Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 36

@th.

minh26

[HK202] ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Chương I. Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập ĐCS VN

1. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911 – 1920)

 Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến

 Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)

Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Harmand
(1883) và Patenôtre (1884) đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp vẫn
diễn ra âm ỉ do phe chủ chiến trong triều đình. Tháng 8 – 1884, Tôn Thất Thuyết lên, lấy danh
vua Hàm Nghi dẫn đầu phe chủ chiến và đa số hoàng tộc xuống chiếu Cần Vương, phát động
phong trào Cần Vương (1885 – 1896) và được hưởng ứng bởi nhiều thân sĩ phu và nhân dân yêu
nước. Trong giai đoạn đầu tiên, 1885 – 1888, dưới sự lãnh đạo của vua Hàm Nghi, nhiều cuộc
khởi nghĩa bùng ra ở khắp nơi từ Bắc xuống Nam như khởi nghĩa của Quang Bình, Lê Trực,
Nguyễn Phạm Tuân ở Trung Kỳ và khởi nghĩa Đốc Tít ở Bắc Kỳ . Tuy nhiên, các cuộc khởi
nghĩa mau chóng bị càn quét vì diễn ra lẻ tẻ, phân tán lực lượng. Đồng thời, trước sự đàn áp của
thực dân Pháp, nội bộ triều đình có sự chia rẽ, phản bội, vua Hàm Nghi mau chóng bị bắt, kết
thúc giai đoạn thứ nhất của phong trào Cần Vương.

Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, dù thiếu sự lãnh đạo của triều đình nhưng phong trào vẫn
diễn ra mạnh mẽ. Số lượng các cuộc khởi nghĩa có giảm bớt, nhưng có sự tập trung lại thành các
trung tâm kháng chiến lớn. Một số cuộc khởi nghĩa điển hình có thể kể tới như cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng. Tuy nhiên, thực
dân Pháp cũng tăng cường huy động lực lượng, bao gồm cả lính ngụy để đàn áp, các tướng lãnh
đạo mau chóng bị bắt giữ và xử tử. Thiếu đi sự lãnh đạo từ các tướng triều đình, phong trào rơi
vào bế tắc và chính thức thất bại vào năm 1896.

Tóm lại, từ diễn biến và kết quả của phong trào Cần Vương, ta có thể thấy được những
điểm tiến bộ và hạn chế như sau. Thứ nhất, nguyên nhân quan trọng nhất là vì giai cấp phong
kiến không còn xứng đáng là giai cấp đại diện cho dân tộc Việt Nam. Khi Pháp vừa xâm lược
nước ta, triều đình phong kiến là đại diện của nhân dân nhưng lại mau chóng ký hiệp ước đầu
hàng với
1
Pháp, làm mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của triều đình. Do đó, việc đứng lên tập
hợp lực lượng nhằm khôi phục lại triều đại phong kiến không còn phù hợp lúc bấy giờ. Thứ hai,
tuy không quan trọng nhưng một nguyên nhân phụ khác là vì lực lượng lãnh đạo của phong trào
Cần Vương chủ yếu là tướng lĩnh triều đình với số lượng ít ỏi, trong khi lực lượng đông đảo nhất
là nông dân thì lại không nắm rõ được quân sự và chiến thuật đấu tranh. Do đó, khi các tướng
lĩnh triều đình bị bắt, các lực lượng bên dưới mau chóng rơi vào bế tắc và đi đến kết thúc. Thứ
ba, ở giai đoạn đầu tiên của phong trào Cần Vương, các cuộc khởi nghĩa diễn ra nhiều về số
lượng nhưng lại hạn chế về chất lượng. Nói cụ thể, vì có quá nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra cùng
lúc nên lực lượng có sự phân tán nặng nề; sự chênh lệch lực lượng và vũ khí giữa nhân dân và
thực dân Pháp khiến cho các cuộc khởi nghĩa diễn ra yếu ớt và dễ dàng bị dẹp tan. Ở giai đoạn
hai của phong trào, mặc dù có điểm tiến bộ là các cuộc khởi nghĩa diễn ra tập trung thành các
trung tâm kháng chiến lớn, song do vấn đề về lãnh đạo nên cũng nhanh chóng bị xóa bỏ.

 Cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)

Ngoài các phong trào đấu tranh của giai cấp phong kiến, các cuộc khởi nghĩa của nông
dân với hệ tư tưởng phong kiến cũng diễn ra hết sức sôi nổi vào cuối thế kỷ XIX. Trong đó,
không thể không kể tới cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa
Thám. Đây được coi là một trong những cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất và dài nhất trong
lịch sử dân tộc ta chống thực dân Pháp, kéo dài 30 năm từ năm 1884 tới năm 1913.

Nếu xét về diễn biến, cuộc khởi nghĩa Yên Thế có thể được chia làm bốn giai đoạn chính,
1884 – 1892, 1893 – 1897, 1893 – 1908, và 1909 – 1913. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa Yên Thế
lại có một đặc trưng khác là sự chuyển biến tính chất của phong trào yêu nước của nhân dân ta từ
cuối thế kỷ XIX sang những năm đầu thế kỷ XX. Do đó, nếu xét về tính chất cuộc khởi nghĩa,
khởi nghĩa Yên Thế có thể được chia làm hai giai đoạn: từ năm 1884 cho đến cuối thế kỷ XX,
khởi nghĩa tính chất phong kiến; bước sang thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa hòa dần và chịu ảnh
hưởng của phong trào yêu nước mang tính chất tư sản . Giai đoạn đầu tiên chủ yếu tập trung vào
việc quy tụ và tổ chức các toán quân khởi nghĩa. Tuy nhiên, các toán quân lại chưa có sự phối
hợp và chỉ huy thống nhất, mỗi toán quân có một chỉ huy riêng và tự làm chủ một vùng. Vì thế,
khi thực dân Pháp huy động lượng lớn quân đánh Yên Thánh vào tháng 3 – 1892, các toán quân
khởi nghĩa nhanh chóng bị đánh bại, giai đoạn đầu kết thúc. Từ kinh nghiệm thất bại của giai
đoạn đầu tiên, bước sang giai đoạn hai, Đề Thám đã chủ động xin đình chiến lần một với Pháp
để tranh thủ thời
gian tổ chức lại phong trào, thống nhất các lực lượng và trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân
Yên Thế. Nghĩa quân cũng tranh thủ xây dựng lại căn cứ, giành được một số thắng lợi và lấy
được một lượng lớn vũ khí của thực dân Pháp. Tuy nhiên, đến cuối năm 1985, Pháp tăng cường
quân lên uy hiếp; trước sự truy lùng ráo riết của thực dân Pháp, nghĩa quân ngày càng suy yếu.
Để bảo toàn lực lượng, Đề Thám buộc phải xin giảng hòa với Pháp lần hai vào tháng 12 – 1897,
nghĩa quân buộc phải bãi binh và giao nộp lại toàn bộ vũ khí, giai đoạn hai kết thúc. Giai đoạn
ba của cuộc khởi nghĩa chủ yếu xoay quanh việc ngấm ngầm xây dựng lại địa bàn và tổ chức lại
công tác đấu tranh. Đồng thời, giai đoạn này đánh dấu sự chuyển biến nhỏ về tính chất của cuộc
khởi nghĩa từ phong kiến sang tư sản với các sự kiện Đề Thám gặp gỡ Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh. Giai đoạn cuối của cuộc khởi nghĩa diễn ra với phần lớn lợi thế thuộc về thực dân
Pháp do chúng đã mau chóng thiết lập đồn, bốt, mở đường cho giao thông để dồn toàn bộ lực
lượng ra đòn quyết định vào căn cứ Yên Thế. Trước sự càn quét tiêu diệt của thực dân Pháp,
phần lớn các tướng lĩnh đã hi sinh hoặc quy hàng. Tháng 2 – 1913, Đề Thám bị phản bộ và giết
chết, cuộc khởi nghĩa Yên Thế hoàn toàn chấm dứt.

Như vậy, mặc dù là một cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân mang tính chất phong
kiến, song khởi nghĩa Yên Thế vẫn có điểm tiến bộ vào đầu thế kỷ XX khi đã chuyển dần sang
phạm trù tư sản. Tuy nhiên, suy cho cùng thì cuộc khởi nghĩa vẫn chỉ là một cuộc đấu tranh tự
phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn có của bất cứ một phong trào nông dân nào khi
chưa có sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến. Nguyễn Ái Quốc cũng đã nhận định rằng cuộc khởi
nghĩa Yên Thế của Đề Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến” , và mục tiêu đấu tranh chính
vẫn chỉ là để giải quyết vấn đề ruộng đất. Quá tập trung vào vấn đề ruộng đất khiến lực lượng to
lớn của nông dân ta chưa thể kết hợp được với các lực lượng khác trong dân tộc, do đó không đủ
sức mạnh để chống trả thực dân Pháp.

Suy cho cùng, cả phong trào đấu tranh của giai cấp phong kiến lẫn nông dân đều đi tới
thất bại nguyên do chính là vì giai cấp phong kiến đã không còn đủ độ tin cậy và đủ sức để lãnh
đạo nhân dân; mục tiêu của các phong trào này vẫn còn đặt nặng vấn đề ruộng đất hơn vấn đề
dân tộc. Chính vì thế, khả năng tập hợp lực lượng và lôi kéo đông đảo mọi tầng lớp, giai cấp là
rất yếu, thất bại là điều khó tránh khỏi.

 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Nhận thấy sự thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến với ý
thức hệ Nho giáo đã lạc hậu, đồng thời thấy được sự thành công của các trào lưu dân chủ tư sản
trên thế giới như Duy Tân của Nhật Bản, Tân Hợi của Trung Quốc, nhiều sĩ phu yêu nước ở Việt
Nam dần chuyển hướng sang đấu tranh theo khuynh hướng tư sản, điển hình là Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh.

Phan Bội Châu cho rằng độc lập dân tộc là nhiệm vụ cần làm trước, và muốn giành được
độc lập thì chỉ có con đường bạo động vụ trang. Song bạo động vũ trang là chưa đủ mà cũng
phải coi trọng việc duy tân đất nước; từ lý do đó, tháng 4 – 1904, Hội Duy Tân được thành lập
với mục đích “Cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có
chủ nghĩa gì khác cả” . Nhận thấy sự thành công của cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật Bản và
những nét tương đồng của Nhật Bản với nước ta, Hội đề ra nhiệm vụ xuất dương sang Nhật cầu
vận, và phong trào Đông Du chính thức ra đời (7 – 1905). Tuy nhiên, hành động nhờ cứu viện từ
Nhật của Phan Bội Châu lại chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” , vì về bản
chất, Nhật cũng là một nước đế quốc và sẽ bất chấp tất cả vì lợi ích riêng. Đồng thời lúc này,
Nhật cũng đang dốc sức bành trướng mở rộng lãnh thổ, cớ gì lại giúp một nước thuộc địa như
Việt Nam giành độc lập. Thứ hai, về tình hình trong nước, cuộc khai thác thuộc địa nặng nề của
Pháp vừa diễn ra, dân ta còn đang kiệt quệ, nghèo nàn, dốt nát, ý chí còn đang run sợ, bạo động
cách mạng lúc này chỉ có con đường chết. Vì những lý do trên, phong trào Đông Du của Phan
Bội Châu mau chóng bị dập tắt và thất bại.

Phan Châu Trinh có phần tiến bộ hơn so với Phan Bội Châu khi nhận thấy được ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây ở các nước láng giềng đối với Việt Nam, tạo
điều kiện cho tư tưởng này bắt đầu xuất hiện trên vũ đài chính trị Việt Nam. Theo ông, trước mắt
chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc bằng bạo lực, mà nhiệm
vụ quan trọng hơn hết là thực hiện cải cách xã hội ở ba mặt “Chấn dân khí”, “Khai dân trí”, và
“Hậu dân sinh” . Tuy nhiên, cuộc cải cách duy tân của Phân Châu Trinh lại phải xin sự nhún
nhường từ Pháp, điều này “chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương” . Ngoài ra, những đề nghị
cải cách được đưa ra trong điều kiện đất nước còn đang khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội
nên có không ít nhiều cản trở cho công cuộc duy tân. Đồng thời, sự bảo thủ, cố chấp của triều
đình phong kiến lúc này cũng khiến cho cuộc cải cách không thể tiến hành rộng rãi và đi sâu vào
quần chống. Kết quả cuối cùng là phong trào Duy Tân của Phân Châu Trinh bị thất bại.
Như vậy, các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng không thành
công vì các nhà yêu nước chỉ đứng trên cương vị tư sản nên không thấy dc sức mạnh của lực
lượng đông đảo nhất là nông dân và công nhân, chỉ tập hợp tầng lớp trên. Vì thế, dù cho bạo
động hay cải cách thì các phong trào cũng không đủ lực lượng để tạo được sức ảnh hưởng thật
sự lớn. Một nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đó là cả Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh đều hướng tới việc xin sự trợ giúp từ bên ngoài hoặc từ chính kẻ thù của dân tộc, làm cho
phong trào đấu tranh theo khuynh hướng tư sản bị phụ thuộc và dễ dàng bị dập tắt.

 Lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Ái Quốc được sinh trong một gia đình nhà nho yêu nước, từ đó trong ông hình
thành nên tinh thần yêu nước, lao động cần cù và ý chí kiên cường vượt qua gian khổ, đặc biệt
trong đó tư tưởng thân dân là nền tảng cốt lõi ảnh hưởng đến nhân cách của ông, ngoài ra còn có
đức tính nhân hậu, sống chan hòa với người.

Nguyễn Ái Quốc tận mắt chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột, cuộc sống đầy gian khổ của
nhân dân dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp cùng với sự ươn hèn, yếu đuối của chính
quyền phong kiến cùng với sự thất bại của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
những người đi trước. Đồng thời, Người nghe nói tới ba chữ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” trong
Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, điều này quá khác lạ so với những gì mà
thực dân Pháp đang thực hiện tại Việt Nam lúc này; do đó, Người mong muốn tìm hiểu xem
“những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” . Chính những điều này đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc đi
tìm một con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc mình.

Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Người qua Pháp,
đến nhiều nước châu Phi và sống ở Mỹ (1912 - 1913), sống ở Anh (1914 - 1917); kiên trì chịu
đựng gian khổ và sớm có tình cảm thương yêu giai cấp của những người lao động nghèo khổ.
Người đã xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao dộng. Người nhận
thấy, ở đâu nhân dân cũng mong muốn được thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Người, đã nảy sinh ý
thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh cho nguyện vọng và
quyền lợi chung.

Với lòng yêu nước nồng nàn. Hồ Chí Minh kiên trì chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ.
Người chú ý xem xét tình hình các nước, suy nghĩ về những điều mắt thấy tai nghe, hăng hái học
tập và tham gia các cuộc diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học.
Tháng 7/1917, Người từ Anh trở về Pháp. Cùng với những người yêu nước Việt Nam,
Người tham gia các hoạt động chính trị- xã hội, văn hoá Pháp và ủng hộ nước Nga Xô viết.

Năm 1919. thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi
Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các
quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam.

Từ sau ngày 17/7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” trên báo L’Humanite và hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo
Quốc tế Cộng sản. Cuộc hành trình qua năm châu bốn biển đã không chỉ hình thành ở Hồ Chí
Minh tình cảm và ý thức đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, mà còn rèn luyện Người trở thành
một công nhân có đầy đủ phẩm chất, tư tưởng, tâm lý của giai cấp vô sản. Thực tiễn trong gần 10
năm đi tìm đường cứu nước, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn để dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã làm cho Người “cảm dộng, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng...
vui mừng đến phát khóc...” .

Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho
dân tộc và tự do cho đồng bào, nó đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu
nay ở Người. Với việc biểu quyết tán thành Đệ tam Quốc tế (Quốc tế III), tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp (12-1920), trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước
chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quôc, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Lênin, tự giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.

2. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập ĐCS ở Việt Nam

 Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị

Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào
Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân
tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Người nhấn mạnh: Cách mạng
muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên
tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Về tư tưởng, Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển
biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin
từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước
theo lập trường của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam không phải bằng các tác phẩm kinh điển, những cuốn sách lý luận đồ sộ mà bằng các
tác phẩm ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ quần chúng. Những bài viết (sách, báo ...), bài
giảng (tác phẩm Đường cách mệnh) với lời văn giản dị, nội dung thiết thực, phương pháp phù
hợp đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác
của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Trong tác phẩm
Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho
chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các
thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ" v.v... Tác phẩm đã "hướng các dân tộc
bị áp bức" đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai cái vòi của con đỉa đế
quốc" – một "vòi" bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một "vòi" bám vào nhân dân thuộc địa
và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin.

Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc phác thảo hệ thống những vấn đề cơ bản về đường lối cứu
nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và sau này phát triển thành những nội dung cơ bản
trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới; cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ chặt
chẽ với cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa; lực lượng chủ yếu của cách mạng là công nhân
và nông dân – “gốc cách mệnh”, còn “học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn của cách
mệnh; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ
chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao; cách mạng muốn thành công, trước hết phải có một
đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về
đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng
của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in thành
sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn không chỉ
đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước
thuộc địa Phương Đông. Những vấn
đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức
quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có
đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ
với cách mạng vô sản thế giới…

 Sự chuẩn bị về tổ chức

Cùng với việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, Nguyễn Ái Quốc còn dày công chuẩn bị về
mặt tổ chức để huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng
Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6.1925). Đây là một
tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy
giờ. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ
các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ
phong trào công nhân và yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Việc thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong
chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.

Chính những thanh niên trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã tham gia phong
trào “vô sản hoá” để cùng ăn, cùng ở, lao động, đồng thời truyền bá lý luận Mác - Lênin và
đường lối cách mạng đúng đắn vào phong trào công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh
cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước
được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện
vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và
phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở
Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.

3. Phân tích cương lĩnh chính trị đầu tiên

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định rõ các chiến lược dài hạn của cách mạng
Việt Nam trên 5 mặt sau đây: (1) phương hướng chiến lược, (2) nhiệm vụ cách mạng, (3) lực
lượng cách mạng, (4) lãnh đạo cách mạng, và (5) quan hệ với cách mạng thế giới.

Trước tình hình thực dân Pháp xâm lược, mọi tầng lớp, giai cấp đều đặt dưới sự thống trị
của thực dân Pháp, Cương lĩnh xác định mâu thuẫn cơ bản nhất của nước ta lúc bấy giờ là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai phản động.
Về phương hướng chiến lược, để giải quyết mâu thuẫn căn bản nêu trên, Cương lĩnh xác
định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” . Hai giai đoạn này khăng khít nhưng không giải quyết
đồng thời vì không đủ lực lượng. Trong mỗi giai đoạn, phải tập trung lực lượng giải quyết lần
lượt từng mâu thuẫn ở nước ta là mâu thuẫn dân tộc – đế quốc và mâu thuẫn giai cấp, trong đó
mâu thuẫn dân tộc – đế quốc là mâu thuẫn cơ bản nhất và cần phải được ưu tiên giải quyết trước.
Mặc dù mang tính chất của một cuộc cách mạng vô sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc không áp dụng
một cách máy móc cách mạng vô sản thế giới vào nước ta vì lúc này mâu thuẫn giai cấp ở nước
ta không nhiều. Mâu thuẫn giữa địa chủ – nông dân có thể tự điều hòa được, còn mâu thuẫn giữa
tư sản và vô sản Việt Nam cũng không lớn do tư sản Việt Nam về thực chất cũng chỉ là giai cấp
bị trị, chịu sự bóc lột của tư sản Pháp. Như vậy, việc xác định nhiệm vụ chiến lược quan trọng
nhất là tiêu diệt thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh là sự ứng dụng sáng tạo
vô cùng đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc vào tình hình thực tế của nước ta.

Về nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, Cương lĩnh xác định lần lượt ba nhiệm vụ ở ba mảng
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Về chính trị, nhiệm vụ cụ thể là phải đánh đổ đế quốc Pháp
và phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là hàng đầu, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập, lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Về kinh tế, cương lĩnh chủ
trương tịch thu sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho chính phủ công nông
binh; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày
nghèo; mở mang công nghiệp, nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo… Ở đây, Cương lĩnh
chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc chứ chưa tịch thu ruộng đất của phong kiến, tập trung toàn bộ
lực lượng cho mục tiêu giải phóng dân tộc và tránh tạo thêm kẻ thù cho cách mạng. Thứ ba, về
văn hóa – xã hội, phải làm sao cho dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, …; phổ
thông giáo dục theo công nông hóa.

Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định phải tập hợp được cả ba nhóm lực lượng
vào cách mạng. Nhóm thứ nhất là nhóm lực lượng đông đảo nhất, chịu áp bức nặng nề nhất và là
nền tảng của cách mạng vô sản, đó là bộ phận giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Phải dựa
vào dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất, thực hiện nhiệm vụ tịch thu
ruộng đất của đế quốc và tạm gác tịch thu ruộng đất của phong kiến. Nhóm thứ hai là nhóm giai
cấp tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, … phải kéo họ vào phe vô sản giai
cấp. Thứ ba, phải tập hợp được cả giai cấp phong kiến yêu nước, bao gồm phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập.
Như vậy, chủ trương tập hợp lực lượng của Cương lĩnh là phải tập hợp được toàn bộ dân tộc vào
khối đấu tranh chung, miễn là họ có tinh thần dân tộc, vì mâu thuẫn là mâu thuẫn của cả dân tộc,
giai cấp nào cũng chịu áp bức từ thực dân Pháp. Lực lượng càng đông đảo thì khả năng thành
công của cách mạng càng cao.

Về lãnh đạo của cách mạng, nhận thấy sự thất bại trong các cuộc đấu tranh theo khuynh
hướng phong kiến và tư sản của ông cha mà lãnh đạo là phong kiến và tư sản, Cương lĩnh khẳng
định cách mạng nước ta lúc này phải là cách mạng vô sản, và lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam phải là giai cấp vô sản. Đảng phải là đội quân tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng. Trong
quá trình tập hợp lực lượng, “phải cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của
công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp” .

Cuối cùng, về quan hệ với cách mạng thế giới, Đảng khẳng định muốn cách mạng thực
sự thành công thì phải đồng thời tiêu diệt đế quốc ở cả hai mặt trận thuộc địa và chính quốc. Do
đó, cách mạng Việt Nam phải trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp.

Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là vô cùng đúng đắn vì trước hết, văn
kiện này đã xác định được mâu thuẫn chủ yếu nhất của dân tộc Việt Nam lúc này là mâu thuẫn
dân tộc – thực dân và từ đó, nhiệm vụ quan trọng nhất cần giải quyết chính là tiêu diệt thực dân
Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Để làm được điều đó, Cương lĩnh đúng đắn khi tạm gác
nhiệm vụ thổ địa cách mạng để có thể tập hợp được toàn bộ sức mạnh và lực lượng vào nhiệm vụ
trước mắt là đánh đổ thực dân. Dù là phong kiến hay tư sản thì cũng đều phải chịu sự áp bức bóc
lột của thực dân Pháp, do đó, bất cứ người dân yêu nước nào không phân biệt giai cấp, tầng lớp
cũng đều có thể tham gia vào lực lượng cách mạng. Để tập hợp được sức mạnh của toàn thể dân
tộc và thống nhất con đường cách mạng chung, Cương lĩnh cũng đúng đắn khi khẳng định vai trò
lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam vì Đảng là Đảng của giai cấp vô sản. Cuối cùng,
dù vấn đề giành độc lập dân tộc là vấn đề của riêng dân tộc ta nhưng Cương lĩnh không vì thế mà
hạn chế quan hệ với cách mạng thế giới. Ngược lại, Cương lĩnh đã xác định chính xác yêu cầu
phải đồng thời tiêu diệt đế quốc ở cả hai mặt trận thuộc địa và chính quốc, đưa cách mạng Việt
Nam trở thành
một bộ phận của cách mạng thế giới. Những nội dung chính là cơ sở vững chắc để các văn kiện
sau này của dân tộc ta phát triển hơn nữa và đưa dân tộc ta đến thắng lợi cuối cùng.
CHƯƠNG II. LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 9/1930

 Bối cảnh lịch sử

Sau hội nghị thành lập Đảng ngày 03/02/1930, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được bí
mật đưa vào quần chúng. Nhờ đó, phong trào cách mạng trong quần chúng phát triển mạnh mẽ
và nhanh chóng đi đến cao trào và đạt đến đỉnh cao vào tháng 9/1930 với phong trào Xô-viết
Nghệ - Tĩnh. Tuy nhiên, những quan điểm đó lại không được Quốc 13 tế Cộng sản công nhận.
Tháng 4/1930, đồng chí Trần Phú về nước sau quá trình học tập và nghiên cứu tại Liên Xô.
Tháng 7/1930, Trần Phú được bầu vào Ban chấp hành Trung ương lâm thời và được giao nhiệm
vụ cùng với ban thường vụ soạn thảo Luận cương chuẩn bị cho hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ nhất. Hội nghị diễn ra từ ngày 14 đến ngày 30/10/1930 tại Hương Cảng
(Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về tình hình và
nhiệm vụ cần kíp của Ðảng, Luận cương chính trị của Ðảng do đồng chí Trần Phú khởi thảo,
thông qua Ðiều lệ Ðảng và Ðiều lệ các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản,
Hội nghị quyết định đổi tên Ðảng Cộng sản Việt Nam thành Ðảng Cộng sản Ðông Dương; bầu
Ban chấp hành Trung ương chính thức do đồng chí Trần Phú làm Tổng bí thư.

 Nội dung

Hội nghị đã thông qua nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng; thảo luận
Luận cương chính trị, Điều lệ Đảng và điều lệ các tổ chức quần chúng. Trong đó có một số nội
dung quan trọng như sau:

Về tính chất xã hội Việt Nam lúc này là thuộc địa nửa phong kiến. Nội dung này được
nêu ra hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khi mà đất nước ta lúc này vẫn đang chịu sự cai trị và bóc
lột ngày càng tàn bạo của đế quốc Pháp về kinh tế, ngoại giao, thương nghiệp, nông nghiệp, song
vẫn còn những tàn tích phong kiến rất nặng nề.

Về mâu thuẫn giai cấp, diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần
tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa. Văn kiện không nhắc
đến mâu thuẫn đang bao trùm xã hội Việt Nam lúc bấy giờ giữa dân tộc Việt Nam và thực Pháp,
mà nhấn mạnh đến mâu thuẫn giai cấp.

Về nhiệm vụ chiến lược, làm cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế,
sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản chủ
nghĩa
để tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chiến lược này thể hiện cách mạng Đông Dương
sẽ trải qua hai giai đoạn chiến lược: giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền (bao gồm thổ địa và
phản đế) và sau đó là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Về nhiệm vụ cụ thể, đánh đổ phong kiến để thực hiện cách mạng ruộng đất triệt để, đánh
đổ đế quốc Pháp để Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít
với nhau, trong đó vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền. Bên cạnh đó còn
một số nhiệm vụ cụ thể khác như: lập ra chính phủ công nông; tịch thu ruộng đất của địa chủ
nước ngoài, địa chủ bản xứ và giáo hội trao cho nông dân, quyền sở hữu ruộng đất là chính phủ
công nông; sung công tất cả các sản nghiệp lớn của tư bản nước ngoài; bãi bỏ các sưu thuế hiện
thời, lập ra thuế lũy tiến; thực hiện ngày làm công 8 giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ thuyền và
những người lao động; Ðông Dương hoàn toàn độc lập và thực hiện quyền dân tộc tự quyết; lập
quân đội công nông; thực hiện nam nữ bình quyền; ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai cấp vô sản
thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa, nửa thuộc địa.

Về lực lượng cách mạng, Luận cương nhấn mạnh giai cấp vô sản là động lực chính, dân
cày là động lực mạnh của cách mạng. Những giai cấp và tầng lớp khác bị cho là không đứng về
phía cách mạng: tư sản thương nghiệp đứng về phía đế quốc, tư sản công nghiệp đứng về phía
quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển thì họ sẽ theo đế quốc; về tầng lớp tiểu tư sản, bộ
phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự, tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng,
tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế
quốc trong thời kỳ đầu. Luận cương còn cho rằng chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như người
bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ và trí thức thất nghiệp mới tham gia cách mạng. Như vậy, về
lực lượng cách mạng, văn kiện này tập trung lôi kéo giai cấp vô sản, nông dân nghèo và quần
chúng lao khổ.

Về phương pháp cách mạng, phải có phương pháp cách mạng trong lúc bình thường và
có phương pháp cách mạng trong lúc có tình thế trực tiếp cách mạng. Tức là lúc bình thường thì
đặt khẩu hiệu, hô hào kêu gọi nông dân, công nhân tranh đấu cho những nhu yếu hàng ngày. Khi
có tình thế trực tiếp cách mạng – sức mạnh tranh đấu đã dâng rất cao – thì Đảng phải lãnh đạo
quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền “mà lại phải theo khuôn phép nhà binh”.

Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc mở rộng ra toàn bộ ba nước Đông Dương bao gồm
Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây là điểm thay đổi so với Luận cương chính trị. Vì theo quan
điểm của Quốc tế Cộng sản, cả ba nước này có vị trí địa lý gần nhau và đều đang là thuộc địa
của Pháp, phải hợp sức lại với nhau mới có thể thành công đánh đuổi thực dân Pháp.

Về lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản
ở Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Về quan hệ quốc tế, cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước
hết là giai cấp vô sản Pháp,và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở
Đông Dương.

 Ưu điểm

Luận cương chính trị 10/1930 đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến
lược của cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu và giữa chúng có sự thống nhất với
nhau về phương hướng chiến lược đi lên chủ nghĩa xã hội, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến, lực lượng cách mạng chính là giai cấp công nhân và nông dân, phương pháp cách mạng,
quan hệ với cách mạng thế giới và lãnh đạo cách mạng. Đây chính là những ưu điểm của văn
kiện này.

 Hạn chế

Khi đánh giá mâu thuẫn, Luận cương chính trị 10/1930 đã quá nhấn mạnh và xem mâu
thuẫn giai cấp là mâu thuẫn chủ yếu. Điều này không phù hợp với quốc gia thuộc địa - nửa
phong kiến Việt Nam. Bởi vì, tại Việt Nam lúc bấy giờ, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến không gay gắt, mâu thuẫn giữa công nhân và tư sản Việt Nam cũng vậy. Tầng lớp
địa chủ và giai cấp tư sản Việt Nam không có tiềm lực mạnh về kinh tế, không bóc lột tầng lớp
dưới nhiều dẫn đến mâu thuẫn giai cấp gay gắt như xã hội các nước phương Tây. Nên nhìn
chung, mâu thuẫn chủ yếu tại Việt Nam vẫn là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế
quốc Pháp và bọn tay sai chứ không phải mâu thuẫn giữa các giai cấp.

Về giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giữa vấn đề
dân tộc và dân chủ, văn kiện đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ chống phong kiến hơn là nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc đồng thời đặt vấn đề thổ địa làm cái cốt của cách mạng tư
sản dân
quyền. Luận cương cho rằng nhiệm vụ chống đế quốc và thổ địa cách mạng có quan hệ khăng
khít, không thể tách rời, khác với Cương lĩnh chính trị17 đầu tiên là chúng nằm ở hai giai đoạn
cách mạng riêng biệt nhau. Nhưng rõ ràng, với tình hình thực tế đã nêu trên, nhiệm vụ quan
trọng mà cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ cần tập trung trước tiên là chống đế quốc để giành lại
độc lập, tự do cho dân tộc như chứ không phải là chống phong kiến, giải quyết vấn đề ruộng đất
cho nông dân. Hai nhiệm vụ đó nên được thực hiện ở hai giai đoạn khác nhau để có thể huy động
tối đa nguồn lực cho mỗi nhiệm vụ.

Về lực lượng cách mạng, do hạn chế trong đánh giá thực tiễn, Luận cương chính trị
10/1930 đã quá nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân, nông dân và chưa thấy được khả năng
cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác như phong kiến, tư sản, tiểu tư sản. Văn kiện không
huy động được mọi lực lượng trong xã hội Việt Nam cho cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và
bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc. Luận cương đã bỏ qua bộ phận phong kiến yêu nước là
một. Giai cấp tư sản Việt Nam - xuất hiện sau công nhân Việt Nam, số lượng ít, tiềm lực kinh tế
không đáng kể, từ khi “ra đời” đã bị thống trị bởi đế quốc Pháp, do đó giai cấp này mâu thuẫn
với thực dân Pháp và chủ yếu chứ với công nhân Việt Nam thì không gay gắt – cũng đã bị bỏ
qua, kể cả tiểu tư sản, trí thức.

Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, cách mạng mở rộng ra toàn khu vực Đông Dương
thể hiện qua việc đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là
một điểm hạn chế. Tuy Việt Nam, Lào, Campuchia có phần biên giới chung, ở cùng một khu vực
và đều chịu sự đô hộ của thực dân Pháp nhưng vẫn có các đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của
từng quốc gia dân tộc. Do đó, mỗi nước phải có Đảng Cộng sản riêng để tự vạch ra chiến lược,
đường lối cho cách mạng tại quốc gia của mình, phát huy và khai thác quyền tự quyết dân tộc.

 Nguyên nhân:

+ Luận cương chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa nửa phong
kiến Việt Nam.

+ Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đè dân tộc và giai cấp trong cách mạng ở
thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng tả của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng
trong thời gian đó.
CHƯƠNG IV. ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA

1. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kì trước đổi mới (1960 – 1985)

 Nội dung

Đường lối công nghiệp hóa của Đảng bắt đầu được xác định từ Đại hội III năm 1960,
trong đó thời kì trước đổi mới chia làm hai giai đoạn.

 Giai đoạn 1960 – 1975:

Trong giai đoạn này, đất nước bị chia cắt làm hai miền, có hai chế độ khác nhau. Ðại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ III của Ðảng, năm 1960, chủ trương tiến hành cách mạng XHCN ở
miền Bắc; cách mạng XHCN ở miền bắc gắn bó chặt chẽ với cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền nam và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của cả nước, đối với cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà; còn cách mạng miền nam có
một vị trí rất quan trọng, có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
nam.

Đại hội III nêu rõ đặc điểm kinh tế ở miền Bắc là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản. Đại hội khẳng định: muốn cải
biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con đường công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đảng đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Mục tiêu cơ bản của CNH XHCN được Đại hội III của Đảng xác định là xây dựng một
nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.

Phương hướng chỉ đạo của Đảng tại Đại hội III (1960):

 Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí


 Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp
 Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
 Ra sức phát triển công nghiệp Trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp
địa phương.

Nhận xét đường lối CNH tại Đại hội III (1960): Với mục tiêu trên hết là đánh đuổi đế
quốc Mĩ, đất nước được thống nhất, những phương hướng chỉ đạo của Đảng tại Đại hội III
(1960) đã giúp Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc, chi viện cho chiến trường miền
Nam. Thật
vậy, miền bắc tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền nam, cho cách mạng Lào và sau đó,
cho cách mạng Cam-pu-chia. Sự chi viện đó là to lớn, toàn diện, liên tục, với nhịp độ ngày càng
tăng, đáp ứng đòi hỏi của chiến trường. Miền bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, vũ
khí, phương tiện kỹ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải biên, cải tiến
nhiều loại vũ khí, khí tài; tổ chức vận chuyển vượt hàng nghìn km dưới bom đạn đánh phá của
địch tới các chiến trường, các vùng giải phóng. Đặc biệt, phong trào "Mỗi người làm việc bằng
hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt" theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3-1964 khi đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ở
miền Nam đã làm tăng thêm không khí phấn khởi, hăng hái vươn lên hoàn thành Kế hoạch năm
năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Phương hướng chỉ đạo của Đảng tại Đại hội III (1960) tuy
không đúng với quy luật kinh tế, nhưng hoàn toàn phù hợp với quy luật chiến tranh, đưa đất
nước ta đi đến thống nhất vào năm 1975.

 Giai đoạn 1975 – 1985: Công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước.

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng trên phạm vi cả nước nhất trí với những nhận thức
cơ bản về CNH ở miền Bắc trước đây và có sự phát triển thêm.

Tại Đại hội IV (1976) xác định đường lối công nghiệp hóa:

 Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
 Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ.
 Kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương.
 Kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất.

Nhận xét đường lối CNH tại Đại hội IV (1976): Đường lối CNH tại Đại hội IV cơ bản
giống Đại hội III trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, khi chiến tranh qua đi, thì đường lối này
không còn phù hợp nữa vì không đúng với quy luật kinh tế. Bởi lẽ, thứ nhất, cả nước ta cùng tiến
lên CNXH từ một nền kinh tế vẫn còn quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, mang đậm tính chất
nông
nghiệp lạc hậu, trình độ sản xuất yếu kém, công cụ thô sơ, chưa áp dụng được những tiến bộ
KHKT. Thứ hai, đất nước ta vừa mới bước ra khỏi cuộc chiến tranh ác liệt, sự khai thác đến kiệt
quệ nguồn tài nguyên và nhân lực của TD Pháp cùng với sự bao vây cấm vận của Mĩ, hậu quả
chiến tranh còn chưa được khắc phục. Trong lúc ấy, Đảng chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa
khi đất nước còn chưa sẵn sàng và chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Thứ ba, tinh thần nhân dân
trong thời hòa bình không còn như trước, nhân dân quan tâm hơn về những nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống nhưng Đảng chủ trương ưu tiên phát triển không nghiệp nặng là không hợp lý. Kết
quả sau năm thực hiện chủ trương của Đại hội IV, đất nước ta đứng trước tình trạng đói nghèo,
khủng hoảng kinh tế - xã hội năm 1979.

Từ thực tiễn chỉ đạo CNH (1976 – 1981), Đảng ta rút ra kết luận: từ một nền sản xuất
nhỏ đi lên CNXH, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của CNH cho phù hợp với mục
tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Tại Đại hội V (1982), Đảng xác định đất nước ta đang ở
chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ (1981 – 1990). Nội dung công nghiệp hóa trong chặng
đường đầu tiên của TKQĐ như sau:

 Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu.


 Ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
 Xây dựng và phát triển công nghiệp nặng cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ
thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Nhận xét đường lối CNH tại Đại hội V (1982): Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn mục
tiêu và bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế
chúng ta không làm đúng sự điều chỉnh này. Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng
đầu nhưng Đại hội vẫn xác định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ
thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát đó đã
khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và
khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không những không
ổn định được mà còn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

Tóm lại, đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới có những hạn chế sau:

 Công nghiệp hóa được xác định theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về
phát triển công nghiệp nặng. Việc định hướng mô hình kinh tế khép kín, gói gọn trong
phạm vi các quốc gia XHCN khiến đất nước ta thiếu sự so sánh tương quan với các quốc
gia có nền kinh tế phát triển khác, không nhìn nhận được hạn chế của nền kinh tế hiện
thời và không học tập được cái hay, cái đúng của các nền kinh tế khác.
 CNH chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các
nước xã hội chủ nghĩa. CNH chỉ theo chiều rộng mà quên đi chiều sâu. Trong khi đó, con
người và khoa học công nghệ là những yếu tố quan trọng tham gia vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải
đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
 Chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Với việc
không chấp nhận tồn tại hình thức sở hữu tư nhân, trong nhận thức cũng như hành động,
Đảng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
 Phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường. Với cơ chế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã thủ tiêu tính cạnh tranh của thị trường, kìm
hãm sự phát triển của tiến bộ KH-KT. triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động,
không kích thích tính năng động, sáng tạo, cán bộ công chức của các cơ quan hành chính
nông nghiệp trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
 Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến
hiệu quả kinh tế xã hội.

Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:

 Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo
nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập
trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
 Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu,
bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư… Đó là những
sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về CNH – HĐH hiện nay
Những quan điểm này được Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp Hành Trung ương Khóa VII
nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các Đại hội 6  12 của Đảng.

Một là, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắng liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

CNH gắn với HĐH vì: KH&CN có bước nhảy vọt trong thời đại ngày nay, tác động sâu
rộng tới các lĩnh vực đời sống xã hội. và xác định HĐH rõ nét sẽ là định hướng để thực hiện
CNH một cách hệ thống, đồng bộ. CNH gắn với HĐH sẽ giúp cho CNH rút ngắn thời gian, hiệu
quả cao.

CNH gắn với kinh tế tri thức vì: nước ta thực hiện CNH – HĐH khi trên thế giới kinh tế
tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể không cần phải trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh
tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức.Đó là lợi thế của các
nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Do đó, ĐH 10 của đảng đã chỉ rõ: phát triển KT tri
thức coi KT tri thức là yếu tố quan trọng của nền KT và CNH-HĐH.

CNH-HĐH phải gắn với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường vì: đẩy mạnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa sẽ kéo theo hàng loạt vấn đề như chất thải công nghiệp, bụi, không khí ô
nhiễm, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt... Do đó CNH- HĐH phải gắn liền với giải quyết các tồn
tại trên thì mới đảm bảo sự phát triển bền vững, đảm bảo chất lượng cuộc sống của con người.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong thời kì đổi mới, CNH-HĐH được tiến hành trong nền KTTT định hướng XHCN,
nhiều thành phần. Do đó, CNH-HĐH không phải chỉ là việc của nhà nước mà là sự nghiệp của
toàn dân, của mọi thành phần kinh tế.

Phương thức phân bổ nguồn lực để CNH được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường.
CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong
nền KT, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước.

CNH-HĐH nền KT ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa KT, tất yếu
phải hội nhập và mở rộng quan hệ KTQT nhằm: thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công
nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều
lợi thế.
Đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung
và CNH- HĐH nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững.

Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH-HĐH và trong 5 yếu tố chủ yếu để tăng
trưởng kinh tế là KHCN, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị, quản lý đất nước, thì con
người luôn được coi là yếu tố cơ bản, quyết định.

CNH- HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng
cán bộ KHCN, đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho
CNH- HDDH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt sử
dụng thành tựu KHCN tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.

Xác định tầm quan trọng của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng KHCN cơ cấu lại
nền KT, đảm bảo cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí
sản xuất, năng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên
CNXH từ một nền KT kém phát triển và tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp.
Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì
phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc
nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới
và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ
vật liệu mới.

Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Xây dựng XHCN ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải pát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững. Chỉ như vậy mới có khả năng xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh
lệch
giữa các vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được hưởng
thành quả của phát triển.

Đường lối nhất quán của Đảng ta trong việc giải quyết tranh chấp với Trung Quốc trong
vấn đề biển Đông là giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tránh leo thang xung đột dẫn
đến rạn nứt mối quan hệ lâu đời giữa 2 nước cũng như đem đến tổn thất cho 2 bên, cụ thể là: đấu
tranh ngoại giao, giải quyết tranh chấp bằng luật pháp quốc tế, kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng
thế giới.

 Vấn đề & Giải pháp góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:


CHƯƠNG VII. PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CON NGƯỜI VIỆT NAM

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước

 Nghị quyết Trưng ương 9 khóa XI đã nêu ra 5 quan điểm sau:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự
phát triển xã hội.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống
động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng
như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá
trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Văn
hóa thấm nhuần trong mỗi con ngươi và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát
huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng
dân tộc.

Chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để
các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển
kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đương xây dựng con ngươi mới, xây dựng môi trương văn hóa
lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn
hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng gia
đình văn hóa, phương xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu gương ngươi tốt, việc tốt.

Văn hóa là động lực phát triển bền vững. Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một
dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận
cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội
nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.

Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi yếu
tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo và đổi mới
không ngừng thì một nước trở thành giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao dộng và
tài nguyên thiên nhiên mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng
tạo của nguồn lực con ngươi hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành
văn
hóa, nghĩa là trong tri thức, khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và của
cả cộng đồng. Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con ngươi
càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy
nhiêu.

Trong nền kinh tế thị trương, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt,
cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy ngươi lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp
ứng nhu cầu của xã hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của
đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế
xu hướng hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản
chất con ngươi cũng như những mối liên hệ khác” dẫn tới suy thoái xã hội. Nền văn hóa Việt
Nam đương đại, với những giá trị mới sẽ là một tiền đề quan trọng đưa đất nước ta hội nhập
ngày càng sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.

Văn hóa là một mục tiêu của phát triển: Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là mục tiêu văn hóa. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định “phát huy tối đa nhân tố con ngươi; coi con ngươi là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” . Đồng thời nêu rõ yêu cầu “Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân” . Phát triển hướng tới mục tiêu văn
hóa – xã hội mới bảo đảm sự bền vững, trương tồn.

Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Để làm cho văn hóa trở
thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:

Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Xử lý tốt
mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một
động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.

Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục tiêu,
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn
hóa, hướng tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong văn hóa để
gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển
văn hóa. Xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn hóa thâm
nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn
minh thương nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.

Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con ngươi
và xây dựng xã hội mới: Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài
nguyên thiên nhiên, vốn, v.v… tuy nhiên, những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác
cạn kiệt. Chỉ có tri thức con ngươi mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh
không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có
những con ngươi đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con ngươi xã hội chủ nghĩa. “Tài nguyên” con người, cái vốn
con người, nói cho cùng là vốn trí tuệ của dân tộc. Như vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng
cao vốn “tài nguyên ngươi”.

Hai là, Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học.

Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con
người. Tiên tiến không chỉ về nội dung, tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện chuyển tải nội dung.

Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc. Đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa,
đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi
hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, giáo dục

đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm
vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị tường, mở rộng giao lưu quốc tế,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song phải
luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.

Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ tương vừa bảo
vệ bản sắc dân tộc vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân
tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ
trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập
và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam
đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế. Giữ gìn
bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán và lề
thói cũ. Nét đặc tưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa quyện
bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt
Nam.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người
để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Đây là mối quan hệ biện chứng.

Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối
sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo. Đây là những đặc tính cơ bản nhất của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước. Muốn xây dựng con người có những đặc tính trên, cần phải:

 Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng co người có thế
giới quan khoa học, hướng tới chân – thiện – mỹ.
 Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình
thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
 Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc
biệt là thanh, thiếu niên.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và
con người trong phát triển kinh tế.

Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa
lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống.

Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình
thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị
truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.

Gắn kết các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích
các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời,
đẹp đạo”. Khuyến khích các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, từ thiện,
nhân đạo.

Năm là, Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí
thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với
nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
của nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

 Vấn đề thực tiễn & giải pháp: …

You might also like