rất ít toa châm sử dụng đến khích huyệt
II - Huyệt đặc trị:
có sáu huyệt, người xưa đã để lại bài thơ về các huyệt đặc trị này
như sau
Phúc trung tam lý lưu
Yêu bối ủy trung cầu
Đầu họng tầm liệt khuyết
Diện khẩu hợp cốc thâu
Tâm hung thủ nội quan
Tiểu phúc tam âm mưu
Tác dụng của 6 huyệt này là để gây tê để mổ. Tác dụng các huyệt này
trên mổ xẻ mà ra.
III - Huyệt biệt trị:
 Túc châm: châm trên bàn chân, từ lằn chỉ cổ tay
 Thủ châm: châm trên bàn tay, từ lằn chỉ cổ tay
 Diện châm: châm trên mặt
 Nhĩ châm: trên tai
Căn cứ vào đâu mà có những pháp châm này:
 Do hình tượng tưởng tượng ra: nguyên tắc đồng ứng
 Do sự phản chiếu của vùng bị đau bên trong hiện ra bên ngoài mà
tạo thành các thiên ứng huyệt, sinh huyệt, huyệt báo nguy, a thị
huyệt
IV - Kỳ kinh bát mạch:
Kỳ kinh gồm đa số những kinh không có đường đi riêng biệt, nó mượn
một số huyệt tại một số chính kinh để đi qua
Bát mạch là 8 mạch phân theo âm dương mỗi phần gồm 4 mạch

30
4 mạch âm 4 mạch dương
 Mạch nhâm  Mạch đốc
 Âm duy  Dương duy
 Xung  Đới
 Âm kiểu  Dương kiểu

 4 mạch âm: đi qua nhiều huyệt tại các kinh âm hơn


 4 mạch dương: đi qua nhiều huyệt tại các kinh dương hơn
 2 mạch nhâm, đốc là đi thẳng giữa 2 mặt trước, sau của cơ thể,
chúng có những huyệt chuyên thuộc của nó
 Sáu kinh còn lại đều phụ theo ở 12 kinh mạch kia, không có
chuyên huyệt của từng kinh
Các huyệt giao của bát mạch với 12 đương kinh chính gọi là giao hội
huyệt
Các giao hội huyệt chính gồm có 8 huyệt :
Huyệt Kinh Mạch Giao Hội
Chiếu Hải (KID) Mạch Âm Kiều
Công Tôn (SP) Mạch Xung
Hậu Khê (SI) Mạch Đốc
Liệt Khuyết (LU) Mạch Nhâm
Ngoại Quan (SJ) Mạch Dương Duy
Nội Quan (P) Mạch Âm Duy
Thân Mạch (BL) Mạch Dương Kiều
Túc Lâm Khấp (GB) Mạch Đới

V - Tân huyệt:
Bao gồm 6 huyệt
 Kim huyệt
 Thủy huyệt
 Thử huyệt
 Mộc huyệt
 Hỏa huyệt
 Thổ huyệt
Những huyệt này sử dụng cho thể châm của bộ môn châm cứu lục khí

31
TẠI SAO CẦN ĐƯA QUẺ DỊCH VÀO
MẠCH LÝ

32
33
34
35
36
37
38
ĐỐI XỨNG TRONG CHÂM CỨU LỤC
KHÍ

Đối xứng mang hai nghĩa cơ bản. Trước hết, đó là cảm giác thẩm mĩ
chung về sự hài hòa và cân đối, qua đó toát lên vẻ đẹp hay sự hoàn hảo.
Nghĩa thứ hai đề cập đến khái niệm về khuôn mẫu tương tự được định
nghĩa và có thể chính minh qua các quy luật của hệ thống hình thức:
bằng hình học, qua vật lý hoặc các cách khác. Đây là định nghĩa về đặc
điểm của đối xứng.

Vì sao châm cứu lục khí lại đẹp và có nhiều tính chất đặc biệt trong chẩn
đoán và điều trị như vậy? vì toàn bộ lý luận, phương pháp tư duy, đồ hình,
phương pháp châm, cách phối hợp huyệt... trong bộ môn châm cứu lục
khí đều toát lên vẻ đẹp của tính logic và tính đối xứng, tất nhiên là còn
nhiều điều nữa làm cho bộ môn này đẹp và hấp dẫn, chúng ta cùng tìm
hiểu với các bài viết sau.

39
40
41
KINH DỊCH VÀ LÝ THUYẾT THỐNG
NHẤT
Châm cứu lục khí lấy pháp Hòa để đại diện cho bát pháp. Theo Dịch, vạn
vật biến đổi không ngừng, lúc thịnh lúc suy, lúc thăng lúc giáng, lúc trắng
lúc đen... con người là tiểu vũ trụ, nên khí huyết, âm dương, công năng
tạng phủ, đồ ăn thức uống, tinh thần và thể xác cũng theo quy luật của
Dịch là luôn luôn biến đổi mà thôi. Muốn tồn tại tốt thì phải Hòa vì, Tâm
bình --> Trí sáng, Trí sáng --> Tâm bình. Bình tức là Hòa. Có Hòa thì mới
có sức khỏe, mới thấng sảng khoái trong tâm hồn và thể xác.

Chữa bệnh theo Dịch là cho các "cặp phạm trù" đối lập trong cơ thể được
Hòa. Tóm lại là Kim và Mộc, Thổ và Thử, Thủy và Hỏa phải Hòa được với
nhau, phải "cùng nhau" giữ vững thế cân bằng động để có sức khỏe.

Chúng tôi thấy bài viết về Dịch này quả là rất hay và có ý nghĩa trong việc
tư duy khám chữa bệnh, chắc là sẽ giúp ích được cho người học CCLK,
nên có giới thiệu ở dưới để mọi người nắm được một chút cái tư tưởng
của Dịch, từ đấy lấy làm cơ sở để tư duy, suy luận tìm được gốc bệnh.

Kinh Dịch và lý thuyết”Thống nhất vĩ đại”

Có thơ rằng:
“Vạch liền, vạch đứt xoay vần
Thì ra Trời, Đất… có ngần ấy thôi“. …
Hai câu lục bát trên là nói về Kinh Dịch, một bộ sách tối cổ của người
phương Đông. Sau đây xin được phép (lạm) bàn (một tí ti) về bộ sách ấy.
Kinh Dịch, hẹp thì bàn chuyện thăng, trầm của một kiếp người, cũng như
kiếp cỏ cây, đồ vật, muông thú… Rộng ra tí nữa thì bàn chuyện thịnh, suy
của một nhà, cũng như một dòng họ, một chòm xóm, một làng… Lại rộng
thêm nữa thì bàn chuyện hưng, vong của một quốc gia. Cứ thế mà mở

42
rộng thêm, nghĩa là có thể bàn đến việc trị, loạn của cả thiên hạ… Nếu
cần thì (Dịch) chỉ ra một khoảnh khắc, một kiếp, một thời… Nếu cần nữa
thì sẵn sàng chỉ ra cả trăm năm, nghìn năm, vạn năm… Lớn hay nhỏ, rộng
hay hẹp, dài hay ngắn… không điều gì nằm ngoài những quy luật đã vạch
ra trong bộ Kinh ấy.
Có thể mượn ngôn ngữ toán học để (tạm) hình dung cái “lý“ ấy. Ví dụ đời
người tất có lúc thăng, lúc trầm. Một “nhà“ gồm có nhiều người, tức là
cũng gồm cả những thăng, trầm ấy. Thăng, trầm của mỗi kiếp người có
thể khác nhau. Nhưng gộp những thăng, trầm ấy lại, thể nào cũng có lúc
cái này hoặc cái kia chiếm phần đa số, thể nào cũng có một “bội số
chung“. Thế thì cái bội số chung kia của những thăng, trầm, sẽ chính là
thịnh, suy của “nhà“ ấy vậy. Cũng y như thế đối với một quốc gia. Một
quốc gia gồm nhiều “nhà“, tức là cũng gồm cả những thịnh, suy ấy. Thế
thì bội số chung của những thịnh, suy kia sẽ chính là hưng, vong của một
quốc gia vậy. Cũng y như thế đối với cả thiên hạ. Cả thiên hạ gồm nhiều
quốc gia, tức là cũng gồm cả những hưng, vong ấy. Thế thì bội số chung
của những hưng, vong kia sẽ chính là trị, loạn của cả thiên hạ vậy.
Lại có thể thay những “thăng, trầm“; “thịnh, suy“; “hưng, vong“; “trị,
loạn“ trên bằng “hay, dở“; “mạnh, yếu“; “yên, nguy“; “thiện, ác“… kiểu
gì cũng… đều như thế cả.
Để chỉ ra những điều vừa “ghê gớm“, vừa “giản dị“ ấy, Kinh Dịch sau khi
đã “vạch“ xong cả trời đất, vũ trụ, nhân tình thế thái… chỉ bằng đúng hai
thứ chữ cái không thể nào tối giản hơn (một vạch liền và một vạch đứt –
chính là ngôn ngữ nhị phân của máy tính hiện nay), thì bắt đầu căn cứ vào
cái nhìn thấy để suy ra cái không nhìn thấy và ngược lại. Tương ứng với
thời nào, khắc có “tượng“ (cái nhìn thấy) của thời ấy, cũng đương nhiên
có “lý“ (cái không nhìn thấy) kèm theo. “Tượng“ là “lý“, mà “lý“ cũng là
“tượng“. Xem “tượng“ để biết “lý“ và ngược lại, xem “lý“ để biết
“tượng“. Không thể nào khác được.
Ví dụ quẻ “Tỉnh“. “Tỉnh“ nghĩa là giếng. Quẻ “Tỉnh“ (tượng) là cái giếng
nước. Thế là cứ xem cái giếng nó thế nào, thì “lý“ của thời “Tỉnh“ nó cũng
như thế ấy. Thời “Tỉnh“ bất biến và dửng dưng với mọi bể dâu (giếng
mà). “Tỉnh“ không mất gì, cũng không được gì, kẻ đến không mừng, kẻ

43
đi chẳng tiếc. Đã là “giếng“ thì múc lên không cạn bớt, rót xuống chẳng
đầy thêm… “Tỉnh“ (giếng) là một thứ vĩnh hằng. Làng có cái giếng dùng
để lấy nước ăn, vừa ngọt vừa mát, quý lắm đấy. Nhưng đó là thứ tài sản
duy nhất không thể mang đi được dù chỉ một bước chân. Làng có thể di
dời (ngày xưa con người hay du canh lắm), nhưng giếng thì ở lại. Đó là
cái “lý“ của tuyền quẻ (soán từ). Còn ruột quẻ (hào từ), thì từ đáy giếng
lên tới miệng giếng, bắt đầu chỉ thấy bùn, dần dần lên tới miệng giếng là
có thể thấy được gió thổi, nghe được chim hót, ngắm được trời xanh bao
la… Ai đã từng lặn mò dưới đáy giếng, người đó mới cảm nhận hết sự
sung sướng, nhẹ nhõm và trong lành tuyệt đỉnh lúc leo lên tới miệng. Kẻ
lúc nào cũng ở trên miệng giếng, tất nhiên chỉ toàn thấy tầm thường,
không bao giờ có được những cảm giác đó. Đáy giếng tối tăm vừa rập
rình khí độc, vừa ngập ngụa hơi bùn, thậm chí còn làm con người ta chết
ngạt. Nhưng nước đã múc lên đến miệng giếng rồi, thì cứ yên tâm mà
uống, bởi bao giờ cũng chỉ ngọt mát mà thôi, khí độc kia đã lập tức không
còn lại tí dấu vết nào. Hào “thượng lục“ của quẻ “Tỉnh“, chính là chỉ cái
thời khắc tuyệt vời nơi miệng giếng ấy, nơi chỉ cách cái chốn độc địa, chết
người kia có vài sải tay. Đó là một hào “thượng“ thuộc vào loại tốt nhất
trong số những hào “thượng“ của tuyền bộ Dịch.
Cuộc đời không thiếu gì những “miệng giếng“ như thế. Nhưng chỉ có
những ai vừa từ dưới “đáy giếng“ chui lên, mới có thể giác ngộ được cái
thời khắc tuyệt đỉnh ấy nơi “miệng giếng“ mà thôi. Và ý tưởng của một
cuộc cải cách, muốn có sự thay đổi, ý tưởng làm cách mạng… cũng chính
từ cái thời khắc có một không hai ấy mà sinh ra. Nên ngay sau quẻ “Tỉnh“,
tiếp liền đến quẻ “Cách“ (“cách“ = cải cách, cách mạng…). Vừa ra khỏi
thời “Tỉnh“, liền bước ngay vào thời “Cách“, không thể nào khác được.
Ghê thật, Dịch quả nhiên đã thấy trước, tính trước và nhìn thấu cả thế thái
nhân tình
Khoa học (của người phương Tây) từng phát minh ra bao lý thuyết, cứ lý
thuyết sau lại trùm lên, thông thái hơn lý thuyết trước. Lý thuyết sau càng
ngày càng tiến tới tổng quát, tiến tới gần chân lý hơn. Nhưng có một lý
thuyết (cuối cùng, rốt ráo) mà các nhà khoa học đã gọi tên, đã cảm thấy
sự tồn tại của nó, gọi nó là: “lý thuyết thống nhất vĩ đại“. Lý thuyết ấy cho

44
đến nay vẫn chưa được tìm ra. Đó là một lý thuyết trùm lên mọi lý thuyết,
một lý thuyết trùm hết các thiên hà, một lý thuyết dài suốt cả tuổi thọ của
vũ trụ kể từ lúc mới sinh ra cho đến tận vô cùng…
Không những đã đặt tên, đã cảm thấy sự tồn tại của nó. Các nhà khoa học
còn cam đoan rằng lý thuyết vĩ đại ấy, một khi được tìm ra, thì nó lại…
cực kì đơn giản.
Oái oăm thay, chính sự “cực kì đơn giản“ kia, lại là cái khó tìm ra nhất
của tri thức nhân loại.
Cái “cực kì đơn giản“ ấy nằm ở đâu? (Nói không ngoa), nằm trong chính
Kinh Dịch. Ai giải mã được Kinh Dịch, người đó sẽ nắm được “lý thuyết
thống nhất vĩ đại“.
Ở Mỹ, đã từng có thời kì Kinh Dịch là sách gối đầu giường của cả một
thế hệ thanh niên ưa khám phá. Số lượng sách Kinh Dịch xuất bản nếu
đem so sánh trên thế giới lúc bấy giờ, thì chỉ thua có… Mao tuyển mà
thôi.
Nhưng đã năm nghìn năm kể từ lúc Kinh Dịch ra đời, vẫn chưa ai dám
nói là có thể hiểu được nó. Mặc dù trong sử sách, những người từng ứng
dụng được (một phần) bộ Kinh ấy, đều trở thành những bậc “kì nhân“ mà
từ cuộc đời đến sự nghiệp… đều đã biến thành huyền thoại…
Nhưng Kinh Dịch dù đã có từ cách đây năm nghìn năm, thì cũng do con
người tìm ra trong cái “tiểu vũ trụ“ là chính mình, chứ không phải từ trên
trời rơi xuống. Cũng tức là con người từng “nắm“ vững nó, “thuộc“ nó
như trong lòng bàn tay. Thế mà ngày nay, nhân loại văn minh và hiện đại,
hậu hậu hiện đại… này lại không thể nào “giải mã“ được? Nghĩa là cái
điều “cực kì đơn giản“ mà vĩ đại vào bậc nhất kia cho đến nay, có thể coi
là đã bị “thất truyền“!
Tại sao lại đến nỗi thất truyền?
Thất truyền vì Kinh Dịch ngày trước là một trong “Ngũ kinh“, một trong
những “giáo khoa“ bắt buộc các học trò phải học nếu muốn theo đòi khoa
cử. Còn ngày nay, nó chỉ là một thứ sách… đọc chơi? Thậm chí có lúc,
nó còn bị coi là một trong những “tàn dư“ của chế độ phong kiến (thối
nát), (cùng với “Tứ thư“, “Ngũ kinh“. .. cùng với những đình chùa, miếu

45
mạo…) cần phải bị loại trừ(?). Ôi! Dịch dù vô cùng bí hiểm, thì trước tiên
(cũng như cả những bộ “Tứ thư, Ngũ kinh“ kia), nó cũng chỉ là một bộ
sách… dạy làm người đó mà thôi. Và… số phận của những sách dạy làm
người ấy, thì ra cũng phải thăng, trầm như chính kiếp người xưa nay vậy.
Thất truyền vì con người càng ngày càng dương dương tự đắc, cho rằng
mình là đỉnh cao trí tuệ của muôn loài. Có biết đâu rằng kiến thức càng
cao thì ôi thôi! Cái sự “chấp“ (mê lú, ngoan cố, bảo thủ…) lại càng nặng.
Rốt cuộc càng gặm nhấm dần cái cơ hội giác ngộ ra chân lý vốn chỉ còn
bằng “nửa đường tơ“, không biết sẽ đứt phựt lúc nào. Và cái tri thức mà
Dịch nhắm tới ví như con trâu, thì tri thức của nhân loại gộp lại may lắm
cũng chỉ bằng… con ve bám dưới háng con trâu ấy mà thôi.
Thất truyền vì nhân loại bao đời mải miết “bận“ vào vô số chuyện khác?
Tuy cũng có tình yêu, thi ca, văn tự… đấy, nhưng lại có chia rẽ, bất công,
rồi chiến tranh, khủng bố… chung quy vẫn chỉ là cái sự tranh giành. Mấy
nghìn năm rồi, nhân loại chưa ra khỏi Tranh Giành?
Sự tranh giành làm cho nhân loại luôn luôn tiến lên phía trước, càng tranh
giành, tốc độ tiến càng nhanh? Có như thế thật đấy. Nhưng con người tìm
ra lửa, thì đồng thời chế ra mũi tên. Phát minh ra máy hơi nước, thì trước
đó đã chế ra đại bác… Trí tuệ loài người cho đến nay vẫn chưa tìm thấy
trong vũ trụ có người anh em song sinh với mình. Nhưng bom nguyên tử
thì đã nổ sẵn trên Quả Đất này từ cách đây già nửa thế kỉ rồi…
Tranh giành, dù lớn hay nhỏ, từ lâu đã được “định nghĩa“, đã được “đong“
bằng chính máu xương nhân loại. Bao kiếp người đã trở nên vô nghĩa,
hạnh phúc từ bao giờ đã trở thành một khái niệm mong manh… chung qui
cũng bởi những tranh giành.
Vậy tranh giành nằm ở đâu trong Dịch? Nằm ở quẻ “Tụng“ (tranh tụng).
Mấy nghìn năm, nhân loại chưa ra khỏi tranh giành, cũng tức là chưa ra
khỏi quẻ “Tụng“! Quẻ “Tụng“ ấy nằm ngay sau quẻ “Nhu“ (đạo ăn
uống…). Có “ăn uống“, tất có “tranh giành“. Vì ăn uống, vì quyền, vì
danh, vì lợi lộc, vì những cái “tôi“ nhỏ bé, vì những điều tự lừa mình và
bịp người khác… nên mới sinh ra tranh giành, kiện tụng. Cái “lý“ ấy,
muôn đời nay… vẫn thế.

46
Cái gọi là những “quẻ“ trong bộ Dịch kia, chính là những trạng thái, là
“thời“.Kinh Dịch gồm sáu mươi tư quẻ. Một “quẻ“ (một trạng thái, một
thời) bất kì, lại bao gồm nhiều lần sáu mươi tư “quẻ“ (sáu mươi tư thời)
ấy, dẫu chia nhỏ “thời“ ra bao nhiêu, thì cũng phải lần lượt trải qua như
vậy. Đây là một trong những tuyệt tác về tính tổng quát của triết học
phương Đông, cũng như ngũ hành, can chi. Cái “bội số chung“ có kết quả
là “Tụng“ ấy, không ngờ lại kéo dài đến thế. Mấy nghìn năm, nhân loại
đã đi qua bao nhiêu thời “Cách“, đã trải qua bao nhiêu cuộc cách mạng
lớn nhỏ… Nhưng chung quy vẫn chưa ra khỏi cái thời “Tụng“ lớn và vĩ
đại này. Cũng giống như đã trải qua tháng “Tuất“, với lại bao nhiêu ngày
“Tuất“, giờ “Tuất“ rồi? Mà chắc gì đã ra khỏi năm “Tuất“… Có điều bất
cứ “năm“ gì ở trong Trái Đất, thì cũng chỉ dài ba trăm sáu mươi lăm ngày
thôi. Nhưng cái “năm“ “Tụng“ kia ở trong Dịch, thì dài đến bao giờ?, để
đến nỗi phải gọi là “đêm trường…“?
Quy luật ấy thật “đơn giản“, và cũng thật khó biết đến chừng nào.
Mới hay Thánh nhân ngày xưa khi vạch đến quẻ “Tụng“, chắc cũng biết
trước rằng vào cái “thời“ “Tụng“ này, phận người sẽ nhẹ như lông tơ, máu
xương sẽ vun thành nhiều núi, và độ dài, sẽ phải tính bằng nghìn năm…
Bài thơ trên còn hai câu “kết“ như thế này:
“Biết rằng chẳng tránh khỏi ‘thời’
Nhưng vào thời ‘Tụng’, biết đời nào ra?“.
(nguồn:phamluuvu.wordpress.com)

47
NHÌN LẠI TÁC DỤNG CỦA LỤC TỔNG
HUYỆT

48
GIỜ VẬN HÀNH CỦA 12 CHÍNH KINH

49
50
SỬ DỤNG HUYỆT KÌ KINH
Từ trước đến nay đã có rất nhiều các tài liệu nói về cách sử dụng kết hợp
các huyệt của kì kinh bát mạch với các huyệt trên chính kinh để tăng
cường khả năng kết nối, điều hòa khí huyết, âm dương trong cơ thể nhằm
mục đích nâng cao khả năng điều trị của châm cứu. Có hai trường phái
chính trong việc sử dụng huyệt kì kinh, một là rất coi trọng huyệt của kì
kinh bát mạch, hai là thỉnh thoảng có sử dụng, không coi huyệt kì kinh là
chính yếu.

Châm cứu lục khí lấy việc điều chỉnh mạch lý làm trọng, sử dụng bát hội
huyệt của kì kinh bát mạch vào để tăng cường khả năng điều chỉnh bộ
mạch. mời các bạn cùng xem cách mà châm cứu lục khí sử dụng những
huyệt này

51
52
53
54
HUYỆT LỤC KHÍ SẮP XẾP THEO
LỤC THẬP HOA GIÁP

Sắp xếp 66 huyệt lục khí vào lục thập hoa giáp theo bảng tử vi
thập thiên can: giáp, ất, bình, đinh, mậu, kỉ, canh, tân, nhâm lý tại
sao gọi là thập thiên can: theo tiên thiên bát quái, sẽ có 10 số theo
bài thơ tiên thiên:

Thiên nhất sanh thủy, địa lục thành chi


Địa nhị sanh hỏa, thiên thất thành chi
Thiên tam sanh mộc, địa bát thành chi
Địa tứ sanh kim, thiên cửu thành chi
Thiên ngũ sanh thổ, địa thập thành chi
Tại sao lại có thập nhị địa chỉ: trái đất có 4 mùa tạo thành 1 năm, 3
lần trăng tròn là vào 1 mùa 1 năm có 12 lần trăng tròn -> lấy 12
con giáp để đại điện cho 1 tháng

Tại sao giáp tý nằm tại vị trí đó: vì cung tý cung hợi thuộc thủy,
giáp thuộc dương, tý thuộc dương, nên chọn giáp tý để khởi.

Huyệt nào sẽ khởi phát đầu tiên trong châm cứu?


- Thứ nhất nó phải là huyệt tĩnh: vì sở xuất vi tĩnh
- Vậy huyệt Tĩnh đó sẽ thuộc đường kinh nào:
+Ta thấy: từ giờ tý đến giờ tỵ, khí thiếu dương bên
ngoài vũ trụ sẽ sinh khởi, Vậy ta sẽ chọn kinh âm để vận hành, vì
kinh âm vận hành từ dưới đi lên, khí nhiều hơn huyết
+ Trong cơ thể có 3 kinh âm khác nhau là: thiếu âm,
thái âm và quyết âm. Vậy sẽ khởi theo kinh âm nào.

55
-> Kinh quyết âm, không có tượng, không chọn.
-> Còn 2 kinh âm là thiếu âm và thái âm. Ta chọn kinh thiếu
âm để khởi là hợp logic vì dương khí lúc đấy đang chưa đầy đủ
vì thế nó buộc phải vận hành trong kinh thiếu âm, không thể là
kinh thái âm được.

Thiếu âm kinh, phân chia ra thủ túc ta có, Túc thiếu âm Thận kinh
và Thủ thiếu âm Tâm kinh.

Chúng ta chọn kinh nào? Ta chọn Thủ thiếu âm Tâm kinh thuộc
Thử vì hành Thử thuộc tam giác có chiều hướng lên. Vậy chọn
kinh Thử để khởi --> Chọn tĩnh huyệt hành Thử để khởi đầu
tiên tại cung Giáp tý

Theo logic đó, tính tiếp theo ta có các huyệt ứng với can chi như
trong bảng dưới. Từ bảng này ta lý giải được chi tiết hơn, tại sao
kinh thận và bàng quang có liên hệ biểu lý với nhau.
Vậy Giáp Tý sẽ là hành Thử

Chuyển từ giáp tí sang Giáp Tuất: Nối tiếp với huyệt hợp của kinh
bàng quang là ủy trung, hành kim, vậy phải nối tiếp với huyệt tĩnh
hành thủy.

Tại cung Giác Tuất có 2 huyệt là Hợp Ủy trung- hành kim của
bàng quang và Tĩnh thiếu thương - hành thủy của kinh phế. Hai
huyệt này ở cùng vào một ô là do:
- Giáp Tuất là khởi của kinh âm, và nó phải là vị trí của huyệt
Tĩnh kinh âm
- Huyệt hợp của kinh dương, tác dụng của nó đi vào tĩnh (sở
nhập vi hợp) để khởi động tĩnh huyệt

56
Vậy sẽ chọn bộ kim (theo Hợp huyệt) hay bộ Thủy (theo tĩnh
huyệt) nào làm chủ cho GIÁP TUẤT. Chọn tĩnh huyệt bởi vì
huyệt hợp đã nhập vào tĩnh, sẽ không còn phát huy tác dụng nữa.
Theo logic như vậy, ta có liên tiếp sự vận hành của các đường
chính kinh và huyệt lục khí theo các họ Giáp khác nhau:

Chi tiết bài giảng: Video 30a

57
58
59
60
61
62
63
ĐỒ HÌNH 12 CHÍNH KINH

64
XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ BỘ KHÍ, BỘ HUYẾT

65
ĐỒ HÌNH BỘ MẠCH CHÂM CỨU LỤC KHÍ

66
67
68
69
70
71
72
PHƯƠNG PHÁP XEM MẠCH
CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ

I- XEM MẠCH CHO NGƯỜI KHÁC

 Chuẩn bị:
 Với người bệnh:

 Người bệnh cần nghỉ một lát cho khí huyết được

điều hòa
 Người bệnh vừa uống rượu xong, đi xa về mệt

mỏi, ăn quá no, quá đói, đang trong trạng thái kích
thích…. Thì không xem mạch
 Người bệnh có ống tay áo quá chật, khung cảnh

xung quanh quá ồn ào, lộn xộn… sẽ ảnh hưởng tới


sự chính xác khi xem mạch
 Với thầy thuốc

 Khuôn mặt: hòa ái, thân thiện, nghiêm túc.

 Tư thế: ngồi thật thoải mái, thẳng lưng _ Toàn

thân buông lỏng tự nhiên.


 Hơi thở: bụng cần chậm rãi, có độ tĩnh và điều

hòa _ Hơi thở khi tọa thiền.


 Tâm ý: tập trung hoàn toàn vào việc bắt mạch, đặt

hầu hết tâm ý của mình vào việc chẩn mạch _ Bắt
mạch bằng Tâm.
 Kỹ thuật:
 Không dùng gối kê ở dưới khi xem mạch

 Dùng đầu ngón tay trỏ, tay giữa và áp úp để xem mạch

73
 Dùng tay phải để xem mạch tay phải của người bệnh,
dùng tay trái để xem mạch tay trái của người bệnh_ xem
cùng bên
 Ngồi đối diện với người bênh, ví dụ muốn xem mạch
tay trái của người bệnh thì tay phải của thầy thuốc cầm
bàn tay trái của người bệnh, ngón cái đặt vào lòng bàn
tay còn 4 ngón tay kia đặt bên dưới, hơi bẻ ngửa bàn
tay của người bệnh ra phía sau để làm vùng da tại cổ
tay căng ra. Sau đó dùng ngón tay trái để xem mạch.
 Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào
bộ quan rồi đặt luôn 2 ngón tay trỏ và áp út vào trước
và sau tạo thành 3 bộ mạch: thốn – quan – xích.
 Bờ ngoài ngón tay trỏ phải đặt thẳng với lằn chỉ cổ
tay (rất quan trọng). Ngón cái đặt ở dưới cổ tay
 Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặt ngón tay thưa, nếu
cẳng tay người bệnh ngắn thì đặt ngón tay khít nhau
 Phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, vuông góc với mặt
da ,tạo thành một đường thẳng khi xem mạch.
 Khi đặt tay vào đúng vị trí, thầy thuốc từ từ nhấn xuống
và nhấc lên đồng thời với lực được quy định như sau.
 3 Đầu ngón tay vừa chạm nhẹ lên bộ mạch được

tính là 1 hạt đậu


 Từ từ ấn xuống và khởi ý trong đầu là 2 hạt đậu, 3

hạt đậu …11 hạt đậu


 Đến khi ấn xuống xát xương quay thì được tính

là 12 hạt đậu
 Sau đó lại từ từ nhấc lên lặp lại việc khởi ý đếm

hạt đậu như thế


 Định mức lực bằng hạt đậu nên chúng ta có 3 mức như
sau:
74
 Sơ án: 3 hạt đậu
 Trung án: 6 hạt đậu
 Trọng án: 9 hạt đậu

Về lý thuyết cơ bản là như vậy, tuy nhiên nếu cứ làm thế mà biết
được toàn bộ bệnh cảnh âm dương, khí huyết, hư thực, biểu lý thì
cũng không cần phải luyện tập làm gì nếu vậy thì ai cũng có thể
trở thành “bậc thầy” chẩn mạch chỉ sau một giờ đọc sách.

Từ biết cho đến hiểu, từ hiểu đến làm, từ làm đến làm thành thạo,
chính xác là cả một quãng đường rất rất xa. Nên phương pháp
chẩn mạch là việc cần phải luyện tập hàng ngày, đều đặn , dùng
cả tâm và ý khi xem mạch thì xem mới chính xác được. Như người
xưa có nói: “Văn ôn, Võ luyện” thì mới mong thành công.

II- TỰ XEM MẠCH

 Cũng tương tự như phép xem cho người khác


 Ví dụ xem mạch tay trái: tay phải để ngửa, ngón cái đỡ dưới
cổ tay, 3 ngón kia đặt lên 3 bộ vị thốn – quan – xích ở tay
trái. Bờ ngoài ngón trỏ thẳng với lằn chỉ cổ tay
 Cũng từ từ ấn xuống và nhấc lên đồng thời để kiểm tra sự
thay đổi về mạch

Việc kết hợp tài tình lý luận đông y và lý luận y dịch đã giúp
người học châm cứu tìm được “Ánh sáng cuối đường hầm” và
thỏa lòng tìm cầu bao lâu nay. Đây là một phương pháp chữa bệnh
vừa mang tính kế thừa của nền Y học Đông phương, vừa mang
tính rõ ràng của khoa học hiện đại đã làm cho tất cả những ai yêu
khoa học, yêu chân lý và yêu cái đẹp được thỏa mãn và khâm
phục .

75
CÓ & KHÔNG KHI XEM MẠCH
Việc chẩn đoán bệnh của châm cứu lục khí sử dụng chủ yếu việc
xem mạch nhân nghinh và khí khẩu. Không những thế bộ mạch
này còn dùng để lựa chọn bộ huyệt, kiểm tra kết quả điều trị ngay
sau khi kích thích huyệt để biết là thầy thuốc dùng huyệt đúng hay
là sai, có cần thêm hay bớt huyệt hay không cũng như là làm tiêu
chuẩn để so sánh, nhận biết quá trình chuyển biến của bệnh tật
trong cơ thể người bệnh sau những ngày điều trị bằng châm cứu
lục khí.
Thầy thuốc chữa bệnh hay là người có thể tìm ra được gốc rễ bệnh
tật trong cơ thể và tâm trí của bệnh nhân để từ đó tìm ra cách hóa
giải cái gốc rễ đó giúp cho người bệnh có thể hồi phục được cả
thân bệnh và tâm bệnh.
Vậy làm sao có thể tìm được cái gốc rễ đó? Chúng ta hiện đang
là người áp dụng phương pháp châm cứu lục khí trong việc điều
trị hàng ngày, vậy chúng ta sẽ dùng việc xem mạch để cố gắng
lần tìm ra cho được cái gốc bệnh đó. Điều khó ở đây là cùng một
người bệnh, cùng một bộ mạch, cùng một căn nguyên gây bệnh…
nhưng mà có người thầy thuốc sau khi bắt mạch tìm ra được 30%
nguyên nhân gây bệnh, người thầy khác thì tìm ra 50% nguyên
nhân ngay bệnh, người thầy khác nữa tìm ra được 70% nguyên
nhân gây bệnh v..v để giải thích và tìm kiếm câu trả lời cho việc
nâng cao trình độ và kĩ năng chẩn đoán bệnh – kĩ thuật xem mạch
cho những người nào mong muống sử dụng môn châm cứu lục
khí trong việc chữa bệnh cứu người chúng ta hãy theo giõi phần
hỏi đáp sau:
- Hỏi: bộ mạch lục khí CÓ cái gì?
- Đáp: bộ mạch lục khí CÓ sự hiện diện của:
76
+ Vô cực
+ Âm dương
+ Tứ tượng
+ Bát quái (8 quẻ đơn)
+ Lục thập tứ quái (64 quẻ kép)
+ Khí huyết toàn thân và từng tạng phủ
+ Lục khí toàn thân và trong từng kinh lạc
+ Sự vận hành của12 đường kinh mạch
+ Sự vận hành của kì kinh bát mạch
+ Các nguyên nhân gây bệnh
+ Pháp chữa bệnh
+ Gốc bệnh
+ Bệnh tật
+ Sức khỏe
- Hỏi: Bộ mạch lục khí KHÔNG có cái gì?
- Đáp: Khi người thầy thuốc KHÔNG có: trí tuệ, tĩnh tâm, an lạc,
lòng từ bi thì sẽ KHÔNG thấy những gì ẩn chứa trong bộ mạch
lục khí khi xem mạch.
- Hỏi: tại sao lại KHÔNG thấy?
- Đáp: vì nếu không có: trí tuệ, tĩnh tâm, an lạc, lòng từ bi thì lục
khí ngay lúc đó sẽ trở thành ngũ hành, cánh cửa thông tin mà bộ
mạch lục khí sẽ bị đóng lại, chỉ khi nào ta CÓ những điều trên thì
lúc đấy cánh cửa lại lập tức mở toang cho ta tìm hiểu.

77
- Hỏi: ý nghĩa thậm thâm của CÓ – KHÔNG khi xem mạch là
gì?
- Đáp: mạch của người bệnh động là CÓ, tâm thầy thuốc không
động là KHÔNG, trong cái CÓ của mạch tồn tại cái KHÔNG
của gốc bệnh. Vậy theo quy luật “Đồng thanh tương ứng, đồng ý
tương cầu” thì ta thấy có cái KHÔNG này thì mới tìm thấy
KHÔNG kia, tức là người thầy thuốc xem mạch giữ tâm mình là
KHÔNG thì sẽ tìm thầy được gốc bệnh

Tóm lại: muốn xem mạch nhân nghinh và khí khẩu thì cần chú ý
những điểm sau để tìm được gốc bệnh:
- Không gian, môi trường, điều kiện, thời điểm… xem mạch phải
chuẩn
- Bệnh nhân thư giãn, thoải mái, tin tưởng
- Thầy thuốc: thư giãn, thoải mái, tập trung trí tuệ xét lực mạch
tại từng mức hạt đậu một cách cẩn thận, tỉ mỉ.
 Video so sánh bộ mạch ngũ hành và bộ mạch lục khí Video 14
 Video bát quái và chẩn mạch video 16 d-e
 Video kĩ thuật xem mạch video 18 c

78
CÁC LOẠI MẠCH
BÌNH MẠCH
Châm cứu lục khí là phương pháp châm cứu rất đặc biệt và có tính khoa
học cao, bởi vì từ việc chọn huyệt cho tới việc phối hợp huyệt, thêm bớt
huyệt... đều dựa vào việc xem ở hai thốn khẩu ở cả hai tay làm cơ sở cho
việc sử dụng huyệt đạo. Dùng huyệt lục khí là để đưa mạch bệnh trở về
dạng bình mạch, tức là đưa người bệnh trở về với tình trạng khỏe mạnh.
Bài dưới đây trình bày sơ nét về tiêu chuẩn của bình mạch, đây vừa là lý
luận vừa là mục tiêu để những thầy thuốc áp dụng châm cứu lục khí phải
thực hiện cho được. Chúng ta có thể dùng kim châm cạn, salonpas, day
bấm... để tác động lên hệ thống huyệt lục khí theo từng bộ nhất định,
phối hợp với các huyệt lạc, huyệt khích, huyệt của kì kinh bát mạch để
chuyển mạch.

79
80
MẠCH PHÙ

BÀI THƠ MẠCH PHÙ

Phù vi chủ biểu, thuộc phủ thuộc dương


Kinh thủ nhất chẩn, hình tượng chương chương
Phù nhi hữu lực, Hồng mạch hỏa dương
Phù nhi vô lực, Hư mạch khí thương
Phù nhi hư Thậm, Tán mạch phỉ thường
Phù nhi Song Quản, Hống mạch huyết ương
Phù nhi án cổ, Cách mạch ngoại cường
Phù nhi nhu tế, Nhu mạch thấp phương
Mạch phù:
 Khi xem mạch, ngay tại mức 0 hoặc nửa hạt đậu thì đã thấy
có mạch nhảy
 Thể hiện bệnh đang nằm ở biểu, bệnh thuộc phủ và thuộc
dương
 Có 4 quẻ biểu tượng cho mạch phù là: càn, cấn, tốn, ly
 Mạch hồng: từ 0 đến trên 6 hạt đậu, mạch đi quẻ càn ||| hoặc quẻ
tốn ||: tức là khi ấn tay xuống lực không thay đổi (hữu lực) à hỏa
nhiều (hỏa dương)
 Mạch Hư: mạch vô lực, lực mạch giảm khi ấn tay xuống, khí bị tổn
thương: mạch đi quẻ tốn |:: hoặc quẻ ly |:| để thể hiện cho mạch
này vì lực trung án bị mất. Trong cơ thể huyết bị giảm đi, và tăng
phần khí, khí chưa thoát
 Mạch Tán: mạch đi quẻ cấn |:: hư thậm,
 Mạch hống: mạch đi quẻ ly |:| , khí thoát, huyết thoát bệnh nặng
hơn so với 3 dạng mạch kể trên

81
 Mạch cách: đi cứng như mặt trống, nhấn tay xuống khó khăn, càng
khó chừng nào thì bệnh càng nặng chừng đó, thể hiện đang nhiễm
phải tà khí bên ngoài (ngoại cường). Mạch cách sẽ đi kèm với các
dạng mạch khác tạo thành mạch hồng cách, hư cách, hống
cách.Khi thấy có sự kết hợp giữa các mạch dạng này thì bệnh sẽ
nặng hơn.
 Mạch nhu: nhỏ mà mềm (nhu tế), do phong thấp sinh ra (thấp
phương). Không bao giờ đi cách. Mạch nhu cũng kết với các dạng
mạch khác để tạo thành các dạng mạch nhu hồng, nhu hư, như tán,
nhu hống. Nó cũng chỉ cho ta thấy bệnh nặng hay là nhẹ, khó chữa
hay dễ chữa.

Cách tìm video bài giảng về mạch PHÙ của Thầy Đặng Đức Thảo trên
youtube như sau:
Vào website: youtube.com --> trong ô search gõ:
“bài học châm cứu và mạch lý – bài …”
Danh sách video giảng về Mạch phù: bài 20a, bài 20b, bài 20c, bài 20d,
bài 20e, bài 21a, bài 21b, bài 21c, bài 21d, bài 21e
BÀI 20 – MẠCH PHÙ

Bài 20 Thầy Thảo giảng về mạch phù. Để tiện việc học tập và học hành
được nhanh chóng, thuận lợi chúng tôi đã ghi lại những lời giảng của
Thầy. Những người học nên vừa nghe băng giảng, vừa đọc tài liệu thì sẽ
thấu đáo hơn nhiều.

 Mạch lý trong đông y quan trọng và khó học, người xưa xem mạch
để bốc thuốc bắc, thuốc nam. Xét về dùng mạch để châm cứu, tạm
thời chưa thấy sách vở nào viết cả. Học mạch khó một phần nữa là
vì không thực hành thì quên hết, mà kể cả nếu thực hành đều đặn
nhưng không có thầy chỉ dạy tường tận thì cũng khó mà học được.
 Từ trước tới giờ, trong các sách viết về châm cứu, thì chỉ nói về các
bộ huyệt để chữa bệnh, không nói đến việc kết hợp mạch lý + bệnh
lý + bộ huyệt một các logic, vậy khó có thể nói là có thể điều chỉnh
được âm dương, khí huyết một cách có căn bản, và càng không thể
82
nói là chữa gốc được tận gốc của bệnh. Châm cứu lục khí, sẽ nói về
dùng mạch, xem mạch để châm cứu.
 Xét thấy các môn khoa học khác, ví dụ như toán học đều có hình vẽ,
con số để giúp tư duy, diễn đạt, biểu thị rõ ràng, mạch lạc. Trước tới
nay, mạch lý thường chỉ dùng từ ngữ dựa vào cảm nhận để diễn đạt,
dẫn đến khó học, khó hành. Châm cứu lục khí sử dụng 8 loại quẻ để
làm hình tượng cho việc học tập và nghiên cứu về mạch lý trong
châm cứu.
 Lục khí = 3 dương: hỏa, kim, thử 3 dương nằm 3 góc tam giác đi
lên. Hỏa tương ứng với mạch Phù (nổi). 3 góc tam giác chiều đi
xuống biểu thị cho Âm = Thủy, mộc, thổ. Khi chữa bệnh bằng các
phương pháp khác nhau mục đích chính là quân bình, hòa âm dương.
Vậy khi Hỏa nhiều hoặc ít, thì ta phải cân bình Hỏa, chúng ta cân
bình Hỏa với Thủy, Vậy Thủy phải biểu thị cho bộ mạch đi trầm.
Nếu Thủy và Hỏa quân bình, thì 4 khí còn lại sẽ quân bình. Kim =
mạch đại, Mộc = tế, thử = sác, Thổ = Trì. Tạo thành những cặp đối
lập nhau.
 Chúng ta có 8 quẻ tượng: càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài.
Trong 8 quẻ tượng, những quẻ nào đi nổi thì sẽ biểu thị cho hỏa, vậy
là: quẻ càn, quẻ cấn, quẻ tốn, quẻ ly là 4 quẻ biểu thị cho mạch phù.
Mạch phù là khí nhiều hơn -> mạch nổi trên da, mạch trầm huyết
nhiều -> chìm xuống dưới.

Bài thơ về mạch PHÙ (nên học thuộc lòng toàn bộ bài thơ)

Bài thơ này Thầy Thảo được học từ người Thầy dạy mạch của mình.

Phù vi chủ biểu, thuộc phủ thuộc dương


Khinh thủ nhất chẩn, hình tượng chương chương
Phù nhi hữu lực, HỒNG mạch hỏa dương
Phù nhi vô lực, HƯ mạch khí thương
Phù nhi hư thậm, TÁN mạch phỉ thường
Phù nhi song quản, HỐNG mạch huyết ương
Phù nhi án cổ, CÁCH mạch ngoại cường
Phù nhi vi tế, NHU mạch thấp phương
83
Vậy trong mạch PHÙ chúng ta có 6 dạng mạch là: HỒNG – HƯ – TÁN
– HỐNG – CÁCH – NHU

Chúng ta bắt đầu phân tích bài thơ để hiểu rõ về mạch PHÙ

 Phù vi chủ biểu, thuộc phủ thuộc dương, Kinh thủ nhất chẩn,
hình tượng chương chương.Chúng ta có biểu, phủ, dương = đồng
nghĩa, biểu là bên ngoài, phủ bên ngoài, dương cũng bên ngoài đối
lập với chúng là lý, tạng, âm. 2 câu đầu giải thích mạch phù. Khi nói
đến mạch phù, là nói đến lực từ 0 hạt đậu tới gần 6 hạt đậu vì đây là
dạng mạch Dương. Lưu ý ở độ nhất chẩn, không phải là độ 0 hạt đậu
mà là ở dưới 0 hạt đậu khoảng 1/2-1/4 hạt đậu, bởi vì hình tượng nổi
lên ở độ nhất chẩn mà thấy có thì mới gọi là phù. Ở 0 hạt đậu mà
thấy mạch, tức là mạch bệnh rồi và vẫn gọi là mạch phù. Mạch phù
ở bình thường- nhất chẩn thì là mạch phù không có bệnh. Vậy qua
2 câu đầu của bài thơ, xác nhận khi xem mạch của phần Dương
(biểu, phủ) từ mức 0 đến 6 hạt đậu. Chúng ta có 4 hình tượng của
mạch PHÙ là 4 dạng quẻ: CÀN – TỐN – CẤN – LY
 Phù nhi hữu lựu, Hồng mạch hỏa dương: mạch phù, có lực gọi là
mạch Hồng, hỏa dương tức là hỏa nhiều. Hữu lực là gì: khi nhấn
xuống từ từ mà mạch vẫn còn hiện hữu mạnh mẽ như vậy, không
giảm từ dưới 0 đến trước 6 hạt đậu thì là mạch Hồng hữu lực. Mạch
Hồng thuộc quẻ Càn, bệnh nhẹ
 Phù nhi vô lực, Hư mạch khí thương: lực yếu đi khi nhấn tay từ
trên xuống dưới, khí đã bị tổn thương, khí thoát, tượng quẻ Tốn
thuộc quẻ hư. Phần trung án, mức 3 hạt đậu của phần dương vẫn
hiện hữu, bệnh chưa nặng lắm
 Phù nhi hư thậm, TÁN mạch phỉ thường. Khí tổn thương rất
nhiều, quẻ Cấn biểu thị cho quẻ tán, ấn xuống mức 3 hạt đậu cũng
mất, tức là trung án của phần dương cũng bị tổn thương
 Phù nhi song quản, HỐNG mạch huyết ương: Hống là rỗng ở
giữa, biểu thị cho loại mạch này là quẻ Ly. Lực trung án của phần
dương không hiện hữu, nhưng lực xơ án, trọng án của phần dương
thì vẫn còn. Huyết ương, là huyết thiếu, huyết giảm, do huyết mất
khì khí mất, khí đi lên làm phù, huyết đi xuống làm thành mạch
trầm, khí huyết không lưu thông. Đây là trường hợp cả phần khí và
huyết đều bị tổn thương, nên đây là bệnh nặng
84
 Phù nhi án cổ, CÁCH mạch ngoại cường: Án cổ là mặt trống,
nhấn tay xuống mạch cứng như mặt trống. Càng cứng thì bệnh càng
nặng Xơ án đến trọng án của phần dương, nhấn tay xống cứng, biểu
thị tà khí bên ngoài đang tấn công vào. Mạch có thể đi theo 4 dạng
trên và kết hợp với mạch đi cứng, vậy ta có Hồng cách, hư cách, tán
cách, hống cách. Mạch nào đi kèm với cách, thì đều nói lên bệnh
nặng hơn
 Phù nhi vi tế, NHU mạch thấp phương: Mạch nhu là nhỏ và mềm,
thấp phương tức là do phong sinh ra. Nhu tức là không thể đi theo
mạch cách được. Mạch nhu hoàn toàn có thể đi kèm theo 4 dạng
mạch còn lại. Đi theo quẻ càn, thì phong nhẹ, đi theo quẻ tốn thì
nặng hơn xíu, đi theo quẻ cấn thì nặng hơn nữa, đi theo quẻ hống thì
nặng hơn. Tuy nhiên, mạch đi nhu thì bệnh dễ chữa.

Kết thúc bài 20

85
BÍ QUYẾT HỌC CHÂM CỨU LỤC KHÍ

Châm cứu theo “Y DỊCH LỤC KHÍ” là một lối châm riêng biệt đặc thù
của người Việt Nam, kết hợp và thừa kế sự vận dụng lục khí với nhóm Cổ
Du huyệt (huyệt lục khí, huyệt ngũ du), phố hợp với mạch lý để chẩn đoán
trị liệu, nâng cao trình độ nghiên cứu, lý luận đối với môn châm cứu, liên
quan đến y dịch. Thầy Trần Ngọc Hậu (Lão y Vuông Tròn) đã bỏ nhiều
công sức và tâm trí để nghiên cứu và để lại bộ sách viết tay “KHÍ HÓA,
Y LÝ HÓA, TRONG CHÂM CỨU Y ĐẠO”. Đây là một công trình đặc
biệt, một điểm son về châm cứu Việt Nam, mở đường cho môn Y dịch lục
khí ra đời.

Thời gian trôi đi, bộ môn Y dịch lục khí đã có nhiều câu lạc bộ, nhiều
nhóm phát triển khác nhau. Môn Y dịch lục khí đã và đang được đem vào
áp dụng trong nhiều phương diện khác nhau của YHCT Việt Nam, như
chẩn mạch, thảo dược, châm cứu, thời châm…

Với chúng tôi việc có “duyên” với thầy Đặng Đức Thảo, người đã làm
sáng tỏ rất nhiều về Châm CứuLục Khí (CCLK) quả là rất may mắn, nhờ
những bài giảng rất cẩn thận và tỷ mỉ của thầy mà dần dần chúng tôi đã
thâm nhập, mở được cửa vào căn nhà Lục khí. Nhờ thầy Thảo soi rọi,
chúng tôi biết sử dụng huyệt lục khí theo các phương pháp châm: thủ
châm, âm châm, dương châm, túc châm, dùng 1 bộ rưỡi, dùng 2 bộ, dùng
3 bộ … những phương pháp châm này quả là hết sức vi diệu, đơn giản và
hiệu quả khác thường, khác hẳn so với những pháp châm đã có trước đây.

Chìa khóa để áp dụng CCLK nằm ở: BỘ MẠCH LỤC KHÍ – HUYỆT


LỤC KHÍ – PHÁP HÒA.

BỘ MẠCH LỤC KHÍ: được hình thành dựa vào Tiên thiên bát quái, và
lý luận của Y dịch lục khí

HUYỆT LỤC KHÍ: được tìm ra dựa vào việc xác định lại giá trị của Nhóm
huyệt ngũ du, huyệt nguyên, huyệt lạc, huyệt khích và Kì kinh bát mạch.

Khi một người có bệnh ở một cơ quan bộ phận nào đó, một kinh mạch
nào đó hoặc bị mệt mỏi toàn thân thì khi xem mạch thốn khẩu chúng ta sẽ

86
thấy Bình mạch sẽ biến đổi thành mạch bệnh. Ngay lập tức sự cân bằng
động của lục khí THỔ - THỬ, KIM – MỘC , THỦY – HỎA trong cơ thể
bị thay đổi ngay lập tức. Tùy vào mức độ nặng nhẹ của bệnh, thời gian bị
bệnh, vị trí bị bệnh thì 6 bộ mach THỐN – QUAN – XÍCH ở hai tay phải
và trái sẽ thay đổi và có dạng của 1 trong 8 quẻ của bát quái.

Bộ mạch lục khí thay đổi là sự phản chiếu của cơ quan ha bộ phận đang
có bệnh. Tác động vào các huyệt lục khí để điều chỉnh mạch bệnh thành
Bình mạch là cách trị bệnh cũng như phòng bệnh TỰ NHIÊN nhất, vì NÓ
LÀM CHO CƠ THỂ TỰ ĐIỀU CHỈNH lấy để đạt được trạng thái cân
bằng ổn định su đó.

Hình thức tác động lên các huyệt lục khí rất đa dạng và phong phú, tùy
hoàn cảnh, thời gian và điều kiện mà người thầy thuốc hoặc bệnh nhân
tùy biến lựa chọn: châm kinh, day huyệt, dán cao salonpas, ấn huyệt bằng
bút, bằng đũa, xoa nhẹ lên huyệt, day phớt, chấm cao …

Việc lựa chọn THỦ CHÂM, TÚC CHÂM, ÂM CHÂM, DƯƠNG CHÂM
là tùy vào tình trạng mất cân bằng của Âm Dương, Khí Huyết trong cơ
thể nói chung, và trong các kinh mạch bị bệnh nói riêng. Công phu bắt
mạch được luyện tập lâu dài, cộng với kinh nghiệm và trực giác sẽ giúp
người thầy thuốc mau chóng quyết định mình sẽ sử dụng bộ huyệt nào,
theo cách châm nào để lập lại cần bằng hay HÒA được lục khí trong cơ
thể người bệnh nhanh nhất. Ngoài ra sự Quán tưởng và suy ngẫm hằng
ngày về lục khí cũng là bí quyết giúp người thầy thuốc hiểu rõ mối liên
hệ của lục khí trong cơ thể một cách sâu xa và nhanh chóng.

87
ƯU ĐIỂM TRÊN LÂM SÀNG CỦA CHÂM
CỨU LỤC KHÍ

Chúng ta hãy cùng tìm hiểu ưu điểm của châm cứu lục khí khi được áp
dụng trên lâm sàng

88
89
90
91
QUY TRÌNH KHÁM CHỮA BỆNH CỦA
CHÂM CỨU LỤC KHÍ

Điểm khác của châm cứu lục khí với châm cứu cổ điểm nằm ngay tại khâu
ban đầu của việc khám và chữa bệnh. Thường thì các thầy thuốc châm
cứu từ trước tới nay không bao giờ xem mạch trước và sau khi châm huyệt,
vì thế mạch có chuyển hay là không? huyệt dùng có đúng hay là không?
châm như vậy sẽ đạt kết quả hay là là không?... Rất nhiều câu hỏi tương
tự như vậy sẽ khó có lời giải một cách thấu đáo, vì châm cứu là tác động
lên khí, huyết vô hình, chúng ta dùng kim châm lên huyệt đạo với tác dụng
là làm thông kinh hoạt lạc, khơi thông những chỗ bị tắc nghẽn. Tuy nhiên
nếu không xem mạch thì làm sao biết được kinh lạc đã được thông hay là
chưa, khí huyết đã được điều hòa hay chưa. Để biết được điều này không
cách nào khác là phải xem mạch trước và sau khi sử dụng huyệt. Châm
cứu lục khí là bộ môn khoa học vì thế cần phải có sự chính xác và tỉ mỉ rõ
ràng trong cách sử dụng huyệt, vì thế chúng ta hãy cùng tìm hiểu quy trình
khám và chữa bệnh của châm cứu lục khí.
Hỏi bệnh --> Xem mạch --> Chẩn đoán gốc bệnh --> Dán huyệt --
> Kiểm tra lại mạch --> Hướng dẫn bệnh nhân tự chữa bệnh tại nhà

92
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ
Pháp Lục Hòa trong nhà Phật
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến
tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục đích tiến tới
sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải
hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng
gật. Hòa ở ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút
thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất
cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có bòng dáng "tự và tha" không có
so đo "ta và người".
1. Thân hòa cùng ở (Thân hòa đồng trụ)
Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức,
hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành.Khi đã sống
chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng
sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ chồng,
con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra
em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp
đáp, sát phạt nhau.
2. Lời nói hòa hiệp (Khẩu hòa vô tranh)
Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh
nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường
hợp, nhất thiết không được rầy rà, cãi cọ nhau.Bởi thế, nên thân thể hòa
chua phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật
tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy,
gây gỗ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối
phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận.
3. Ý hòa cùng vui (Ý hòa đồng duyệt)
Trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của
mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa
khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì
thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Muốn được tâm ý hòa hiệp,
93
phải tu hạnh Hỷ xà. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn
giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế,
tâm hồng mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh
được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được.
4. Giới hòa cùng tu (Giới hòa đồng tu)
Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỹ luật qui cả
hẳn hoi.Trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ
giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với
nhau được. Vật Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người
cần phải gìn giữ giới luật như nhau.
5. Thấy biết giải bày cho nhau hiểu (Kiến hòa đồng giải)
Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được
điểm gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình dộ hiểu
biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng,
mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể.
6. Lợi hòa cùng chia cân nhau (Lợi hòa đồng quân)
Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cần nhau hay cùng nhau
thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về
mình.

Pháp lục hòa trong châm cứu lục khí


Trên đây là pháp Lục Hòa của Phật giáo, còn chúng ta là người học châm
cứu lục khí, chúng tôi xin mạn phép nhìn nhận một chút về pháp Lục Hòa
này và thử xem sự ẩn hiện của nó trong phương pháp chữa bệnh của châm
cứu lục khí
Hòa giải: sử dụng huyệt lục khí trên các đường kinh phối hợp với nhau
theo bốn cách châm để hòa giải kim mộc, thủy hỏa, thổ thử lập lại cân
bằng âm dương trong cơ thể

94
Hòa hợp: Tĩnh kinh âm + hợp kinh dương, châm tĩnh của kinh tâm bào
lạc (hành hỏa) là trung xung thì phải châm hợp huyệt của kinh tiểu trường
(hành thủy) là tiếu hải thì mới thông được thủy hỏa, kim mộc, thổ thử
Hòa lạc khích: dùng huyệt lạc hoặc huyệt khích để giúp "tăng tốc" quá
trình hòa giải lục khí
Hòa mạch: dùng huyệt kì kinh bát mạch phối hợp với huyệt lục khí để
hòa 12 chính kinh
Hòa đồng: Kết hợp huyệt Du ở thủ và túc để hòa âm châm, dương châm,
thủ châm, túc châm để hòa đồng tác dụng của 4 cách châm. Ví dụ: dùng
bộ Thổ thủ châm 13 huyệt, ta sẽ dùng ở tay 4 du huyệt là hậu khê, trung
chữ, thái uyên và đại lăng vậy để tạo sự liên lạc, phối hiệp đồng giữa các
huyệt và kinh mạch trong điều trị ta nên thêm 4 huyệt du ở chân là: thái
khê, thái xung, thúc cốt, hãm cốc
Hòa bình: Lục khí hiện ra, lục hòa ổn định: khi dùng chọn được bộ huyệt
và khi mạch bệnh chuyển về dạng bình mạch, hai bộ quan cao nhất, hai
bộ thốn và xích thấp hơn, ngang bằng nhau, mạch đi hữu lực và trường
mạch thì lúc đó lục khí sẽ tồn tại ở dạng ổn định vì kinh mạch đã thông,
các huyệt lục khí đã thông, các hành đã thông. Cơ thể sẽ được Hòa với
trời đất.
Nguyên tắc trị liệu của Châm cứu lục khí
Cách đây gần 3000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật hiện tượng trong
vũ trụ và môi trường luôn có mâu thuẫn, nhưng thống nhất với nhau,
không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh, phát triển và tiêu vong từ
đó tìm ra quy luật âm dương.

Từ đây ta thấy quy luật âm dương có tồn tại là do trong sự vật hiện tượng
vốn tự nó đã có một sự quân bình nội tại (Hòa). Chữ hòa là nguồn gốc của
sự tồn tại và phát triển của con người và vạn vật.

 Hòa thì mới hợp, hợp sẽ có định, có định mới tới an làm cho con
người vạn vật hài hòa, khỏe mạnh, tốt tươi. Không hòa sẽ có phản

95
nghịch, có nghịch thì có động, có động thì có loạn mà loạn sinh ra
bệnh tật, ô nhiễm.
 Hòa là nguồn gốc của vũ trụ càn khôn: không hòa thì thái cực không
hiện tướng thành lưỡng nghi, phân ra âm dương, bát quái và vạn vật
 Hòa sinh ra vạn vật: từ hòa con người sinh ra, cũng vậy nhờ sự thuận
hòa của trời đất, môi trường, khí hậu, điều kiện địa lý thổ
nhưỡng…thì mọi vật sinh sinh trưởng và phát triển. Trên một số
hành tinh mà không có đủ các điều kiện thuận lợi của trời đất, môi
trường, khí hậu, điều kiện địa lý thổ nhưỡng … tóm lại do không có
đủ điều kiện sống – không có sự hòa giữa các yếu tố tạo nên sự sống
vì thế không có sự sống.
 Hòa làm cơ sở để cho xã hội phát triển: các nguồn lực trong xã hội,
các nhóm lợi ích trong xã hội, giữa lãnh đạo và người dân, giữa
người quản lý và công nhân …nếu không hòa thì không thể có một
xã hội tồn tại một cách ổn định, thịnh vượng được
 Hòa hợp là nguồn gốc con người: không có tinh cha huyết mẹ hòa
với nhau thì sẽ không thành hình con người, vậy con người sinh ra
khởi điểm là bởi chữ hòa
 Hòa tạo ra trí tuệ, sức khỏe và sự sống cho con người: tinh khí thần
không hòa với nhau con người sẽ chết, giới định tuệ không hòa với
nhau con người không thể có được tuệ giác tối cao.
 Trong cơ thể con người khí huyết, tạng phủ, không hòa thì cơ thể
không tồn tại được.Khí huyết lưu thông trong kinh mạch không đúng
chiều, đúng đường thì chắc chắn sẽ gây ra bệnh, con người sẽ trở
nên yếu đuối cả về tinh thần và thể xác. Kinh âm khó đi lên, kinh
dương khó đi xuống hoặc kinh âm và kinh dương vận hành khó khăn
thì cũng dẫn đến bệnh tật, đau ốm.

Pháp điều trị của châm cứu lục khí dùng chữ Hòa làm trọng. Và đây cũng
là nguyên lý của vũ trụ, nguyên lý của âm dương, và nguyên tắc chữa
bệnh của ngàn năm trước cho tới nay: Chữa bệnh cốt là lập lại cân bằng
âm dương trong cơ thể

96
Trong bát pháp của đông y có nhiều các phương pháp khác nữa, nhưng
nếu xét cho cùng thì:

1. Nếu đã hòa thì sẽ tự ra mồ hôi ( phép Hãn )


2. Nếu đã hòa thì sẽ tự tẩy sổ nhuận tràng (phép Hạ)
3. Nếu đã hòa thì sẽ tự gây nôn ra rồi (phép Thổ)
4. Nếu đã hòa thì sẽ tự làm cho cơ thể ấm (phép Ôn)
5. Nếu đã hòa thì sẽ tự làm cho cơ thể mát(phép Lương)
6. Nếu đã hòa thì sẽ tự làm hết ứ trệ (phép Tiêu)
7. Nếu đã hòa thì sẽ tự làm đầy âm dương, khí huyết trong cơ thể(phép
Bổ)

CÁCH GIAO TIẾP VỚI HUYỆT


Đây là bài viết mang tính chất cảm nhận, suy luận dựa trên các công trình
khoa học của một số nhà nghiên cứu đã có các nghiên cứu, thực nghiệm
về các trạng thái và tinh thể nước, nghiên cứu về yếu tố môi trường tác
động lên gene, nghiên cứu về hệ thống mô liên kết của cơ thể...Như chúng
ta đã biết cho đến nay thực chất huyệt đạo châm cứu là gì cũng như phạm
trù khí, huyết trong cơ thể hiện vẫn chưa được làm sáng tỏ đến 100%, vì
cũng còn nhiều ý kiến trái chiều, không tỏ rõ sự đồng ý hoàn toàn khi nói
đến những vấn đề trên. Trong thời đại phát triển như vũ bão của khoa học
kỹ thuật, công nghệ, các phát minh, phát hiện mới trên mọi lĩnh vực của
cuộc sống đã đều đặn xuất hiện, cùng với xu hướng phát triển của y học
hiện đại, những người làm về y học cổ truyền như chúng ta cũng nên bắt
nhịp theo những xu hướng phát triển đó, cũng nên học hỏi thêm từ những
phát minh, phát hiện mới của khoa học hiện đại nhằm làm vững chắc, hiểu
rõ ràng hơn về kiến thức của y học cổ truyền đã có từ hàng nghìn năm nay
với nhiều sắc thái của sự tưởng tượng và kinh nghiệm để tạo ra sự liên
kết, liện hệ ngày càng sâu sắc hơn giữa hai phần không thể tách rời của y
học là y học hiện đại và y học cổ truyền (bổ sung) để mang lại nhiều sự
giúp đỡ, lợi ích hơn tới mọi người trên trái đất. Chúng ta không thể cứ mãi
chỉ nhìn về quá khứ để xem cha ông, tổ tiên ta viết cái gì mà chúng ta còn
phải mở rộng tầm mắt nhìn về hiện tại và tương lại để biết chúng ta dùng
y học cổ truyền như thế nào cho phù hợp với thế kỉ 21 này. Đây mới là sự
hợp lý và chính xác nhất khi áp dụng tinh thần của Dịch vào thời đại mới,
và nền y học mới. Trong y học cổ truyền nói chung và châm cứu lục khí
97
nói riêng chúng ta cũng không thể và cũng không nên tách khỏi xu hướng
này. Vậy thì chúng ta thấy gì từ những nghiên cứu của các nhà khoa học
hiện đại và điều gì mang lại sự sáng to cho y học cổ truyền? Chúng tôi xin
đưa ra ý kiến của mình về vấn đề này như sau:

Cơ thể chúng ta lúc bé nước chiếm tới 90%, khi lớn lên thì tỉ lệ nước là
70% cũng tương tự như trên trái đất của chúng ta, nước bao phủ hầu hết
quả địa cầu nên chúng ta gọi là quả “nước cầu” thì nghe có vẻ hợp lý.
Nước là yếu tố vô cùng quan trọng cho sự sống, nó là yếu tố gây ảnh
hưởng, tác động và làm thay đổi cuộc sống nhiều nhất. Ngày này các nhà
khoa học đã nghiên cứu rất nhiều về Nước nên cụm từ “The social
behavior of H20” trở nên phổ biến trên thế giới. Các phân tử nước cấu tạo
bởi 2 nguyên tử Hidro và 1 nguyên tử Oxi, nhưng bên trong một cốc nước
mà chúng ta rót ra để uống chứa đựng bao điều kì diệu hơn là những gì
chúng ta nhìn thấy và nếm thấy khi uống vào trong cơ thể mình. Hiện nay
người ta đã có những thí nghiệm để chứng minh là các phân tử nước có
những mối liên hệ vô cùng đặc biệt với nhau làm cho Nước trở nên có trí
nhớ, biết đọc, biết học hỏi và đặc biệt là biết cảm nhận những cảm xúc
của con người. Những tinh thể nước sẽ có hình dạng khác nhau khi được
nghe loại nhạc khác nhau của các nhạc sĩ khác nhau, chúng biết “xem
tranh” để tạo ra các hình dạng tinh thể tương tự như bức tranh đó, chúng
sẽ bị “buồn” nếu ta có những lời nói không lịch sự và chúng sẽ “hạnh
phúc” khi được ta nói những lời yêu thương và còn nhiều, rất nhiều những
điều kì diệu nữa về Nước. Nói tóm lại là nước biết tiếp nhận và phản hổi
lại những sóng rung động phát ra từ bộ não con người được ẩn chứa bên
trong những sản phẩm về tinh thần mà con người tạo ra nhờ sự tư duy và
cảm nhận của mình như các bản nhạc, các bức họa, các ngôn ngữ...
Nhìn về y học hiện đại ta thấy rằng hệ thống mô liên kết trong con người
chúng ta được trải rộng khắp cơ thể từ bề mặt da cho đến các cơ quan nội
tạng của cơ thể, chúng bao quanh khắp tất cả các tế bào của con người,
mà thành phần chủ yếu của loại mô này là nước. Nhìn về y học cổ truyền
huyệt đạo châm cứu dù chưa được biết chính xác 100% về vị trí và công
năng nhưng có thể chắc chắn một điều là chúng phải ở trên cơ thể con
người và nếu như thế thì có thể suy ra là tối thiểu thành phần của mỗi
huyệt đạo phải có ít nhất 70% là nước và cấu tạo nên thành phần huyệt
98
đạo cũng chủ yếu là mô liên kết giữa các tế bào. Vậy nếu như nước có khả
năng đọc, khả năng hiểu, khả năng cảm nhận, khả năng ghi nhớ v.v.. thì
ít nhất huyệt đạo châm cứu cũng có thể làm được 70% những khả năng
này. Điều này thật sáng tỏ và rõ ràng cả trong lý luận và trong thực hành,
đã có rất nhiều trường hợp khi ta châm cứu, hoặc bấm huyệt nếu như ta
chăm chú, tập trung, thông cảm, yêu thương người bệnh và vùng bị đau
yếu thì hiệu quả của buổi chữa trị cho người bệnh đó và vùng đau yếu đó
cao hơn nhiều và kéo dài hơn là khi ta chữa bệnh với tâm trí không toàn
tâm toàn ý, cẩu thả, chữa cho xong, chữa lấy lệ...Một sự lý giải hợp lý cho
sự khác biệt này chính là do NƯỚC.
Theo lý luận của y học phương đông, trong học thuyết âm dương thì Nước
là thuộc về âm, là huyết, là hữu hình, không thể có nước khi không có khí
đi kèm , điều này đúng với cả khoa học hiện đại vì nếu nhìn sâu vào nước
ta thấy ngay các nguyên tử khí oxi và hydro, vì vậy mà không có khí thì
không thể nào có nước, không có nước thì không có khí đó chính là âm
dương, đó chính là nhất nguyên luận. Vậy những cái mà nước bị ảnh
hưởng như âm nhạc, hội họa, ngôn ngữ là từ đâu? Là do hoạt động của bộ
não con người, hoạt động của sự liên kết giữa cá neuron thần kinh với
nhau, chính là các loại cảm xúc dựa trên hoạt động của sóng não do Tâm
con người tạo ra và được ẩn vào trong các bài nhạc, các bức họa, ngôn
ngữ được viết ra v.v... Chúng ta có thể chung quy nó lại là hành Thử trong
y dịch lục khí. Vậy nếu như ta không áp dụng và đưa hành Thử vào huyệt
châm cứu nói chung và huyệt lục khí nói riêng thì chúng ta đã mất đi rất
nhiều tác dụng và hiệu quả của huyệt châm cứu rồi. Truyền thông với
huyệt tức là làm gì, tức là dùng hành Thử để nói chuyện với huyệt, để yêu
thương, để cảm thông với những sự bế tắc của huyệt và tạng phủ từ đó
cùng nhau người bệnh và thầy thuốc cùng làm lành các vết thương do
bệnh tật gây ra.
KHẨU VỊ CỦA HUYỆT
Du khách nào đến thủ đô Hà Nội của nước Việt Nam, thì một việc không
thể thiếu được trong sổ tay thông tin của họ là những món ngon đặc sản
của Hà Nội, bao gồm một số món sau: chả cá lã vọng, bún ốc phủ tây hồ,
bánh tôm hồ tây, kem tràng tiền…tóm lại nếu như ai là người sống ở hà
nội lâu thì đều biết những món ăn đặc sản này. Khi một du khách tới Hà
nội, thì chắc chắn là họ phải thử những món ẩm thực “nức tiếng” gần xa
99
này rồi, không thể nào mà bỏ qua được, kẻo đến khi về người thân, bạn
bè họ hỏi nếu nói là chưa nếm thử thì thể nào cũng bị “trách” cho mà xem.
Tất nhiên ở đây chúng tôi muốn nói về châm cứu chứ không phải là một
bài viết về ẩm thực Hà Nội. Giờ ta thử nghĩ xem là liệu vị khách du lịch
này có thấy ngon miệng với tất cả những món ăn nổi tiếng ngon bổ rẻ này
ở hà nội hay không? Tôi nghĩ là chưa chắc, vì hiếm có ai mà lại “dễ miệng”
như vậy, ăn gì cũng thấy ngon, uống gì cũng thấy thích, món nào cũng
thưởng thức được. Nói thế để biết là, dù ngon đến mấy, đặc sản đến mấy,
đặc biệt đến mấy thì cũng chỉ với đa số người thôi chứ không thể với tất
cả mọi người được.
Quay ra nhìn châm cứu lục khí ta thấy, để kích hoạt các huỵệt lục khí để
chúng vận hành, nhằm ổn định bổ mạch, ổn định lục khí, đẩy lùi bệnh tật
trong cơ thể thì việc dùng salonpas quả thật rất tuyệt vời, vừa tiện dụng,
vừa rẻ tiền, vừa không đau đau một chút nào, đồng thời còn biến bệnh
nhân thành thầy thuốc của chính họ tức là họ sẽ theo sự hướng dẫn của
thầy thuốc để dán huyệt tại nhà, salonpas quả là một thứ “đặc sản” trong
việc kích thích huyệt lục khí và môn châm cứu lục khí. Nhưng trên thực
tế của hoạt động du lịch thì không phải lúc nào khác du lịch cũng thích ăn
đặc sản, không phải bạn cứ bẻ tour vào những nhà hàng chả cá lã vọng,
nhà hàng bánh tôm hồ tây mà họ lại thấy thỏa mãn, thoải mái mà nhiều
khi họ lại thích ăn những món thật thông thường ví dụ như kẹo lạc chẳng
hạn mà lại thấy ngon thấy thích.Trên thực tế lâm sàng trị liệu bằng châm
cứu lục khí ta thấy thế này,nhiều bệnh nhân sau khi dùng salonpas dán
huyệt thì mạch chuyển ngay lập tức lại còn chuyển rất đẹp nữa, nhưng có
người dán huyệt thì lại thấy mạch chuyển chậm, thêm huyệt cũng vẫn thấy
chậm, tuy nhiên nếu như “đổi món” sang dùng kim châm vài huyệt trong
bộ huyệt đã dùng thì lại thấy mạch chuyển ngay, và chuyển đẹp nữa. Có
người thì phải dùng ngải cứu để hơ lên huyệt, có người thích hợp với day
bấm, có người lại thích mắc điện vào kim châm cứu – điện châm v.v…rất
là đa dạng. Nên là nếu thầy chữa chỉ biết nấu món “đặc sản” thôi thì nhiều
khi chưa đủ, ngon mấy thì ngon, sạch mấy thì sạch nhưng một khi đã
không hợp khẩu vị là không hợp khẩu vị, nên đa dạng “thực đơn ẩm thực”
của mình, để mà nhiều người khách du lịch thấy thích thú khi đi du lịch
với châm cứu lục khí của Việt nam.

100
CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ
Trong tự nhiên có quy luật sau: Nước chảy thì không thối, bản lề thì không
rỉ, so sánh dòng suối ngày đêm róc rách chảy và một cái ao tù thì ta thấy
ngay điều đó, nước suối lúc nào
cũng trong mát, nhìn thấy tận đấy, nhìn thấy rõ những viên sỏi bé nhỏ với
đầy đủ hình thù với đủ loại màu sắc khác nhau, còn nếu như nhìn vào một
cái ao tù thì lập tức thấy sự tăm tối,
“bệnh tật ngay”. Dựa vào sự quan sát đó mà y học cổ truyền có một
phương châm phòng và trị bệnh tương tự.
Y học cổ truyền phương đông có câu “Thông tắc bất thống, thống tắc bất
thông”, có nghĩa là nếu sự lưu thông trong cơ thể được lưu lợi, thông
thương thì cơ thể sẽ
không bị đau nhức. Ngược lại, nếu đau mỏi cơ thể là do có một nơi nào
đó trong cơ thể bị bế tắc.
Khai thông sự bế tắc là một trong những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu
trong đông y, Các phương pháp như cạo gió, giác hơi, chích lễ, hay “đánh
cảm” là những phương cách
dân gian lưu truyền để điều trị những bệnh mà nguyên nhân là do sự bế
tắc gây nên như nói trên. Cũng như nấu nước xông đây đều là những kinh
nghiệm chữa bệnh có từ rất lâu
đời.
Châm cứu, dùng thuốc thảo dược cũng dựa trên nguyên tắc này kết hợp
với một số kinh nghiệm và lý luận khác nữa để áp dụng vào việc phòng
bệnh và trị bệnh. Tuy nhiên có hai hệ
lý luận để đạt tới sự thông này
Lý luận ngũ hành, cụ thê là việc sử dụng thuốc và châm cứu cổ điển sử
dụng bổ, tả làm trọng để giúp thông kinh hoạt lạc, âm dương cân bằng
Lý luận của y dịch lục khí hay cụ thể là trong bộ môn châm cứu lục khí
lấy Hòa làm trọng để giúp thông kinh hoạt lạc, âm dương cân bằng

Tóm lại:
101
Châm cứu lục khí sử dụng các huyệt đạo lục khí theo hệ thống lý luận
đăng trưng của mình để “mở” tất cả các cánh cửa “đang đóng” của hệ kinh
lạc trong toàn bộ cơ thể, nhờ vậy mà
lục khí sẽ “tư do” di chuyển theo nguyên tắc âm thăng dương giáng, nơi
thừa vào nơi thiếu, nơi yếu nhận từ nơi mạnh chính vì vậy mà lục khí
trong mỗi đường kinh, lục khí trong mỗi
tạng phủ được cân bằng, đầy đủ, hài hòa làm cho công năng của tạng phủ,
kinh mạch, khí huyết được trở về trạng thái bình thường – Trạng Thái
Khỏe Mạnh

102
PHÉP BỔ TẢ TRONG CHÂM CỨU LỤC KHÍ

 Video bài giảng bát cương, tứ chẩn, bát pháp 13 A-B

103
TẠI SAO PHẢI DÙNG HUYỆT THEO BỘ
Khi học theo cách châm của môn châm cứu lục khí, chúng ta được học
một cách châm mới tức là châm theo bộ. Không phải là chọn huyệt theo
từng công năng của huyệt nữa mà chúng ta sẽ chọn huyệt theo bộ, gồm có
4 bộ hay bốn cách châm là thủ châm, túc châm, âm châm và dương châm.
Vậy tại sao phải “cầu kì” dùng theo bộ thế này mà không dùng theo lối cũ
có phải đơn giản hơn không, đỡ gây rắc rối cho người hậu học.

Châm cứu lục khí lấy căn bản mạch lý làm chuẩn để tìm ra gốc bệnh và
chọn huyệt lục khí để điều trị. Còn gốc bệnh từ đâu mà ra? Thường thì khi
cơ thể chúng ta mắc một bệnh gì đó là do một quá trình chuyển biến và
đấu tranh lâu dài giữa yếu tố gây bệnh và yếu tố bảo vệ, đến khi nào yếu
tố gây bệnh thắng yếu tố bảo vệ thì bệnh tất lúc đó sẽ sảy ra đối với cơ thể
đó. Theo y học cổ truyền thì cơ thể con người được cấu tạo bởi 5 thành tố
và theo y dịch lục khí thì cơ thể con người được cấu tạo bởi lục khí, tức
là thêm hành thử để thể hiện cho hoạt động của tâm trí, cái tôi, cái linh
hồn, phần tâm linh của mỗi cá thể. Tất nhiên là lý luận của ngũ hành và
lục khí về sự cấu tạo của cơ thể con người là không có mâu thuẫn gì cả,
chỉ có là sự bổ sung lẫn nhau, cùng nhau làm nền tảng cho việc chữa bệnh
của thầy thuốc thêm phần hiện quả mà thôi.
Vậy thì bệnh tật là do lục khí trong cơ thể không được điều hòa, ổn định
và cân bằng, hay là công năng hoạt động của các cơ quan tạng phủ trong
cơ thể thuộc về sáu khí này là không tốt. Cụ thể là:
Hỏa khí toàn thân đại biểu cho: hệ tuần hoàn của cơ thể…cung cấp dưỡng
chất cho các cơ quan
Kim khí toàn thân đại biểu cho: hệ da, lông của cơ thể…cơ quan lớn nhất
của cơ thể, bảo vệ khỏi sự xâm nhập của yếu tố bên ngoài lên các cơ quan
bên trong
Thử khí toàn thân đại biểu cho: hoạt động của tâm trí, năng lương, cái
tôi…
Thận khí toàn thân đại biểu cho: hệ xương, tủy…tạo nên hình thể con
người
Mộc khí toàn thân đại biểu cho: hệ gân, dây chằng…vai trò trong vận
động, thăng bằng

104
Thổ khí toàn thân đại biểu cho: hệ cơ… vai trò chính trong vận động,
hoạt động của con người
Lục khí trong cơ thể thì không có cái nào quan trong hơn cái nào, đơn
giản là vì chúng có quan hệ hữu cơ với nhau, cái này có thì cái kia có, cái
này tồn tại được vì cái kia tồn tại, không thể tác rời như âm với dương của
thái cực vậy.
Khi xử dụng bộ huyệt điều trị theo cách I hoặc cách II thì ta thấy một
điều là tất cả các kinh thuộc các hành đều có huyệt để sử dụng,tức là các
khí trong cơ thể đều được “kích hoạt” vì vậy sẽ tạo nên một “hiệu ứng”
toàn thân để tạo nên sự ổn định, hài hòa, cân bằng của lục khí trong cơ
thể, từ đó chỗ tắc biến thành thông, chỗ thông hỗ trợ cho nơi tắc khác, và
âm dương toàn thân sẽ được thiết lập lại trạng thái cân bằng trở lại. Tại
sao ta biết điều này, rất đơn giản chỉ cần xem lại mạch sau khi châm hoặc
dán salonpas lên huyệt là có thể biết được. Vì ngay sau khi tác động lên
huyệt thì mạch bệnh sẽ chuyển thành về dạng bình mạch, vô lực sẽ dần
thành hữu lực…dưới đây là một hình minh họa về việc sử dụng trọn bộ
huyệt

105
CÁCH DÙNG DU HUYỆT
Khi chúng ta sử dụng một bộ huyệt, ví dụ như bộ thổ thủ châm 13
huyệt chẳng hạn tức là chúng ta dùng huyệt ỏ trên các đường kinh đại
trường, tam tiêu, tiểu trường, tâm bào lạc, phế và tâm khi tất cả 13 huyệt
này được kích thích trong một thời điểm thì trong cơ thể của người bệnh
sẽ diễn ra quá trình chuyển hóa qua lại của âm dương, khí huyết nhằm lập
lại cân bằng âm dương và ổn định khí huyết của toàn thân. Tại sao chúng
ta biết việc này? Chỉ có dựa vào xem mạch trước và sau khi dán huyệt thì
ta mới có thể xác nhận được việc này là đúng, tức là từ mạch bệnh, sau
khi dán bộ huyệt thì bộ mạch đó sẽ chuyển về dạng bình mạch của lục
khí, tức là bộ quan hai bên cao hơn bộ thốn và xích, còn bộ thốn và bộ
xích ngang bằng nhau. Tất nhiên việc chuyển về bình mạch nhanh hay là
chậm là phụ thuộc vào tình trạng bệnh, hoàn cảnh chữa bệnh, chọn đúng
bộ huyệt…
Nhưng giờ ta muốn bộ mạch chuyển nhanh hơn, tức là không còn cách
nào khác chúng ta phải thêm huyệt nhằm hỗ trợ cho khí huyết trong các
đường kinh Hòa được với nhau nhanh hơn nữa. Vậy thì cần thêm bao
nhiêu huyệt? và có “bí kíp” nào trong việc thêm huyệt này không. Rất
may là thầy của chúng ta Thầy Đặng Đức Thảo đã chỉ cho chúng ta biết
bí kíp này.
Bí kíp đó là: thêm Du huyệt
Lợi ích của việc thêm Du huyệt là gì:
-Giúp hai kinh trong cùng một hành “chắp” với nhau
-Giúp thủ chữa cho túc, túc chữa cho thủ nhanh hơn nhiều
-Giúp âm châm chữa cho dương châm, dương châm chữa cho âm châm
thực sự nhanh hơn
-Giúp bộ mạch được ổn định về phần âm dương khí huyết nhanh chóng
và lâu dài
-Chắc chắn là sẽ nâng cao hiệu quả điều trị
Và còn những lợi ích khác nữa mà chúng tôi sẽ giải thích thêm
Mời các bạn xem hình ảnh ở dưới để hiểu rõ vấn đề thêm Du huyệt này.
Đây chỉ là ví dụ về bộ Thổ Thủ châm phương pháp I, theo nguyên tắc

106
thêm du huyệt này, chúng ta cứ thế mà tiến hành với các bộ huyệt khác
thuộc bất kì kiểu châm nào.

107
BỐN CÁCH CHÂM CỦA CHÂM CỨU LỤC
KHÍ

Khác với phương pháp châm cứu cổ điển dựa vào học thuyết ngũ hành,
bổ tả. Việc chọn huyệt dựa trên công năng của từng huyệt vị, tương tự
như là công năng của từng vị thuốc vậy ví dụ như trong trường hợp bệnh
nhân bị tai biến mạch não, thì một đơn huyệt thường dùng sẽ là

Giai đoạn cấp tính:

Chứng thực: Kích thích mạnh, không lưu kim: Nhân trung, Thập tuyên
(kỳ huyệt), Thái xung, Phong long, Bách hội, Dũng tuyền.

Chứng hư: Cứu huyệt Thần khuyết và huyệt Quan nguyên.

Giai đoạn mạn tính: Kích thích mạnh với cường độ thích hợp.

Chi trên: Định suyễn (kỳ huyệt), Kiên ngung, Ngoại quan, Khúc trì, Hợp
cốc.

Chi dưới: Thận du, Đại trường du, Ân môn, Hoàn khiêu, Phong thị, Dương
lăng tuyền, Huyền chung, Giải khê.

Mất ngôn ngữ: Liêm tuyền, Á môn, Thông lý.

Liệt mặt: Hạ quan, Giáp xa, Thừa tương.

Thử đặt ra một câu hỏi, là lý do gì mà lại dùng những huyệt như vậy? khi
châm như thế thì khí huyết trong cơ thể sẽ chuyển biến như thế nào?
Không châm những huyệt như thế này, mà châm những huyệt khác liệu
có sao không? Sẽ có rất nhiều câu hỏi tương tự như vậy cho một đơn huyệt
trị liệu của châm cứu, vì đơn giản là phương pháp này chỉ dựa vào kinh
nghiệm của mỗi thầy chữa, rồi nhờ sự tích lũy, ghi chép qua nhiều thế hệ
mà chúng ta có những huyệt như vậy.

108
Còn châm cứu lục khí thì sao, chúng ta sử dụng hệ thống huyệt lục khí,
lấy mạch lý và bộ mạch lục khí làm căn bản để thầy chữa có thể tìm bộ
huyệt và kiểm nghiệm, đánh giá ngay lập tức kết quả trị liệu của bộ huyệt
lục khí mà ta chọn. Chúng ta có 4 cách chọn huyệt cơ bản là Thủ châm,
Túc châm, Âm châm và Dương châm. Tùy vào tình trạng của người bệnh
và tình trạng bệnh mà chúng ta có thể phối hợp các cách châm này với
nhau để đạt được mục đích là điều chỉnh lại bộ mạch từ "mạch xấu"
chuyển thành "mạch đẹp". Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giải
thích rõ tại sao lại có 4 cách châm như vậy. Chính các chọn các kinh trong
bộ mạch sẽ tạo ra 4 kiểu châm như vậy.

Lấy bộ Thổ ra làm ví dụ, các bạn xem hai ảnh ở dưới để hiểu rõ chi tiết
về 4 cách châm của môn châm cứu lục khí

109
110
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐIỀU TRỊ
BẰNG DÁN SALONPAS LÊN HUYỆT

Châm cứu lục khí sử dụng việc dán những miếng salonpas đã được cắt
thành hình vuông nhỏ, (~0,8mm*0,8mm) lên các huyệt lục khí để nhằm
thay điều chỉnh lục khí trong toàn thân và những nơi mà cơ thể gặp rối
loạn. Và kết quả là ngay sau việc dán salonpas lên huyệt lục khí thì mạch
thốn khẩu của bệnh nhân thay đổi ngay, và dần được điều chỉnh trở về
bình mạch. Chắc không ít người có câu hỏi là, tại sao salonpas lại có tác
dụng “kì diệu” như vậy, liệu có vấn đề gì ở việc làm này hay không?
Ngoài salonpas ra thì các loại cao dán khác, những loại đang được bày
bán nhiều trên thị trường thì có tác dụng như vậy hay là không? Chúng
tôi cùng các bạn đi tìm hiểu về bản chất huyệt vị cũng như bản chất việc
tác động của salonpas lên huyệt như thế nào để tăng thêm sự tin tưởng
vào phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả cao này.
Bản chất huyệt châm cứu theo đông y và tây y:
Theo đông y:
- Huyệt là nơi thần khí – khí của kinh mạch, khí của tạng phủ, khí của 8
tổ chức quan trọng của cơ thể hoạt động. Hình thức là xuất ra (khí xuất ra
ngoài) nhập vào (tiếp nhận từ bên ngoài, khí tụ lại); du hành (làm việc liên
tục ) để cơ thể liên thông với ngoại cảnh, tiếp nhận các tác động của ngoại
cảnh và đáp ứng lại để có thể được cân bằng ở cả bên trong, làm cân bằng
giữa cơ thể và ngoại cảnh.
- Huyệt có tổ chức riêng, không phải là da, cân, cốt; mỗi tổ chức có huyệt
đại diện của mình.
Theo tây y:
Huyệt châm cứu là hệ thụ cảm thể (Receptor). Chúng ta nhận biết được
tính chất đặc điểm của thế giới bên ngoài nhờ các cảm giác, các cảm giác
được các bộ phận thụ cảm cảm giác đặc hiệu của cơ thể tiếp nhận, rồi

111
chuyển về hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh trung ương phân tích tích
hợp các thông tin cảm giác và ra quyết định đáp ứng phù hợp.
Có nhiều loại thụ cảm thể bao gồm: Thụ cảm thể xúc giác, thụ cảm thể
nóng lạnh, thụ cảm thể đau, thụ cảm thể bản thể và thụ cảm thê của giao
cảm và phó giao cảm nằm ở các tạng phủ
Cơ chế tác dụng của châm cứu theo tây y:
Theo học thuyết thần kinh-nội tiết-thể dịch, đây là một trong những học
thuyết được cho là hợp lý nhất của các nhà khoa học châu âu dùng để giải
thích về bản chất tác dụng của châm cứu. Theo học huyết này thì châm
cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới. Châm là một kích
thích cơ giới, cứu là một kích thích về nhiệt gây nên kích thích tại da,
cơ.Tại nơi châm, cứu có những biến đổi, tổ chức tại nơi châm bị tổn
thương sẽ tiết Histamin, axetylcholin, cathecolamin… nhiệt độ ở da thay
đổi, bạch cầu tập trung, phù nề tại chỗ, các phản xạ đột trục làm co giãn
mạch máu…
Tất cả những kích thích trên tạo thành một kích thích chung của châm
cứu. Các luồng xung động của các kích thích được truyền vào tủy lên não,
từ não xung động chuyển tới các cơ quan đáp ứng hình thành một cung
phản xạ mới.
Cơ chế tác dụng của salonpas khi dán lên huyệt:
Thành phần của salonpas:
- Methyl Salicylate
- I-Menthol
- dl-Camphor
- Tocopherol Acetate
Tác dụng trên da sau khi dán: nhờ có những thành phần như trên nên sau
khi Salonpas được dán lên da sẽ tạo nên các tác dụng sau:
- Kích thích thụ cảm nóng lạnh trên da_ làm ấm vùng da
- Kích thích thụ cảm xúc giác_ miếng Salonpas dính trên da

112
- Kích thích thụ cảm thể đau _ nếu sau khi dán lên 1 huyệt xong, ta lại
dùng đầu móng tay bấm vài lần lên huyệt đó
- Nhờ vậy mà tại vùng da dưới lớp cao Salonpas sẽ có hiện tượng sau: dãn
mạnh,giải phóng các hoạt chất trung gian thần kinh như: Histamin,
axetylcholin, cathecolamin… nhiệt độ ở da thay đổi, bạch cầu tập trung,
phù nề tại chỗ, các phản xạ đột trục làm co giãn mạch máu…
Từ những cơ sở khoa học này ta thấy, việc dán Salonpas lên huyệt đạo có
tác dụng giống với khi dùng kim châm cứu châm nông trên bề mặt da
(superficial technique). Đây chính là lý do vì sao người thực hành châm
cứu lục khí có thể chữa bệnh một cách hiệu quả, không đau đớn, rất tiết
kiệm thời gian và tiền bạc khi nắm vững và sử dụng chính sác cao
Salonpas và các huyệt lục khí. Sau khi dán Salonpas xong thì mạch thốn
khẩu của bệnh nhân sẽ được điều chỉnh ngay lập tức hoặc từ từ trở về
đúng với tượng của bình mạch tùy vào mức độ nặng nhẹ của bệnh, nhưng
chắc chắn rằng mạch của người bệnh sẽ thay đổi tốt hơn.
Chúc các bạn thành công và ngày càng thực hành nhiều hơn bộ môn châm
cứu lục khí một bố môn mới trong đông y để mang lại sức khỏe, niềm an
vui và hạnh phúc cho thật là nhiều người xung quanh bạn cũng như những
người ở xa bạn.

113
114
Những hiện tượng xuất hiện sau khi dán huyệt

Châm cứu lục khí là lối châm cứu đặc trưng của người Việt Nam ta, lý
luận của lối châm cứu này do người Việt Nam phát minh và phát triển,
sau nhiều năm nghiên cứu và thử nghiệm thì châm cứu lục khí hiện nay
đã trở thành một bộ môn hoàn thiện về lý luận và thực hành.

Với nguyên tắc điều trị khác với châm cứu theo lối thông thường là lấy
bổ tả làm trọng, châm cứu lục khí lấy pháp Hòa để lập lại bằng âm dương,
điều hòa lại khí huyết trong cơ thể từ đó bệnh tật sẽ được đẩy lùi, cơ thể
bị bệnh trở về với cơ thể khỏe mạnh trước kia. Châm cứu lục khí khác với
bộ môn châm cứu trước đây ở chỗ, không sử dụng bộhuyệt theo lối kết
hợp từng huyệt với nhau một cách rời rạch, dựa vào kinh nghiệm và đặc
tính của từng huyệt vị đó, theo lý luận của ngũ hành. Châm cứu lục khí sử
dụng trọn bộ huyệt, với các hành của huyệt có liên quan chặt chẽ, logic
với nhau để điều hòa được lục khí trong cơ thể, các bộ huyệt đó là, bộ thổ,
115
bộ thử, bộ mộ, bộ hỏa, bộ kim, bộ thủy. Mỗi bộ huyệt lại có 4 phương
pháp châm khác nhau là thủ châm, túc châm, âm châm và dương châm.
Chính vì việc sử dụng bộ huyệt vì thế tác dụng của châm cứu lục khí là
Hòa và do đó có những tác dụng “kì lạ” khi sử dụng những bộ huyệt này,
chúng tôi xin đưa ra một số biểu hiện thường gặp trên lâm sàng:

- Ngủ ngon: Hầu như người nào sau khi được dán huyệt đều có hiện tượng
ngủ ngon và sâu hơn ngay buổi tối đầu tiên sau khi dán huyệt.

- Đi đại tiện dễ dàng: ai bị táo bón, rối loạn tiêu hóa sẽ thấy việc đi vệ
sinh của minh dễ dàng hơn

- Đau mình mẩy, xương khớp: những người bị phong, hàn, thấp bên
trong gân, cơ xương khớp sau khi dán huyệt có thể thấy người bị đau nhức,
mệt mỏi như bị cảm, đừng lo sợ, đây thực sự là quá trình đưa các tà khí
đang ẩn nấp trong cơ thể ra ngoài

- Cảm thấy rất lạnh, rét run: những người có mạch phục, mạch cách rất
hay có hiện tượng này, đây là biểu hiện của hàn khí được đẩy từ xương
tủy ra ngoài, hiện tượng này rất tốt

- Nóng người, nổi mụn, người ủ rũ: một số người bệnh do quá trình sử
dụng thuốc tây lâu dài khi bắt đầu dán huyệt sẽ thấy hiện tượng trên xuất
hiện. Đây là hiện tượng tốt, cơ thể của bạn đang được giải độc và bạn cần
phải nghỉ ngơi nhiều hơn để quá trình giải độc diễn ra nhanh hơn

- Toát mồ hôi nhiều

- Trung tiện (đánh hơi) nhiều hơn, nặng mùi hơn

- Buồn ngủ “rũ rượi” vừa uống rượu bia xong, đang trong trạng thái "ngà
ngà" mà dán huyệt thì sẽ thấy rất buồn ngủ, có thể thấy thêm mồ hôi rịn
ra theo lỗ chân lông, đi tiểu nhiều hơn bình thường: tất cả hiện tượng này
là do chất cồn trong cơ thể đang được đẩy ra ngoài để giúp bạn giải rượu.

Tóm lại: vì sử dụng pháp Hòa, nên khi sử dụng châm cứu lục khí cơ thể
chúng ta sẽ bước vào quá trình giải độc toàn bộ, độc tố sẽ đi ra đường nào
mà mà nó thấy “thông” nhất.

116
Lưu ý khi đán salonpas

Phương pháp điều trị bệnh của môn châm cứu lục khí là sử dụng salonpas
cắt thành từng miêng vuông nhỏ khoảng 5*5 mm dán vào vị trí các huyệt
lục khí, việc sử dụng salonpas không phải bất kì lúc nào vào người nào
cũng sử dụng được, vì thế chúng tôi xin có một bài viết về việc sử dụng
salonpas đúng cách, và hướng xử lý khi gặp vấn đề:
Trước và sau khi dán huyệt lục khí cần phải đánh giá tình trạng da của
người bệnh:
-Da có sạch hay là không?
-Da tại vùng huyệt lành lặn hay là không?
-Vùng da đó có bị bệnh ngoài da hay không?
-Da có nhạy cảm với thành phần có trong salonpas hay không?
-Da mỏng hay da dày?
-Sau vài lần dán cao da có biểu hiện thay đổi bất thường nào không?

Trước khi quyết định dán cao salonpas lên huyệt lục khí chúng ta cần phải
chắc chắn rằng vùng da đó là sạch, không bị bẩn, mất vệ sinh vì thế nếu
người bệnh chưa rửa chân, rửa tay thì phải bảo họ rửa tay chân sạch sẽ rồi
lau khô thì mới dán huyệt có hiệu quả cao được.
Da vùng huyệt bị trầy xước, đang mọc mụn mủ thì không được sử dụng
huyệt đó mà phải chuyển sang các bộ huyệt khác để trị liệu. Cái hay của
châm cứu lục khí là cho chúng ta rất nhiều cách lựa chọn huyệt khác nhau,
nếu tay không dán được thì dùng chân và ngược lại, nếu nửa người trái
không dán được thì dán bên phải, nếu nhiều huyệt không dán được thì dán
ít huyệt … cách nào cũng được, chỉ cần dùng đúng hành của huyệt, đúng
vị trí huỵệt và đúng bộ huyệt thì dù chỉ 3 huyệt cũng đủ để làm mạch bệnh
chuyển về bình mạch một cách nhanh chóng.
Một số ít người có da nhạy cảm cao, đặc biệt cũng có một số người dị ứng
với thành phần có trong salonpas như: Methyl Salicylate, Methol,
Camphor, Tocopherol Acetate, để tránh việc này chúng ta cần hỏi kĩ bệnh
nhân những câu hỏi để xác định họ có phải là người có cơ địa dị ứng hay
là không ví dụ: có hay bị dị ứng thức ăn, dị ứng thời tiết không? Đã dùng
117
salonpas hay loại cao dán nào bao giờ chưa, khi dùng có sao không? Nếu
tất cả các câu trả lời là không thì ta đã yên tâm về việc sử dụng salonpas
cho người bệnh này, tuy nhiên chúng ta vẫn phải hỏi bệnh nhân vào ngày
hôm sau và các lần dán sau nữa.
Người có da rất mỏng thì nên dán salonpas vừa phải và nên thay đổi các
bộ huyệt để tránh làm bỏng da, thay vào đó người này có thể day huyệt,
vuốt huyệt, châm kim
Cách xử lý tình trạng da tại vị trí huyệt lục khí bị nóng, khô, bong tróc,
tấy đỏ khi dán salonpas nhiều lần hoặc da nhạy cảm.
-Nhận thức rằng, đây không phải là tình trạng đáng ngại, bình tĩnh xử lý
là có thể phụ hồi bình thường
-Ngừng ngay việc dán salonpas tại vùng da đó, chuyển sang bộ huyệt khác
để dán, từ tay chuyển xuông chân hoặc ngược lại
-Sử dụng kem dưỡng da, kem dưỡng ẩm… xoa lên các vùng ta tổn thương
để tăng quá trình tự phục hồi của da
-Nếu vẫn muốn sử dụng bộ huyệt này thì dùng cách day bấm huyệt để
thay thế, cũng rất tốt.

118
CÁC PHƯƠNG PHÁP “CHÂM” HUYỆT
LỤC KHÍ MÀ KHÔNG SỬ DỤNG
SALONPAS

Khi nói đến từ châm cứu thì tất cả mọi người hiện nay đều nghĩ đế đó là
lấy kim châm cứu bằng kim loại châm vào huyệt ở trên cơ thể, và từ đó
hình thành một khái niệm châm cứu – rất đau, tất nhiên đây là một khái
niệm “đúng” với châm cứu dùng kim, nhưng rõ ràng là không đúng với
châm cứu dùng các cách khác để tác động lên huyệt: như dùng salonpas,
day bấm huyệt, gõ lên huyệt, dùng laze, cứu huyệt …

Như chúng ta đã biết, châm cứu tức là điều hòa khí huyết bằng các sử
dụng một số huyệt nhất định theo các phương pháp phối hợp huyệt khác
nhau, dựa theo kinh nghiệm và học vấn của từng người thầy chữa bệnh,
tất nhiên là tùy vào tình trạng bệnh và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân
tại thời điểm đi chữa bệnh nữa.
Có rất nhiều cách châm cứu khác nhau, có cách gây đau, có cách không
đau, có cách lại thấy thích vì dễ chịu. Trong phạm vi bài viết này, chúng
tôi chỉ xin giới thiệu những cách tác động lên huyệt lục khí để đạt được
hiệu quả điều trị và chuyển mạch bệnh thành bình mạch mà thôi.

119
120
CHÂM CỨU LỤC KHÍ DÙNG CHO AI
Rất nhiều người hỏi chúng tôi là bộ môn châm cứu lục khí này có thể được
áp dụng cho những ai, những thành phần nào trong xã hội và chữa được
những bệnh gì...chúng tôi sẽ lần lượt trả lời tất cả những câu hỏi này trong
các bài viết trên website này. Vì lý luận cuẩ môn châm cứu lục khí, lý
luận về huyệt vị lục khí là rất khoa học và logic, việc tìm ra những giá trị
cốt lõi của huyệt vị đã giúp cho bộ môn châm cứu này trở nên rất an toàn
và tiện dụng, nó là một công cụ để phòng bệnh, chữa bệnh thật hiệu quả
và tuyệt vời.

121
122
CÁC BỘ HUYỆT ÂM DƯƠNG THỦ TÚC
CHÂM
 Bộ Thủy: thủ châm, túc châm, âm châm, dương châm
 Bộ Thử: thủ châm, túc châm, âm châm, dương châm
 Bộ Mộc: thủ châm, túc châm, âm châm, dương châm
 Bộ Hỏa: thủ châm, túc châm, âm châm, dương châm
 Bộ Thổ: thủ châm, túc châm, âm châm, dương châm
 Bộ Kim: thủ châm, túc châm, âm châm, dương châm
Các bạn có thể thấy những điểm khó hiểu sau, chúng tôi xin cắt nghĩa như
sau:

 Chữ BỘ THỦY - ÂM CHÂM không có dấu được viết thành BO THUY


AM CHAM, lí do là châm cứu lục khí không những chỉ được giảng dạy
cho người Việt Nam, mà còn được truyền bá tới người nước ngoài khắp
năm châu,vì vậy để giúp những người mới học không bị lầm lẫn với những
thuật ngữ châm cứu của Trung quốc, cái mà đã được dịch ra thành tiếng
anh và giảng dạy phổ biến nhiều nơi, chúng tôi mạnh dạn đã đề xuất việc
xử dụng thuật ngữ tiếng Việt không dấu để phân biệt với các môn châm
cứu cổ điển khác.Và việc dùng tiếng Việt không dấu để nói lên châm cứu
lục khí là của người Việt Nam.
 Các tên của huyệt đều được kí hiệu theo chuẩn của quốc tế, để giúp các
bạn dễ dàng hơn trong việc tra cứu vị trí cụ thể của từng huyệt vị.Các bạn
có thể gõ tên huyệt này trên mạng, và sẽ có nhiều tài liệu chỉ rõ vị trí của
từng huyệt đạo này. Cách tìm: muốn tìm thông tin về huyệt nào đó, bạn
làm như sau: A + acupuncture point (A là tên huyệt, ví dụ KI1)
Chúc các bạn thành công

123
CÁCH TÍNH ÂM CHÂM, DƯƠNG CHÂM,
THỦ CHÂM, TÚC CHÂM

Xin giới thiệu với các bạn cách tính Âm châm, Dương châm, Thủ châm
và Túc châm, lấy bộ Thủy làm ví dụ. Hình sẽ khá đẹp mắt và các bạn cần
xem kĩ và suy nghĩ để biết được cách tính này. Chắc chắn là phải kết hợp
với việc học trên video của Thầy Thảo rồi.

124
125
HUYỆT LỤC KHÍ TRÊN 12 ĐƯỜNG KINH

126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
HUYỆT LỤC KHÍ HỆ THỦ

139
140
HUYỆT LỤC KHÍ HỆ TÚC

141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
CHÂM CỨU LỤC KHÍ PHƯƠNG PHÁP II

Phương pháp I hay là phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu lục khí mà
Thầy Đặng Đức Thảo, đã dạy chúng ta từ đầu đến bây giờ được gọi là
phương pháp I, từ bài 156 Thầy Thảo đã chuyển sang phương pháp II của
châm cứu lục khí, tức là cách dùng huyệt có sự khác biệt so với phương
pháp thứ nhất, sự khác biệt này nằm ở cách sử dụng Du huyệt. Nếu như
trước đây khi ta sử dụng các bộ huyệt thủ châm, túc châm, âm châm và
dương châm thì điều đầu tiên lưu ý là chủ kinh không có du huyệt và thứ
hai là tĩnh huyệt của kinh âm phải dùng kết hợp với hợp huyệt của kinh
dương có hành đối lập.

Nhưng khi chuyển qua phương pháp II thì việc sử dụng Du huyệt đã được
linh hoạt hơn nhiều, tức là chủ kinh có thể dùng Du huyệt và vẫn giữ
nguyên tắc tĩnh huyệt kinh âm phải dùng kết hợp với hợp huyệt của kinh
dương. Việc sử dụng cách II sẽ giúp việc sử dụng huyệt trên một đường
kinh được đầy đủ và cho phép ta có thêm được nhiều lựa chọn trong việ
điều trị. Việc sử dụng du huyệt trên chủ kinh sẽ giúp việc điều chỉnh lục
khí thêm phần linh hoạt với việc sử dụng du huyệt tại một trong hai cặp
hành còn lại. Sẽ có thêm những bài viết khác để giải thích chi tiết về châm
cứu lục khí phương pháp II mà chúng tôi sẽ được trình bày sau.

204
205
MẪU BÀN TAY ĐỂ THỰC HÀNH DÁN HUYỆT

206
207
NĂNG LƯỢNG TÁI SINH VÀ NĂNG
LƯỢNG THOÁI HÓA
Khi cơ thể đang bị khát cùng cực, nếu ta bắt gặp một cốc nước trước mặt
thì đúng là quý giá hơn vàng (vì vàng không giúp bạn hết khát được). Tuy
nhiên, nếu cốc nước chứa đầy những cặn bẩn, những tạp chất thì nếu có
uống hết đi chăng nữa chắc cũng không làm hết cơn khát được, mà thậm
chí còn khát hơn là đằng khác. Con người ngày nay luôn “khát” sức khỏe
như người trên sa mạc khô cằn khát nước vậy.
Hãy tưởng tượng việc thanh lọc, làm sạch cơ thể vật chất và tinh thần để
khỏe mạnh tương tự như việc chúng ta làm trong lại cốc nước đang bị vẩn
đục giúp thỏa mãn cơn khát. Cơ thể bệnh tật được biểu hiện như là một
cốc nước đang trong trạng thái bị vẩn đục, công việc chữa bệnh, hàn gắn,
sửa chữa các tổn thương thể chất và tinh thần chính là cách mà chúng ta
tìm lại nước sạch trong cốc nước đang bị các tà khí, độc tố (ô trược) làm
vẩn đục. Một cơ thể khỏe mạnh là cơ thể trong đó năng lượng tái sinh
vượt trội hẳn so với năng lượng thoái hóa. Năng lượng tái sinh là năng
lượng sạch để giúp cho các cơ quan tạng phủ được tươi mát, thông suốt
và sảng khoái. Ngược lại, năng lượng thoái hóa là năng lượng bẩn, ô trược
gây tác hại bất lợi tới các các cơ quan trong cơ thể, làm chúng bị xấu xí,
đau đớn và bệnh tật.
Xin trích dẫn ra đây một đoạn trong quyển sách: chúng ta thoát thai từ
đâu_Tg E rơ nơ mun đa sép) nói về năng lượng thoái hóa và năng lượng
tái sinh. “Trong y học chúng ta có khái niệm “sự tái sinh” và “sự thoái
hóa”. Sự tái sinh là năng lượng chuyển hóa có hướng, nó làm mô phát
triển và là cơ sở của sự sống thể xác. Sự thoái hóa là năng lượng chuyển
hóa không hướng, nó đưa đến phá huỷ các mô và cái chết. Trong vật lý
năng lượng có hướng có thể làm chuyển động máy bay, xe lửa, còn nương
lược vô hướng dẫ đến bùng nổ, dủy diệt (bom). Năng lượng tinh thần cũng
có thể có hai trạng thái - Tâm năng hướng tâm và Tâm năng li tâm…”

208
Với những người làm nghề chữa bệnh nói chung và y học tự nhiên nói
riêng thì việc đặt ra câu hỏi: thực chất thì các phương pháp dưỡng sinh,
châm cứu lục khí, xoa bóp trị liệu, thuốc thảo dược…tại sao lại chữa được
bệnh? cần phải làm sáng tỏ. Vậy bản chất tác dụng chữa lành bệnh TÂM
- THÂN của các phương pháp trị liệu tự nhiên ắt hẳn phải có liên quan tới
NĂNG LƯỢNG TÁI SINH & NĂNG LƯỢNG THOÁI HÓA.

Trên con đường giải mã bí mật tác dụng chữa lành bệnh của các phương
pháp trị liệu tự nhiên, tôi đã nhận thấy được sự liên quan hữu cơ tuyệt đối
chính xác này. Xin phân tích hai phương pháp trị liệu phổ biến là: massage
và châm cứu
Massage xoa bóp tạo ra được năng lượng tái sinh như thế nào ? Lấy hình
tượng làm sạch cốc nước đang bị vẩn đục để các bạn dễ dàng tưởng tượng.
Trước hết việc đầu tiên là phải để yên cốc nước, kế đó là lấy cái que khuấy
theo 1 chiều và thế là cốc nước trong trở lại. Bí kíp ở đây là giữ tâm bình
thản, tập trung vào động tác khuấy, những thao tác cần từ từ và tập trung.
Ngược lại, nếu như cốc nước đang gần trong rồi, bạn lại “động mạnh”
hoặc chẳng may “khuấy ngược” trở lại thì hóa ra công cốc. Nước lại đục.
Cũng như vậy, khi làm massage xoa bóp thì luôn phải tuân thủ theo các
bí kíp bao gồm: tư thế, hơi thở, khoảng cách, bàn tay và tâm trí. Khi nào
5 bí kíp này được áp dụng nhuần nhuyễn, điêu luyện, thích hợp thì chính
là khi bạn tạo ra được năng lượng tái sinh mạnh mẽ từ chính chính đôi tay
của mình. Đó là thời điểm bạn giúp chính bản thân mình và người khác
kết nối được với nguồn năng lượng tái sinh mạnh mẽ của vũ trụ.

209
Châm cứu lục khí cũng vậy. Sự tồn tại kì diệu và hoàn hảo của hệ thống
huyệt lục khí cùng với hệ thống huyệt lạc, khích, kì kinh bát mạch là công
cụ tạo ra năng lượng tái sinh mạnh mẽ. Bằng cách xem mạch, người Thầy
biết được chỗ nào cần phải tập trung năng lượng tái sinh nhiều nhất, qua
“tín hiệu dẫn đường” chính xác của mạch lý giúp ta khám phá cách phối
hợp các huyệt đạo, cách châm chính xác nhất, hiệu quả nhất, có lợi nhất
cho người bệnh
Lưu ý: khi chúng ta làm trong cốc nước để sử dụng, thì thực chất những
cặn bã vẫn còn đó, chúng vẫn ở trong cốc nước mà chưa hề mất đi. Chính
vì vây, ta cần phải nhớ rằng, cơ thể mình lúc nào cũng luôn có những chất
cặn bã, độc tố tự sinh ra và từ ngoài vào. Không bao giờ được chủ quan.
Để làm sạch cơ thể tận gốc, hãy luôn duy trì suy nghĩ giúp tâm hỷ lạc,
cách ăn uống đúng mực và luôn chia sẻ…

210
BÀI THẬP TOÀN ĐẠI BỔ – BỘ MẠCH
LỤC KHÍ

Vị thuốc

Hoàng Kỳ (chích) 2 chỉ (tính ấm, trợ dương, cầm mồ hôi, cố biểu, sinh
cơ, khí hư thiếu)
Nhục quế 1 chỉ (vị cay nóng, chữa hư hàn, ôn bổ, thông huyết mạch, ôn
bổ, dẫn hoả quy nguyên)
Hai vị này được thêm vào BÁT TRÂN THANG để trở thành THẬP
TOÀN ĐẠI BỔ THANG : Bổ toàn vẹn âm dương khí huyết.
Đương quy (tẩm rượu) 2 chỉ (vị ngọt tính ấm, sinh huyết, trục ứ sinh
tân, chữa hư tổn)
Thục điạ 2 chỉ (vị ngọt tính ấm, bổ thận, bổ huyết ích tinh tuỷ)
Bạch thược 1,5 chỉ (vị chua, tính hàn, vừa bổ vừa liễm)
Xuyên khung 1 chỉ (tính ấm, thăng lên đầu khai ứ tắc )
Nhân sâm 2 chỉ (vị ngọt, đại bổ nguyên khí, vinh vệ khí, sinh tân, chỉ
khát)
Phục linh 2 chỉ (vị nhạt, hóa đàm, thông thủy đạo, lợi thấp)
Bạch truật 2 chỉ (vị ngọt ấm, bổ tỳ vị, trục đàm trừ thấp, cầm tiêu chảy)
Chích thảo 1 chỉ (vị ngọt ấm, làm ấm trung tiêu)
Hoàng Kỳ (chích) 2 chỉ (tính ấm, trợ dương, cầm mồ hôi, cố biểu, sinh
cơ, khí hư thiếu)
Nhục quế 1 chỉ (vị cay nóng, chữa hư hàn, thông huyết mạch, ôn bồ,
dẫn hoả quy nguyên)
Trong thang Thập toàn đại bổ, mỗi thang thêm 2 qủa táo tầu đen, và 3
lát gừng.

211
Cách sắc nấu :

Đổ 4 chén nước nấu cạn còn 1 chén, uống ấm. Uống khoảng 20 thang, cơ
thể thấy có sự thay đổi, ăn ngon, ngủ được, hết bần thần mệt mỏi đau
nhức, nhức đầu chóng mặt, mà tây y không tìm ra nguyên nhân. Người
bệnh chỉ uống nước sắc đầu hưởng được 100% chất bổ dưỡng, không
được uống nước sắc lần thứ hai, chất bổ chỉ còn 60%, nếu uống cả 2 nước
sắc, công hiệu chỉ được 80% sẽ kém hiệu nghiệm, kết qủa châm hơn.
Nhưng nước thứ hai có thể cho người khác trong gia đình uống cũng làm
tăng sức khỏe được 60%. Toa thuốc này tuy tầm thường, chỉ bồi bổ và lưu
thông khí và huyết giúp phòng chống bệnh tật, tăng cường hệ miễn nhiễm,
ăn ngủ ngon, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa, chữa những bệnh không
tên, không tìm ra nguyên nhân, có giá trị hơn nhiều so với loại thuốc bổ
Multivitamine chứa 24 chất của tây dược.

(nguồn khicongydao)

Phân tích bài thuốc theo lý luận lục khí

212
213
BÀI BÁT VỊ HOÀN – BỘ MẠCH LỤC KHÍ
1.Công thức bài thuốc
1. Thục địa 8 lạng
2. Hoài sơn 4 lạng
3. Sơn thù 4 lạng
4. Đơn bì 3 lạng
5. Bạch linh 3 lạng
6. Trạch tả 3 lạng
7. Nhục quế
8. Phụ tử 1 lạng

Bào chế, viên với mật bằng hạt ngô đồng mỗi lần uống 60 – 70 viên lúc
đói bụng, nấu nước muối làm thang mà uống, uống xong một lúc thì ăn
thức ngon chận lên.

2-Ý nghĩa của bài Bát vị:

Phương này chữa chứng tướng hỏa không đủ, hư gầy khí kém, cho nên
Vương Băng cho rằng “Bổ ích nguồn chân hỏa để làm tiêu tan mây mù
trong phần âm”, mạch xích nhược thì dùng rất thích hợp.

3. Công dụng bài thuốc


Trị các chứng : mệnh môn hỏa suy, tướng hỏa không đủ không sinh được
thổ, đến nỗi tỳ vị hư hàn, hư yếu, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện
không rắn, rốn bụng quặn đau, đêm đi đái nhiều, hoặc mạch hư nhược,
thổ yếu thủy thắng, thiếu hỏa hao kém; hoặc mạch rỗng ấn vào có lực,
hoặc hỏa hư đờm thịnh, cùng với các chứng âm thịnh cách dương, trong
thực hàn mà ngoài giả nhiệt, nên nói rằng bổ ích cho nguồn chân hỏa để
tiêu tan mây mù trong phần âm là thế.

(nguồn lehuutrac.edu.vn)

214
Phân tích bài thuốc theo lý luận lục khí

215
216
217
218
BÀI LỤC VỊ - BỘ MẠCH LỤC KHÍ
Với lý do rất nhiều người đang thắc mắc về việc dùng bộ mạch lục khí để
áp dụng cho việc dùng thuốc y học cổ truyền. Trong phần câu hỏi 41,
Thầy Thảo có hướng dẫn về việc sử dụng lý luận lục khí để sử dụng thuốc
đông dược. Dựa và sự hướng dẫn này, chúng tôi đã phân tích bài thuốc
rất cơ bản trong đông y: BÀI LỤC VỊ chi tiết xem tiếp bên dưới.
BÀI LỤC VỊ
1. Thành phần
Thục địa 8 lạng; Sơn thù 4 Sơn dược 4
Mẫu đơn bì 3; Trạch tả 3; Phục linh 3
Các vị tán nhỏ trộn với Thục địa cho mật ong vào viên bằng hạt ngô đồng
mỗi lần uống 70-80viên, với nước muối nhạt, nên uống khi đói lòng, uống
xong ăn thức ăn nhẹ để chận lên làm cho thuốc không ở mãi trong dạ dày
mà đi thẳng xuống hạ tiêu để tả khí xung nghịch
2.Phân tích BT
Thục địa: Tư âm trấn tinh là quân
Sơn thù: Dưỡng can nhiếp tinh; Sơn dược: Kiện tỳ cố tinh, hai vị là thần
Trạch tả: Thanh tả thận hỏa
Đan bì: Thanh tả can hỏa
Phục linh: Đạm thẩm lợi thấp. Ba vị này là tá và sứ
Ba vị đầu có tác dụng bổ, ba vị sau có tác dụng tả. Bài thuốc vừa bổ âm,
giáng hỏa chữa chứng âm hư sinh nội nhiệt
(nguồn :lehuutrac.edu.vn)

219
Châm cứu lục khí phân tích

220
221
222
CHÂM ÍT NHẤT LÀ MẤY HUYỆT
Châm cứu lục khí sử dụng các huyệt lục khí bao gồm: thổ huyệt, kim
huyệt, thủy huyệt, thử huyệt, mộc huyệt và hỏa huyệt trên các đường kinh,
cụ thể là 6 huyệt lục khí trên kinh dương, và 5 huyệt lục khí trên kinh âm.
Vì sao có sự khác biệt này, chính là do trên kinh âm du huyệt và nguyên
huyệt trùng với nhau, vì thế theo môn châm cứu lục khí ta chọn 1 chức
năng của huyệt vừa là du vừa là nguyên đó là Du huyệt của kinh âm.

Châm cứu lục khí đưa ra các bộ huyệt gồm có thủ châm, túc châm, âm
châm và dương châm. Tại sao lại có những bộ huyệt này? Khi chúng ta
học châm cứu lục khí thì sẽ biết rằng, pháp chữa bệnh của môn này là
pháp hòa, tức là người thầy thuốc phải xem mạch, xem cẩn thận tình trạng
khí huyết trong 6 bộ mạch để biết chính xác là gốc bệnh nằm ở chỗ nào
và sẽ dùng bộ huyệt nào để chuyển cái gốc bệnh đó. Quan trong của người
thầy thuốc khi chọn huyệt để điều chỉnh gốc bệnh là làm sao tránh tình
trạng thông tạm thời, sau đó lại tắc quay trở lại sau một thời gian. Chính
vì thế mà có những bộ huyệt cơ bản như thủ châm 13 huyệt, túc châm 13
huyệt, âm châm 14 huyệt và dương châm 12 huyệt. Việc sử dụng nhiều
huyệt lục khí như vậy không nằm ngoài mục đích là giúp bộ mạch của
người bệnh nhanh chóng chuyển dịch về dạng bình mạch, tức là mạch đi
trường mạch, hữu lựu có chánh khí. Và nhờ vào việc sử dụng đầy đủ chọn
vẹn các huyệt lục khí theo các hành nối với nhau thì gốc bệnh chắc chắn
sẽ chuyển nhanh hơn, khi đã chuyển đi rồi thì khó quay trởi lại hơn, chứng
bệnh đó sẽ dứt trong thời gian dài hơn hoặc sẽ dứt hẳn nếu như bệnh nhẹ
và người bệnh kết hợp với các phương pháp dinh dưỡng, dưỡng sinh tập
luyện khác…

Nhưng, có phải lúc nào cũng cần thiết phải châm đầy đủ cả bộ huyệt hay
không, hay nói cách khác là ít nhất chúng ta dùng mấy huyệt để châm?
Xin trả lời câu hỏi này như sau, ít nhất chúng ta sẽ châm 2 huyệt. Tại sao
lại châm 2 huyệt chứ không phải là 1 huyệt? vì châm cứu lục khí dùng
pháp Hòa để chữa, mà chữ hòa ở đây là từ chữ “dung hòa” mà ra, tức là
phải có sự trao đổi, tiếp nhận, hài hòa từ 2 phía, chính vì thế khi châm 1
huyệt lục khí thì ta phải châm 1 huyệt khác có hành tương tự để cho 2
huyệt này trao đổi được khí với nhau – thông 2 huyệt. Điều kiện để châm
2 huyệt hoặc 3 hoặc 4 huyệt là gì? Đó là trong trường hợp bệnh nhẹ, mạch
đi hữu lực, khi xem mạch chỉ thấy sự rối loạn vừa phải thì khi đó dùng ít
223
huyệt bệnh vẫn chuyển như thường. Ví dụ: trao đổi khí huyết giữa 2 kinh
đại trường và tiểu trường, trên kinh đại trường ta chọn huyệt nhị gian
(huyệt hành thủy), trên kinh tiểu trường ta chọn huyệt uyển cốt (huyệt
hành mộc), chỉ cần 2 huyệt này thôi là bộ thốn và xích bên tay trái của
người bệnh sẽ được quân bình với nhau và thêm nữa là 4 bộ huyệt còn lại
cũng sẽ được quân bình dần dần.

Vậy việc chọn châm ít huyệt hay nhiều huyệt là hoàn toàn phụ thuộc vào
việc xem mạch và tình trạng của người bệnh lúc đó ra sao. Chọn nhiều
huyệt, chọn ít huyệt đều có giá trị Hòa bộ mạch, chuyển mạch bệnh thành
bình mạch.

224
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BÀI GIẢNG BỘ MÔN CHÂM CỨU LỤC KHÍ ......................................................................... 1
Danh mục bài giảng: Lý luận cơ bản ......................................................................................................... 1
Danh mục bài giảng: Mạch lý ................................................................................................................... 2
Danh mục bài giảng: Các bộ huyệt trị liệu ................................................................................................ 3
Danh mục bài giảng Huyệt vị lục khí......................................................................................................... 6
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ ................................................................................................ 7
1.Thuyết phản chiếu ................................................................................................................................. 7
2.Thuyết biểu hiện:................................................................................................................................... 8
3.Thuyết cục bộ ........................................................................................................................................ 8
4.Thuyết đồng bộ ..................................................................................................................................... 8
5.Thuyết biến dạng ................................................................................................................................... 9
6.Thuyết giao thoa.................................................................................................................................... 9
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, THIÊN ĐỊA NHÂN ............................................................................................. 10
TỨ TƯỢNG & Y HỌC THỂ CHẤT TỨ TƯỢNG .............................................................................................. 12
LỤC KHÍ TỒN TẠI Ở ĐÂU ............................................................................................................................. 15
LÀM RÕ HỌC THUYẾT THỦY HỎA ............................................................................................................... 18
BẰNG Y DỊCH LỤC KHÍ ................................................................................................................................. 18
1) Về thuỷ hoả: ................................................................................................................................... 18
2) Sự giao hợp của thuỷ hoả ............................................................................................................... 19
3) Thuỷ hoả trong con người: ............................................................................................................. 20
PHÂN BIỆT HỌC THUYẾT NGŨ VẬN VÀ Y DỊCH LỤC KHÍ ............................................................................. 22
Ngũ vận - lục khí trong sách Tố Vấn ....................................................................................................... 22
Y dịch lục khí của Việt Nam .................................................................................................................... 22
CHÂM CỨU LỤC KHÍ - CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO ...................................................................................... 24
THẾ NÀO LÀ HUYỆT LỤC KHÍ ....................................................................................................................... 26
BỨC TRANH TỔNG HỢP VỀ HUYỆT VỊ CHÂM CỨU ..................................................................................... 29
I- Huyệt ngũ hành .............................................................................................................................. 29
Nhóm 1: Tĩnh – Vinh – Du – Kinh – Hợp ............................................................................................. 29
Nhóm 2: Nguyên huyệt – Lạc huyệt – khích huyệt – mộ huyệt – bối du huyệt ................................. 29
II - Huyệt đặc trị: ..................................................................................................................................... 30
III - Huyệt biệt trị: ................................................................................................................................... 30
IV - Kỳ kinh bát mạch: ............................................................................................................................. 30
V - Tân huyệt: ......................................................................................................................................... 31
TẠI SAO CẦN ĐƯA QUẺ DỊCH VÀO MẠCH LÝ.............................................................................................. 32
ĐỐI XỨNG TRONG CHÂM CỨU LỤC KHÍ ..................................................................................................... 39
KINH DỊCH VÀ LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT .................................................................................................... 42
225
Kinh Dịch và lý thuyết”Thống nhất vĩ đại”.............................................................................................. 42
NHÌN LẠI TÁC DỤNG CỦA LỤC TỔNG HUYỆT.............................................................................................. 48
GIỜ VẬN HÀNH CỦA 12 CHÍNH KINH ......................................................................................................... 49
SỬ DỤNG HUYỆT KÌ KINH ........................................................................................................................... 51
HUYỆT LỤC KHÍ SẮP XẾP THEO ................................................................................................................... 55
LỤC THẬP HOA GIÁP ................................................................................................................................... 55
ĐỒ HÌNH 12 CHÍNH KINH ............................................................................................................................ 64
XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ BỘ KHÍ, BỘ HUYẾT ........................................................................................................... 65
ĐỒ HÌNH BỘ MẠCH CHÂM CỨU LỤC KHÍ ................................................................................................... 66
PHƯƠNG PHÁP XEM MẠCH ....................................................................................................................... 73
CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ ........................................................................................................................... 73
I- XEM MẠCH CHO NGƯỜI KHÁC ........................................................................................................... 73
II- TỰ XEM MẠCH ................................................................................................................................... 75
CÓ & KHÔNG KHI XEM MẠCH .................................................................................................................... 76
CÁC LOẠI MẠCH.......................................................................................................................................... 79
MẠCH PHÙ.............................................................................................................................................. 81
BÍ QUYẾT HỌC CHÂM CỨU LỤC KHÍ ........................................................................................................... 86
ƯU ĐIỂM TRÊN LÂM SÀNG CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ ............................................................................... 88
QUY TRÌNH KHÁM CHỮA BỆNH CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ ........................................................................ 92
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ................................................................................................................................ 93
Pháp Lục Hòa trong nhà Phật ................................................................................................................. 93
Pháp lục hòa trong châm cứu lục khí ..................................................................................................... 94
Nguyên tắc trị liệu của Châm cứu lục khí ............................................................................................... 95
CÁCH GIAO TIẾP VỚI HUYỆT ................................................................................................................... 97
KHẨU VỊ CỦA HUYỆT............................................................................................................................... 99
CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ .......................................................................................... 101
PHÉP BỔ TẢ TRONG CHÂM CỨU LỤC KHÍ ................................................................................................ 103
TẠI SAO PHẢI DÙNG HUYỆT THEO BỘ ...................................................................................................... 104
CÁCH DÙNG DU HUYỆT ............................................................................................................................ 106
BỐN CÁCH CHÂM CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ ............................................................................................ 108
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐIỀU TRỊ BẰNG DÁN SALONPAS LÊN HUYỆT .............................................. 111
Theo đông y: ..................................................................................................................................... 111
Theo tây y: ........................................................................................................................................ 111
Cơ chế tác dụng của châm cứu theo tây y: ...................................................................................... 112
Cơ chế tác dụng của salonpas khi dán lên huyệt: ................................................................................ 112
Những hiện tượng xuất hiện sau khi dán huyệt................................................................................... 115
Lưu ý khi đán salonpas ......................................................................................................................... 117
226
CÁC PHƯƠNG PHÁP “CHÂM” HUYỆT LỤC KHÍ MÀ KHÔNG SỬ DỤNG SALONPAS ................................... 119
CHÂM CỨU LỤC KHÍ DÙNG CHO AI .......................................................................................................... 121
CÁC BỘ HUYỆT ÂM DƯƠNG THỦ TÚC CHÂM .......................................................................................... 123
CÁCH TÍNH ÂM CHÂM, DƯƠNG CHÂM, THỦ CHÂM, TÚC CHÂM ............................................................ 124
HUYỆT LỤC KHÍ TRÊN 12 ĐƯỜNG KINH.................................................................................................... 126
HUYỆT LỤC KHÍ HỆ THỦ ............................................................................................................................ 139
HUYỆT LỤC KHÍ HỆ TÚC ............................................................................................................................ 141
CHÂM CỨU LỤC KHÍ PHƯƠNG PHÁP II .................................................................................................... 204
MẪU BÀN TAY ĐỂ THỰC HÀNH DÁN HUYỆT ............................................................................................ 206
NĂNG LƯỢNG TÁI SINH VÀ NĂNG LƯỢNG THOÁI HÓA .......................................................................... 208
BÀI THẬP TOÀN ĐẠI BỔ – BỘ MẠCH LỤC KHÍ .......................................................................................... 211
Vị thuốc ................................................................................................................................................ 211
Phân tích bài thuốc theo lý luận lục khí ............................................................................................... 212
BÀI BÁT VỊ HOÀN – BỘ MẠCH LỤC KHÍ .................................................................................................... 214
1.Công thức bài thuốc .......................................................................................................................... 214
2-Ý nghĩa của bài Bát vị......................................................................................................................... 214
3. Công dụng bài thuốc......................................................................................................................... 214
Phân tích bài thuốc theo lý luận lục khí ............................................................................................... 215
BÀI LỤC VỊ - BỘ MẠCH LỤC KHÍ ................................................................................................................ 219
1. Thành phần ....................................................................................................................................... 219
2.Phân tích BT ....................................................................................................................................... 219
Châm cứu lục khí phân tích .................................................................................................................. 220
CHÂM ÍT NHẤT LÀ MẤY HUYỆT ................................................................................................................ 223

227

You might also like