Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 7

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 – 2022

(Phần dành cho sinh viên/ học viên)

Bài thi học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh Số báo danh: 36


Mã số đề thi: 23 Lớp: 2157HCMI0111
Ngày thi: 06/12/2021 Họ và tên: Nguyễn Thị Ánh Phượng
Tổng số trang: 07

Điểm kết luận: GV chấm thi 1:


…….………………………......

GV chấm thi 2:
…….………………………......

Câu 1 (5 điểm): Anh (chị) hãy cho biết, Hồ Chí Minh có quan niệm như thế nào về lực
lượng của cách mạng giải phóng dân tộc? Liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là cách mạng
giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh công – nông
làm nền tảng.

Cách mạng là sự nghiệp của dân tộc bị áp bức, bao gồm lực lượng của toàn bộ dân tộc. Vì
vậy Hồ Chí Minh quan niệm lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực
lượng đại đoàn kết dân tộc.

Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. V.I.Lênin
viết: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong
của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”. Kế
thừa tư tưởng các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh quan niệm: có dân là có tất cả, trên đời này
không gì quý bằng dân, được lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng
định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Người lý

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 1/7
giải rằng, dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành
công. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cùng với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh, làm lực lượng cách mạng. Quan
điểm “lấy dân làm gốc” được thực hiện xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh, “Có dân là có
tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh đánh
giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong cuộc cách mạng khởi nghĩa vũ trang và coi
sức mạnh vĩ đại, năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt đảm bảo thắng lợi của
cách mạng.

Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm
toàn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông
…để lôi kéo họ về phía vô sản giai cấp; còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập; bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Để thực hiện được luận điểm này, Hồ Chí Minh
đã tiến hành đồng thời hai hoạt động chính. Một là tìm mọi khả năng để quy tụ toàn thể nhân
dân thuộc mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội có lòng yêu nước, thương nòi về chung một mặt
trận rộng lớn đồng thời phê phán quan điểm giai cấp cực đoan, biệt phái có hại cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí
Minh thiết tha kêu gọi mọi người không phân biệt giai, tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái …
đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(12 – 1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc”. Hai là đề ra phương pháp giải quyết từng bước mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội
Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với địa chủ, bằng phương pháp thích hợp như hiến điền,
giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất,… để tăng cường sức dân và không phá vỡ mặt trận đoàn
kết dân tộc. Những năm đầu kháng chiến, Đảng vận động giảm tô 25%, bài trừ những thứ địa tô
phụ, tiền trình gặt, tiền đấu trâu, tạm chia ruộng đất của bọn phản quốc cho dân cày, chia lại
công điền cho hợp lý và công bằng hơn.

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 2/7
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh dạo của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng ta
đã quy tụ được lực lượng cách mạng toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh giúp giành thắng lợi trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập, phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc của
thế lực thù địch ở trong và ngoài nước.

Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng, không được
quên “công nông là chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh”.

Xây dựng khối liên minh công – nông làm lực lượng chủ lực của cách mạng là sự phát triển
sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc của
Việt Nam. C.Mác và Ph.Ăngghen từ lý luận và phong trào công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX,
trực tiếp là cách mạng tư sản Đức (1848) và Công xã Pari (1871) khẳng định: cuộc cách mạng
vô sản hay phong trào công nhân không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ
tự bản nếu không có khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Xuất phát từ
thực tiễn của xã hội Việt Nam, từ yêu cầu và khả năng của lực lượng cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương rằng trong mọi giai đoạn cách mạng lực lượng của cách mạng giải phóng
dân tộc lấy liên minh công – nông làm nền tảng.

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: giai cấp công nhân và nông dân là hai
giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lòng cách mệnh càng bền,
chí cách mệnh càng quyết… công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp
khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó, Người khẳng định công – nông
là gốc cách mệnh, khẳng định vai trò làm động lực cách mạng của công nhân và nông dân là
vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.

Với nhận thức “muốn củng cố công – nông liên mình thì phải mang lại quyền lợi thiết thực
cho nông dân: một mặt lãnh đạo nông dân chiến đấu chống bọn đế quốc xâm lược và việt gian
bù nhìn, mặt khác lãnh đạo nông dân đấu tranh để thực hiện việc giảm nhẹ bóc lột phong kiến.
Từ năm 1949, nhằm hạn chế sự bóc lột của địa chủ, thực hiện chính sách thuế nông nghiệp,
hoãn nợ, xóa nợ. Đến tháng 1 năm 1953, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư quyết định phải
phát động nông dân triệt để, thực hiện giảm tô, giảm tức. Đông xuân năm 1953 – 1954, khi cách
mạng Việt Nam đến giai đoạn quyết định: “Kháng chiến càng phát triển thì đòi hỏi sức người

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 3/7
sức của ngày càng nhiều; nông dân đã cung cấp sức người, sức của nhiều nhất cho kháng
chiến. Phải giải phóng nông dân ra khỏi ách phong kiến, phải bồi dưỡng cho nông dân thì mới
động viên đầy đủ lực lượng to lớn đó, dốc vào kháng chiến để đấu tranh thắng lợi”. Hội nghị
Trung ương lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất đã thông qua cương lĩnh ruộng đất
quyết định thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do.

Bên cạnh nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam được cho nòng cốt trong khối liên minh
công nông. Ngày 18/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 56 quy định công nhân được
hưởng lương ngày nghỉ lễ Quốc tế Lao động 1/5. Thực hiện lời Bác, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam chính thức thành lập vào ngày 20/7/1946 đồng thời khẳng định vị thế giai cấp công
nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Ngày 1/5/1951, trong lời kêu gọi nhân ngày Quốc tế Lao
động, Hồ Chí Minh xác định “Trọng tâm thi đua là: Quân đội thi đua giết giặc lập công. Công
nhân thi đua tăng gia sản xuất. Nông dân thi đua sản xuất lương thực. Trí thức thi đua sáng tác,
phát minh. Cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính. Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng
chiến”.

Câu 2 (5 điểm): Anh (chị) hãy làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò con người.
Liên hệ với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vai trò của con người trong giai đoạn cách
mạng Việt Nam hiện nay.

Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, là
người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò
của con người, con người là mục tiêu của cách mạng và con người là động lực của cách mạng.

Con người là mục tiêu của cách mạng. Con người là chiến lược đầu tiên trong tư tưởng
và hành động của Hồ Chí Minh. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong ba giai đoạn cách mạng
(giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân chủ nhân dân - tiến dần lên xã hội chủ nghĩa) nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Giải phóng
dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập cho dân tộc. Con người
trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các
dân tộc thuộc địa. Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội không có chế độ
người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên tiến,

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 4/7
mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn
minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội
chủ nghĩa. Giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp
khác; xóa bỏ sự bất công, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế - xã hội đẻ ra sự bóc lột
giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều kiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành
giai cấp và xác lập một xã hội không có giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các giai
cấp cần lao, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Phạm vi thế giới là giải phóng
giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước. Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp
bức, bóc lột, nô dịch con người; xóa bỏ các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho
mọi người được hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát huy năng sáng tạo, làm chủ xã hội,
làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện theo đúng bản chất tốt đẹp của con
người. Con người trong giải phóng con người là cá nhân mỗi con người. Phạm vi thế giới là giải
phóng loài người. Các “giải phóng” đó kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một
phần giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc mở
đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Nhằm thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta, nhân dân ta lựa chọn và khẳng định độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong Văn kiện của Đảng vào mùa Xuân năm 1930. Qua 13 kỳ đại
hội khẳng định này được bổ sung, phát triển. Trong Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng nêu rõ
“Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”, “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Những mục tiêu to lớn mà Đại hội XIII của Đảng nêu ra cho các mốc thời
gian năm 2025, 2030,2045 đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, khát vọng phát triển
mạnh mẽ, giải phóng mọi nguồn lực để xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Nhận định về kết quả đạt được, trong thời gian qua Việt Nam và nhiều quốc gia khác đã gặp
không ít khó khăn khi đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh tại nhiều tỉnh thành trên cả nước,
Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo ra sức quyết tâm vào cuộc, vừa đáp ứng yêu cầu phòng chống
dịch, vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu đề ra: phát huy nguồn lực từ đất đai cho phát

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 5/7
triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo công bằng và ổn định xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh. Không chỉ trong nước, để ủng hộ hòa bình và tự do phạm vi thế giới, Việt Nam gia nhập
Liên hợp quốc – tổ chức đóng vai trò trung tâm trong việc luật pháp quốc tế, giữ gìn hòa bình,
ngăn ngừa xung đột và ứng phó với các thách thức toàn cầu đến nay đã 44 năm và trở thành một
trong những quốc gia đã chủ động đóng góp tích cực và ngày càng thực chất vào các hoạt động.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người là mục tiêu cách mạng được cho là
hệ thống các nội dung thể hiện được nhãn quan chính trị, tầm nhìn triết học nhân văn, là cống
hiến to lớn trong sự thành công cách mạng và sự phát triển đất nước.

Con người là động lực của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất,
động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc
đều do người làm ra”; “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì
mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”. “Ý dân là ý trời”. “Dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là
những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như
lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân
là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách
mạng.

Với cơ đồ đất nước sau gần 35 năm đổi mới, Đảng xác lập định hướng nước ta trở thành
nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, trở thành nước phát triển vào năm 2045, xây
dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây thực chất là
việc cụ thể hóa, hiện thực hóa khát vọng dân tộc. Tính tất yếu của vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp
tục được chứng minh thông qua việc Đảng bảo vệ và thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc, đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân. Vai trò của Đảng trong việc hiện thực hóa khát vọng dân tộc là
định ra và lãnh đạo dân tộc đi trên con đường phát triển có cơ sở khoa học, hợp quy luật, vừa
phù hợp với điều kiện đặc thù đất nước, vừa phù hợp với xu thế thời đại. Trên bình diện giai
cấp, lợi ích của Đảng là giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta và lợi ích này nằm trong lợi ích dân tộc, hòa quyện với lợi ích dân tộc.
Chính vì vậy, Đảng khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 6/7
triển của lịch sử” và “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao”.
Mục tiêu của Đảng và của toàn dân tộc được đề ra và hiện thực hóa trong bối cảnh thế giới, khu
vực đang có diễn biến phức tạp, khó lường, thế giới đang diễn ra cuộc chuyển giao sang trật tự
mới với cạnh tranh nước lớn ngày càng gia tăng, tạo ra các hệ lụy nhiều chiều đối với nước ta,
chính trị đối ngoại cường quyền, chủ nghĩa đơn phương đang nổi trội ở khu vực và trên thế giới,
kinh tế thế giới chưa hoàn toàn thoát khỏi bóng đen của suy thoái, lại thấp thoáng nguy cơ suy
thoái mới do hậu quả đại dịch COVID-19. Có thể thấy mục tiêu này sẽ không chỉ là sự hội tụ về
lợi ích của Đảng với dân tộc, mà còn phù hợp với lợi ích chung của nhân loại tiến bộ.

---Hết---

Họ tên SV/HV: Nguyễn Thị Ánh Phượng - Mã LHP: 2157HCMI0111 Trang 7/7

You might also like