Professional Documents
Culture Documents
(123doc) - Rui-Ro-Trong-Kinh-Doanh-Ngoai-Hoi-Tai-Cac-Nhtm-Viet-Nam
(123doc) - Rui-Ro-Trong-Kinh-Doanh-Ngoai-Hoi-Tai-Cac-Nhtm-Viet-Nam
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NHTM.....5
I.Rủi ro.......................................................................................................................................5
1. Khái niệm........................................................................................................................................5
2. Bản chất..........................................................................................................................................5
1. Khái niệm......................................................................................................................................11
3. Cấu trúc tổng quát hệ thống quản trị rủi ro trong ngân hàng.......................................................13
3.1. Mô hình tổ chức trong hoạt động quản trị rủi ro...................................................................13
4. Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong ngân hàng thương mại.......................................................15
CHƯƠNG 2: QUẢN TRỊ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NHTM
VIỆT NAM..............................................................................................................................17
1
1. Trạng thái ngoại tệ mở..................................................................................................................20
2. Sự biến động của tỷ giá và giới hạn trạng thái ngoại hối tại NHTM...............................................24
3. Các nhân tố tác động đến trạng thái ngoại hối tại các NHTM.......................................................30
1. Khái niệm......................................................................................................................................49
2. Các tác nghiệp của ngân hàng thương mại trong giao dịch hối đoái.............................................49
2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của
nền kinh tế. hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả
là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả, kích
thích tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên,
trong kinh tế thị trường, thì rủi ro là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của
các ngân hàng nói riêng.
Kinh doanh ngoại hối là một trong những lĩnh vực hấp dẫn nhất hiện nay,
không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Kinh doanh ngoại hối tạo ra lợi nhuận cao
đồng thời gánh chịu nhiều rủi ro đáng kể. Vậy làm sao hạn chế được thua lỗ khi kinh
doanh ngoại hối đặc biệt là các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay? Đó là lý do
vì sao chúng tôi chọn đề tài: “Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các NHTM Việt
Nam.” Qua đề tài này, chúng tôi sẽ giúp các bạn có thể nhận biết và phân tích được rủi
ro tỷ giá, rủi ro tác nghiệp cũng như các tổn thất phát sinh trong quá trình kinh doanh
ngoại hối gây ra, cũng như đưa ra các công cụ và các giải pháp phòng ngừa , hạn chế
tối đa các thiệt hại khi rủi ro tỷ giá và rủi ro tác nghiệp gây ra.
4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TẠI CÁC NHTM
I. Rủi ro
1. Khái niệm
Cụm từ “rủi ro” được các nhà kinh tế định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Nhưng nhìn chung có thể chia làm hai quan điểm.
Theo quan điểm truyền thống, “ Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm
hoặc các yếu tố khác liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn
có thể xảy ra cho con người”. Thực tế cho thấy, chúng ta đang sống trong một thế giới
mà rủi ro luôn tiềm ẩn và ngày càng tăng theo nhiều hướng khác nhau. Xã hội loài
người càng phát triển, hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phong phú và phức
tạp, thì rủi ro cho con người ngày càng nhiều và đa dạng hơn. Vì vậy, con người cần
quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu rủi ro, nhận dạng rủi ro và tìm các biện pháp
quản trị rủi ro, trong quá trình nghiên cứu đó nhận thức về rủi ro của con người cũng
thay đổi, trở nên khoan dung và trung hòa hơn.
Mặt khác, theo quan điểm trung hòa cho rằng “rủi ro là sự bất trắc không thể đo
lường được”. Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực, theo nghĩa rủi ro
có thể mang đến cho con người những tổn thất, mất mát và nguy hiểm nhưng cũng có
thể mang đến cho chúng ta những cơ hội, thời cơ không ngờ. Nếu tích cực nghiên cứu
rủi ro, nhận dạng rủi ro, đo lường rủi ro, quản trị rủi ro, chúng ta không chỉ tìm ra được
những biện pháp phòng ngừa, né tránh những rủi ro thuần túy, hạn chế những thiệt hại
do rủi ro gây ra mà còn có thể “lật ngược tình thế”, biến thủ thành thắng, biến thách
thức thành những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp trong tương lai.
2. Bản chất
Như bất kì một doanh nghiệp hay một tổ chức nào khác, một NHTM thực hiện
mục tiêu kiếm tiền của mình và chấp nhận tất cả những rủi ro. Và rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng được hiểu như là một tất yếu và là những biến cố không mong đợi
5
mà khi xảy ra sẽ tác động trực tiếp tới kết quả lợi nhuận, nguy cơ phá sản của các ngân
hàng. Do vậy việc thừa nhận rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và từ đó
tìm kiếm nhiều phương pháp chống đỡ, hạn chế các rủi ro là đòi hỏi của sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
Qua những nhận định trên ta có thể nhận xét một số điểm về bản chất của rủi ro:
• Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của một ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với
nhau trong một phạm vi nhất định.
• Khi đề cập đến rủi ro, người ta thường nhắc đến hai yếu tố mang tính đặc trưng
của rủi ro là biên độ rủi ro và tần suất xuất hiện rủi ro (số trường hợp thuận lợi để rủi
ro xuất hiện/tổng số trường hợp đồng khả năng).
• Rủi ro là yếu tố khách quan, nên chúng ta không thể loại trừ được hoàn toàn mà
chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại mà chúng gây ra.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp khi bên đi vay trong
6
một giao dịch nào đó không thực hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và
điều kiện trong hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính. Rủi
ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau, chúng
tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài
là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn...
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người ta thường phải xét
đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ trọng nợ quá hạn, người ta lại chia ra tỷ
trọng nợ quá hạn dưới sáu tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên một năm,
nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi... Các tỷ trọng này càng cao thì khả
năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.
Khi nghiên cứu về các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, người ta đã đưa ra
một số nguyên nhân chủ yếu sau: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân bất khả kháng, thông tin không cân
xứng, sự điều khiển sai lệch của cơ chế thị trường. Nguyên nhân chủ quan là nguyên
nhân từ phía ngân hàng (mà chủ yếu là từ sự yếu kém của cán bộ ngân hàng, các nhà
quản trị điều hành không có năng lực, thiếu kiểm tra giám sát), nguyên nhân từ phía
khách hàng...
Ngày nay, các Ngân hàng Thương mại dù đã mở rộng kinh doanh trên nhiều lĩnh
vực khác nhau, nhưng hoạt động cho vay vẫn là nguồn cơ bản tạo nên thu nhập của
ngân hàng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển như ở Việt Nam, hoạt động cho
vay chiếm tỷ lệ rất cao trong hoạt động của ngân hàng, và vì thế mà rủi ro tín dụng là
vấn đề cần được quan tâm đặc biệt trong hoạt động của các ngân hàng Thương mại ở
nước ta hiện nay. Về bản chất, rủi ro tín dụng là loại rủi ro đa dạng, phức tạp dẫn đến
việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn. Bất cứ một rủi ro nào đó của hoạt động
cho vay cũng đưa đến rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng không thể loại trừ khả năng rủi
ro, song nếu ngân hàng có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu thì có thể ngăn ngừa rủi
ro, hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
7
3.2. Rủi ro về lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi có sự biến động của chênh lệch lãi suất giữa
lãi suất cho vay của ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi vay, dẫn đến làm giảm
thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế, lãi suất là
yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế; hơn nữa, nó là công cụ trong
việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi
ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Như vậy, rủi ro lãi
suất là những tác động do biến động lãi suất đối với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro
lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua lại của tài sản Có, tài sản Nợ và các hợp đồng
ngoại bảng.
Cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ sẽ quyết định tình trạng rủi ro lãi suất của một ngân
hàng. Tình trạng rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức độ cân đối giữa tài sản Có và tài sản
Nợ mà điển hình là khi ngân hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn hoặc với lãi suất thay đổi
để đầu tư vào tài sản Có dài hạn hơn với lãi suất cố định. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi
lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng tăng lên trong khi thu nhập ở tài sản Có dài
hạn hơn vẫn giữ nguyên. Nếu chênh lệch thu nhập ở tài sản Có không bù đắp chi phí
nghiệp vụ kinh doanh thì ngân hàng sẽ bị ăn mòn vào vốn. Ngược lại, khi nhận lại vốn
với một thời hạn và lãi suất ấn định, lợi nhuận ngân hàng sẽ bị giảm khi lãi suất thị
trường bị giảm xuống.
Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra trong những trường hợp sau đây:
- Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng lên, chi phí
cho hoạt động ngân hàng cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi
lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay.
- Rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém, bị thua thiệt trong việc
cạnh tranh lãi suất ở thị trường hoặc do nhiều yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi
suất như cung, cầu, yếu tố khác của thị trường... Khi ngân hàng có quyết định điều
chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả,
8
tức là khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tương ứng, nên cũng dẫn đến rủi ro lãi
suất.
Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do sự biến
động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Những nghiệp vụ nghiệp vụ có liên quan đến ngoại
tệ của ngân hàng như: Cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ; Mua bán ngoại tệ; Đầu tư
chứng khoán bằng ngoại tệ… Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì
nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ.
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi của tỷ giá hối
đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay ngắn, đối với một đồng tiền nhất định,
đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Trong các giao
dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của ngân hàng, bất cứ một trạng
thái ngoại hối “trường” hay “đoản” đều có thể gặp rủi ro hối đoái khi tỷ giá ngoại tệ
thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ trường thì khi ngoại tệ tang giá ngân
hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân hàng
ở trạng thái đoản về một loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ lên giá ngân hàng sẽ bị lỗ và
ngược lại.
Như vậy việc tạo ra các trạng thái ngoại tệ “trường” hay “đoản” chính là nguyên
nhân gây rủi ro hối đoái cho ngân hàng. Đây chính là kết quả của việc ngân hàng thực
hiện các giao dịch ngoại tệ phục vụ cho khách hàng và cho chính bản thân mình, hoặc
ngân hàng huy động vốn bằng ngoại tệ và đầu tư vào các tài sản Có bằng ngoại tệ.
9
Mọi ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán.
Khả năng chi trả là khả năng đáp ứng được nhu cầu chi trả hiện tại, đột xuất, và trong
tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả, nếu không được giải quyết kịp thời có
thể dẫn đến mất khả năng chi trả. Khi ngân hàng thừa khả năng chi trả sẽ đẫn đến ứ
động vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm.
- Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn,
trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp, nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy động
ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng chi trả
tạm thời cho người gửi tiền.
- Khi đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm sút,
người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của ngân hàng
bằng cách sử dụng hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau
hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được.
Tất cả những khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh khoản của ngân
hàng. Các nhà chuyên môn khẳng định rằng đây là loại rủi ro riêng của ngân hàng và
liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Rủi ro này thường là hậu quả của một hay
nhiều loại rủi ro mà ngân hàng không lường trước được. Trong trường hợp này, vốn tự
có của ngân hàng không có khả năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại,
ngân hàng dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản.
Rủi ro hoạt động: Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà
một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt động là rất
nhiều như: việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh nguồn
vốn, quản trị tồi các quy trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô, thiếu các kế hoạch khôi
phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa...
10
Rủi ro chiến lược: Rủi ro chiến lược phát sinh từ các thay đổi trong môi trường
hoạt động của ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro
chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân ngân hàng. Chẳng hạn,
chiến lược mở rộng thị trường, thâm nhập vào một thị trường mới mà ngân hàng chưa
có nghiên cứu đầy đủ thông tin và thiếu nguồn lực đủ trình độ cần thiết để khai thác,
nắm bắt thị trường mới này thì ngân hàng có thể rơi vào tình trạng thua lỗ.
Các rủi ro khác: rủi ro về công nghệ, rủi ro môi trường, rủi ro pháp lý, rủi ro quốc gia,
…
1. Khái niệm
Quản trị rủi ro (QTRR) là xác định mức độ rủi ro mà một doanh nghiệp mong
muốn và nhận diện được mức độ rủi ro hiện nay của doanh nghiệp đang gánh chịu.
Mặt khác, sử dụng các công cụ phái sinh hoặc các công cụ tài chính khác để hạn
chế sự xuất hiện của rủi ro hoặc điều chỉnh mức độ rủi ro thực sự theo mức rủi ro mà
mình mong muốn.
Nói cách khác, QTRR là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và
có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát và giảm thiểu những tổn thất, mất mát,
những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro, đồng thời tìm cách biến rủi ro thành những cơ
hội thành công mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Quản trị rủi ro luôn là hoạt động trung tâm trong các tổ chức tài chính- ngân hàng,
bởi kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách có hiệu
quả nguồn vốn hoạt động. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường nếu không chấp nhận
rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Do đó quản trị rủi ro là
một yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của NHTM. Tuy vậy,
quản trị rủi ro trong các NHTM luôn là công việc khó khăn, phức tạp.
11
quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng,
kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất
lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro bao gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo
lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa và tài trợ rủi ro.
• Nhận dạng rủi ro: đây là điều kiện tiên quyết trong quản trị rủi ro. Nhận dạng rủi
ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, bao gồm: việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ
hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả dự báo
những rủi ro mới có thể xuất hiện trong tương lai để có biện pháp kiểm soát, tài trợ
phù hợp cho từng loại rủi ro.
• Phân tích rủi ro: là việc tìm ra nguyên nhân gây rủi ro. Từ việc tìm ra các nguyên
nhân, các nhân tố tác động đến các nguyên nhân, phân tích rủi ro sẽ cho ta biện pháp
phòng ngừa rủi ro một cách hiệu quả hơn.
• Đo lường rủi ro: công việc này đòi hỏi phải thu thập số liệu, lập ma trận đo lường
rủi ro và phân tích. Để đánh giá mức độ quan trọng của rủi ro đối với ngân hàng,
người ta sử dụng hai tiêu chí: tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ của rủi ro (mức
độ thiệt hại do rủi ro gây ra), đây là tiêu chí có vai trò quyết định.
• Kiểm soát, phòng ngừa rủi ro: kiểm soát rủi ro là trọng tâm của quản trị rủi ro, đó
là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt
động để ngăn ngừa, phòng tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng
không mong đợi có thể xảy ra đối với ngân hàng. Các biện pháp phòng tránh có thể là:
phòng tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, chuyển giao rủi ro, đa dạng rủi ro, quản trị
thông tin,…
• Tài trợ rủi ro: dù đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa, nhưng rủi ro vẫn có
thể xảy ra, khi đó chúng ta cần phải theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài
sản, nguồn nhân lực hoặc về giá trị pháp lí. Sau đó, cần thiết lập các biện pháp tài trợ
phù hợp. Nhìn chung, các biện pháp này được chia làm hai nhóm: tự khắc phục và
chuyển giao rủi ro.
12
3. Cấu trúc tổng quát hệ thống quản trị rủi ro trong ngân hàng
Quản trị rủi ro ngân hàng là nghiệp vụ phức tạp, nó đòi hỏi kỹ năng và kinh
nghiệm chuyên môn. Ngân hàng phải hướng tới mô hình đo lường và quản trị rủi ro
13
hiện đại, Các ngân hàng lớn tham gia vào thị trường quốc tế phải xây dựng cho mình
mô hình quản trị rủi ro phù hợp để cạnh tranh hiệu quả. Các chuyên gia quản trị rủi ro
ngân hàng phải được đào tạo và tiếp cận với mô hình rủi ro theo chuẩn quốc tế và có
kinh nghiệm, kiến thức về kinh doanh và chính sách ngân hàng tại Việt Nam.
Hệ thống công nghệ thông tin phục vụ quản trị rủi ro bao gồm:
1. Các hệ thông cung cấp dữ liệu như core banking, CRM, Treasury, Trade Finance,
ERP, …
2. Giải pháp quản trị rủi ro (Risk Management System - RMS) bao gồm hệ thống đầy
đủ các công cụ tập hợp dữ liệu (ETL) từ các hệ thống trên, tổ chức kho dữ liệu (DW)
phục vụ công tác phòng ngừa rủi ro, các công cụ phân tích dữ liệu (Data Analysis), hệ
thống cảnh báo (Alert) và công cụ tạo báo cáo (Report Tool) linh hoạt, kịp thời, chính
xác theo các mô hình quản trị rủi ro chuẩn quốc tế và đặc thù quản trị rủi ro của từng
ngân hàng.
Cùng với khả năng cung cấp và triển khai các giải pháp công nghệ thông tin cho các
khách hàng, đặc biệt là các ngân hàng như giải pháp Core Banking, CRM, Treasury,
Trade Finance, ERP… Nắm bắt bối cảnh thị trường và xu hướng phát triển cũng như
nhu cầu nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực quản trị của các ngân hàng Việt Nam
trong thời gian sắp tới, FIS đã kết hợp với các đối tác tìm hiểu cũng như đảm bảo sẵn
sàng khả năng cung cấp, triển khai các giải pháp quản trị rủi ro cho các ngân hàng theo
mô hình hoạt động của các ngân hàng hiện đại trên thế giới cũng như tuân thủ các qui
định đặc thù môi trường kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam.
14
4. Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong ngân hàng thương mại
Hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, các hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng mở rộng và phát triển
để có thể trở thành “người bạn đồng hành” với cuộc sống của doanh nghiệp và người
dân. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải chấp nhận thêm sự xuất hiện của nhiều loại
rủi ro có thể xảy ra. Và như thế việc chấp nhận rủi ro một cách tích cực và hiệu quả
nhất chính là ngân hàng đang thực hiện QTRR. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của
NHTM có mối quan hệ với mức độ rủi ro xảy ra, nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh
doanh cao và ngược lại. Trong môi trường hoạt động kinh tế thị trường, các
NHTM không chỉ tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của chính ngân hàng
mà còn phải chấp nhận những quy định, những yêu cầu chung như là một “quy luật
chơi” để đảm bảo sự an toàn cho toàn hệ thống. Với xu hướng thị trường ngày càng
phát triển, sự cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi các ngân hàng phải tự khẳng định bản
lĩnh, vì vậy nếu ngân hàng không chú trọng đến việc củng cố và nâng cao năng lực
QTRR thì các NHTM không thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.
Quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Năng lực QTRR và hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng có tác động thúc đẩy lẫn nhau. QTRR tốt là điều kiện đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng, và kết quả kinh doanh tốt, ngân hàng sẽ có điều kiện
chú trọng và nâng cao chất lượng QTRR. Vì vậy người ta xem QTRR như một phần
của quản trị kinh doanh và là yêu cầu đối với nhà lãnh đạo.
Quản trị rủi ro để nâng cao năng lực trong quá trình hội nhập quốc tế. Hiện
nay, xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá là xu thế chung, chúng ta đang chủ
động hay bị cuốn theo thì cũng không có gì khác biệt, quan trọng là chúng ta ứng xử
và thích nghi nó như thế nào. Việc hội nhập về tài chính ngân hàng luôn là một vấn
đề hết sức quan trọng và nhạy cảm do các ngân hàng trong nước sẽ phải chịu áp lực
cạnh tranh ngày càng cao hơn cả về quy mô và năng lực cũng như phải tham gia hoạt
động trong một môi trường tự do ,bình đẳng và khắc khe hơn; đồng thời, phải đối mặt
với những nguy cơ rủi ro cao với những diễn biến phức tạp của thị trường. Đó là sự
cần thiết của việc quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng, mà việc sống còn của toàn
15
hệ thống tài chính mỗi quốc gia lại phụ thuộc năng lực quản trị rủi ro của mỗi ngân
hàng trong quốc gia đó.
16
CHƯƠNG 2: QUẢN TRỊ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI HỐI
TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
Doanh số ngoại tệ trường (hay doanh số ngoại tệ dương): Các giao dịch làm tăng
quyền sở hữu về một ngoại tệ làm phát sinh doanh số trường ngoại tệ đó. Doanh số
ngoại tệ trường được tính cho một thời kỳ nhất định, do đó nó phả ánh doanh số tăng
quyền sở hữu ngoại tệ trong kỳ tính toán.
Doanh số ngoại tệ đoản (hay doanh số ngoại tệ âm): Các giao dịch làm giảm
quyền sở hữu về một ngoại tệ sẽ làm phát sinh doanh số đoản ngoại tệ đó. Doanh số
ngoại tệ đoản được tính cho một thời kỳ nhất định, do đó nó phản ánh doanh số giảm
quyền sở hữu ngoại tệ trong kỳ tính toán
Từ các khái niệm trên, ta liệt kê các giao dịch làm phát sinh doanh số ngoại tệ trường
và đoản như sau:
Các giao dịch làm phát sinh doanh số Các giao dịch làm phát sinh doanh số
ngoại tệ trường ngoại tệ đoản
1. Mua một ngoại tệ (giao ngay, kỳ 1. Bán một ngoại tệ (giao ngay, kỳ
hạn) hạn)
2. Thu lãi cho vay bằng ngoại tệ 2. Trả lãi huy động vốn bằng ngoại tệ.
3. Thu phí dịch vụ bằng ngoại tệ 3. Trả phí dịch vụ bằng ngoại tệ
4. Nhận quà biếu, viện trợ bằng ngoại 4. Cho, tặng, biếu, viện trợ bằng
tệ ngoại tệ
5. Nhận tiền lương, thưởng bằng 5. Ngoại tệ bị mất, rách nát, hư
ngoại tệ hỏng…
17
Trạng thái ngoại tệ ròng: là chênh lệch giữa TSC và TSN (nội bảng và ngoại
bảng) của một ngoại tệ tại một thời điểm. Nếu TSC > TSN thì ngoại tệ ở trạng thái
ròng dương; ngược lại, ngoại tệ ở trạng thái ròng âm. Vì là trạng thái tại một thời điểm
nên trạng thái ngoại hối ròng của một ngoại tệ phản ánh số dư của ngoại tệ đó tại thời
điểm tính toán.
Thời điểm phát sinh trạng thái ngoại hối: Là ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng
chứ không phải tại thời điểm thanh toán
Thứ nhất: Bằng chênh lệch giữa doanh số phát sinh trường và doanh số phát sinh
đoản của ngoại tệ (i) trong một thời kỳ nhất định
Doanh số
phát sinh
=
đoản trong kỳ
Thứ hai: Trong thực tế, trạng thái ngoại tệ thường được tính tại thời điểm cuối
mỗi ngày giao dịch, tức là không tính riêng cho từng thời kỳ (phương pháp cộng dồn
doanh số). Vậy trạng thái ngoại tệ (i) cuối ngày (t) được tính trên cơ sở trạng thái
ngoại tệ cuối ngày hôm trước (t-1) cộng với chênh lệch giữa doanh số phát sinh trường
và doanh số phát sinh đoản của ngoại tệ đó.
18
Thứ ba: Xét từ góc độ kế toán, trạng thái ngoại tệ ròng của ngoại tệ (i) tại thời
điểm t được xác định bằng chênh lệch giữa TSC và TSN (bao gồm cả nội bảng và
ngoại bảng) của ngoại tệ t tại thời điểm t
Trạng thái
TSC tại thời TSN tại thời
ngoại tệ ròng = -
điểm t điểm t
thời điểm t
Nếu trạng thái ngoại tệ ròng của ngoại tệ (i) > 0, thì ngoại tệ đó đang ở trạng thái
trường/ dương (long position). Với tỷ giá được yết theo kiểu ngoại tệ đóng vai trò là
đồng yết giá và nội tệ đóng vai trò là đồng định giá, thì khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra lãi
ngoại hối và khi tỷ giá giảm sẽ phát sinh lỗ ngoại hối đối với NHTM.
Nếu trạng thái ngoại tệ ròng của ngoại tệ (i) < 0, thì ngoại tệ đó đang ở trạng thái
đoản/âm (short position). Đối với trạng thái ngoại tệ đoản thì khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra
lỗ ngoại hối và khi tỷ giá giảm sẽ phát sinh lãi ngoại hối đối với NHTM.
Nếu trạng thái ngoại tệ ròng của ngoại tệ (i) = 0, thì ngoại tệ đang ở trạng thái cân
bằng (squarephsition). Đối với trạng thái ngoại tệ cân bằng, thì những hay đổi của tỷ
giá đều không ảnh hưởng đến lãi hay lỗ ngoại hối đối với NHTM.
Sau đây là một ví dụ về ý nghĩa kinh tế về trạng thái ngoại tệ ròng cuối ngày giao dịch:
19
Trạng thái Doanh số Doanh số Trạng thái
cuối ngày mua vào bán ra cuối ngày Ý nghĩa kinh tế
hôm trước hôm nay hôm nay hôm nay
Trạng thái ngoại tệ
trường:
-10 +50 -30 +10
• Lãi khi USD tăng giá
Vì trong số các giao dịch làm chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ, thì hoạt động
mua bán ngoại tệ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối là chủ yếu, do đó, người ta
thường coi trạng thái ngoại tệ chỉ gồm trạng thái mua bán ngoại tệ của ngân hàng
20
TSC ngoại tệ TSN ngoại tệ
Các khoản cho vay bằng ngoại tệ Tiết kiệm và tiền gửi bằng ngoại tệ của
khác khác
Tiền mặt bằng ngoại tệ Các khoản vay bằng ngoại tệ
TSC khác TSN khác
Trạng thái ngoại hối của hoạt động nội bảng: Là sự chênh lệch giữa tổng tài sản có
và tổng tài sản nợ của ngoại tệ đó bao gồm cả các tài khoản ngoại bảng tương ứng, các
khoản mua, bán ngoại tệ giao ngay và có kỳ hạn.
Sự tham gia thị trường ngoại tệ của một ngân hàng thường được phản ánh thông
qua bốn hoạt động sau:
21
1. Mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho khách hàng nhằm phục vụ cho hoạt động xuất
nhập khẩu
2. Mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện đầu tư nước ngoài
trực tiếp và gián tiếp
3. Mua, bán ngoại tệ cho khách hàng và cho chính ngân hàng nhằm cân bằng
trạng thái ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
4. Mua, bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá biến động
Hai hoạt động đầu, ngân hàng thực hiện mua hộ và bán hộ cho khách hàng để thu
phí, do đó, rủi ro tỷ giá không phát sinh (nghĩa là ngân hàng đồng thời vừa mua vừa
bán một lượng ngoại tệ nhất định nên trạng thái ngoại tệ không phát sinh). Hoạt động
thứ 3, ngân hàng tiến hành nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, tức là nhằm giảm rủi ro tỷ giá
(ngân hàng tiến hành mua bán ngoại tệ nhằm cân bằng trạng thái ngoại tệ, tức triệt tiêu
rủi ro tỷ giá). Như vậy rủi ro tỷ giá chỉ thực sự liên quan đến trạng thái ngoại tệ mở,
tức hoạt động 4 (ngân hàng mua vào mà chưa bán ra, hoặc đã bán ra mà chưa mua
vào)
Các hoạt động mua bán ngoại tệ tồn tại dưới dạng các hợp đồng phát sinh tiền tệ
như: hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ, hợp đồng tương lai ngoại tệ, hợp đồng quyền chọn
ngoại tệ và hợp đồng hoán đổi ngoại tệ. Các hoạt động này được hạch toán bảng tổng
kết tài sản nên người ta thường gọi hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động ngoại
bảng về ngoại tệ, chúng tạo ra một trạng thái ngoại bảng đối với từng loại ngoại tệ
được xác định như sau:
= Tổng ngoại
_
tệ bán ra
22
3. Tổng trạng thái ngoại tệ mở
Hầu hết các dịch vụ NHTM hình thành nên tài sản nợ, tài sản có hay các khoản
thanh toán bằng ngoại tệ đều chịu ảnh hưởng của rủi ro và tổn thất ngoại hối. Và kết
quả của tất cả các hoạt động kinh doanh trên đều có thể phản ánh qua bảng ví dụ sau:
Bảng: Doanh số mua bán ngoại tệ/ tuần và số dư tài sản có, tài sản nợ bằng ngoại
tệ của các ngân hàng Mỹ tại thời điểm 26/9/1990
Hoạt động nội bảng Hoạt động ngoại bảng Trạng thái
Loại ngoại tệ Tài sản có Tài sản nợ Mua vào Bán ra ngoại tệ ròng
(1) (2) (3) (4) (5)
CAD (triệu) 24.819 25.100 102.224 101.568 +375
DM (triệu) 124.442 126.870 1.094.497 1.104.173 -12.104
JPY (tỷ) 15.050 12.864 127.118 128.747 +557
CHF (triệu) 45.667 45.958 316.195 316.124 -220
GBP (triệu) 40.336 38.702 348.191 348.315 +1.510
Nguồn: US Treasury Bulletin, March 1991, pp.99-104
• Trạng thái ngoại tệ ròng đối với một ngoại tệ được tính như sau:
Trạng thái ròng (5) = Trạng thái nội bảng + Trạng thái ngoại bảng
Nếu trạng thái ròng của ngoại tệ lớn hơn 0, thì ta gọi là trạng thái trường (hay
trạng thái dương); nếu nhỏ hơn 0 thì là trạng thái đoản (hay trạng thái âm); nếu bằng 0
thì gọi là trạng thái cân bằng
Rõ ràng là để tránh được rủi ro ngoại hối đối với một ngoại tệ nhất định, tức là để
cho ngoại tệ này có trạng thái bằng 0, thì ngân hàng có thể tiến hành theo hai cách:
Thứ nhât, đồng thời làm cân xứng giữa “doanh số mua vào và doanh số bán ra” và cân
xứng giữa “số dư tài sản có và số dư tài sản nợ” đối với ngoại tệ này; Thứ hai, làm cho
trạng thái nội bảng và ngoại bảng ngược với nhau.
Chúng ta có thể thấy rằng, để một ngân hàng tránh được hoàn toàn rủi ro ngoại hối
thì ngân hàng này phải có trạng thái bằng 0 đối với tất cả các ngoại tệ. Từ bảng trên
23
cho ta thấy đối với ngân hàng Mỹ, trạng thái ngoại hối là dương đối với đồng Đôla
Canada, Yên Nhật và Bảng Anh; nhưng lại là âm đối với đồng Mác Đức và Franc
Thụy Sĩ. Khi trạng thái ngoại hối dương (trường) thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro
khi đồng tiền này giảm giá. Khi trạng thái ngoại hối âm (đoản) thì ngân hàng phải đối
mặt với rủi ro khi đồng tiền này lên giá. Như vậy khi trạng thái ngoại hối của một
ngoại tệ là khác 0 thì ngân hàng luôn phải đối mặt với rủi ro khi tỷ giá ngoại tệ này
biến động.
Từ những nội dung đã trình bày, tóm lại có thể kết luận rằng có 2 nguyên nhân chủ
yếu làm phát sinh rủi ro ngoại hối là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan:
Nguyên nhân khách quan: Do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng bất lợi đối với
ngân hàng. Nguyên nhân của sự biến động này là: mất cân đối giữa cung – cầu ngoại
tệ trên thị trường, cán cân thanh toán quốc tế; chính sách thuế quan, năng suất lao
động, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại tệ…
Nguyên nhân chủ quan: Do trạng thái ngoại hối ngân hàng không cân xứng, tức là
có sự chênh lệch giá trị tài sản Có và tài sản Nợ ngoại hối hoặc chênh lệch giữa doanh
số mua vào và doanh số bán ra của đồng tiền nước ngoài. Từ sự không cân xứng đó,
khi ngân hàng thực hiện mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho chính ngân
hàng nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá biến động thì rủi ro sẽ xuất hiện khi tỷ
giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng.
2. Sự biến động của tỷ giá và giới hạn trạng thái ngoại hối tại NHTM
Nếu tỷ giá không biến động, thì cho dù duy trì trạng thái ngoại tệ mở, thì NHTM
cũng không chịu rủi ro tỷ giá.
Lãi/lỗ đối với ngoại tệ = Trạng thái ngoại hối ròng ngoại tệ x Mức biến động tỷ
giá của ngoại tệ
24
Ví dụ: Một ngân hang có trạng thái ngoại hối trường ròng là 100 triệu USD và giả
sử rằng sau một tuần tỷ giá giao ngay USD/VND tăng từ 1 USD= 20.050 VND lên
1USD = 20.107 VND.
Gọi So là tỷ giá của USD trước khi thay đổi, So= 20.050
Gọi S1 là tỷ giá của USD sau khi thay đổi, S1= 20.107
Ta tính được tỷ lệ % thay đổi tỷ giá (% thay đổi giá trị của USD):
Do USD có trạng thái trường, mà USD lại lên giá nên ngân hàng thu được lãi hối
đối quy VND là :
Ý nghĩa: với trạng thái ngoại hối trường là 100 triệu USD thì khi tỷ giá tăng 0,28%
thì ngân hàng thu được lãi hối đối quy VND là 5700 triệu VND
Rõ ràng là , nếu ngân hàng duy trì trạng thái ngoại tệ mở (dương hoặc âm) với bất
kỳ ngoại tệ nào, thì khi tỷ giá của đồng tiền này biến động càng lớn thì khả năng thu
được lãi (hay lỗ) cũng càng lớn. Do đó, để hạn chế rủi ro trong hoạt động ngoại hối,
ngân hàng nhà nước buộc các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vào
cuối ngày phải duy trì tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc âm cuối ngày không được
vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời
điểm vốn tự có của tháng liền kề trước kỳ báo cáo.
≤ 20%; ≤ 20%
Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có từ 25 triệu
USD trở xuống được phép áp dụng mức giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc
âm cuối ngày quy ra đô la Mỹ không vượt quá 5 triệu USD
25
Và phải chậm nhất đến 14h của ngày làm việc, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài gửi báo cáo trạng thái ngoại tệ của ngày làm việc liền kề trước đó về
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Vụ Quản lý Ngoại hối) theo mẫu biểu sau:
26
BÁO CÁO KINH DOANH NGOẠI TỆ VÀ TRẠNG THÁI
NGOẠI TỆ HÀNG NGÀY
I. Mua bán ngoại tệ với khách hàng bằng Việt Nam đồng (không gồm giao dịch liên ngân
hàng)
EUR
JPY
Kỳ hạn USD
Dưới 31 ngày
31-120
121-180
EUR
Dưới 31 ngày
31-120
121-180
JPY
Dưới 31 ngày
31-120
121-180
27
(%)
USD
EUR
JPY
Ngoại tệ khác
(*)
* Đối với các ngoại tệ khác, chỉ báo cáo các ngoại tệ có giá trị TTNT lớn hơn hoặc bằng 1%
so với Vốn tự có.
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
28
BÁO CÁO TRẠNG THÁI NGOẠI TỆ CUỐI THÁNG
Ngày tháng năm
Chỉ tiêu Tài khoản Các ngoại tệ (nguyên tệ)
T=A-B+C-D+E-F
Trạng thái ngoại tệ so với vốn tự
có (%)
Vốn tự có (VNĐ)
(*) Đối với các ngoại tệ khác, TCTD chỉ cần báo cáo đối với những ngoạitệ có giá trị TTNT
lớn hơn hoặc bằng 1% so với VTC. Mức sai số so với báocáo trạng thái ngoại tệ vào ngày
cuối tháng theo Mẫu biểu 01 (đối với từngngoại tệ):
Người lập biểu Kiểm soát Xác nhận của người có thẩm
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) quyền
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
29
Các ngân hàng phải có báo cáo thường xuyên về trạng thái ngoại hối cho các ngân
hàng nhà nước để phục vụ cho công tác giám sát rủi ro. Việc giới hạn trạng thái
ngoại tệ như vậy chủ yếu là giúp các ngân hàng phòng tránh rủi ro tỷ giá đặc biệt là
các ngân hàng có tư tưởng kinh doanh mạo hiểm, hạn chế các ngân hàng này có trạng
thái ngoại tệ mở quá lớn so với vốn tự có. Bởi khi rủi ro tỷ giá thực sự phát sinh, các
ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ mất vốn và nếu để trạng thái ngoại tệ mở quá cao
thì ngân hàng sẽ chịu nhiều thua lỗ, giảm năng lực tài chính
3. Các nhân tố tác động đến trạng thái ngoại hối tại các NHTM
• Tỷ giá: tỷ giá là yếu tố có tác động rất lớn đến việc duy trì trạng thái ngoại hối
tại các ngân hàng. Nếu mức tỷ giả giao dịch bình quân liên ngân hàng duy trì ở trạng
thái ổn định không có nhiều biến động lớn hoặc tỷ giả giảm thì các ngân hàng sẽ duy
trì trạng thái ngoại hối đoản và ngược lại khi tỷ giá có xu hướng biến động theo chiều
hướng tăng thì các ngân hàng sẽ duy trì trạng thái ngoại hối trường.
• Lãi suất: lãi suất cho vay VND thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay
của USD, EUR và JPY (lãi suất thực của VND dương), vì thế các ngân hàng sẵn sàng
bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ và cho vay nội tệ để hưởng lãi suất cao, đến hạn hoàn trả
ngoại tệ họ sẽ mua ngoại tệ vào và khoản lãi thu được từ cho vay VND luôn lớn hơn
khoản thua lỗ do tỷ giá tăng (tức là VND mất giá) trong khi chính sách tỷ giá mà
NHNN theo đuổi lại ổn định trong thời gian dài và vì thế khi không bị tác động nhiều
bởi các yếu tố khác thì với lãi suất cho vay như hiện nay thì các ngân hàng thường sẽ
duy trì cho mình trạng thái ngoại tệ đoản
• Nguồn cung ngoại tệ (từ thị trường chứng khoán, đầu tư nước ngoài…): Thị
trường chứng khoán vào một số giai đoạn phát triển mạnh sẽ thu hút được nhiều nhà
đầu tư từ nước ngoài đầu tư vào thị trường trong nước. Họ sẽ chuyển ngoại tệ vào Viêt
Nam, tiến hành đổi sang nội tệ và bắt đầu đầu tư khiến cho nguồn cung ngoại tệ tăng
mạnh. Một số nguồn tin bất lợi từ các thị trường nước ngoài chẳng hạn như Cục dữ trữ
liên bang Mỹ liên tục cắt giảm lãi suất làm cho giá USD giảm mạnh so với các tiền tệ
như EUR, JPY…cũng sẽ làm cho nguồn vốn đầu tư chuyển từ USD sang VND. Ngoài
nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn cung ngoại tệ cũng có thể đến từ các nguồn vốn
trực tiếp FDI, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA…Bên cạnh đó, vào một số
30
giai đoạn đặc biệt trong năm chẳng hạn như tết, lượng ngoại tệ từ nước ngoài đổ dồn
về Việt Nam rất nhiều do các kiều bào gửi về cho người thân cũng làm tăng lượng lớn
ngoại tệ trên thị trường. Tất cả những lý do trên đã làm cho trạng thái ngoại tệ của các
NHTM Việt Nam luôn ở trong tình trạng dư thừa. Trong khi đó, để tránh áp lức cho
lạm phát, NHNN không mua số ngoại tệ dư thừa này đã khiến cho tỷ giá USD/VND
liên tục suy giảm. Và chính điều này lại gây khả năng rủi ro tỷ giá cho các NHTM.
• Sự can thiệp của NHNN: Ngân hàng nhà nước sẽ can thiệp vào thị trường ngoại
tệ có thể thông qua các quy định về trạng thái ngoại hối tại các NHTM (giảm trạng thái
ngoại hối từ 30% xuống còn 20%), chính sách tỷ giá (thả nổi, có kiểm soát)… Ngoài
ra, NHNN còn điều tiết thị trường thông qua nguồn dự trự ngoại hối của mình, tiến
hành tăng nguồn dự trữ ngoại hối khi thị trường đang bị dư ngoại tệ và giảm dự trự
ngoại hối khi thị trường đang thiếu nguồn cung ngoại tệ.
Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác cũng tác động đến trạng thái ngoại hối của một
ngân hàng. Và tùy thuộc vào từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau mà nhân tố nào sẽ có
tác động mạnh hơn
31
1. Tổn thất ròng giao dịch ngoại tệ cùng thời hạn
Tổn thất ròng giao dịch ngoại tệ cùng thời hạn đối với một loại ngoại tệ nào đó
được xác định bằng chênh lệch giá trị giữa tài sản có và tài sản nợ, cộng với trạng thái
ròng mua bán ngoại tệ đó, xét trong cùng một thời hạn nhất định. Về mặt toán học, tổn
thất ròng giao dịch cùng thời hạn có thể xác định bằng công thức:
Ngân hàng có trạng thái ròng giao dịch ngoại tệ cùng thời hạn dương khi NEi > 0
và, ngược lại, ngân hàng có trạng thái ròng giao dịch ngoại tệ cùng thời hạn âm khi
NEi < 0. Nếu ngân hàng có trạng thái ròng giao dịch cùng thời hạn dương đối với một
loại ngoại tệ nào đó thì khi ngoại tệ đó xuống giá so với nội tệ thì ngân hàng sẽ bị tổn
thất ròng giao dịch với ngoại tệ đó . Ngược lại, nếu ngân hàng có trạng thái ròng giao
dịch cùng thời hạn âm đối với một loại ngoại tệ nào đó thì khi ngoại tệ đó lên giá so
với nội tệ thì ngân hàng sẽ bị tổn thất ròng giao dịch với ngoại tệ đó.
Về nguyên tắc, cách thức phòng ngừa ở đây cũng tương tự như cách thức mà ngân
hàng cung cấp dịch vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho khách hàng trong trường hợp
32
khách hàng có một khoảng phải thu sẽ đến hạn trong tương lai. Tuy nhiên do ngân
hàng có nhiều giao dịch hơn nên cách phân tích và lựa chọn giải pháp quản lý rủi ro
hơi phức tạp hơn. Ngoài ra ngân hàng còn phải phối hợp cách quản lý rủi ro của mình
với tư vấn quản lý rủi ro cho khách hàng.
Ví dụ: Ngân hàng ACB nhận gửi của khách hàng A 500,000 USD cho khách hàng
B vay 1,000,000 USD cùng kỳ hạn 3 tháng. Ngoài ra mua của khách hàng C 120.000
USD, bán cho khách hàng D 250,000 USD cùng kỳ hạn 3 tháng.
Biết rằng:
Tỷ giá: USD/ VND: 20.911-13
Lãi suất kỳ hạn 3 tháng: VND: 7,8% - 11,16%/năm
USD: 3,82% - 4,68%/năm
Sau 3 tháng:
- Số tiền phải trả cho A là: 500,000 x (1+ 0,0382 x 3/12)= 504,775 USD
- Số tiền thu của B là : 1,000,000 x (1+ 0,0468 x 3/12)= 1011,700 USD
- Mua của C : 120,000 USD
- Bán cho D : 250,000 USD
Vậy trạng thái ngoại hối của USD ở ngân hàng TM là :
Để phòng ngừa rủi ro USD xuống giá, ngân hàng ACB có thể tiến hành 1 trong hai
nghiệp vụ :
- Mua quyền chọn bán kỳ hạn 3 tháng trị giá 376,925 USD.
33
Để phòng ngừa rủi ro tỷ giá có thể gây tổn thất giao dịch khi tỷ giá thay đổi trong
trường hợp NHTM có trạng thái ngoại tệ âm, ngân hàng có thể thương lượng với ngân
hàng khác một trong những giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá sau đây: mua ngoại tệ
kỳ hạn, mua quyền chọn mua, vay nội tệ sau đó mua giao ngay để có ngoại tệ (sử dụng
thị trường tiền tệ). Về nguyên tắc, cách thức phòng ngừa ở đây cũng tương tự như cách
thức mà ngân hàng cung cấp dịch vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho khách hàng trong
trường hợp khách hàng có một khoản phải trả sẽ đến hạn trong tương lai
Ví dụ: Ngân hàng ACB nhận gửi của khách hàng A 500,000 USD cho khách hàng
B vay 300,000 USD cùng kỳ hạn 6 tháng. Ngoài ra mua của khách hàng C 180,000
USD, bán cho khách hàng D 350,000 USD cùng kỳ hạn 6 tháng.
Biết rằng:
Tỷ giá: USD/ VND: 20.911-13
LS kỳ hạn 3 tháng: VND: 7,8% - 11,16%/năm
USD:3,82%- 4,68%/năm
Sau 6 tháng:
- Số tiền phải trả cho A là: 500,000 x (1+ 0.0382 x 6/12) = 509,550 USD
- Số tiền thu của B là : 300,000 x (1+ 0.0468 x 6/12) = 370,020 USD
- Mua của C : 180 000 USD
- Bán cho D : 350 000 USD
Vậy trạng thái ngoại hối của USD ở ngân hàng ACB là :
NEUSD = (370,020 – 509,550) + (180,000 – 350,000)= (-) 372,530 USD
Với trạng thái âm USD này, nếu 3 tháng sau khi đến hạn USD lên giá so với nội tệ
thì ngân hàng ABC sẽ bị tổn thất ròng đối với các giao dịch USD trong cùng thời hạn
3 tháng.
Để phòng ngừa rủi ro USD lên giá, ngân hàng ACB có thể tiến hành 1 trong hai
nghiệp vụ :
Tổn thất ròng giao dịch gộp đối với một loại ngoại tệ nào đó (NTE) được xác
định bằng tổn thất ròng của từng giao dịch ngoại tệ đó sau khi đã hiệu chỉnh theo thời
lượng (durations) của từng giao dịch. Về mặt toán học, tổn thất ròng giao dịch gộp đối
với loại ngoại tệ nào đó được xác định bởi công thức:
Ri: là giao dịch i hình thành nên khoản phải thu ngoại tệ kỳ hạn của ngân hàng.
Ri có thể là giao dịch tài sản có như cho vay, mua trái phiếu, kỳ phiếu hay đầu tư
ngoại tệ…) và các giao dịch mua.
Pi: là giao dịch i hình thành nên khoản phải trả ngoại tệ kỳ hạn của ngân hàng.
PI có thể là giao dịch tài sản nợ như nhận tiển gửi, phát hành trái phiếu kỳ phiếu hay
thu hút đầu tư bằng ngoại tệ và các giao dịch ngoại tệ kỳ hạn.
D: là thời lượng trung bình (duration) của tất cả các loại giao dịch kể cả giao
dịch tài sản c, tài sản nợ và giao dịch mua hoặc bán ngoại tệ.
Ni và Nj là thời hạn tương ứng với giao dịch khoản phải thu i và khoản phải trả
j.
NTE > 0: Ngân hàng có trạng thái ngoại tệ gộp dương. Khi đó, nếu ngoại
tệ xuống giá với nội tệ, ngân hàng sẽ bị tổn thất ngoại hối gộp với ngoại tệ đó.
NTE < 0: ngân hàng có trạng thái ngoại tệ gộp âm. Khi đó,nếu ngoại tệ
lên giá với nội tệ ngân hàng sẽ bị tổn thất ngoại hối gộp với ngoại tệ đó.
35
Một khi đã xác định đúng trạng thái ngoại tệ, việc lựa chọn các giải pháp phòng
ngừa rủi ro tỷ giá cũng tương tự như đối với quản lý rủi ro tỷ giá khi có trạng thái ròng
ngoại tệ giao dịch cùng thời hạn.
Ví dụ: Tại ACB có các giao dịch tiền gửi và kinh doanh USD như sau (giả sử
rằng ACB chỉ có thực hiện các giao dịch này, ngoài ra không có giao dịch khác)
Do giao dịch ngoại tệ của ACB có thời hạn rất khác nhau nên chúng ta phải xác
định thời lượng trung bình của các giao dịch và dựa vào đó để xác định trạng thái ròng
giao dịch ngoại tệ gộp
Từ đây ta có thể xác định trạng thái ngoại hối của USD
Để tránh tổn thất do việc USD có thể xuống giá, NHTM có thể lựa chọn các
biện pháp:
- Bán ngoại tệ kỳ hạn với kỳ hạn bằng thời lượng trung bình 3.1 tháng.
Hay là (3 + 0,1)x 30 = 93 ngày
- Mua quyền chọn bán có kỳ hạn bằng thời lượng trung bình 3.1 tháng hay
93 ngày
Ví dụ: Ngày 26/12 tại ACB có các giao dịch tiền gửi và kinh doanh USD như sau:
(giả sử ACB chỉ có thiện hiện các giao dịch này, ngoài ra không có giao dịch khác)
Do giao dịch ngoại tệ của ACB có thời hạn rất khác nhau nên chúng ta phải xác
định thời lượng trung bình của các giao dịch và dựa vào đó để xác định trạng thái ròng
giao dịch ngoại tệ gộp
Từ đây ta có thể xác định trạng thái ngoại hối của USD như bảng dưới đây:
38
Trạng thái ròng giao dịch ngoại tệ gộp (NTE) = Tổng giao dịch hình thành khoản
phải thu sau khi điều chỉnh – Tổng giao dịch hình thành khoản phải trả sau khi điều
chỉnh
NTE= - 879,633.03 < 0
Với trạng thái ròng giao dịch gộp âm có nghĩa là trong tương lai ACB có khoản
phải trả USD lớn hơn khoản phải thu USD. ACB đối mặt với rủi ro là nếu USD lên giá
so với VND thì ACB sẽ bị tổn thất ròng giao dịch gộp USD.
Để tránh tổn thất do USD có thể lên giá, ACB có thể lựa chọn các biện pháp:
- Mua ngoại tệ kỳ hạn với kỳ hạn bằng thời lượng trung bình 1.16 tháng. Hay là
(1+ 0,16)x 30 = 35 ngày
- Mua quyền chọn mua có kỳ hạn bằng thời lượng trung bình 1.16 tháng hay 35
ngày
1. Áp dụng các công cụ phái sinh vào phòng ngừa rủi ro ngoại hối
1.1. Sử dụng hợp đồng ngoại hối kì hạn
Khái niệm:
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ kì hạn là nghiệp vụ vào thời điểm hiện tại hai bên
mua bán thỏa thuận sẽ chuyển giao một hay một số ngoại tệ nhất định theo tỉ giá đã
thỏa thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai.
Tỷ giá thỏa thuận trong hợp đồng kì hạn là tỷ giá thỏa thuận vào ngày hôm nay
nhưng sẽ được thực hiện để chuyển giao ngoại tệ vào một ngày trong tương lai. Tỷ
39
giá kì hạn được xác định căn cứ vào tỷ giá giao ngay, thời hạn giao dịch và lãi suất của
hai đổng tiền giao dịch, theo công thức sau:
F = S + S x n x (Rb - Ra)
Trong đó:
F: là tỷ giá kỳ hạn của đồng tiền A so với đồng tiền B
S: là tỷ giá giao ngay của đồng tiền A so với đồng tiền B
Rb: là lãi suất của đồng tiền định giá B
Ra: là lãi suất của đồng tiền yết giá A
n: là thời hạn giao dịch
- Nếu F là tỷ giá mua thì S là tỷ giá mua, Rb là lãi suất tiền gửi, Ra
là lãi suất cho vay.
- Nếu F là tỷ giá bán thì S là tỷ giá bán, Rb là lãi suất cho vay, Ra
là lãi suất tiền gửi
Như vậy, tỷ giá kỳ hạn chịu tác động của lãi suất của hai đồng tiền biểu hiện như
sau:
Rb = Ra/ F = S
- Rb > Ra: thì F > S điểm kỳ hạn > 0 gọi là điểm gia tăng.
TỶ GIÁ KỲ HẠN= TỶ GIÁ GIAO NGAY + ĐIỂM KỲ HẠN
- Rb < Ra: thì F < S điểm kỳ hạn < 0 gọi là điểm khấu trừ.
TỶ GIÁ KỲ HẠN= TỶ GIÁ GIAO NGAY - ĐIỂM KỲ HẠN
Mục đích sử dụng:
- Sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm các hợp đồng xuất nhập khẩu.
- Sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm các khoản phải thu và phải trả bằng
ngoại tệ.
- Sử dụng nghiệp vụ kỳ hạn để đầu cơ.
Ví dụ: Ngày 15/5/2012, công ty A ký một hợp đồng nhập khẩu trị giá 100,000
USD đến hạn vào ngày 15/8/2012 (3 tháng). Để hạn chế rủi ro USD tăng giá cho lô
hàng nhập khẩu, công ty A ký hợp đồng kỳ hạn với ngân hàng X. Biết rằng:
40
Ở thời điểm hiện tại, chưa có chuyển giao ngoại tệ giữa hai bên, nhưng với tỷ giá
biết trước và cố định, công ty A biết chắc được số tiền cần phải trả khi hợp đồng khi
đáo hạn là 20935,6*100,000= 2,093,560,000 VND, cho dù tỷ giá giao ngay của
USD/VND là bao nhiêu. Như vậy, bằng việc ký hợp đồng kỳ hạn, công ty A đã cố
định được chi phí cũng như khoản lời/lỗ cho hợp đồng nhập khẩu.
Ví dụ: Ở thị trường Chicago các hợp đồng giao sau được tiêu chuẩn hóa như sau:
Đặc điểm:
Thị trường giao sau thực chất là hợp đồng kỳ hạn được tiêu chuẩn hóa về các loại
ngoại tệ , số lượng ngoại tệ quy định cho mỗi lần giao dịch và ngày chyển giao ngoại
tệ
41
Để đảm bảo sự vận hành ổn định của thị trường giao sau, phòng giao hoán được
thành lập như người bán của tất cả người mua và người mua của tất cả người bán.
Người bán và người mua đều có tài khoản riêng để tiến hành thanh toán hàng ngày.
Nhằm tạo điều kiện cho hợp đồng giao sau tiến hành thuận lợi , khi bắt đầu tham
gia người mua và người bán đều phải thực hiện ký quỹ ban đầu. được tính theo tỷ lệ
phần trăm trên giá trị hợp đồng tại phòng giao hoán. Số tiền ký quỹ này sẽ được tính
toán và điều chỉnh hàng ngày. Phòng giao hoán sẽ sử dụng số tiền ký quỹ để thưc hiện
thanh toán hàng ngày giữa một bên lời và lỗ, nếu như có chênh lệch giữa tỷ giá thị
trường và tỷ giá thỏa thuận khi kí hợp đồng giao sau.
Hợp đồng giao sau được thanh toán hàng ngày, theo đó tỷ giá kí kết trong hợp
đồng chỉ có giá trị trong một ngày.
Hợp đồng giao sau cung cấp những hợp đồng có giá trị nhỏ dễ dàng thuận lợi
trong giao dịch.
42
Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ là giao dịch đồng thời mua và bán cùng một số
ngoại tệ, trong đó kì hạn thanh toán của hai giao dịch là khác nhau và tỷ giá của hai
giao dịch được xác định tại thời điểm kí kết hợp đồng.
Có hai loại giao dịch hoán đổi: giao dịch hoán đổi giao ngay - kì hạn, giao dịch
hoán đổi kì hạn - giao ngay.
Đặc điểm:
Hai giao dịch đồng thời và ngược chiều nhau:
- Mua giao ngay đồng thời bán kì hạn.
- Bán giao ngay đồng thời mua kì hạn.
- Mua kì hạn M tháng đồng thời bán kỳ hạn N tháng.
- Bán kì hạn M tháng đồng thời mua kỳ hạn N tháng.
Chỉ có hai đồng tiên giao dịch, trong đó cả hai giao dịch mua và bán
cùng một số lượng đồng tiền chính.
- Tỷ giá giao dịch trong hợp đồng hoán đổi đều được thỏa thuận tại thời điểm kí
kết hợp đồng.
- Ngày giá trị trong hợp đồng hoán đổi phải khác nhau
Mục đích:
- Nhà kinh doanh đầu tư sử dụng hợp đồng hoán đổi để đáp ứng nhu cầu thanh
toán cân đối nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau.
- Ngoài ra còn giúp doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu phòng ngừa rủi
ro tỷ giá.
Cũng như các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại sử dụng nghiệp vụ hoán đổi
ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu khách hàng, bảo hiểm rủi ro tỷ giá, cân bằng trạng thái
ngoại hối, kiểm soát nguồn vốn khả dụng và với mục đích kiếm lời.
Ví dụ: Sau khi nhận được yêu cầu vay 200,000 USD trong 2 tháng, Ngân hàng
B thực hiện Swap với Ngân hàng X kỳ hạn 3 tháng. Cho biết:
Tỷ giá giao ngay: EUR/USD: 1.2540-1.2552
Lãi suất kỳ hạn 2 tháng USD: 3.15-3.75%/năm
Lãi suất kỳ hạn 2 tháng EUR: 3.5-4%/năm
Ở thời điểm hiện tại:
- Số EUR phải trả khi mua 200,000 USD:
200,000/1.2540=159,489.6 EUR
- Số tiền lãi ngân hàng B thu được:
200,000*3.75%*2/12= 1250 USD
Ở thời điểm đáo hạn:
- Ngân hàng B thực hiện swap:
- Tỷ giá thực hiện:
Ft=1.2552+1.2552*2/12*(3.75%-3.5%)= 1.2557
- Mua EUR bằng USD. Số USD phải trả:
159,489.6*1.2557=200,217.1 USD
- Lợi nhuận của ngân hàng B trong nghiệp vụ này:
43
200,000-200,271.1+1250=978.9 USD
1.4. Sử dụng hợp đồng quyền chọn:
Khái niệm:
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ theo quyền chọn là hợp đồng mua bán quyền để
thực hiện việc mua bán ngoại tệ. Hay nói cách khác, đây là nghiệp vụ mua bán quyền
trong đó người mua quyền có quyền nhưng không bắt buộc phải mua (call option)
hoặc bán (put option) một số lượng ngoại tệ nhất định với tỷ giá được thỏa thuận trước
vào một ngày xác định trong tương lai hoặc trong một thời gian xác định.
Là hợp đồng theo đó người mua quyền chọn có quyền mua nhưng không bắt
buộc mua một số lượng nhất định đồng tiền cơ sở theo tỷ giá đã xác định trước vào
một ngày xác định trong tương lai hoăc trong một khoảng thởi gian nhất định. Để có
quyền này người mua phải trả cho người bán một khoản phí nhất định. Còn người bán
quyền có trách nhiệm phải bán số lượng tiền cơ sở theo giá thực hiện nếu người mua
quyết định thực hiện quyền.
Nếu nhà đầu cơ dự đoán đồng tiền nào đó trên thị trường trong tương lai giảm và
để kiếm lời thì họ sẽ chọn mua hợp đồng quyền chọn bán. Nếu dự đoán sai nhà đầu tư
sẽ chọn mức lỗ tối đa là phí mua quyền
Nghiệp vụ quyền chọn sử dụng cho mục đích phòng ngừa rủ ro tỷ giá.
44
Ví dụ: Theo dự báo về tỷ giá USD/JPY tăng sau 2 tháng nữa, nhà đầu tư A mua
spot 100,000USD với S0=78.68. Nhưng vì lo sợ tỷ giá USD/JPY giảm, Nhà đầu tư
A mua quyền chọn bán (put option) 2 tháng với ngân hàng X, giá thực hiện
E(ITM)=78.82 và mức phí 0.15 JPY/USD theo kiểu Âu.
Ở thời điểm hiện tại:
- Nhà đầu tư mua spot 100,000 USD, số tiền phải trả: 100,000*78,68=7,868,000
JPY
- Nhà đầu tư A mua quyền chọn bán của ngân hàng X, đồng thời đóng mức phí
là: 0.15*100,000= 15,000 JPY
Ở thời điểm đáo hạn:
- Trường hợp Sb<E: Nhà đầu thực hiện quyền chọn bán.
Số tiền ngân hàng phải trả cho nhà đầu tư: 100,000*78.82= 7,882,000JPY
LN của nhà đầu tư A: 7,882,000-(7,868,000+15,000)= -1000 JPY
Vậy trong trường hợp Sb<E thì dù tỷ giá USD/JPY có giảm bao nhiêu thì nhà
đầu tư vẫn cố định được mức rủi ro là lỗ 1000JPY, đồng thời, qua giao dịch trên,
ngân hàng X thu được một khoảng lời là 1000+15000=16000 JPY.
- Trường hợp Sb>E: Nhà đầu tư không thực hiện quyền, mà sẽ mua USD trên thị
trường giao ngay để thu một khoảng lợi nhuận:
Sb*100,000-(78,68*100,000+15,000)
Đồng thời ngân hàng cũng thu được một khoảng lợi nhuận là khoảng phí ban đầu
của nhà đầu tư: 15,000JPY.
Phân tích cơ bản: là phương pháp phân tích tập trung vào việc nghiên cứu các lý
do hoặc nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc giảm xuống. Nó chú ý đến các lực
lượng tác động đến cung cầu của thị trường: lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế,
xuất nhập khẩu, đầu tư…Ý tưởng của phương pháp này là tiến đến một giá trị dự đoán
về giá trị sinh lời tiềm ẩn của thị trường để xác định xem thị trường được xác định cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị thực. Phần khó nhất của phương pháp này là quyết định xem
thông tin nào và bao nhiêu tiền đã được tính vào cơ cấu giá hiện hành. Các lý thuyết
chính của phân tích cơ bản là lý thuyết ngang giá sức mua (PPP), lý thuyết ngang giá
lãi suất (IRP), mô hình cán cân thanh toán quốc tế, mô hình thị trường vốn…
45
Phân tích kỹ thuật: đơn giản là một phương pháp dự báo dựa vào nghiên cứu về
quá khứ, tâm lý và quy luật xác suất. Phân tích kỹ thuật chủ yếu là dựa vào đồ thị tỉ giá
và số lượng mua bán của quá khứ đã được tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng của tỉ
giá trong tương lai. Phân tích kỹ thuật có tính linh hoạt, dễ sử dụng và nhanh chóng.
Điều lưu ý là phân tích kỹ thuật có thể là công cụ giúp ta dự báo xu hướng đúng,
nhưng nó phải được sử dụng theo nguyên tắc đã được tính toán chứ không phải theo
cảm tính. Thời gian lập biểu đồ phân tích là do mỗi nhà kinh doanh lựa chọn có thể sử
dụng phân tích kỹ thuật trong ngày (các dạng 5 phút, 30 phút hay mỗi giờ), trong tuần
hoặc trong tháng. Các lý thuyết chính của phân tích kỹ thuật là : lý thuyết Dow, lý
thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave…
Như vậy mỗi loại hình phân tích có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Vì vậy
nhà kinh doanh phải linh hoạt sử dụng các công cụ này cộng với quyết định trực quan
của mình để ra quyết định nhanh chóng và chính xác.
3. Cho vay bằng ngoại tệ này nhưng thu nợ bằng ngoại tệ khác
Áp dụng giải pháp cho vay bằng ngoại tệ này nhưng thu nợ bằng loại ngoại tệ
khác ổn định hơn với tỷ giá kỳ hạn đã được ấn định trước trong trường hợp đồng tín
dụng.
Ví dụ: Giả sử ngân hàng cho khách hàng vay 10,000 FRF nhưng thu nợ bằng
GBP với tỷ giá kỳ hạn được ấn định là 1 GBP = 10 FRF do ngân hàng dự đoán đến
ngày thu nợ thì FRF sẽ giảm giá. Đến thời điểm trả nợ, tỷ giá thị trường:
Trường hợp 1:
1 GBP = 10 FRF => Ngân hàng thu 10,000 GBP, Ngân hàng và khách hàng đều
không bị thiệt hại.
Trường hợp 2:
1GBP = 12 FRF (FRF giảm giá) => ngân hàng thu 10,000 GBP, nhưng nếu
không áp dụng phương pháp này ngân hàng chỉ thu được:
10,000/12 = 833.3 GBP
Trường hợp này ngân hàng có lợi.
Trường hợp 3:
46
1 GBP = 8 FRF (FRF tăng giá) -> ngân hàng thu 10,000 GBP, nhưng lẽ ra phải
thu được:
10,000/8 =1,250 GBP
Trường hợp này khách hàng có lợi. Thực hiện biện pháp này ngân hàng chia sẻ
rủi ro với khách hàng.
4. Sử dụng các hợp đồng mua bán ngoại tệ song hành
Đây là phương pháp tự bảo hiểm rủi ro tỷ giá đơn giản bằng cách tiến hành song
song cùng một lúc cả hai hợp đồng mua bán ngoại tệ, xuất khẩu nhập khẩu, cho vay
đầu tư…có giá trị và thời hạn tương đương nhau. Bằng cách này, nếu ngoại tệ lên giá
so với đồng nội tệ thì ngân hàng sẽ sử dụng phần lãi do biến động tỷ giá từ việc mua
ngoại tệ, hợp đồng xuất khẩu, cho vay…để bù đắp phần tổn thất do biến động tý giá
của việc bán ngoại ngoại tệ, hợp đồng nhập khẩu, đầu tư…. Và ngược lại.. Kết quả là
cho dù ngoại tệ lên giá hay xuống giá thì rủi ro về tỷ giá vẫn được trung hòa.
Cách này đơn giản, hữu hiệu, dễ thực hiện và ít tốn kém nếu như ngân hàng có thể
hoạt động đa dạng hóa tất cả cả nghiệp vụ trên. Tuy nhiên vấn đề của phương pháp
này là khả năng có thể kiếm được cùng một lúc cả hai nghiệp vụ có thời hạn và giá trị
tương đương nhau hay không ?
Biện pháp này không tiếp cận theo yếu tố trạng thái ngoại tệ ròng hay sự biến
động tỷ giá, mà quan tâm đến việc giảm rủi ro của cả danh mục. Đây là một biện pháp
dễ thực hiện, do đó được các hầu hết các ngân hàng Việt Nam sử dụng.
47
Là việc thực hiện các biện pháp tài chính nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của rủi
ro khi rủi ro đã xảy ra, chẳng hạn: tự khắc phục bằng dự phòng rủi ro, bằng nguồn lực
có sẵn hoắc chuyển giao rui ro thông qua hợp đồng bảo hiểm,..
Ngoài một số phương pháp nhằm hạn chế rủi ro, NH cần trích một phần lợi nhuận
để dành làm quỹ rủi ro về KDNT. Cũng giống như, hoạt động tín dụng, hàng năm đều
phải trích một phần lợi nhuận để bù đắp và phòng ngừa cho những khoản nợ khó đòi
hay tiểm ẩn nguy cơ khó thu hồi nợ. Trong KDNT, rủi ro luôn luôn xuất hiện đồng
thời với giao dịch mở nghĩa là trạng thái ngoại tệ không cần bằng. Trích lập quĩ rủi ro
có thể là 10% -20% lợi nhuận của năm đó về KDNT.
- Chủ động trước những biến động của tỷ giá, như: xây dựng chiến lược kinh
doanh trong từng giai đoạn cụ thể.
- Hoặc những giải pháp nhằm tăng khả năng quản trị rủi ro ngoại hối của chính
ngân hàng, như: nâng cao trình độ và kỹ năng của đội ngũ cán bộ nhân viên hoạt động
trong các ngân hàng; xây dựng mô hình kiểm soát và quản lý hoạt động KDNT hiệu
quả; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ và chuyên môn hóa công tác xử lý
rủi ro.
48
B. RỦI RO TÁC NGHIỆP
I. Rủi ro tác nghiệp
1. Khái niệm
Rủi ro tác nghiệp là những tổn thất xảy ra do những trục trặc trong quá trình vận
hành các hoạt động kinh doanh của NHTM như sai lệch về thông tin và xử lý thông
tin, bất hợp lí về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ và sự phối hợp giữa các bộ phận
chức năng trong ngân hàng,…
Rủi ro tác nghiệp đã xuất hiện từ rất lâu và luôn tiềm ẩn trong hoạt động của ngân
hàng nhưng chỉ đến những năm gần đây mới được quan tâm nghiên cứu đầy đủ hơn.
Các hoạt động kinh doanh trong NHTM thường rất phức tạp, được thực hiện theo quy
trình và được quy định rất chặt chẽ, nhưng không vì vậy mà không có những sai xót
xảy ra. Bất kỳ một sự bất cẩn hay yếu kém về mặt nghiệp vụ, thu thập xử lý thông tin
thiếu chính xác và không kịp thời của các bộ phận chức năng trong hệ thống đều có
thể ảnh hưởng đến những quyết định của giám đốc điều hành và toàn bộ các tác nghiệp
tiếp theo. Rủi ro này ngày càng có xu hướng gia tăng trong các NHTM trước sự mở
rộng quy mô, phạm vi và sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh; sự phức tạp của môi
trường kinh doanh, áp lực công việc tăng lên cùng với tốc độ và khối lượng giao dịch
tăng, sự lệ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ nhiều hơn… Do vậy, các ngân hàng tiên
tiến, có quy mô lớn trên thế giới luôn nghiên cứu nhằm tối ưu hóa quy trình tác
nghiệp trên cơ sở mô hình tổ chức phù hợp nhất đối với mỗi loại hình ngân hàng.
2. Các tác nghiệp của ngân hàng thương mại trong giao dịch hối đoái
Trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu về tác nghiệp của ngân hàng thương mại
trong giao dịch hối đoái để có thể thấy được tại sao hoạt động này lại dễ xảy ra
rủi ro tỷ giá như vậy.
Hoạt động giao dịch hối đoái của Ngân hàng bao gồm:
• Mua và bán ngoại tệ với đối tác/ khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn mua
và bán của đối tác/ khách hàng;
49
• Mua và bán ngoại tệ với đối tác nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng
tiền đó của Ngân hàng để giảm thiểu rủi ro.
• Mua và bán ngoại tệ giữa hội sở với Chi nhánh, phòng giao dịch nhằm thỏa
mãn nhu cầu muồn mua và bán của Chi nhánh, phòng giao dịch.
Phạm vi giao dịch : Bộ phận nguồn vốn được thực hiện toàn bộ các họat động
giao dịch hối đoái. Chi nhánh, phòng giao dịch chỉ thực hiện họat động giao dịch hối
đoái trong hạn mức trạng thái ngoại tệ của đơn vị mình và trong quy trình kinh doanh
ngoại tệ tại Chi nhánh, phòng giao dịch.
Các loại hình giao dịch: Các loại hình giao dịch hối đoái được phép tiến hành
bao gồm:
- Giao dịch hối đoái giao ngay
- Giao dịch hối đoái kỳ hạn
- Giao dịch hối đoái hoán đổi
- Giao dịch hối đoán quyền chọn
Đồng tiền giao dịch: Các giao dịch hối đoái được phép tiến hành giữa ngoại tệ với
đồng Việt Nam hoặc giữa các loại ngoại tệ với nhau. Các loại ngoại tệ được phép giao
dịch là các ngoại tệ được niêm yết trên Bảng tỉ giá công bố hàng ngày của Ngân hàng.
Việc công bố loại ngoại tệ nào trên Bảng công bố tỉ giá hàng ngày do quy đinh của
từng ngân hàng.
Hoạt động giao dịch ngoại hối luôn chứa đựng yếu tố dẫn đến rủi ro tỷ giá đó là
hậu quả của thay đổi cung cầu tiền tệ trên thị trường thế giới lên trạng thái ngoại tệ
tiêu biểu. Để ngân hàng thương mại cắt lỗ và thiết lập trạng thái lời thì mức lỗ phải
được điều chỉnh theo hạn mức.
Có hai cách thiết lập hạn mức: Hạn mức trạng thái (position limit) và Giới
hạn lỗ (loss limit).
- Position limits là giới hạn trạng thái ngoại tệ tối đa mà mỗi tổ chức, cá nhân
kinh doanh ngoại tệ được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm, trình độ, mục
đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa các tổ
chức, giữa các dealer là không giống nhau. Position limits được chia làm 2 loại:
Daylight (ngày) và overnight (qua đêm).
50
Hạn mức ngày (the daylight trading position limit) được thiếp lập như là
khối lượng lớn nhất của đồng tiền nhất định mà các giao dịch viên được phép
giao dịch. Tùy thuộc vào vị trí và khả năng của mình, mỗi trader sẽ được ấn
định khối lượng cao nhất được phép giao dịch.
Hạn mức qua đêm (the overnight position limits) là hạn mức cho các
trạng thái vào cuối ngày giao dịch. Hạn mức này nhằm giám sát rủi ro
hối đoái của ngân hàng trong khoảng thời gian ngân hàng không hoạt
động và do đó không phản ứng được đối với thị trường). Hạn mức
qua đêm được thiết lập nhỏ hơn hạn mức ngày.
- Loss limit là một thước đo nhằm tránh mức lỗ trong quá trình giao dịch ngoại
hối. Loss limit là bắt buộc đối với các trưởng phòng giao dịch (senior officers in
the dealing room). Mức dừng lỗ (stop loss) là chênh lệch giá bất lợi tối đa giữa
giá của trạng thái mở và tỉ giá thị trường tại một thời điểm. Trong trường hợp
Dealer đang có một trạng thái mở với giá bất lợi so với giá hiện tại thì phải
chuẩn bị một mức dừng lỗ hợp lý để hạn chế lỗ nhiều một khi giá biến động
mạnh.
Trạng thái mở (chưa cân bằng - open position) của ngoại tệ là trạng thái phát sinh
trong giao dịch mua (hoặc bán) ngoại tệ nhưng chưa bán (hoặc mua) lại với số lượng
tương ứng. Trạng thái phát sinh do mua gọi là dư thừa, còn phát sinh do bán gọi là dư
thiếu.
Trạng thái ngoại tệ chung của toàn ngân hàng là trạng thái ngoại tệ mở tối đa
của toàn ngân hàng tại một thời điểm. Trạng thái này do Ngân hàng Nhà nước quy
định trong từng thời kỳ.
- Hạn mức trạng thái ngoại hối cho từng cán bộ giao dịch, từng bàn giao dịch và
cho toàn ngân hàng.
Mỗi NHTM có phương pháp quản lý rủi ro tỷ giá riêng ngoài việc tuân thủ các
quy định của NHNN, hạn mức này linh động tùy theo ngân hàng. Từ đó mỗi ngân
hàng sẽ quy định hạn mức chung cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn
mức cho từng nhà kinh doanh cụ thể. Hầu hết, các NHTM quản lý rủi ro thông qua hạn
mức về giá trị tối đa của một giao dịch hoặc hạn mức về trạng thái ngoại hối.
Nguyên tắc phân bổ hạn mức cho từng nhà kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh trên Forex. .Hạn mức cho mỗi giao dịch
viên dựa trên kinh nghiệm của mỗi giao dịch viên. Trưởng phòng giao dịch được
cấp hạn mức cao hơn. Những người kinh doanh chuyên nghiệp, có thâm niên, đã gặt
hái được nhiều thành công thường là những nhà kinh doanh chính ( cheif dealer) được
giao hạn mức nhiều hơn so với các “tân binh”.
52
tiền không dễ chuyển đổi và không ổn định phải thấp hơn hạn mức cho loại tiền dễ
chuyển đổi và ổn định.
Hạn mức cho từng loại tiền và cho tất cả các loại tiền, theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quyết định 18/1998/QĐ-NHNN7 ngày
10tháng 01 năm 1998 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định Ngân hàng phải
duy trì trạng thái ngoại tệ như sau:
- Trạng thái trường hay đoản của USD vào cuối ngày giao dịch không được vượt
quá 15% vốn pháp định và quỹ của ngân hàng.
- Tổng trạng thái trường (hay đoản) của tất cả các loại tiền vào cuối
ngày giao dịch không được vượt quá 30% vốn pháp định và quỹ của ngân
hàng.
Hạn mức quốc gia là tổng số dư cho tất cả các đối tác phân theo quốc gia.
Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu nhà kinh doanh duy trì trạng thái giao ngay (trạng
thái mở) đều phải chịu rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro càng lớn.
Để quản lý tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn lỗ vốn, người ta sử dụng kỹ thuật định giá cuối
mỗi ngày giao dịch. Căn cứ vào trạng thái cuối ngày, từng nhà kinh doanh phải định
giá kết quả kinh doanh của chính mình theo tỷ giá đóng cửa của ngày giao dịch. Kết
quả này phải được báo cáo cho nhà kinh doanh chính và lãnh đạo kinh doanh đối
ngoại.
53
Giả sử trong ngày, nhà kinh doanh tiến hành các giao dịch như bảng dưới đây. Căn
cứ vào các giao dịch này ta tính được trạng thái cuối ngày; và căn cứ vào tỷ giá đóng
cửa ta tính được kết quả kinh doanh trong ngày như sau. Bảng 1
Bảng 2 cho thấy, nhà kinh doanh bị lỗ 920,1 EUR trong ngày giao dịch. Việc định
giá trong ngày là cần thiết và là bắt buộc đối với mỗi nhà kinh doanh.
Cũng giống như giao ngay, trạng thái kỳ hạn ròng cuối ngày cũng có thể trường
hoặc đoản, bao gồm các trạng thái của tất cả các hợp đồng còn hiệu lực và có các ngày
54
giá trị khác nhau. Việc định giá kết quả kinh doanh kỳ hạn hằng ngày được tính theo
phương pháp giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực đều được thanh lý
ngay lập tức theo tỷ giá kỳ hạn cuối ngày hôm đó áp dụng tương ứng cho từng kỳ hạn
Ví dụ: bảng 2
55
Ngày Ngày Số lượng giao dịch
Tỷ giá hợp đồng CAD trong HĐ Tỷ giá định giá CAD định giá Lãi, lỗ/ngày
định giá đáo hạn (USD)
1/2 3/2 -1.000.000 1,1900 +1.190.000 1,2000 -1,200.000 -10.000
3/5 +1.000.000 1,2000 -1.200.000 1,2110 +1.211.000 +11.000
-10.000 +11.000 +1.000
2/2 3/2 - 1.000.000 1,1900 +1.190.000 1,2000 -1.200.000 -10.000
3/5 +1.000.000 1,2000 -1.200.000 1,2090 +1.209.000 +9.000
-10.000 +9.000 -1.000
1. Lỗ trong ngày 2/2 so với cuối ngày1/2 -2.000
2. Lãi trong ngày ½ +1.000
3. Lỗ cuối ngày 2/2 so với thời điểm ký hợp đồng ½ -1.000
56
Bảng 2 cho thấy kết quả định giá cuối ngày của các trạng thái kỳ hạn. Cuối ngày
1/2, các trạng thái kỳ hạn được định giá lại là lãi 1000 CAD, nhưng đến ngày 2/2, do
thị trường biến động, nên cũng trạng thái ấy được định giá lại trở nên lỗ 1000 CAD.
Việc định giá trong ngày là cần thiết và là bắt buộc đối với mỗi nhà kinh doanh kỳ
hạn.
Ngoài việc định giá lại hằng ngày các trạng thái kỳ hạn, để quản lý rủi ro tỷ giá
tốt hơn, các nhà kinh doanh kỳ hạn còn phải duy trì hạn mức cho từng kỳ hạn cụ thể
theo quy tắc kỳ hạn càng dài, hạn mức càng thấp.
Để quản lý rủi ro các trạng thái kỳ hạn một cách vĩ mô, các NHTM còn áp dụng
“Hạn mức rủi ro tỷ trọng của các trạng thái theo kỳ hạn”. Thông thường các trạng thái
kỳ hạn thường có các kỳ hạn khác nhau, từ một ngày đến vài năm. Một trạng thái
trường 12 triệu USD kỳ hạn 6 tháng sẽ có rủi ro nhiều hơn một trạng thái đoản cũng
12 triệu USD có kỳ hạn 1 tháng. Trong khi đó, về mặt hình thức thì trạng thái ngoại
hối kỳ hạn ngày hôm nay của nhà kinh doanh là bằng 0, nhưng rủi ro thực tế đối với
hai trạng thái này là rất khác nhau. Một phương pháp phổ biến để đánh giá rủi ro các
trạng thái ngoại hối kỳ hạn là việc tính tỷ trọng của từng trạng thái trên cơ sở thời hạn
chuẩn là một năm.
Bảng 3
Kỳ hạn Số lượng (triệu USD) Trạng thái Trạng thái tỷ trọng
1 tháng 12 Đoản (-) - 1,00
6 tháng 12 Trường (+) + 6,00
Trạng thái ròng Trường (+) + 5,00
Trạng thái tỷ trọng = (kỳ hạn tháng x số lượng) / 12 tháng
Thuật ngữ “lệnh” thường được hiểu là cách nào để bạn có thể bước vào và ra khỏi
thị trường. Ở đây chúng ta sẽ thảo luận các loại lệnh khác nhau mà có thể dùng để đặt
lệnh trong thị trường Forex. Trên các sàn khác nhau có thể chấp nhận các loại lệnh
khác nhau.
57
1. Lệnh thị trường (Market order):
Là loại lệnh mua hoặc bán ở mức giá thị trường. Nếu giao dịch qua mạng chỉ cần
click vào nút lệnh, lệnh này sẽ thực hiện ngay. Nếu giao dịch qua điện thoại cách thức
sử dụng lệnh cũng tương tự nhưng mất vài giây để thực hiện.
Ví dụ: EUR/USD đang giao dịch ở giá 1.2939. Nếu bạn muốn mua chính xác ở giá
này, bạn sẽ click nút “Buy” và sàn giao dịch sẽ thực thi ngay lệnh mua chính xác với
giá đó.
Lệnh này nhất thiết phải chứa hai yếu tố: giá cả và thời hiệu ( duration) của lệnh.
Nhà kinh doanh xác định mức giá mà mình muốn mua hoặc bán một loại ngoại tệ nào
đó đồng thời xác định thời hiệu ( thời hạn hiệu lực) của lệnh, tức là thời gian lệnh vẫn
còn hiệu lực. Thời hiệu của lệnh có hai kiểu: GTC và GFD.
Các lệnh GTC: Sell limit (Đặt lệnh bán khi giá lên đến 1 mức mong muốn và bạn
dự đoán sẽ xuống) buy limit (Đặt lệnh mua khi giá xuống đến 1 mức mong muốn và
bạn dự đoán sẽ tăng lại).
58
Ví dụ: Tỷ giá EUR/USD đang hiện tại được ngân hàng bid ở giá 1.3034. Bạn dự
đoán giá sẽ lên tới 1.3040,sau đó sẽ quay đầu đi xuống và bạn đầu cơ khi giá lên khi
giá thị trường đạt mức 1.3040. Thông thường bạn sẽ phải ngồi trước màn hình theo dõi
và đợi đến khi thị trường lên tới giá 1.3040 (là mức giá mà bạn muốn bán), thay vì vậy
bạn sẽ dùng lệnh giới hạn sell limit ở giá 1.3040. Sau đó, nếu thị trường có thể tăng đạt
mức 1.3040 như bạn dự đoán, hệ thống sàn giao dịch sẽ tự động thực hiện lệnh bán tại
chính xác ngay giá đó cho bạn. việc bạn phải làm duy nhất là chỉ định rõ mức giá mà
bạn muốn mua/bán với một cặp tiền tệ cụ thể và định thời hạn giá trị đó được tồn tại
trong bao lâu (GTC or GFD).
Nhưng điểm khác biệt giữa lệnh giới hạn và lệnh dừng là ở chỗ lệnh dừng thường
được sử dụng để hạn chế lỗ có thể phát sinh đối với giao dịch trong khi lệnh giới hạn
được sử dụng để tham nhập thị trường bằng cách mở ra một trạng thái ngoại tệ nào đó
nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
Lệnh stop loss chứa đựng hai yếu tố: giá cả và thời hiệu giống như lệnh giới hạn .
Yếu tố thời hiệu GTC và GFD trong lệnh dừng cũng giống như lệnh giới hạn.
Các lệnh GTC: sell stop (Đặt lệnh bán khi giá xuống đến 1 mức mong muốn và
bạn dự đoán sẽ tiếp tục xuống mạnh), buy stop (đặt lệnh mua khi giá lên đến 1 mức
mong muốn và bạn dự đoán sẽ tiếp tục tăng mạnh).
Ví dụ: Bạn mua BUY EUR/USD với giá 1.3034. Để tránh rủi ro trong trường hợp
thị trường rớt giá và có thể kiểm soát tối ưu mức thua lỗ, bạn gán lệnh cắt lỗ (sell stop)
ở giá 1.3014. điều này có nghĩa là khi phán đoán bạn sai và thị trường rớt xuống
59
1.3029 thay vì lên giá, sàn giao dịch sẽ tự động bán ở giá 1.3014 và kết thúc giao dịch
của bạn với tối đa 20 pips lỗ.
3.2. Lệnh dùng để hủy lệnh khác OCO (Order cancels other order)
Là loại lệnh kết hợp hai lệnh: lệnh giới hạn và lệnh dừng. Hai lệnh giới hạn và
lệnh dừng có giá cả và thời hiệu được đặt chặt trên và dưới mức giá hiện tại. Khi nào
một trong hai lệnh được thực hiện thì lệnh kia sẽ bị hủy bỏ.
Ví dụ: Giá EUR/USD là 1.2040. Bạn đặt lệnh BUY ở giá 1.2095 cao hơn mức
kháng cự có khả năng đột phá và đồng thời đặt một lệnh SELL nếu giá rớt 1.1985.
Xem như mức 1.2095 đã được thị trường khớp giá, bạn sẽ kích hoạt thực hiện được
lệnh mua và đồng thời lệnh bán 1.1985 sẽ tự động bị hủy.
60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”- PGS-TS Nguyễn Văn Tiến
2. “
3. “
4. www.sbv.gov.com
5.
61