Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997


1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về khủng hoảng tài chính châu Á 1997

Tác giả Trần Bá Khoa với bài viết “Đông Á mười năm sau cuộc khủng hoảng tài chính”
đăng trên Tạp chí Cộng Sản số 782 ra ngày 12 năm 2007 đã cho thấy sau 10 năm của
cuộc khủng hoảng, Đông Á đã phục hỏi và đang lấy lại vị trí trên trường quốc tế, mặc dù
vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức ở phía trước. Tuy gây tác hại lớn đổi với nhiều
nền kinh tế những cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 cũng chính là đòn bẩy thúc đẩy
các nước tái cơ cấu, tiến hành cải cách và tăng cường hợp tác, hội nhập khu vực. Tuy
nhiên, các nước Đông Á nói riêng và Châu Á nói chung cũng đang đối mặt với nhiều
thách thức như chênh lệch thu nhập gia tăng: sức ép đó thị hóa nhanh chóng: luỗng vốn
lưu chuyển thất thường và các rủi ro khủng hoảng tín dụng, tiền tệ.

Tác giả Vũ Minh Long (2012) với bài nghiên cứu “ Khủng hoảng nợ công tại một số nền
kinh tế trên thế giới - Nguyễn nhân, diễn biến, hậu quả, biện pháp khắc phục và những
hàm ý chính sách cho Việt Nam” nêu ra nguyên nhân, diễn biến, hậu quả và biện pháp
khắc phục của một số cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới như Khủng hoảng nợ Mỹ Latinh
1980, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 và khủng hoảng nợ công Hy Lạp. Thông qua
thực trạng nợ công của hai nền kinh tế lớn Nhật Bản, Mỹ và thực trạng của Việt Nam, tác
giả đề ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam gồm: Quản lý nợ công triệt để và mình
bạch; Phát triển thị trường nợ trong nước; Cắt giảm chi tiêu công; Nâng cao hiệu quả đầu
tư công.

Theo Thành An (2015) với bài viết " Khủng hoảng thị trường tài chính Châu Á: Bài học
từ quá khứ” đăng trên Tạp chí tài chính số ra ngày 31/8/2015, những diễn biến xấu của thị
trường chứng khoán thế giới những ngày qua gợi lại cuộc khủng hoảng tiền tế châu Á
năm 1997. Tuy nhiên, chính những bài học quá khứ đã giúp thế giới tránh lặp lại vết xe
đỗ thông qua những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng năm 1997: Sử dụng
hiệu quả công cụ điều tiết nguồn vốn; xây dựng hành lap pháp lý phù hợp; nợ nước ngoài
được đa dạng hóa giỏ tiền tệ thay vì chỉ được tính bằng đồng USD như cách đây 18 năm.

Theo tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2012) với bài viết “ Về cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông
Nam Á” trên tạp chí nghiên cứu Quốc tế năm 1997 của Học viện Ngoại giao Việt Nam, số
20, cuộc khủng hoảng tiền tệ ĐNA bắt nguồn từ Thái Lan đã có ảnh hưởng tới toàn khu
vực Đông Nam Á nói riêng và với châu Á nói chung, nhưng nó chỉ gây ra bất ổn định tài
chính ở những nơi có những mắt cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế và các nhà lãnh
đạo tỏ ra mắt bình tỉnh khí cuộc khủng hoảng xảy ra. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tiền
tệ, một mặt nào đó đã tạo cơ hội để các nước Đông Nam Á cải cách nền kinh tế của mình.
Tuy rằng cải cách, trong ngắn hạn sẽ dẫn đến thất nghiệp, lạm phát tăng, đời sống của
nhân dân khó khăn hơn. Nhưng về dài hạn nó sẽ mang lại sự phát triển ön định và phồn
vinh cho các quốc gia Đông Nam Á.

Theo Tạ Đức Thanh, (2013) với bài viết * Khủng hoảng nợ công thế giới và bài học cho
Việt Nam” đăng trên tạp chí Tài chính, những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công
tới “sức khỏe” nền kinh tế thế giới trong thời gian qua cho thấy, nợ công là một vấn đề
mang tính toàn cầu, mà bất cứ một quốc gia nào dù mạnh hay yêu cũng có nguy cơ gặp
phải. Vì thế, những bài học được rút ra từ các nền kinh tế đã và đang diễn ra khủng hoảng
nợ công là kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam trong quá trình phát triển.

Theo Nguyễn Công Toàn (2017) với bài nghiên cứu “Đánh giá tính bền vững của nợ công
và mối quan hệ giữa nợ với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” đã xem xét tính bền vững
của nợ công Việt Nam đồng thời tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô nợ và tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những gợi ý và để xuất nhằm tăng hiệu quả sử
dụng nợ cũng như nâng cao tính bổn vững của nợ công Việt Nam. Kết quả thực nghiệm
đã cho thấy tồn tại mối quan hệ tuyến tính mang tác động tiêu cực giữa tỷ lệ nợ công và
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với tăng
trưởng mà còn cả với tính an toàn của nợ công đặc biệt là nợ nước ngoài. Trong thời gian
tới, Việt Nam cần có thêm nhiều chính sách hơn nữa để thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu
tư nước ngoài. Mặc dù còn nhiều giới hạn, nghiên cứu này cũng đã mở ra một số cách tiếp
cận trong phân tích tính bền vững của nợ cũng như tác động của nợ lên tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.
Các bài nghiên cứu, tạp chí tiêu biểu trên đã để cập tới cuộc khủng hoảng Châu Á 1997
cũng như các cuộc khủng hoảng tiêu biểu khác trên thế giới, ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tới các nền kinh tế trong khu vực, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho các
nước để ngăn ngừa khủng hoảng xảy ra, trong đó có việc điều tiết, quản lý nguồn vốn vay
nợ từ nước ngoài.
1.2. Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chính châu Á 1997
1.2.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính

Theo giáo trình Ngân hàng Thương mại (NXB Thống kê), khủng hoảng tài chính
(Financial crisis) được định nghĩa như sau:

Khủng hoảng tài chính xuất hiện khi thị trường tài chính sụp đổ nguyên nhân bởi sự lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trở nên gay gắt trên các thị trường tài chính, làm cho
các thị trường này không còn khả năng luân chuyển vốn hiệu quả từ những người tiết
kiệm đến những nhà đầu tư tiềm năng, Kết quả là nền kinh tế suy thoái.

Khủng hoảng tài chính được chia làm ba dạng: Khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân
hàng và khủng hoảng nợ công.

 Khủng hoảng tiền tệ (Currency Crisis)


Khủng hoảng tiền tệ là sự sụt giảm mạnh về giá trị đẳng tiễn của một quốc gia. Sự suy
giảm giá trị này ảnh hưởng tiêu cực đến một nền kinh tế bằng cách tạo ra sự bất ổn trong
tỷ giá hối đoái, nghĩa là một đơn vị tiền tệ nhất định không còn mua được nhiều một loại
tiền tệ khác so với trước đây.

 Khủng hoảng ngắn hạn (Banking Crisis)

Khủng hoảng ngân hàng là tỉnh trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ö ạt
khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phản lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng
loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ở
ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiển nhiều khách hàng mắt đi khoản tiền gửi
của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan
rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thẻ hiện tượng trên
không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự
thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tổ gây ra
khủng hoảng kinh tế.
 

 Khủng hoảng nợ công (Sovereign Debt Crisis)

Khủng hoảng nợ công được định nghĩa là các vấn để tài chính và kinh tế xây ra do các
quốc gia mất khả năng trả các khoản nợ của chính phủ hoặc các khoản nợ do chính phủ
bảo lãnh. Khủng hoảng nợ công bùng nổ khí khoản nợ của chính phủ đã ở mức không an
toàn so với quy mô nền kinh tế đồng thời nền kinh tế đạt mức tăng trưởng thấp.

1.2.2. Dấu hiệu khủng hoảng tài chính

Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính quốc tế thể hiện qua các quan điểm
sau đây:

 Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền

 Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyển

 Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo của tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm
làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.

 Hệ thống ngân hàng bị tê liệt

 Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng

 Các hoạt động kinh tế bị suy giảm

1.2.3 Nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính


Theo giáo trình Ngân hàng Thương mại (NXB Thống kê), nguyên nhân gây ra khủng
hoảng tài chính bao gồm:

 Lãi suất tăng cao

Các cá nhân và công ty với các dự án mạo hiểm rủi ro cao lại là những người sẵn sàng trả
mức lãi suất cao. Nếu lãi suất thị trường nhạy cảm tăng theo nhu cầu tín dụng tăng hoặc
do cung tiễn giảm, làm cho những người có rủi ro tín dụng tốt sẽ không còn thiết tha vay
vớn nữa, trong khi đó, những người có rủi ro tín dụng xấu vẫn mong muốn được vay.

Do lựa chọn đối nghịch tăng lên, khiến cho ngân hàng không còn muốn cho vay nữa. Sự
giảm sút mạnh trong tín dụng dẫn đến sự giảm sút mạnh trong đầu tư và hoạt động kinh tế
vĩ mô.

 Gia tăng sự bất ổn

Sự bất ổn đột ngột trên thị trường tài chính (có thể do sự sụp đổ của một tổ chức tài chính
hay phi tài chính trụ cột nào đó), dấu hiệu của suy thoái kinh tế hay sự sụp đổ của thị
trường cổ phiếu, càng làm cho ngân hàng khó khăn hơn trong việc sàng lọc khách hàng
vay vốn.

Kết quả là ngân hàng không còn khả năng giải quyết được vấn để lựa chọn đối nghịch
nữa, dẫn đến hạn chế cho vay, làm suy giảm tín dụng đầu tư và hoạt động kinh tế vĩ mô.

 Ảnh hưởng của thị trường cổ phiếu lên bảng cân đối kế toán.

Trạng thái bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp phản ánh thực trạng về vấn để thông tin
bất cân xứng trong hệ thống tài chính. Một sự giảm sút nghiêm trọng trên thị trường cổ
phiếu là nhân tố làm cho bảng cân đối của doanh nghiệp trở nên xấu đi.

Ngược lại, sự xấu đi của bảng cân đối có thể làm gia tăng vấn để lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức, kích thích khủng hoảng tài chính xảy ra. Sự giảm sút của thị trường cổ
phiếu giảm làm giảm vốn chủ sở hữu của các công ty.

Vốn chủ sở hữu của các công ty giám, khiến cho các ngân hàng không côn sẵn sàng cho
vay, bởi vì vốn chủ sở hữu vốn là một chiếc đệm, có vai trò như tài sản bảo đảm tiền vay.
Khi giá trị báo đảm giám, khiến cho ngân hàng không còn được bảo vệ tốt nữa, dẫn đến
khả năng tỏn thất tín dựng là hiện hữu.
 Các vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng
Các ngân hàng đóng vai trỏ quan trọng trên các thị trường tải chính, bởi vì chúng hoạt
động hiệu quả trong việc sản xuất và xử lí thông tin, làm cơ sở cho việc gia tăng đầu tư
hiệu quả trong nên kinh tế.
Trạng thái báng cân đối tài sản của ngân hàng có tác động quan trọng đến việc cho vay.
Nếu bảng cân đổi của ngân hàng trở nên xấu đi (vốn chủ sở hữu giảm đáng kẻ), thì nguồn
vốn cho vay trở nên hạn hẹp, dẫn đến giảm sút tín dụng. Hậu quả là đầu tư giảm, nên kính
tế đình trệ.
 Thâm hụt ngân sách chính phủ
Ở các nước đang phát triển, nều thâm hụt ngân sách chính phú trằm trọng, sẽ làm phát
sinh tâm lí lo sợ về khá năng vỡ nợ của chính phủ. Kết quả là chính phủ gặp khó khăn
trong việc phát hành trái phiểu cho công chúng, chính phủ quay sang ép các ngân hàng
mua.
Nếu giá trái phiếu chính phủ giảm, làm cho bảng cân đổi tài sản ngân hang trở nên xâu đi,
dẫn đến giảm sút trong cho vay của ngân hàng, Mỗi lo sợ chính phủ vỡ nợ cũng có thể là
tác nhân của khủng hoảng ngoại hồi, khi giá trị đồng nội tệ giám đột ngột do các nhà đầu
tư nước ngoài rút vốn ra khỏi quốc gia
Giá trị nội tệ giảm, làm cho bảng cân đối tải sản của công ty có nợ phải trả bằng ngoại tệ
lớn trở nên xấu đi. Bảng cân đối xấu làm gia tăng vẫn để lựa chọn đổi
1.2.4. Khái niệm nợ công
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công, hay còn gọi là nợ chính phủ, là những phần
nghĩa vụ nợ trực tiếp hoặc được thừa nhận của chính phủ một quốc gia với phần còn lại
của nên kinh tế và nước ngoài.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thể giới (WB), nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của
4 nhóm chủ thể bao gồm:
 Nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương.
 Nợ của các cấp chính quyền địa phương;
 Nợ của Ngắn hàng trưng ương:
 Nợ của các tô chức độc lập mà Chính phú sở hữu trên 50% vốn.
Như vậy, có thể khái quát, nợ công là toàn bộ các khoản vay nợ của các cấpchính quyền
từ trung ương đến địa phương tại một thời điểm nào đó, bao gồm các khoản vay trong
nước và các khoản vay nước ngoài.
1.2.5. Khái niệm nợ nước ngoài, phân loại, cơ cấu
 Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về nợ nước ngoài. Dưới đây là một số khái niệm được sử
dụng phố biến để xem xét nợ nước ngoài.
Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Ngân
hàng Thế giới (WB), nợ nước ngoài được thống nhất định nghĩa: “Tổng nợ nước ngoài tại
bất kỳ thời điểm nào, là tổng dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không bao gồm
các nghĩa vụ nợ dự phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có hay không có
lãi trong tương lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với ngƣời không cư trú trong
quốc gia”.
Đối với Việt Nam, theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban kèm theo
Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính Phủ) thì “ Nợ nước
ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành ( không bao gồm nghĩa vụ nợ dự
phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam.
Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài
của khu vực tư nhân”.
 Phân loại
Nợ nước ngoài được phân loại dựa trên các đặc điểm sau đây:
 Căn cứ vào chủ thể đi vay
 Nợ nhà nước (nợ chính phủ): do Nhà nƣớc và các cơ quan của Nhà nước đứng ra
vay hoặc bảo lãnh vay. Các chính phủ thường dựa vào nguồn vốn nước ngoài để
bù đắp thâm hụt ngân sách.
 Nợ tư nhân: các khoản nợ do các doanh nghiệp tư nhân đứng ra vay không có sự
bảo lãnh của nhà nước (các ngân hàng, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng
khác). Thường là những doanh nghiệp lớn, có uy tín và thương hiệu nổi tiếng.
 Căn cứ vào thời hạn cho vay
 Nợ ngắn hạn và trung hạn: gồm các khoản vay có thời hạn dưới 3 năm. Các khoản
vay này thường chiếm một tỉ lệ nhỏ (khoảng dưới 10% - 20%) trong tổng số nợ
vay.
 Nợ dài hạn: gồm các khoản vay từ 3 năm trở lên và thường chiếm tỉ lệ lớn (khoảng
80 – 90%) trong tổng số nợ.
 Căn cứ vào hình thức vay
 Vay ưu đãi: do chính phủ các nƣớc chủ yếu là các nƣớc phát triển cho chính phủ
các nước đang phát triển vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn thanh
toán, thời hạn ân hạn (khoảng thời gian từ khi kí hiệp định vay bốn đến lần đầu tiên
phải trả vốn gốc), và phương thức thanh toán.
 Vay thương mại: do các tổ chức tín dụng và ngân hàng tư nhân nước ngoài cho
chính phủ, doanh nghiệp vay với điều kiện khó khăn và phức tạp hơn vay ưu đãi.
Thường được thực hiện thông qua các tổ hợp ngân hàng.
 Căn cứ vào lãi suất cho vay
 Vay với lãi suất cố định: là khoản vay mà hằng năm con nợ phải trả cho chủ nợ
một số tiền lãi bằng số dư nợ nhân với lãi suất cố định được qui định trong hợp
đồng.
 Vay với lãi suất biến động: là khoản vay mà hằng năm con nợ phải trả cho chủ nợ
một số tiền lãi theo lãi suất của thị trường tự do.
 Cơ cấu của nợ nước ngoài
 Nợ của Chính phủ.
 Nợ được Chính phủ bảo lãnh.
 Nợ tư nhân không được Chính phủ bảo lãnh.
 Các chỉ tiêu đo mức độ nợ nước ngoài:
 Tỷ lệ nợ nước ngoài so với nguồn thu xuất khẩu.
 Tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với tổng nợ nước ngoài.
 Tỷ lệ nợ nƣớc ngoài so với GDP.
 Tỷ lệ nợ phải trả hàng năm so với nguồn thu xuất khẩu.
 Tỷ lệ nợ phải trả hàng năm so với GDP.
1.2.6. Khái niệm, mục tiêu, vai trò quản lý nợ nước ngoài
 Khái niệm
Theo nghĩa rộng: quản lý nợ nước ngoài hàm chứa toàn bộ chính sách quản lý và điều
hành kinh tế vĩ mô, đảm bảo được tính ổn định trong phát triển kinh tế, nhằm sử dụng các
nguồn vốn này có hiệu quả nhất, không để chúng gia tăng quá khả năng thanh toán của
nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nợ nước ngoài bao hàm khống chế mức gia tăng nợ trong phạm
vi tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu của nước vay nợ.
 Mục tiêu của quản lý nợ nước ngoài
Mục tiêu cuối cùng của quản lý nợ nƣớc ngoài là để nợ nước ngoài thực sự trở thành “cú
huých ” từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế - xã hội, trong đó phát triển kinh tế là mục
tiêu hàng đầu:
 Giữ vững mức nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn
 Đảm bảo sử dụng vốn vay có hiệu quả
 Thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng hay hiệp định đã kí
 Vai trò của quản lý nợ nước ngoài
 Đảm bảo an toàn nợ và an ninh cho nền tài chính quốc gia
 Đảm bảo uy tín của bên vay và đáp ứng đƣợc yêu cầu của bên cho vay
 Hạn chế và phòng ngừa những rủi ro trong vay nợ
1.3. Cơ sở thực tiễn về khủng hoảng tài chính châu Á 1997
1.3.1 Đôi nét về các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
Theo thời gian, thế giới đã trải qua các cuộc khủng hoảng tài chính được xem là tàn khốc
nhất và mang lại nhiều hậu quả nặng nề nhất
a) Cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1772
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ London và nhanh chóng ảnh hưởng đến phần còn lại
của châu Âu. Vào giữa những năm 1760, Đế quốc Anh trở nên vô cùng giàu có nhờ khối
lượng tài sản từ các nước thuộc địa và hoạt động thương mại. Điều này đã dẫn đến thời kỳ
mở rộng tín dụng nhanh chóng của nhiều ngân hàng Anh. Nhưng thời kỳ này đã kết thúc
đột ngột vào ngày 8 tháng 6 năm 1772, khi Alexander Fordyce, một trong những đối tác
của các ngân hàng Anh Neal, James, Fordyce, and Down, đã bỏ trốn sang Pháp nhằm
thoát nợ. Tin tức nhanh chóng lan truyền và gây ra sự khủng hoảng tột độ tại ngân hàng ở
Anh, khi các chủ nợ bắt đầu xếp hàng dài yêu cầu rút tiền mặt ngay lập tức.
Cuộc khủng hoảng sau đó nhanh chóng lan sang Scotland, Hà Lan, các khu vực khác của
hâu Âu và các thuộc địa của Anh - Mỹ. Các nhà sử học đã tuyên bố rằng hậu quả kinh tế
của cuộc khủng hoảng này là một trong những yếu tố then chốt làm bùng bổ cuộc biểu
tình Tiệc trà Boston và Cách mạng Mỹ.
b) Đại khủng hoảng 1929 – 1939
Đây là khủng hoảng tài chính và kinh tế tồi tệ nhất của thế kỷ 20. Nhiều người tin rằng
Đại khủng hoảng bắt nguồn từ việc sụp đổ ở Phố Wall năm 1929, và sau đó trở nên trầm
trọng hơn bởi các quyết sách tồi tệ của chính phủ Mỹ. Khủng hoảng kéo dài gần 10 năm
và dẫn đến thất thoát một lượng thu nhập khổng lồ, tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục và đầu ra sản
xuất giảm đáng kể, đặc biệt là ở các Quốc gia công nghiệp hóa. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp
đạt gần 25% vào lúc đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng năm 1933.
c) Cú sốc giá dầu OPEC năm 1973
Cuộc khủng hoảng này bắt đầu khi các nước thành viên của OPEC (Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ) mà chủ yếu bao gồm các quốc gia thuộc tiểu vương quốc Ả Rập, quyết
định trả đũa Mỹ nhằm đáp trả việc cung cấp vũ khí cho Israel trong Chiến tranh Ả Rập -
Israel lần thứ tư. Các nước OPEC tuyên bố cấm vận dầu mỏ, đột ngột ngừng xuất khẩu
dầu sang Mỹ và đồng minh của Mỹ. Điều này gây ra tình trạng thiếu hụt lượng lớn dầu và
giá dầu tăng đột biến, dẫn đến khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và nhiều nước phát triển khác.
Cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi xuất hiện lạm phát cực cao (nguyên
nhân là do sự tăng vọt của giá năng lượng) và sự đình trệ kinh tế (do khủng hoảng kinh
tế). Do đó, các nhà kinh tế đã đặt tên cho kỷ nguyên là thời kỳ "stagflation", (thuật ngữ
chỉ sự trì trệ kết hợp với lạm phát), và phải mất vài năm để sản lượng phục hồi và tỷ lệ
lạm phát giảm xuống trước đó
d) Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007
Nguyên nhân bắt nguồn bởi sự sụp đổ của bong bóng nhà đất ở Mỹ, cuộc khủng hoảng đã
dẫn đến sự sụp đổ của Lehman Brothers (một trong những ngân hàng đầu tƣ lớn nhất thế
giới), đưa nhiều tổ chức tài chính và doanh nghiệp quan trọng đến bờ vực sụp đổ, buộc
Chính phủ phải giải cứu với những tiền lệ chưa từng có. Hệ quả là mất gần một thập kỷ để
mọi thứ trở lại bình thường, nhưng trước đó nó đã kịp xóa sạch hàng triệu việc làm và
hàng tỷ USD thu nhập trong vỏn vẹn hơn một nmộ.
1.3.2 Đôi nét về cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 cũng là một trong những cuộc khủng hoảng tài
chính nghiêm trọng trong lịch sử thế giới. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ Thái Lan
vào năm 1997, đã nhanh chóng lan sang phần còn lại của Đông Á và các đối tác thương
mại. Dòng vốn đầu cơ từ các nước phát triển chảy vào các nền kinh tế Đông Á như Thái
Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, Hồng Kông và Hàn Quốc (được coi là con hổ châu
Á) đã tạo ra tâm lý lạc quan quá mức của người dân và chính phủ, dẫn đến tình trạng quá
mức tín dụng và tích lũy nợ lớn tại các nền kinh tế.
Vào tháng 7 năm 1997, chính phủ Thái Lan đã phải từ bỏ tỷ giá hối đoái cố định so với
đồng USD đã có từ trước đó rất lâu, với lý do thiếu nguồn lực ngoại tệ. Điều này đã mở
đầu cho sự bất ổn trên khắp thị trường tài chính châu Á và nhanh chóng dẫn đến sự đảo
ngược dòng đầu tư hàng tỷ USD từ nước ngoài.
Khi sự hoảng loạn bùng phát trên thị trường và các nhà đầu tư cảnh giác trước những vụ
phá sản có thể xảy ra của các chính phủ Đông Á, nỗi lo về một cuộc khủng hoảng tài
chính trên toàn thế giới bắt đầu lan rộng. Phải mất nhiều năm để mọi thứ trở lại bình
thường. Quỹ tiền tệ Quốc tế đã phải can thiệp để tạo ra các gói cứu trợ cho các nền kinh tế
bị ảnh hưởng nặng nề nhất nhằm giúp các Quốc gia này thoát khỏi tình trạng vỡ nợ.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm
Bài học đầu tiên cần phải rút ra là nền kinh tế của mỗi quốc gia phải đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô, đây là điều kiện tiên quyết để giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng.
Thêm nữa, các nước cần phải có các định chế tài chính chặt chẽ và không thể bị xâm
phạm vì bất cứ lý do gì.

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997
VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ NỢ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG
2.1. Diễn biến khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
Năm 1997, đánh dấu một năm đầy biến động trên thị trường tài chính - tiền tệ thế giới,
đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và sau đó là Đông Bắc Á với những cuộc khủng hoảng
tài chính, tiền tệ nghiêm trọng bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan sang các nước ASEAN
khác rồi tới Hàn Quốc và Nhật Bản. Cuộc khủng hoảng mang tính khu vực này đã được
Chính phủ mỗi nước, các tổ chức quốc tế đứng đầu là IMF, các quốc gia có nền kinh tế
mạnh trên thế giới phối hợp ngăn chặn, song thực tế đã cho thấy đã lan rộng sang các khu
vực khác và trên phạm vi mang tính toàn cầu.
Đầu năm 1997, một số quỹ đầu cơ tài chính lớn như Quantum (George Soros) hay Tiger
Management Corp (Julian Robertson) đã ký hàng loạt các hợp đồng mua bán ngoại tệ có
thời hạn (bán đồng baht Thái, với thời hạn thanh toán chậm từ 6 tháng đến 1 năm) với
tổng trị giá lên tới 15 tỷ USD. Nhiều người cho rằng đồng Bath sẽ phá giá trong tương lai
không lai.
Bắt đầu cuộc khủng hoảng tiền tệ là từ Thái Lan (7/1997). Và chỉ trong một thời gian
ngắn từ tháng 12-1996 đến tháng 12-1997 đồng Baht Thái Lan đã bị giảm giá 108% từ
chỗ 25 Baht ăn 1 USD xuống còn 54 Baht ăn 1 USD.
Ngày 11/7/1997, Philippines tuyên bố thả nổi đồng Peso.
Ngày 11/8/1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường tỉ giá hối đoái (thực
chất là thả nổi đồng Ringgit).
Ngày 14/8/1997, Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah.
Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 884,2 Won/USD, thì đến ngày
30/9/1997 là 914,8 Won/USD, ngày 14/12/1997 đồng Won được thả nổi.
Bảng 1.1 Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997
Nước/ Tỷ giá bình quân Năm 1996 Năm 1997
Thái Lan 25,61 47,25
Philippines 26,29 39,50
Malaysia 2,52 3,88
Indonesia 2,308 5,400
Hàn Quốc 844,20 695,8
Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast Asia and Korea,
Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korean
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ còn thể hiện qua sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và
quy mô thất thường của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia. Tỉ lệ phá sản ở các doanh
nghiệp nhỏ tăng lên đến mức kỷ lục, ít nhất mỗi ngày có một chủ doanh nghiệp nhỏ đã
phải tự tử. Cuộc khủng hoảng mang lại cho những người Hàn Quốc một ý thức mạnh mẽ
về chủ nghĩa dân tộc, họ hạn chế nhập khẩu hàng hóa và ra sức phê phán sự can thiệp của
IMF vào nền kinh tế quốc gia.
Bảng 1.2 Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính
Nước Năm tài Năm tài chính từ 1/4/1997 đến 31/3/1998
chính
1/4/1996 Số ngân Số ngân Số ngân Số ngân Tổng số
đến hàng bị hàng bị hàng bị hàng bị ngân hàng
31/3/1999 đình chỉ quốc hữu sát nhập bán cho có vấn đề
hoạt động hóa/ chính công ty
phủ giám nước
sát ngoài
Thái Lan 108 56 4 64 (59%)
Malaysia 41 41 (68%)
Indonesia 228 16 56 11 83 (36%)
Hàn Quốc 56 16 18 (32%)
Nguồn: Fusion Confusion, the Economist, 4/4/1998, P.87
Sự phá sản của hàng loạt doanh nghiệp và ngân hàng sẽ dẫn đến hậu quả trực tiếp đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế, sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng kinh tế gây ra tình trạng thất
nghiệp cao ở các quốc gia khủng hoảng kinh tế.
Bảng 1.3 Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế-tài chính
Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 6,7 -0,4 -8,3
Malaysia 8,2 7,0 2,0
Indonesia 7,8 4,6 -13,7
Philippines 5,8 5,2 -0,5 9,5 10,4 3,3
Hàn Quốc 7,1 5,5 -5,8 2,3 2,5 8,0

Nguồn: ASEAN University Network


2.1.1. Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm
là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền
kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu.
Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn
hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô
lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá
giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Chẳng mấy chốc, con hổ kinh tế
châu Á rơi vào tình trạng hấp hối. Bangkok lúc đó giống như một chợ trời khổng lồ.
Những người Thái Lan giàu có đem bán các hàng hóa xa xỉ của họ với giá không thể rẻ
hơn tại các bãi đậu xe. Ô tô, đồ trang sức, rượu, thậm chí cả máy bay cá nhân - tất cả đều
bán hết để duy trì cuộc sống.
Chính phủ bất lực trước tình trạng thất nghiệp gia tăng. Thái Lan lúc đó buộc phải nhận
cứu trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm
1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng
khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng
thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance
One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố
sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF
thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Điều đáng báo động nhất sau khi Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng baht không chỉ tác động
tiêu cực đến nền kinh tế Thái Lan mà nó còn gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính lan
truyền sang tất cả các nước châu Á khác. Không chỉ đồng baht mà cả đồng peso
(Philippines), đồng ringit (Malaysia), đồng đô la (Singapore) và đồng rupiah (Indonesia)
cũng đều bị sức ép phải giảm giá so với đồng USD.
2.1.2. Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách
nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất
giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào
cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ
bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số
Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000
điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất
giá.
2.1.3. Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo
vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao
hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên
tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng
cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng
tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng
10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong
Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên
500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành
phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông
Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng
120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này,
vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoán này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar
Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước
này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính
sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị
trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn
được bảo toàn ở mức 7.8 HKD/USD
2.1.4. Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ
ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trƣờng châu Á bị khủng
hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn
Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng
11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ
IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách cải cách nghiêm khắc. Trong khi đó,
đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD
2.1.5. Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn
sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở
nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở
trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong
tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn
chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba
năm 19ba.
2.1.6. Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới
rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý đƣợc thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar,
nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở
Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm
xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty
Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên.
Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra)
khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với
chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá
lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh
giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động.
Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm
1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000: 1. Nhưng
trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000: 1. Do thay đổi tỷ giá hối
đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
2.2. Nguyên nhân xảy ra khủng hoảng
2.2.1. Nguyên nhân trực tiếp
 Thâm hụt tài khoản vãng lai, nền kinh tế mất cân đối:
Thứ nhất, sự mất cân đối bên trong của nền kinh tế. Đó là mâu thuẫn giữa tốc độ tăng
trưởng qúa nhanh tạo sức ép đối với giá cả do chi phí tiền lương và các chi phí đầu vào
khác ngày một tăng.
Thứ hai, nền kinh tế Đông Nam Á mất cân đối nghiêm trọng với bên ngoài, trong đó thâm
hụt của Thái Lan (8,1% GDP năm 1995, 8,2% GDP năm 1996) và Malaysia (9,7% GDP
năm 1996) ở vào mức báo động. Thâm hụt xảy ra là do tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
từ năm 1995 giảm mạnh.
Thứ ba, do thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng lớn đã buộc các nước trong khu vực
phải vay nóng các khoản vay ngắn hạn của nƣớc ngoài.
 Chính sách tỷ giá cứng nhắc:
Trước năm 1995, đồng USD suy giảm so với Yên Nhật và Mark Đức tạo điều kiện thuận
lợi cho các nước Đông Á duy trì đƣợc tỷ giá cố định neo chặt với USD.
Từ 1995-1997, USD tăng giá tới 50% so với Yên Nhật, cùng với sự phá giá 30% của
đồng Nhân dân tệ Trung Quốc vào cuối năm 1994 đã làm cho đồng tiền của các nước
Đông Nam Á bị định giá cao so với USD và Yên Nhật khiến cho hàng xuất khẩu của
Đông Nam Á đắt lên ở Nhật và Châu Âu.
Mặt khác, lợi thế cạnh tranh của khu vực đang giảm do chi phí tiền lương cao và chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu chậm nên tăng trưởng xuất khẩu giảm. Chính sự kìm giữ tỷ giá
khiên cưỡng đã dẫn đến những ảo tưởng cho cả người phát hành chứng khoán lẫn người
đầu tư về một thị trường tiền tệ ổn định.
 Sai lầm của các nhà đầu tư
Do tỷ giá hối đoái ổn định, lãi suất thấp, các doanh nghiệp sẵn sàng “ôm” những khoản
tín dụng ngắn hạn khổng lồ để đầu tư vào các dự án kinh tế hiệu quả thấp. Số nợ của
nhiều doanh nghiệp vượt quá tổng số vốn của bản thân doanh nghiệp tới 200-400%. Phần
lớn vốn vay nước ngoài được đầu tư vào thị trường bất động sản khiến cho nó mang đặc
tính của một thị trường “bong bóng”.
 Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương
Sự mất cân đối bên trong và bên ngoài cũng như sự duy trì quá lâu tỷ giá cố định đã tạo
nên nhiều kẽ hở trong hệ thống ngân hàng các nước này. Các ngân hàng đã tạo điều kiện
cho vay tiêu dùng quá mức, cho vay đầu tư vào thị trường bất động sản, cho vay vốn mua
ngoại tệ, nhiều ngân hàng đổ xô mua đồng Yên và bán USD hưởng chênh lệch giá.
Ngân hàng cũng tạo thuận lợi cấp tín dụng cho những dự án kém hiệu quả, thực tế là các
khoản cho vay không dựa trên tính khả thi của dự án mà lại phụ thuộc vào mối quan hệ
giữa ngân hàng và người vay. Sự liên kết không minh bạch giữa Chính phủ với các doanh
nghiệp lớn và hệ thống ngân hàng chính là nguyên nhân dẫn đến nhiều khoản đầu tư phi
hiệu quả.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và tỷ giá cố định, ngân hàng các nước lại tiếp tục vay
nóng ngân hàng nước ngoài dẫn tới giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt xa dự trữ ngoại
tệ trong nước.
Do thất thoát và đọng vốn ở thị trường bất động sản dẫn đến hàng loạt ngân hàng phải
tuyên bố vỡ nợ. Từ đó, mất niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hàng loạt
khách hàng rút vốn khỏi các ngân hàng và chứng khoán bị bán tháo để chuyển thành
ngoại tệ làm cho thị trường chứng khoán chao đảo.
2.2.2. Nguyên nhân gián tiếp
Thứ nhât, thị trường thương mại toàn cầu giảm sút. Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của các nước công nghiệp giảm sút dẫn đến lượng cầu suy giảm. Trong khi
đó các nước này lại là những bạn hàng chủ yếu, kích thích quá trình tăng trưởng nóng
hướng về xuất khẩu của các nước Đông Nam Á.
Thứ hai, các hoạt động đầu cơ từ bên ngoài. Khi phát hiện những dấu hiệu suy thoái của
hệ thống ngân hàng - tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ nước ngoài đã tăng cường các
hoạt động đầu cơ tiền tệ. Họ tấn công đồng Baht sau đó lần lượt là đồng Peso, Ringgit,
Rupiah, kể cả đồng SGD. Dự trữ ngoại tệ của các nước giảm mạnh trong nỗ lực cứu vớt
các đồng tiền của mình.
2.3. Hậu quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ,
sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh
nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các
năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái
Lan. Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Soeharto ở
Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng
cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phong
trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của
nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính
bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực
tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu
ngƣời của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào
năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ
11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ ảnh hưởng ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới
khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng
hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.
2.4. Biện pháp phục hồi sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị
ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản
lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới
phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trƣởng kinh tế.
a) Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt
và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nƣớc từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định và hướng
tới mục tiêu giảm lạm phát. Đồng thời, các nƣớc nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối
nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng
hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
b) Cải cách khu vực tài chính
Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính:
- Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính
- Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ
- Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối mới các
tổ chức tín dụng và tài chính khác
- Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính
- Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ
luật thị trường.
c) Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực
tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ
quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám
đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức
vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả
với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài.
d) Cải cách các thị trường
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của
mình. Đồng thời, việc cải cách thị trường lao động đã cho phép các doanh nghiệp tuyển
dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp doanh nghiệp của các nước Đông Á trở nên
linh hoạt hơn.
Tính tới năm 2019, sau gần 22 năm kể từ cuộc khủng hoảng, các nước châu Á đã có sự
thay đổi đáng kể: Đầu tiên, các nước gặp khủng hoảng đã hạ mức đầu tư và kỳ vọng tăng
trưởng xuống mức có thể duy trì được. Các chính phủ châu Á vẫn nhấn mạnh tăng trưởng,
nhưng không phải là làm điều đó bằng mọi giá.
Thứ hai, các nước Đông Nam Á giờ đây đã có tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Các chính
phủ trong khu vực ít nhất đã từ bỏ việc "bám chặt" vào đồng USD, căn nguyên của sự dễ
tổn thương năm 1997.
Thứ ba, các nước như Thái Lan lúc đó đang có thâm hụt thương mại lớn, làm tăng phụ
thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài, nhưng giờ đây đang có thặng dư. Thặng dư thương
mại đã giúp họ tăng dự trữ ngoại hối.
Thứ tư, các nƣớc châu Á giờ đang hợp tác với nhau để cùng phát triển bền vững. Năm
2000, khi cuộc khủng hoảng kết thúc, Sáng kiến Chiang Mai (Thái Lan) được thành lập
như một mạng lưới tín dụng tài chính và hoán đổi ngoại hối khu vực. Và hiện nay đã có
Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) để khu vực hoá việc cung cấp tài chính
phục vụ phát triển hạ tầng.
2.5. Vấn đề quản lý nợ trong cuộc khủng hoảng
Một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng châu Á 1997 đó là nợ
nước ngoài. Để bù lại khoản thâm hụt nghiêm trọng về tài khoản vãng lai, các nước Châu
Á đã chọn cách vay nợ nước ngoài ngắn hạn. Nợ nước ngoài ngắn hạn của các nước Đông
Á tăng nhanh trong thời kỳ 1991-1996 và hầu hết các khoản vay này đều không dự phòng
rủi ro biến động ngoại hối.
Khi khủng hoảng bùng nổ, người ta mới thấy nợ nước ngoài của khu vực này còn lớn hơn
nhiều so với dự tính của Chính phủ, điều này cho thấy các nước này vay nợ nước ngoài
một cách ồ ạt, không có biện pháp quản lý phù hợp khiến lượng vốn vay nợ vượt quá tầm
kiểm soát. Vốn ngắn hạn nước ngoài gián tiếp làm tăng cầu hàng hóa trong nước, tăng giá
đồng nội tệ.
Tăng trưởng cao dựa trên vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng và không cân đối (70-80%
là vốn ngắn hạn theo luồng đầu tư gián tiếp), cũng như khả năng quản lý vay nợ kém
khiến gánh nặng nợ nước ngoài ngày một lớn và khi các khoản nợ đến hạn thì đã gây sức
ép nặng nề lên hệ thống ngân hàng thương mại và cầu ngoại tệ tăng đột biến. Chính các
khoản nợ nước ngoài ngắn hạn và khó đòi do đầu tư không hiệu quả dẫn đến hàng loạt các
ngân hàng, công ty tài chính mất khả năng thanh toán, mở màn cho cuộc khủng hoảng.
Sở dĩ các nước Đông Á vay được nhiều tiền là do sau khủng hoảng Mêhicô 1994, các chủ
nợ cho rằng Đông Á là khu vực ổn định hơn để đầu tư, đồng thời Chính phủ các nước
Đông Á đã tiến hành tự do hoá tài khoản vốn không thích hợp, các quy định về quản lý
ngoại hối bị xoá bỏ đi đôi với thành lập một số tổ chức tài chính để tiếp nhận và phân
phối vốn. Sau khi các đồng nội tệ mất giá nghiêm trọng thì gánh nặng nợ nước ngoài lại
tăng thêm.
Nợ nước ngoài lớn, trong khi đó nguồn dự trữ ngoại tệ không đủ lực để can thiệp vào tình
hình tài chính tiền tệ quốc gia. Đáng lo ngại, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, ví dụ ở Thái
Lan nợ ngắn hạn chiếm 45% tổng nợ, trong khi đó cũng ở Thái Lan dự trữ ngoại tệ liên
tục giảm từ 31,6% so với GDP năm 1994 xuống 29,5% năm 1995 và năm 1996 xuống
còn 26,6% so với GDP.
Ở Hàn Quốc, tình trạng nợ còn trầm trọng hơn, tổng nợ nước ngoài năm 1998 của Hàn
Quốc lên đến 110 tỷ USD, trong đó nợ ngắn hạn đến 80 tỷ USD. Từ số liệu trên, ta có thể
thấy tình trạng nợ nước ngoài trầm trọng không có khả năng trả đã đưa các nước Châu Á
tới với cuộc khủng hoảng năm 1997. Từ cuộc khủng hoảng này có thể rút ra, vấn đề quản
lý nợ nước ngoài rất quan trọng đối với một quốc gia.
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997
ĐẾN VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đến Việt Nam
Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam được chia thành hai giai đoạn chính: thời kỳ đổi
mới từ năm 1976 đến năm 1985 và sau đổi mới từ năm 1986. Từ khi đổi mới, Việt Nam
ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới. Do đó, là một quốc giá
nằm trong khu vực ảnh hưởng, Việt Nam cũng đã phải chịu những ảnh hưởng nhất định
từ cuộc khủng hoảng một cách trực tiếp và gián tiếp, tích cực và tiêu cực đến các mặt kinh
tế-xã hội.
3.1.1. Về thương mại
Theo ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với các nước Đông
Á và phần lớn được thanh toán bằng USD, cho nên trong khi các đồng tiền khác trong
khu vực đã bị phá giá từ 80% đến 250$ so với đồng tiền USD, đồng tiền Việt Nam mới
chỉ mất giá khoảng trên 10% so với đồng USD, đìều này làm cho hàng nhập khẩu từ các
nước Đông Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá đồng tiền các
nước1. Do đó hàng nhập khẩu từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội địa của chúng ta do giá rẻ,
lượng hàng hóa nhập khẩu khẩu tăng cao bằng cả hai con đường chính thống và buôn lậu.
Giá thiết bị máy móc giảm từ 20% đến 40%, linh kiện điện từ giảm từ 10-30%, bông xơ
các loại giảm từ 10-15% điều này gây áp lực lên cán cân thanh toán vãng lai cũng như
việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong nước. 2Tuy vậy, đây cũng là cơ hội cho
Việt Nam tận dụng các cơ hội đầu tư, giảm chi phí đầu vào và tiếp công nghệ sản xuất.
Do cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á diễn ra căng thẳng, các đồng tiền Đông Á phá giá
ở mức cao, tạo sức ép đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này phải
giảm giá. Chính vì vậy nguồn thu từ xuất khẩu sẽ giảm vì giá xuất khẩu hạ thì doanh
nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có thể phải ngừng sản xuất vì doanh thu trang trải
cho các yếu tố đầu vào. Ngoài ra, những doanh nghiệp lớn có thể tìm được thị trường
khác khi bị ép giá nhưng sản lượng xuất khẩu giảm, doanh thu giảm theo do giá xuất khẩu
giảm. Cuối năm 1997, lợi tức của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của ngành nông sản đã
bị mất khoảng 500 triệu USD, năm 1997 khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng,
xuất khẩu của Việt Nam thời gian này giảm từ 2252 triệu USD năm 1996 xuống còn 1787
triệu USD năm 1997. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đến năm 1998 chỉ còn 1,9%.
Nhập khẩu 1997 chỉ tăng 4% và 1998 giảm 0,8%, 1999 chỉ tăng 2,1%…3

1
Theo Tổng cục Thống kê
2
Theo báo cáo của Bộ Thương mại
3
Theo Tổng cục Thống kê
20.00
18.00
16.00
14.00
12.00
10.00 Xuất khẩu ( tỉ USD )
8.00 Nhập khẩu (tỉ USD )
6.00
4.00
2.00
0.00
1996 1997 1998 1999 2000

Hình 1: Xuất nhập khẩu (tỷ USD) của Việt Nam giai đoạn 1996-2000

Nguồn: data.worldbank.org

Hình 2: GDP bình quân đầu người và tỷ lệ tăng trưởng GDP (1995-2019)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Việc từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo ra
những bước tiến vượt bậc, làm thay đổi cả nền kinh tế. GDP tăng trưởng trên 9% đạt được
vào các năm 1995 (9,54%) và 1996 (9,34%). Lạm phát được kiểm soát từ mức hai chữ số
từ năm 1995 (12,7%) xuống mức 4,5% (1996) và 3,6% (1997).4
3.1.2. Về tỉ giá
Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn , nên đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý
của các nhà đầu tư, đã tạo ra tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ. Ở nước ta thể hiện rõ
nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và tổ chức kinh tế sang ngoại tệ hay
các loại tài sản khác. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng Việt
Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiện của dân chúng .
Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt trần gây sức ép phá giả
đồng tiền Việt Nam. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối nói
chung cầu luôn luôn cao hơn luôn.

Tỉ giá hối đoái ( VND/USD ) giai đoạn 1996-2000

16000
14000
12000
10000
8000 Tỉ giá hối đoái (
VND/USD )
6000
4000
2000
0
1996 1997 1998 1999 2000

Hình 3: Tỷ giá hối đoái (VNĐ/USD) giai đoạn 1996-2000

Nguồn: data.worldbank.org
Thời kỳ 1997-1998 cũng ghi nhân ba lần điều chỉnh tỷ giá vào ttháng7-1997 (bình quân
11690 VNĐ/USD), tháng 2-1998 (bình quân 12664 VNĐ/USD) và tháng 8-1998 (bình
quân 13715 VNĐ/USD). Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay
vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt
Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc
phải mua với giá cao để thanh toán đơn hàng đã phải chịu lỗ nặng.
3.1.3. Về đầu tư

4
Theo Tổng cục Thống kê
Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) vào Việt
Nam đã giảm sút nghiêm trong. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70 % so với năm 1996. Đó là do
70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông Á, là những nước đang bị ảnh
hưởng nặng nề cuộc khủng hoảng. Những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam đến quốc gia láng
giềng cũng lâm vào tình trạng thiếu tiền mặl. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký,
nếu 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì từ 1997 bị giảm liên tục, đến 1999 chỉ còn gần 2,6 tỷ
USD. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 1998-2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ USD
mỗi năm. Lạm phát năm 1998 lên mức 9,2%.

FDI (tỉ USD) vào Việt Nam giai đoạn 1996-2000

2.5

1.5
FDI vào ( tỉ USD )
1

0.5

0
1996 1997 1998 1999 2000

Hình 4: FDI (tỉ USD) vào Việt Nam giai đoạn 1996-2000

Nguồn: data.worldbank.org
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, các nước trong xu thế mở cửa giao lưu
về kinh tế thì khủng hoảng kinh tế tại một nƣớc, hay một khu vực sẽ có những ảnh hưởng
nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh tế cá biệt. Do đó,
việc Việt Nam phải chịu những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 là
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (về mức độ
biến động tỉ giá, thương mại và đầu tư), tác động của cuộc khủng hoảng trên đến Việt
Nam là không đáng kể. Một mặt, do độ mở cửa chưa cao (xuất khẩu so với GDP mới đạt
trên dưới 30%, đồng tiền chưa chuyển đổi…), do đã có dầu thô, gạo xuất khẩu; mặt khác
do có sự chủ động ứng phó từ trong nƣớc… nên Việt Nam không những không bị cuốn
hút vào vòng xoáy, mà còn vượt qua đƣợc cuộc khủng hoảng này. Nguyên nhân là vì chế
độ quản lý ngoại hối của nước ta tương đối chặt chẽ; chính sách tỷ giá từng bước linh hoạt
trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại; việc đầu tƣ của nƣớc ngoài vào giấy tờ có
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 1996 1997 1998 1999 2000 FDI (tỉ USD) vào Việt Nam giai đoạn 1996
- 2000 FDI vào (tỉ USD) 31 giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ nên khả năng
đầu cơ gây bất lợi cho tiền đồng Việt Nam được hạn chế.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đã để lại bài học kinh nghiệm cho các nước
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong thời đại hội nhập, trong đó có Việt
Nam. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng trên phù hợp
với thực tiễn kinh tế Việt Nam hiện nay:
 Cần linh hoạt trong điều hành chính sách tỉ giá hối đoái. Cần tránh ràng buộc quá
nhiều bởi đồng USD, vì khi đồng USD biến động mạnh thì sẽ khiến đồng tiền
trong nước bất ổn theo.
 Xây dựng hệ thống tài chính ngân hàng trong sạch, vững mạnh. Hệ thống ngân
hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn đến sự
phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á, như Indonesia,
Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư thừa vào
một số ngành kinh tế. Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí,
châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại quay
lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của
tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu
quả.
 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng khả năng xuất khẩu. Từ đó, có thể cân bằng
cán cân vãng lai, tránh tình trạng thâm hụt phải đi vay nợ để bù vào.
 Chính phủ đóng vai trò quyết định trong định hướng phát triển kinh tế, đảm bảo
trong chiến lược vay nợ nước ngoài.
 Đảm bảo hệ thống thông tin đầy đủ trong quản lý nợ nước ngoài. Khi vay nợ tràn
lan mà không có sự quản lý, sẽ dẫn tới tình trạng nợ xấu, không có khả năng trả và
sẽ dẫn tới khủng hoảng.
KẾT LUẬN
Khủng hoảng tài chính Châu Á đã qua đi 23 năm nhưng những mất mát về kinh tế cũng
nhƣ bài học để lại chưa bao giờ là cũ đối với các nước trong khu vực nói riêng và trên thế
giới nói chung. Việt Nam hiện nay đang bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế mạnh mẽ
với thế giới, cần phải rút kinh nghiệm từ những bài học của cuộc khủng hoảng Châu Á
nói trên để không lặp lại sai lầm như vậy. Đặc biệt, trước các nguồn vốn vay từ nước
ngoài ồ ạt đổ vào, Việt Nam cần phải có chính sách quản lý nợ hợp lý, sử dụng đúng mục
đích để tránh việc thất thoát nguồn vốn dùng cho phát triển kinh tế - xã hội, trường hợp
xấu nhất là vỡ nợ.
Thông qua việc phân tích khủng hoảng Châu Á 1997 cũng như vấn đề quản lý nợ trong
cuộc khủng hoảng, bài nghiên cứu đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp với tình
hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trong tình hình dịch Covid-19 hiện nay,
thế giới đang có nguy cơ đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế mới, những bài học
rút ra từ các cuộc khủng hoảng trước sẽ giúp Việt Nam tìm được biện pháp phù hợp để
bảo vệ nền kinh tế của mình.

You might also like