Professional Documents
Culture Documents
Bài tập lớn quản lí nợ khủng hoảng 1997 và bài học
Bài tập lớn quản lí nợ khủng hoảng 1997 và bài học
Tác giả Trần Bá Khoa với bài viết “Đông Á mười năm sau cuộc khủng hoảng tài chính”
đăng trên Tạp chí Cộng Sản số 782 ra ngày 12 năm 2007 đã cho thấy sau 10 năm của
cuộc khủng hoảng, Đông Á đã phục hỏi và đang lấy lại vị trí trên trường quốc tế, mặc dù
vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức ở phía trước. Tuy gây tác hại lớn đổi với nhiều
nền kinh tế những cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 cũng chính là đòn bẩy thúc đẩy
các nước tái cơ cấu, tiến hành cải cách và tăng cường hợp tác, hội nhập khu vực. Tuy
nhiên, các nước Đông Á nói riêng và Châu Á nói chung cũng đang đối mặt với nhiều
thách thức như chênh lệch thu nhập gia tăng: sức ép đó thị hóa nhanh chóng: luỗng vốn
lưu chuyển thất thường và các rủi ro khủng hoảng tín dụng, tiền tệ.
Tác giả Vũ Minh Long (2012) với bài nghiên cứu “ Khủng hoảng nợ công tại một số nền
kinh tế trên thế giới - Nguyễn nhân, diễn biến, hậu quả, biện pháp khắc phục và những
hàm ý chính sách cho Việt Nam” nêu ra nguyên nhân, diễn biến, hậu quả và biện pháp
khắc phục của một số cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới như Khủng hoảng nợ Mỹ Latinh
1980, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 và khủng hoảng nợ công Hy Lạp. Thông qua
thực trạng nợ công của hai nền kinh tế lớn Nhật Bản, Mỹ và thực trạng của Việt Nam, tác
giả đề ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam gồm: Quản lý nợ công triệt để và mình
bạch; Phát triển thị trường nợ trong nước; Cắt giảm chi tiêu công; Nâng cao hiệu quả đầu
tư công.
Theo Thành An (2015) với bài viết " Khủng hoảng thị trường tài chính Châu Á: Bài học
từ quá khứ” đăng trên Tạp chí tài chính số ra ngày 31/8/2015, những diễn biến xấu của thị
trường chứng khoán thế giới những ngày qua gợi lại cuộc khủng hoảng tiền tế châu Á
năm 1997. Tuy nhiên, chính những bài học quá khứ đã giúp thế giới tránh lặp lại vết xe
đỗ thông qua những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng năm 1997: Sử dụng
hiệu quả công cụ điều tiết nguồn vốn; xây dựng hành lap pháp lý phù hợp; nợ nước ngoài
được đa dạng hóa giỏ tiền tệ thay vì chỉ được tính bằng đồng USD như cách đây 18 năm.
Theo tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2012) với bài viết “ Về cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông
Nam Á” trên tạp chí nghiên cứu Quốc tế năm 1997 của Học viện Ngoại giao Việt Nam, số
20, cuộc khủng hoảng tiền tệ ĐNA bắt nguồn từ Thái Lan đã có ảnh hưởng tới toàn khu
vực Đông Nam Á nói riêng và với châu Á nói chung, nhưng nó chỉ gây ra bất ổn định tài
chính ở những nơi có những mắt cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế và các nhà lãnh
đạo tỏ ra mắt bình tỉnh khí cuộc khủng hoảng xảy ra. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tiền
tệ, một mặt nào đó đã tạo cơ hội để các nước Đông Nam Á cải cách nền kinh tế của mình.
Tuy rằng cải cách, trong ngắn hạn sẽ dẫn đến thất nghiệp, lạm phát tăng, đời sống của
nhân dân khó khăn hơn. Nhưng về dài hạn nó sẽ mang lại sự phát triển ön định và phồn
vinh cho các quốc gia Đông Nam Á.
Theo Tạ Đức Thanh, (2013) với bài viết * Khủng hoảng nợ công thế giới và bài học cho
Việt Nam” đăng trên tạp chí Tài chính, những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công
tới “sức khỏe” nền kinh tế thế giới trong thời gian qua cho thấy, nợ công là một vấn đề
mang tính toàn cầu, mà bất cứ một quốc gia nào dù mạnh hay yêu cũng có nguy cơ gặp
phải. Vì thế, những bài học được rút ra từ các nền kinh tế đã và đang diễn ra khủng hoảng
nợ công là kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam trong quá trình phát triển.
Theo Nguyễn Công Toàn (2017) với bài nghiên cứu “Đánh giá tính bền vững của nợ công
và mối quan hệ giữa nợ với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” đã xem xét tính bền vững
của nợ công Việt Nam đồng thời tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô nợ và tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những gợi ý và để xuất nhằm tăng hiệu quả sử
dụng nợ cũng như nâng cao tính bổn vững của nợ công Việt Nam. Kết quả thực nghiệm
đã cho thấy tồn tại mối quan hệ tuyến tính mang tác động tiêu cực giữa tỷ lệ nợ công và
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với tăng
trưởng mà còn cả với tính an toàn của nợ công đặc biệt là nợ nước ngoài. Trong thời gian
tới, Việt Nam cần có thêm nhiều chính sách hơn nữa để thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu
tư nước ngoài. Mặc dù còn nhiều giới hạn, nghiên cứu này cũng đã mở ra một số cách tiếp
cận trong phân tích tính bền vững của nợ cũng như tác động của nợ lên tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.
Các bài nghiên cứu, tạp chí tiêu biểu trên đã để cập tới cuộc khủng hoảng Châu Á 1997
cũng như các cuộc khủng hoảng tiêu biểu khác trên thế giới, ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tới các nền kinh tế trong khu vực, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho các
nước để ngăn ngừa khủng hoảng xảy ra, trong đó có việc điều tiết, quản lý nguồn vốn vay
nợ từ nước ngoài.
1.2. Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chính châu Á 1997
1.2.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính
Theo giáo trình Ngân hàng Thương mại (NXB Thống kê), khủng hoảng tài chính
(Financial crisis) được định nghĩa như sau:
Khủng hoảng tài chính xuất hiện khi thị trường tài chính sụp đổ nguyên nhân bởi sự lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trở nên gay gắt trên các thị trường tài chính, làm cho
các thị trường này không còn khả năng luân chuyển vốn hiệu quả từ những người tiết
kiệm đến những nhà đầu tư tiềm năng, Kết quả là nền kinh tế suy thoái.
Khủng hoảng tài chính được chia làm ba dạng: Khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân
hàng và khủng hoảng nợ công.
Khủng hoảng ngân hàng là tỉnh trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ö ạt
khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phản lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng
loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ở
ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiển nhiều khách hàng mắt đi khoản tiền gửi
của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan
rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thẻ hiện tượng trên
không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự
thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tổ gây ra
khủng hoảng kinh tế.
Khủng hoảng nợ công được định nghĩa là các vấn để tài chính và kinh tế xây ra do các
quốc gia mất khả năng trả các khoản nợ của chính phủ hoặc các khoản nợ do chính phủ
bảo lãnh. Khủng hoảng nợ công bùng nổ khí khoản nợ của chính phủ đã ở mức không an
toàn so với quy mô nền kinh tế đồng thời nền kinh tế đạt mức tăng trưởng thấp.
Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính quốc tế thể hiện qua các quan điểm
sau đây:
Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo của tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm
làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
Các cá nhân và công ty với các dự án mạo hiểm rủi ro cao lại là những người sẵn sàng trả
mức lãi suất cao. Nếu lãi suất thị trường nhạy cảm tăng theo nhu cầu tín dụng tăng hoặc
do cung tiễn giảm, làm cho những người có rủi ro tín dụng tốt sẽ không còn thiết tha vay
vớn nữa, trong khi đó, những người có rủi ro tín dụng xấu vẫn mong muốn được vay.
Do lựa chọn đối nghịch tăng lên, khiến cho ngân hàng không còn muốn cho vay nữa. Sự
giảm sút mạnh trong tín dụng dẫn đến sự giảm sút mạnh trong đầu tư và hoạt động kinh tế
vĩ mô.
Sự bất ổn đột ngột trên thị trường tài chính (có thể do sự sụp đổ của một tổ chức tài chính
hay phi tài chính trụ cột nào đó), dấu hiệu của suy thoái kinh tế hay sự sụp đổ của thị
trường cổ phiếu, càng làm cho ngân hàng khó khăn hơn trong việc sàng lọc khách hàng
vay vốn.
Kết quả là ngân hàng không còn khả năng giải quyết được vấn để lựa chọn đối nghịch
nữa, dẫn đến hạn chế cho vay, làm suy giảm tín dụng đầu tư và hoạt động kinh tế vĩ mô.
Ảnh hưởng của thị trường cổ phiếu lên bảng cân đối kế toán.
Trạng thái bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp phản ánh thực trạng về vấn để thông tin
bất cân xứng trong hệ thống tài chính. Một sự giảm sút nghiêm trọng trên thị trường cổ
phiếu là nhân tố làm cho bảng cân đối của doanh nghiệp trở nên xấu đi.
Ngược lại, sự xấu đi của bảng cân đối có thể làm gia tăng vấn để lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức, kích thích khủng hoảng tài chính xảy ra. Sự giảm sút của thị trường cổ
phiếu giảm làm giảm vốn chủ sở hữu của các công ty.
Vốn chủ sở hữu của các công ty giám, khiến cho các ngân hàng không côn sẵn sàng cho
vay, bởi vì vốn chủ sở hữu vốn là một chiếc đệm, có vai trò như tài sản bảo đảm tiền vay.
Khi giá trị báo đảm giám, khiến cho ngân hàng không còn được bảo vệ tốt nữa, dẫn đến
khả năng tỏn thất tín dựng là hiện hữu.
Các vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng
Các ngân hàng đóng vai trỏ quan trọng trên các thị trường tải chính, bởi vì chúng hoạt
động hiệu quả trong việc sản xuất và xử lí thông tin, làm cơ sở cho việc gia tăng đầu tư
hiệu quả trong nên kinh tế.
Trạng thái báng cân đối tài sản của ngân hàng có tác động quan trọng đến việc cho vay.
Nếu bảng cân đổi của ngân hàng trở nên xấu đi (vốn chủ sở hữu giảm đáng kẻ), thì nguồn
vốn cho vay trở nên hạn hẹp, dẫn đến giảm sút tín dụng. Hậu quả là đầu tư giảm, nên kính
tế đình trệ.
Thâm hụt ngân sách chính phủ
Ở các nước đang phát triển, nều thâm hụt ngân sách chính phú trằm trọng, sẽ làm phát
sinh tâm lí lo sợ về khá năng vỡ nợ của chính phủ. Kết quả là chính phủ gặp khó khăn
trong việc phát hành trái phiểu cho công chúng, chính phủ quay sang ép các ngân hàng
mua.
Nếu giá trái phiếu chính phủ giảm, làm cho bảng cân đổi tài sản ngân hang trở nên xâu đi,
dẫn đến giảm sút trong cho vay của ngân hàng, Mỗi lo sợ chính phủ vỡ nợ cũng có thể là
tác nhân của khủng hoảng ngoại hồi, khi giá trị đồng nội tệ giám đột ngột do các nhà đầu
tư nước ngoài rút vốn ra khỏi quốc gia
Giá trị nội tệ giảm, làm cho bảng cân đối tải sản của công ty có nợ phải trả bằng ngoại tệ
lớn trở nên xấu đi. Bảng cân đối xấu làm gia tăng vẫn để lựa chọn đổi
1.2.4. Khái niệm nợ công
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công, hay còn gọi là nợ chính phủ, là những phần
nghĩa vụ nợ trực tiếp hoặc được thừa nhận của chính phủ một quốc gia với phần còn lại
của nên kinh tế và nước ngoài.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thể giới (WB), nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của
4 nhóm chủ thể bao gồm:
Nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương.
Nợ của các cấp chính quyền địa phương;
Nợ của Ngắn hàng trưng ương:
Nợ của các tô chức độc lập mà Chính phú sở hữu trên 50% vốn.
Như vậy, có thể khái quát, nợ công là toàn bộ các khoản vay nợ của các cấpchính quyền
từ trung ương đến địa phương tại một thời điểm nào đó, bao gồm các khoản vay trong
nước và các khoản vay nước ngoài.
1.2.5. Khái niệm nợ nước ngoài, phân loại, cơ cấu
Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về nợ nước ngoài. Dưới đây là một số khái niệm được sử
dụng phố biến để xem xét nợ nước ngoài.
Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Ngân
hàng Thế giới (WB), nợ nước ngoài được thống nhất định nghĩa: “Tổng nợ nước ngoài tại
bất kỳ thời điểm nào, là tổng dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không bao gồm
các nghĩa vụ nợ dự phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có hay không có
lãi trong tương lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với ngƣời không cư trú trong
quốc gia”.
Đối với Việt Nam, theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban kèm theo
Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính Phủ) thì “ Nợ nước
ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành ( không bao gồm nghĩa vụ nợ dự
phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam.
Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài
của khu vực tư nhân”.
Phân loại
Nợ nước ngoài được phân loại dựa trên các đặc điểm sau đây:
Căn cứ vào chủ thể đi vay
Nợ nhà nước (nợ chính phủ): do Nhà nƣớc và các cơ quan của Nhà nước đứng ra
vay hoặc bảo lãnh vay. Các chính phủ thường dựa vào nguồn vốn nước ngoài để
bù đắp thâm hụt ngân sách.
Nợ tư nhân: các khoản nợ do các doanh nghiệp tư nhân đứng ra vay không có sự
bảo lãnh của nhà nước (các ngân hàng, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng
khác). Thường là những doanh nghiệp lớn, có uy tín và thương hiệu nổi tiếng.
Căn cứ vào thời hạn cho vay
Nợ ngắn hạn và trung hạn: gồm các khoản vay có thời hạn dưới 3 năm. Các khoản
vay này thường chiếm một tỉ lệ nhỏ (khoảng dưới 10% - 20%) trong tổng số nợ
vay.
Nợ dài hạn: gồm các khoản vay từ 3 năm trở lên và thường chiếm tỉ lệ lớn (khoảng
80 – 90%) trong tổng số nợ.
Căn cứ vào hình thức vay
Vay ưu đãi: do chính phủ các nƣớc chủ yếu là các nƣớc phát triển cho chính phủ
các nước đang phát triển vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn thanh
toán, thời hạn ân hạn (khoảng thời gian từ khi kí hiệp định vay bốn đến lần đầu tiên
phải trả vốn gốc), và phương thức thanh toán.
Vay thương mại: do các tổ chức tín dụng và ngân hàng tư nhân nước ngoài cho
chính phủ, doanh nghiệp vay với điều kiện khó khăn và phức tạp hơn vay ưu đãi.
Thường được thực hiện thông qua các tổ hợp ngân hàng.
Căn cứ vào lãi suất cho vay
Vay với lãi suất cố định: là khoản vay mà hằng năm con nợ phải trả cho chủ nợ
một số tiền lãi bằng số dư nợ nhân với lãi suất cố định được qui định trong hợp
đồng.
Vay với lãi suất biến động: là khoản vay mà hằng năm con nợ phải trả cho chủ nợ
một số tiền lãi theo lãi suất của thị trường tự do.
Cơ cấu của nợ nước ngoài
Nợ của Chính phủ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ tư nhân không được Chính phủ bảo lãnh.
Các chỉ tiêu đo mức độ nợ nước ngoài:
Tỷ lệ nợ nước ngoài so với nguồn thu xuất khẩu.
Tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với tổng nợ nước ngoài.
Tỷ lệ nợ nƣớc ngoài so với GDP.
Tỷ lệ nợ phải trả hàng năm so với nguồn thu xuất khẩu.
Tỷ lệ nợ phải trả hàng năm so với GDP.
1.2.6. Khái niệm, mục tiêu, vai trò quản lý nợ nước ngoài
Khái niệm
Theo nghĩa rộng: quản lý nợ nước ngoài hàm chứa toàn bộ chính sách quản lý và điều
hành kinh tế vĩ mô, đảm bảo được tính ổn định trong phát triển kinh tế, nhằm sử dụng các
nguồn vốn này có hiệu quả nhất, không để chúng gia tăng quá khả năng thanh toán của
nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nợ nước ngoài bao hàm khống chế mức gia tăng nợ trong phạm
vi tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu của nước vay nợ.
Mục tiêu của quản lý nợ nước ngoài
Mục tiêu cuối cùng của quản lý nợ nƣớc ngoài là để nợ nước ngoài thực sự trở thành “cú
huých ” từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế - xã hội, trong đó phát triển kinh tế là mục
tiêu hàng đầu:
Giữ vững mức nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn
Đảm bảo sử dụng vốn vay có hiệu quả
Thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng hay hiệp định đã kí
Vai trò của quản lý nợ nước ngoài
Đảm bảo an toàn nợ và an ninh cho nền tài chính quốc gia
Đảm bảo uy tín của bên vay và đáp ứng đƣợc yêu cầu của bên cho vay
Hạn chế và phòng ngừa những rủi ro trong vay nợ
1.3. Cơ sở thực tiễn về khủng hoảng tài chính châu Á 1997
1.3.1 Đôi nét về các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
Theo thời gian, thế giới đã trải qua các cuộc khủng hoảng tài chính được xem là tàn khốc
nhất và mang lại nhiều hậu quả nặng nề nhất
a) Cuộc khủng hoảng tín dụng năm 1772
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ London và nhanh chóng ảnh hưởng đến phần còn lại
của châu Âu. Vào giữa những năm 1760, Đế quốc Anh trở nên vô cùng giàu có nhờ khối
lượng tài sản từ các nước thuộc địa và hoạt động thương mại. Điều này đã dẫn đến thời kỳ
mở rộng tín dụng nhanh chóng của nhiều ngân hàng Anh. Nhưng thời kỳ này đã kết thúc
đột ngột vào ngày 8 tháng 6 năm 1772, khi Alexander Fordyce, một trong những đối tác
của các ngân hàng Anh Neal, James, Fordyce, and Down, đã bỏ trốn sang Pháp nhằm
thoát nợ. Tin tức nhanh chóng lan truyền và gây ra sự khủng hoảng tột độ tại ngân hàng ở
Anh, khi các chủ nợ bắt đầu xếp hàng dài yêu cầu rút tiền mặt ngay lập tức.
Cuộc khủng hoảng sau đó nhanh chóng lan sang Scotland, Hà Lan, các khu vực khác của
hâu Âu và các thuộc địa của Anh - Mỹ. Các nhà sử học đã tuyên bố rằng hậu quả kinh tế
của cuộc khủng hoảng này là một trong những yếu tố then chốt làm bùng bổ cuộc biểu
tình Tiệc trà Boston và Cách mạng Mỹ.
b) Đại khủng hoảng 1929 – 1939
Đây là khủng hoảng tài chính và kinh tế tồi tệ nhất của thế kỷ 20. Nhiều người tin rằng
Đại khủng hoảng bắt nguồn từ việc sụp đổ ở Phố Wall năm 1929, và sau đó trở nên trầm
trọng hơn bởi các quyết sách tồi tệ của chính phủ Mỹ. Khủng hoảng kéo dài gần 10 năm
và dẫn đến thất thoát một lượng thu nhập khổng lồ, tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục và đầu ra sản
xuất giảm đáng kể, đặc biệt là ở các Quốc gia công nghiệp hóa. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp
đạt gần 25% vào lúc đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng năm 1933.
c) Cú sốc giá dầu OPEC năm 1973
Cuộc khủng hoảng này bắt đầu khi các nước thành viên của OPEC (Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ) mà chủ yếu bao gồm các quốc gia thuộc tiểu vương quốc Ả Rập, quyết
định trả đũa Mỹ nhằm đáp trả việc cung cấp vũ khí cho Israel trong Chiến tranh Ả Rập -
Israel lần thứ tư. Các nước OPEC tuyên bố cấm vận dầu mỏ, đột ngột ngừng xuất khẩu
dầu sang Mỹ và đồng minh của Mỹ. Điều này gây ra tình trạng thiếu hụt lượng lớn dầu và
giá dầu tăng đột biến, dẫn đến khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và nhiều nước phát triển khác.
Cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi xuất hiện lạm phát cực cao (nguyên
nhân là do sự tăng vọt của giá năng lượng) và sự đình trệ kinh tế (do khủng hoảng kinh
tế). Do đó, các nhà kinh tế đã đặt tên cho kỷ nguyên là thời kỳ "stagflation", (thuật ngữ
chỉ sự trì trệ kết hợp với lạm phát), và phải mất vài năm để sản lượng phục hồi và tỷ lệ
lạm phát giảm xuống trước đó
d) Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007
Nguyên nhân bắt nguồn bởi sự sụp đổ của bong bóng nhà đất ở Mỹ, cuộc khủng hoảng đã
dẫn đến sự sụp đổ của Lehman Brothers (một trong những ngân hàng đầu tƣ lớn nhất thế
giới), đưa nhiều tổ chức tài chính và doanh nghiệp quan trọng đến bờ vực sụp đổ, buộc
Chính phủ phải giải cứu với những tiền lệ chưa từng có. Hệ quả là mất gần một thập kỷ để
mọi thứ trở lại bình thường, nhưng trước đó nó đã kịp xóa sạch hàng triệu việc làm và
hàng tỷ USD thu nhập trong vỏn vẹn hơn một nmộ.
1.3.2 Đôi nét về cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 cũng là một trong những cuộc khủng hoảng tài
chính nghiêm trọng trong lịch sử thế giới. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ Thái Lan
vào năm 1997, đã nhanh chóng lan sang phần còn lại của Đông Á và các đối tác thương
mại. Dòng vốn đầu cơ từ các nước phát triển chảy vào các nền kinh tế Đông Á như Thái
Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, Hồng Kông và Hàn Quốc (được coi là con hổ châu
Á) đã tạo ra tâm lý lạc quan quá mức của người dân và chính phủ, dẫn đến tình trạng quá
mức tín dụng và tích lũy nợ lớn tại các nền kinh tế.
Vào tháng 7 năm 1997, chính phủ Thái Lan đã phải từ bỏ tỷ giá hối đoái cố định so với
đồng USD đã có từ trước đó rất lâu, với lý do thiếu nguồn lực ngoại tệ. Điều này đã mở
đầu cho sự bất ổn trên khắp thị trường tài chính châu Á và nhanh chóng dẫn đến sự đảo
ngược dòng đầu tư hàng tỷ USD từ nước ngoài.
Khi sự hoảng loạn bùng phát trên thị trường và các nhà đầu tư cảnh giác trước những vụ
phá sản có thể xảy ra của các chính phủ Đông Á, nỗi lo về một cuộc khủng hoảng tài
chính trên toàn thế giới bắt đầu lan rộng. Phải mất nhiều năm để mọi thứ trở lại bình
thường. Quỹ tiền tệ Quốc tế đã phải can thiệp để tạo ra các gói cứu trợ cho các nền kinh tế
bị ảnh hưởng nặng nề nhất nhằm giúp các Quốc gia này thoát khỏi tình trạng vỡ nợ.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm
Bài học đầu tiên cần phải rút ra là nền kinh tế của mỗi quốc gia phải đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô, đây là điều kiện tiên quyết để giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng.
Thêm nữa, các nước cần phải có các định chế tài chính chặt chẽ và không thể bị xâm
phạm vì bất cứ lý do gì.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997
VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ NỢ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG
2.1. Diễn biến khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
Năm 1997, đánh dấu một năm đầy biến động trên thị trường tài chính - tiền tệ thế giới,
đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và sau đó là Đông Bắc Á với những cuộc khủng hoảng
tài chính, tiền tệ nghiêm trọng bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan sang các nước ASEAN
khác rồi tới Hàn Quốc và Nhật Bản. Cuộc khủng hoảng mang tính khu vực này đã được
Chính phủ mỗi nước, các tổ chức quốc tế đứng đầu là IMF, các quốc gia có nền kinh tế
mạnh trên thế giới phối hợp ngăn chặn, song thực tế đã cho thấy đã lan rộng sang các khu
vực khác và trên phạm vi mang tính toàn cầu.
Đầu năm 1997, một số quỹ đầu cơ tài chính lớn như Quantum (George Soros) hay Tiger
Management Corp (Julian Robertson) đã ký hàng loạt các hợp đồng mua bán ngoại tệ có
thời hạn (bán đồng baht Thái, với thời hạn thanh toán chậm từ 6 tháng đến 1 năm) với
tổng trị giá lên tới 15 tỷ USD. Nhiều người cho rằng đồng Bath sẽ phá giá trong tương lai
không lai.
Bắt đầu cuộc khủng hoảng tiền tệ là từ Thái Lan (7/1997). Và chỉ trong một thời gian
ngắn từ tháng 12-1996 đến tháng 12-1997 đồng Baht Thái Lan đã bị giảm giá 108% từ
chỗ 25 Baht ăn 1 USD xuống còn 54 Baht ăn 1 USD.
Ngày 11/7/1997, Philippines tuyên bố thả nổi đồng Peso.
Ngày 11/8/1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường tỉ giá hối đoái (thực
chất là thả nổi đồng Ringgit).
Ngày 14/8/1997, Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah.
Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 884,2 Won/USD, thì đến ngày
30/9/1997 là 914,8 Won/USD, ngày 14/12/1997 đồng Won được thả nổi.
Bảng 1.1 Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997
Nước/ Tỷ giá bình quân Năm 1996 Năm 1997
Thái Lan 25,61 47,25
Philippines 26,29 39,50
Malaysia 2,52 3,88
Indonesia 2,308 5,400
Hàn Quốc 844,20 695,8
Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast Asia and Korea,
Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korean
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ còn thể hiện qua sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và
quy mô thất thường của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia. Tỉ lệ phá sản ở các doanh
nghiệp nhỏ tăng lên đến mức kỷ lục, ít nhất mỗi ngày có một chủ doanh nghiệp nhỏ đã
phải tự tử. Cuộc khủng hoảng mang lại cho những người Hàn Quốc một ý thức mạnh mẽ
về chủ nghĩa dân tộc, họ hạn chế nhập khẩu hàng hóa và ra sức phê phán sự can thiệp của
IMF vào nền kinh tế quốc gia.
Bảng 1.2 Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính
Nước Năm tài Năm tài chính từ 1/4/1997 đến 31/3/1998
chính
1/4/1996 Số ngân Số ngân Số ngân Số ngân Tổng số
đến hàng bị hàng bị hàng bị hàng bị ngân hàng
31/3/1999 đình chỉ quốc hữu sát nhập bán cho có vấn đề
hoạt động hóa/ chính công ty
phủ giám nước
sát ngoài
Thái Lan 108 56 4 64 (59%)
Malaysia 41 41 (68%)
Indonesia 228 16 56 11 83 (36%)
Hàn Quốc 56 16 18 (32%)
Nguồn: Fusion Confusion, the Economist, 4/4/1998, P.87
Sự phá sản của hàng loạt doanh nghiệp và ngân hàng sẽ dẫn đến hậu quả trực tiếp đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế, sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng kinh tế gây ra tình trạng thất
nghiệp cao ở các quốc gia khủng hoảng kinh tế.
Bảng 1.3 Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế-tài chính
Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 6,7 -0,4 -8,3
Malaysia 8,2 7,0 2,0
Indonesia 7,8 4,6 -13,7
Philippines 5,8 5,2 -0,5 9,5 10,4 3,3
Hàn Quốc 7,1 5,5 -5,8 2,3 2,5 8,0
1
Theo Tổng cục Thống kê
2
Theo báo cáo của Bộ Thương mại
3
Theo Tổng cục Thống kê
20.00
18.00
16.00
14.00
12.00
10.00 Xuất khẩu ( tỉ USD )
8.00 Nhập khẩu (tỉ USD )
6.00
4.00
2.00
0.00
1996 1997 1998 1999 2000
Hình 1: Xuất nhập khẩu (tỷ USD) của Việt Nam giai đoạn 1996-2000
Nguồn: data.worldbank.org
Hình 2: GDP bình quân đầu người và tỷ lệ tăng trưởng GDP (1995-2019)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Việc từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo ra
những bước tiến vượt bậc, làm thay đổi cả nền kinh tế. GDP tăng trưởng trên 9% đạt được
vào các năm 1995 (9,54%) và 1996 (9,34%). Lạm phát được kiểm soát từ mức hai chữ số
từ năm 1995 (12,7%) xuống mức 4,5% (1996) và 3,6% (1997).4
3.1.2. Về tỉ giá
Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn , nên đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý
của các nhà đầu tư, đã tạo ra tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ. Ở nước ta thể hiện rõ
nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và tổ chức kinh tế sang ngoại tệ hay
các loại tài sản khác. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng Việt
Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiện của dân chúng .
Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt trần gây sức ép phá giả
đồng tiền Việt Nam. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối nói
chung cầu luôn luôn cao hơn luôn.
16000
14000
12000
10000
8000 Tỉ giá hối đoái (
VND/USD )
6000
4000
2000
0
1996 1997 1998 1999 2000
Nguồn: data.worldbank.org
Thời kỳ 1997-1998 cũng ghi nhân ba lần điều chỉnh tỷ giá vào ttháng7-1997 (bình quân
11690 VNĐ/USD), tháng 2-1998 (bình quân 12664 VNĐ/USD) và tháng 8-1998 (bình
quân 13715 VNĐ/USD). Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay
vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt
Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc
phải mua với giá cao để thanh toán đơn hàng đã phải chịu lỗ nặng.
3.1.3. Về đầu tư
4
Theo Tổng cục Thống kê
Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) vào Việt
Nam đã giảm sút nghiêm trong. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70 % so với năm 1996. Đó là do
70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông Á, là những nước đang bị ảnh
hưởng nặng nề cuộc khủng hoảng. Những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam đến quốc gia láng
giềng cũng lâm vào tình trạng thiếu tiền mặl. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký,
nếu 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì từ 1997 bị giảm liên tục, đến 1999 chỉ còn gần 2,6 tỷ
USD. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 1998-2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ USD
mỗi năm. Lạm phát năm 1998 lên mức 9,2%.
2.5
1.5
FDI vào ( tỉ USD )
1
0.5
0
1996 1997 1998 1999 2000
Hình 4: FDI (tỉ USD) vào Việt Nam giai đoạn 1996-2000
Nguồn: data.worldbank.org
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, các nước trong xu thế mở cửa giao lưu
về kinh tế thì khủng hoảng kinh tế tại một nƣớc, hay một khu vực sẽ có những ảnh hưởng
nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh tế cá biệt. Do đó,
việc Việt Nam phải chịu những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 là
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (về mức độ
biến động tỉ giá, thương mại và đầu tư), tác động của cuộc khủng hoảng trên đến Việt
Nam là không đáng kể. Một mặt, do độ mở cửa chưa cao (xuất khẩu so với GDP mới đạt
trên dưới 30%, đồng tiền chưa chuyển đổi…), do đã có dầu thô, gạo xuất khẩu; mặt khác
do có sự chủ động ứng phó từ trong nƣớc… nên Việt Nam không những không bị cuốn
hút vào vòng xoáy, mà còn vượt qua đƣợc cuộc khủng hoảng này. Nguyên nhân là vì chế
độ quản lý ngoại hối của nước ta tương đối chặt chẽ; chính sách tỷ giá từng bước linh hoạt
trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại; việc đầu tƣ của nƣớc ngoài vào giấy tờ có
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 1996 1997 1998 1999 2000 FDI (tỉ USD) vào Việt Nam giai đoạn 1996
- 2000 FDI vào (tỉ USD) 31 giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ nên khả năng
đầu cơ gây bất lợi cho tiền đồng Việt Nam được hạn chế.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đã để lại bài học kinh nghiệm cho các nước
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong thời đại hội nhập, trong đó có Việt
Nam. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng trên phù hợp
với thực tiễn kinh tế Việt Nam hiện nay:
Cần linh hoạt trong điều hành chính sách tỉ giá hối đoái. Cần tránh ràng buộc quá
nhiều bởi đồng USD, vì khi đồng USD biến động mạnh thì sẽ khiến đồng tiền
trong nước bất ổn theo.
Xây dựng hệ thống tài chính ngân hàng trong sạch, vững mạnh. Hệ thống ngân
hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn đến sự
phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á, như Indonesia,
Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư thừa vào
một số ngành kinh tế. Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí,
châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại quay
lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của
tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu
quả.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng khả năng xuất khẩu. Từ đó, có thể cân bằng
cán cân vãng lai, tránh tình trạng thâm hụt phải đi vay nợ để bù vào.
Chính phủ đóng vai trò quyết định trong định hướng phát triển kinh tế, đảm bảo
trong chiến lược vay nợ nước ngoài.
Đảm bảo hệ thống thông tin đầy đủ trong quản lý nợ nước ngoài. Khi vay nợ tràn
lan mà không có sự quản lý, sẽ dẫn tới tình trạng nợ xấu, không có khả năng trả và
sẽ dẫn tới khủng hoảng.
KẾT LUẬN
Khủng hoảng tài chính Châu Á đã qua đi 23 năm nhưng những mất mát về kinh tế cũng
nhƣ bài học để lại chưa bao giờ là cũ đối với các nước trong khu vực nói riêng và trên thế
giới nói chung. Việt Nam hiện nay đang bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế mạnh mẽ
với thế giới, cần phải rút kinh nghiệm từ những bài học của cuộc khủng hoảng Châu Á
nói trên để không lặp lại sai lầm như vậy. Đặc biệt, trước các nguồn vốn vay từ nước
ngoài ồ ạt đổ vào, Việt Nam cần phải có chính sách quản lý nợ hợp lý, sử dụng đúng mục
đích để tránh việc thất thoát nguồn vốn dùng cho phát triển kinh tế - xã hội, trường hợp
xấu nhất là vỡ nợ.
Thông qua việc phân tích khủng hoảng Châu Á 1997 cũng như vấn đề quản lý nợ trong
cuộc khủng hoảng, bài nghiên cứu đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp với tình
hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trong tình hình dịch Covid-19 hiện nay,
thế giới đang có nguy cơ đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế mới, những bài học
rút ra từ các cuộc khủng hoảng trước sẽ giúp Việt Nam tìm được biện pháp phù hợp để
bảo vệ nền kinh tế của mình.