Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 95

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT
NAM VINAMILK TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ

Giáo viên hướng dẫn: THẦY VŨ ĐỨC CƯỜNG


Sinh viên thực hiện: NGUYỄN MỸ HẠNH
Lớp: NGA-K40D

HÀ NỘI - NĂM 2005


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU : ……………………….……………………………………………4
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC 7
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP :
I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
.………………………….7 1. Khái niệm về cạnh tranh
:………………….…………………………………….7
2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường…………………………..10
2.1. Thị trường cạnh tranh… .....……………………………………..10
2.2. Cạnh tranh của doanh nghiệp ..……………………………….…12
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường…………………………….......................................15
II. Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường……………………………………………………………………………
...16
1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp…………………………...16
1.1. Khái niệm về sức cạnh tranh , năng lực cạnh tranh và các cấp độ
của năng lực cạnh tranh ………………………………………..16
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp …21
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
……...…….23
2.1. Nhân tố giá cả hàng hoá, dịch vụ………………………………23
2.2. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm………………………………… 24
2.3. Chất lượng hàng hoá dịch vụ……………………………..
……25
2.4. Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hoá dịch vụ………………….
26
2.5. Nhân tố thời gian…………………………………………… …27
2.6. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp…………………...
…28
2.7. Uy tín doanh nghiệp …………………………………………...28
3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp……………..29
III.Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần sữa Việt
Nam trong điều kiện hội nhập KTQT …………………………………..………30
1. Những cơ hội và thách thức đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực ……………………………………………………...30
1.1. Những cơ hội đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực :…..………………………………………….31
1.1.1. Thị trường thế giới
……………………………………31
2
1.1.2. Thị trường trong
nước…………………………………34
1.2. Những thách thức đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực :…………………………………...……35
1.2.1. Thị trường thế giới …………………………………....35
1.2.2. Thị trường trong nước ………………………….…….36
2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Sữa Việt
Nam
…………………………………………………………………………………..37
2.1. Đối với ngành sữa :...…….……………………………………….37
2.2. Đối với công ty cổ phần Sữa Việt Nam : ………………………..
38
CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
40 VINAMILK TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
I. Khái quát về thị trường sữa và giới thiệu về Công ty Vinamilk ………
….....40
1. Khái quát về thị trường sữa Thế giới và Việt Nam
……………………………..40
2. Quá trình hình thành và phát triển :…………………………………………...…46
3. Mục tiêu, triết lý kinh doanh , cam kết và chính sách chất lượng ………………48
4. Sản phẩm và thị trường ………………………………………………………….49
5. Mạng lưới phân phối ……………………………………………………………50
II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Vinamilk trong điều kiện hội nhập
…52
1. Phân tích một số chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của Công
ty ………………………………………………………………………..………52
1.1. Nhân tố giá cả …………………………………………………….52
1.2.Sản phẩm và cơ cấu…………………………………………...……53
1.3.Chất lượng sản phẩm ………………………………………...……55
1.4.Phân phối …………………………………………………….…….56
1.5.Hoạt động xúc tiến bán hàng , công tác PR……………..…………57
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk :
…………………………58
2.1. Những mặt đã đạt được trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty ………………………………………………………………58

2.2. Những mặt chưa đạt được trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty :
…………………………….………………………………60

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA VINAMILK 66
3
I.Mục tiêu định hướng phát triển của công ty Vinamilk đến năm
2010:………66
1. Định hướng và Mục tiêu phát triển của ngành sữa Việt Nam
…………………...66
2. Định hướng và Mục tiêu phát triển của Công ty Vinamilk.……………………..71
II. Một số biện pháp đề xuất nhằm nâng cao NLCT của Công ty Vinamilk….79
1.Về phía Nhà nước:Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành sữa
…………………………………………………..………………………………….79
1.1.Về thị trường ……………………. ………………………………79
1.2.Về đầu tư ………………... ………………………………………80
1.3.Về nghiên cứu khoa học , chuyển giao công nghệ. ……………...80
1.4.Về phát triển vùng chăn nuôi bò sữa …………………………….81
1.5.Quan tâm đến “ sản phẩm đầu ra “, ở đây chủ yếu là sữa tươi …..82
1.6. Giải pháp về thú y và vệ sinh thực phẩm :
………………………83
1.7.Về phát triển nguồn nhân lực : …………………………………..83
1.8.Về huy động vốn . ………………………………………….……83
2.Về phía doanh nghiệp . ………………………………………………………..…83
2.1.Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp
……………………...………………………………………………………………83
2.2.Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập : …………………..…84
2.3.Phát huy nhân tố con người …………………………………...… 86
2.4.Đầu tư hợp lý cho công nghệ . ……………………………………88
2.5.Giải pháp về xây dựng thương hiệu và văn hoá kinh doanh
……………………………………………………………………………………...89
KẾT LUẬN :…………………………………………………………………….…90
Tài liệu tham khảo :…………………………………………………………….…91

4
LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài


Những thành tựu và lợi ích to lớn do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho
mỗi nước tham gia là rõ ràng không thể phủ nhận. Ngày nay, không một dân tộc nào
có thể phát triển đất nước mình theo con đường tự cung, tự cấp, cô lập với bên
ngoài.Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, việc nhận thức đầy đủ
những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế của đất nước là
cần thiết. Chính vì vậy, chiến lược phát triển mà chúng ta đã lựa chọn và khẳng định
là “ Hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong
nước sản xuất có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang dạng chế
biến sâu, mở ra những mặt hàng mới có giá trị thặng dư cao “.

Công ty Vinamilk là một trong những điển hình thành công về cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước. Lần bán đấu giá cổ phần vào giữa tháng 2 trong năm nay,
Vinamilk đã giúp Nhà nước thu về thêm 385 tỷ đồng thay vì dự kiến ban đầu là 187
tỷ đồng. Mười năm qua, Vinamilk đã đầu tư 1.169,8 tỷ đồng phát triển quy mô sản
xuất, nâng cấp, đổi mới công nghệ. Xây dựng mới 5 nhà máy chế biến sữa trên 5
vùng trọng điểm của cả nước; tiến hành cuộc “ cách mạng trắng “ bằng việc tạo lập
vùng nguyên liệu nội địa … Nhờ đó, tốc độ sản xuất và kinh doanh luôn tăng, từ 15-
35%/ năm.Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/nguồn vốn kinh doanh đạt từ 20-30%. Nộp
ngân sách Nhà nước 3.080,7 tỷ đồng, tổng vốn chủ sở hữu tăng gấp 10 lần, từ 216 tỷ
đồng (1992) lên 2015 tỷ đồng năm 2005, thị phần liên tục được giữ vững từ 50-
90%.Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện một loạt Công ty đang cạnh tranh rất quyết liệt

5
với Công ty Vinamilk và doanh thu của họ cũng liên tục tăng (như mức tăng trưởng
nhảy vọt của Nutifood 50%, Hancofood là 100%/năm… )

Việt Nam sắp ra nhập WTO vào năm 2006, sẽ có nhiều Công ty nước ngoài
hơn nữa xâm nhập vào thị trường Việt Nam, hàng hoá Việt Nam sẽ phải đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt hơn và sự đào thải cũng nghiệt ngã hơn. Nếu công tác
chuẩn bị không tốt, sự tác động này là rất lớn, không loại trừ khả năng một số ngành
kinh tế sẽ bị chết yểu trước sức tấn công của hàng hoá ngoại nhập.

Vì vậy, việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk trong giai
đoạn hiện nay là cần thiết.

2.Mục đích nghiên cứu


Khoá luận tốt nghiệp này không ngoài mục đích làm sáng tỏ lý luận về cạnh
tranh, năng lực cạnh tranh thông qua việc nghiên cứu quá trình phát triển và năng
lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng chính mà khoá luận tập trung nghiên cứu là năng lực cạnh tranh
của Công ty Vinamilk. Ngoài ra, khoá luận còn đề cập đến tình hình sản xuất và tiêu
thụ trên thế giới và tình hình sản xuất mặt hàng sữa và sản phẩm sữa ở Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài này là phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp diễn giải – quy nạp; phương pháp đối chiếu – so
sánh, phương pháp lôgíc, phương pháp mô tả khái quát.

5.Bố cục của khóa luận


Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, bố cục của khoá luận bao gồm 3 chương
sau:

6
Chương I : Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.

Chương II : Phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của Vinamilk trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Chương III : Một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của
Vinamilk.

Do thời gian làm, đồng thời với kiến thức và tư duy còn hạn hẹp, nên ý kiến
của em nêu ra có thể còn chưa hợp lý. Em rất mong nhận được sự góp ý, phê bình
của các thầy cô, và các bạn đọc.

Qua khoá luận này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo Vũ
Đức Cường, người đã giúp đỡ và chỉ dẫn cho em trong quá trình thực hiện khoá
luận. Cám ơn khoa KTNT, thư viện trường Đại học Ngoại Thương, thư viện Quốc
Gia, Trung tâm thông tin thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn … đã giúp
đỡ và cung cấp cho em nhiều tài liệu và thông tin bổ ích để thực hiện khoá luận.
Cám ơn mẹ đã tạo điều kiện cho con được học tập ở trường Đại học Ngoại Thương,
cám ơn tất cả thầy cô đã dạy dỗ em trong bốn năm qua.

Nguyễn Mỹ Hạnh

7
8
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

1. Khái niệm về cạnh tranh

Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên chịu sự chi phối
hoạt động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật
cạnh tranh. Trong nền kinh tế này mọi người đều được tự do kinh doanh, đây chính
là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường rất đa dạng và phức tạp
giữa các chủ thể có lợi ích đối lập nhau như cạnh tranh giữa những người mua, giữa
những người bán, giữa những người bán với người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa
các doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài,... Cạnh tranh phát triển cùng
với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.

Vậy cạnh tranh là gì?

Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được hiểu là quá trình
đương đầu của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá trình hội nhập kinh
tế.

Xét dưới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh tranh được
chia thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành.

- Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
mọi lĩnh vực khác nhau nhằm thu được lợi nhuận lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn so với vốn đã bỏ ra, cùng đó là việc đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự
phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm
kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn đầu tư từ ngành có lợi
nhuận cao hơn. Điều này, vô hình chung đã hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý

9
giữa các ngành khác nhau và giúp các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau có số
vốn bằng nhau thì thu được lợi nhuận ngang nhau.

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất
và tiêu thụ một loại sản phẩm hàng hoá - dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trường trên cơ sở giá trị xã hội của loại
hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp đấu tranh với
nhau để giành chiến thắng. Những doanh nghiệp giành chiến thắng sẽ mở rộng quy
mô hoạt động của mình trên thị trường, còn những doanh nghiệp nào thua cuộc sẽ
phải thu hẹp phạm vi kinh doanh, thậm chí các doanh nghiệp này còn có thể dẫn đến
giải thể, phá sản.

Đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đưa ra
khái niệm cạnh tranh như sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch".

Như vậy, khi nghiên cứu cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
Mark đã coi cạnh tranh là cuộc giành giật các lợi thế để thu được lợi nhuận siêu
ngạch.

Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách "Từ điển kinh doanh"
(Xuất bản năm 1992, Anh) lại đưa ra khái niệm cạnh tranh như sau: "cạnh tranh là
sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản
xuất cùng một loại về phía mình" để đề cập đến sự cạnh tranh ở thị trường các yếu
tố đầu vào của các doanh nghiệp.

Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các quốc
gia trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau trong từng
giai đoạn cạnh tranh nhất định.

10
Nếu xét cạnh tranh dưới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh tranh là
sự ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trường. Đối với khách hàng,
bao giờ họ cũng muốn mua được hàng hoá có chất lượng cao mà giá lại rẻ, còn các
doanh nghiệp lại muốn được tối đa hoá lợi nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi
nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí, giành giật khách hàng về phía
mình. Từ đó, cạnh tranh đã xảy ra.

Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc đẩy sản
xuất, lưu thông hàng hoá phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải nhận thức
đúng đắn về cạnh tranh để từ đó luôn phát huy nội lực, nâng cao chất lượng phục vụ
khách hàng. Mặt khác, tránh cạnh tranh bất hợp pháp dẫn đến làm tổn hại lợi ích của
cộng đồng cũng như làm suy yếu chính mình.

Trong nền kinh tế thị trường, mong muốn tồn tại và phát triển trong cạnh
tranh luôn là mục đích tự thân của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó,
khách hàng là người tự do lựa chọn nhà cung ứng, là nhân tố quyết định sự tồn tại
của các doanh nghiệp. Họ không phải tự tìm kiếm đến các doanh nghiệp như trước
đây mà buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng cho mình và khai thác nhu
cầu nơi họ. Nghĩa là, muốn khách hàng tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp nên
đưa sản phẩm của mình tới khách hàng để họ biết, cảm nhận được và có quyết định
dùng hay không dùng. Với cơ chế thị trường, có được một khách hàng là rất khó
khăn, các doanh nghiệp phải giữ từng khách hàng, giành giật từng khách hàng,
doanh nghiệp nào cũng muốn đưa sản phẩm của mình tới tay khách hàng. Nếu
doanh nghiệp nào nhanh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh.
Quy luật chọn lọc nghiệt ngã này đã chia doanh nghiệp thành hai nhóm chính, đó là
nhóm doanh nghiệp năng động và nhóm doanh nghiệp trì trệ. Chính điều đó đã
khiến các doanh nghiệp yếu phải nhanh chóng thích nghi, nếu không sẽ không có cơ
hội phát triển và dẫn tới tình trạnh bị phá sản. Vì vậy, trong quá trình chuyển đổi

11
nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì cạnh
tranh là con đường cơ bản để các doanh nghiệp thích nghi và tồn tại được.

Có thể nói, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là
một tất yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả các doanh nghiệp đó.
Trong phạm vi giới hạn luận văn của mình, em chủ yếu tập trung nghiên cứu và
phân tích loại hình cạnh tranh này.

2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

2.1. Thị trường cạnh tranh


Hình thái cạnh tranh này được xem xét dưới góc độ hành vi của thị trường,
gắn liền với phương thức hình thành và vận động giá trên thị trường. Có các hình
thái cạnh tranh như sau:

2.1.1. Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo


- Khái niệm: thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất
nhiều người bán mà không có người nào có ưu thế cung ứng một số lượng sản phẩm
lớn ảnh hưởng đến giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hoá trên thị trường được coi là
giống nhau, ít có sự khác biệt về mẫu mã, hình thức, chất lượng. Tất cả người mua
và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, vì
vậy, việc tham gia và rút khỏi thị trường của họ rất dễ dàng. Họ không có khả năng
nâng giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường
này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp nhất.

- Tác dụng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo:

+ Thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm cho phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

12
+ Làm cho người tiêu dùng dễ dàng lực chọn những sản phẩm vừa ý với mức
giá thấp nhất.

+ Nhìn chung, xã hội thu được lợi ích do tài nguyên được phân phối theo
hướng có lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng
phù hợp với yêu cầu xã hội.

Đây là hình thái cạnh tranh hầu như không tồn tại hoặc rất khó thấy trong điều
kiện nền kinh tế nước ta hiện nay do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
gây ra. Tuy nhiên, tiến tới một thị trường cạnh tranh hoàn hảo vẫn là mục tiêu
hướng tới của mỗi quốc gia trong xu thế hội nhập thương mại quốc tế.

2.1.2. Hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.

Đây là một thị trường mà phần lớn sức mạnh thị trường thuộc về một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường kinh doanh
các sản phẩm hàng hoá - dịch vụ cùng chủng loại nhưng khác nhau về nhãn hiệu.
Chính những nhãn hiệu này lại mang những hình ảnh, uy tín khác nhau do người
tiêu dùng nghĩ ra, có thể đúng hoặc không đúng. Do đó, một số người tiêu dùng (chứ
không phải là tất cả) sẽ trả giá cao hơn cho sản phẩm mà mình thích. Có thể nói, thị
trường cạnh tranh không hoàn hảo là một thị trường phổ biến trong điều kiện nền
kinh tế hiện nay. Có hai hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo sau:

* Độc quyền tập đoàn:

Trong thị trường này chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết
tổng sản lượng. Trong số đó, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu được lợi
nhuận đáng kể trong dài hạn, vì có các rào cản gia nhập làm cho các doanh nghiệp
mới không thể gia nhập vào thị trường được. Tuy nhiên, một điều cần chú ý ở đây là
các doanh nghiệp trong thị trường bị phụ thuộc lẫn nhau trong việc định giá cũng
như sản lượng bán ra. Bởi lẽ, khi một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm giá
hàng bán thì lợi thế đối với họ sẽ không được lâu, các doanh nghiệp khác cũng sẽ
13
nhanh chóng giảm giá, như vậy, lợi ích của họ sẽ nhanh chóng giảm sút. Ngược lại,
khi doanh nghiệp tăng giá chưa chắc các doanh nghiệp khác sẽ tăng giá theo, như
vậy, doanh nghiệp sẽ làm mất khách hàng.

* Cạnh tranh độc quyền:

Đặc điểm nổi bật của thị trường độc quyền là số lượng các doanh nghiệp tham
gia thị trường tương đối lớn, mỗi doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng lớn đến các quyết
định sản xuất kinh doanh của riêng doanh nghiệp mình. Trong thị trường cạnh tranh
độc quyền, sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng nhất. Người tiêu dùng phân
biệt được các sản phẩm của các doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, bao bì và các
dịch vụ kèm theo. Trên thị trường này, doanh nghiệp có quyền quyết định giá hàng
hoá nhưng vẫn không phải hoàn toàn theo ý mình, các điều kiện về mua bán hàng
hoá cũng khác nhau, các doanh nghiệp có thể có hình ảnh, uy tín khác nhau trong
tâm trí mỗi khách hàng.

2.1.3. Hình thái thị trường độc quyền

Đây là hình thái thị trường mà ở đó chỉ có một người bán nhưng nhiều người
mua (gọi là độc quyền bán) hoặc là chỉ có một người mua (gọi là độc quyền mua).
Điều kiện gia nhập cũng như rút lui khỏi thị trường này vô cùng khó khăn do vốn
đầu tư sản xuất kinh doanh thường rất lớn hoặc do sự độc quyền về kỹ thuật công
nghệ. Chính vì vậy, đặc điểm nổi bật của thị trường này không có sự cạnh tranh về
giá cả mà giá cả phụ thuộc vào quyền kiểm soát của người mua độc quyền hoặc
người bán độc quyền.

Trên thị trường độc quyền, đường cầu của toàn bộ xã hội về một loại hàng
hoá dịch vụ cũng như lượng hàng hoá mua vào, bán ra trên thị trường bằng các
chiến lược kinh doanh của mình.

Với hình thái này, chỉ có người tiêu dùng cuối cùng là gặp nhiều bất lợi nhất,
doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá hoặc bán hàng hoá với
14
giá cao. Để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng hiện nay, đã có nhiều quốc gia đề ra
luật chống độc quyền. Tuy nhiên, độc quyền cũng có mặt tích cực, nó đem lại lợi ích
cho xã hội nhờ quá trình đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học- kỹ thuật. Doanh
nghiệp độc quyền thường có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng được quy
mô sản xuất nên giảm được chi phí sản xuất tính trên một đơn vị sản phẩm.

2.2. Cạnh tranh của doanh nghiệp


Trong cùng một thị trường, các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh với nhau
trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm.

2.2.1. Cạnh tranh trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào
Thực chất, đây là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn cung
ứng tốt nhất, đầy đủ, thường xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ nhất.
Trong cơ chế thị trường, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cùng có nhu
cầu về một số yếu tố đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại cùng một lúc. Mỗi nhà
cung ứng có một mức giá cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh
nghiệp sẽ chọn cho mình một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng như có dịch vụ
cung ứng tốt. Tuy nhiên, để tránh tình trạnh có nhà cung ứng độc quyền các doanh
nghiệp nên chọn cho mình một số nhà cung ứng trong đó có một nhà cung ứng
chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung ứng có giá cao sẽ bị loại
bỏ. Ngược lại, các nhà cung ứng lại muốn lựa chọn khách mua các yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất với mức giá cao.

2.2.2. Cạnh tranh trong quá trình sản xuất

Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa các
doanh nghiệp trong việc tìm các câu trả lời tối ưu nhất cho các câu hỏi sau: sản xuất
cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào ? Bởi vì trả lời tốt được các câu hỏi
này thì các doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển được.
15
Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản xuất mặt
hàng nào thì sẽ thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Trước hết, các doanh nghiệp cần tìm
hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ đó tập trung sản xuất những mặt
hàng phù hợp. Doanh nghiệp nào tìm ra được nhu cầu đầu tiên và nhanh chóng đáp
ứng nhu cầu đó thì sẽ giành chiến thắng. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về cạnh
tranh không dừng ở mức độ này mà cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp cùng
nhau kích thích tạo ra nhu cầu mới trên thị trường để từ đó khai thác các nhu cầu
này.

Sản xuất cho ai? Đây chính là câu hỏi khiến các doanh nghiệp phải đi tìm cho
mình các khách hàng mục tiêu, để từ đó có các chiến lược định vị sản phẩm. Điều
này cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của các doanh
nghiệp.

Sản xuất như thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp các doanh nghiệp
tìm ra phương thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để từ đó hạ giá thành và
nâng cao lợi thế cạnh tranh. Do đó, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã
không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có giá trị
cao và giá thành hạ.

Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong sản xuất
nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đẩy nhanh doanh số bán hàng
cũng như việc áp dụng các phương thức sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí để mong
muốn có được lợi nhuận cao của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thực sự làm
được điều này thì doanh nghiệp đó sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh.

2.2.3. Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.

Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định tính sống
còn của mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này là sự giành giật thị
trường và khách hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp sẽ có điều kiện
16
đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Để
làm được điều này, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách nhằm thu hút khách hàng về
phía mình, tìm được chỗ đứng ổn định và lâu dài trên thị trường bằng việc thực hiện
các chiến lược và các giải pháp khác nhau. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh
nghiệp nào tìm được cho mình một lượng khách hàng lớn, hàng hoá dịch vụ tiêu thụ
nhiều sẽ là doanh nghiệp chiến thắng và ngược lại.

3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trường. Nguồn gốc
của cạnh tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô hoạt động, thành phần
tham gia cũng như các sản phẩm tạo thành. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường có thể ví như cuộc chạy đua không có đích, bất kỳ doanh nghiệp
nào mà xác định cho mình một cái đích trong cuộc chạy đua này thì sẽ tạo thành
nhịp cầu cho doanh nghiệp khác chạy qua. Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc chạy
đua trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và
cuộc cạnh tranh giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Chính vì lý do này mà cạnh
tranh giúp cho giá cả của hàng hoá dịch vụ có xu hướng giảm xuống, trong khi đó,
chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng được nâng cao phù hợp với mong muốn của
người tiêu dùng.

Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhờ có cạnh tranh mà
các doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh
vực, từ việc giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu chung. Chính điều
này đã là động lực giúp các doanh nghiệp vươn lên trong quá trình tồn tại. Hơn nữa,
cạnh tranh còn là công cụ giúp các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh
và cũng nhờ có cạnh tranh sẽ tạo ra cho doanh nghiệp những thách thức và cơ hội
trong kinh doanh, để từ đó, giúp các doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và tránh
được các rủi ro.

17
Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ mô, có sự
dịch chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp cho phù hợp với
điều kiện thực tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao, không
đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả tiếp tục phát triển đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh
tế. Từ đó, cạnh tranh sẽ tạo nên sự ràng buộc giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức
mạnh tổng thể cho sự phát triển qua việc phối hợp hài hoà các chức năng, nhiệm vụ
giữa các doanh nghiệp khác nhau trong các ngành kinh tế. Với sự phối hợp này sẽ
giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra thông suốt, sản
phẩm hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ dễ dàng hơn, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt lo
lắng là không có thị trường tiêu thụ những sản phẩm đó.

Tóm lại: Khi có nền kinh tế thị trường thì tất yếu sẽ tồn tại quy luật cạnh
tranh, đó là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, đứng trên từng giác độ khác nhau thì cạnh tranh luôn là hai mặt của một vấn
đề. Một mặt cạnh tranh là động lực phát triển đối với mỗi doanh nghiệp. Mặt khác,
cạnh tranh lại mang những đe doạ, nguy cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ những thành
phần tham gia nền kinh tế thị trường nếu như không kịp thời thích ứng với nó.

Hơn nữa, cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế
những doanh nghiệp khác làm ăn có hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu xã hội,
thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển.

Nhận thức được vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trong thời
kỳ đầu của nền kinh tế thị trường, phải không ngừng tích luỹ những kiến thức, sẵn
sàng có những ứng xử cần thiết và thích hợp trước những hoàn cảnh do cạnh tranh
mang lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế và đất nước.

II. Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường

18
1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

1.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng
lực cạnh tranh

1.1.1.Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

- Về sức cạnh tranh

Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng cho phạm vi doanh nghiệp trong lý
thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh
(hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản
xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với
mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với
các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác
định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến
tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang
bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.

Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh
nghiệp, ngành và quốc gia như sau: .Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh
nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.. Định nghĩa này theo em là phù hợp và phản ánh
được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động cạnh
tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống nhân dân.

- Về năng lực cạnh tranh:

19
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive Power;
Nga: Cancurentia; Pháp: Capacité de Concurrence), khả năng giành được thị phần
lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần
hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB
Từ điển Bách khoa Hà nội, trang 349). Theo định nghĩa này, có thể thống nhất
bốn thuật ngữ hiện đang được sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh,
khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự nhau và hiểu
tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực cạnh tranh".

1.1.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:


Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ:

 Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia

 Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành

 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá


Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương quan mật
thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cần
thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh
tranh nêu trên. Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một
nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản
phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện
qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước (đặc biệt trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế, các
chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của sản phẩm hàng hoá trong quốc gia
đó. Vì vậy, trước khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, em xin được
20
sơ lược về năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia và của sản phẩm. Còn năng lực cạnh
tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh quốc gia
và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nên không đề
cập đến.

1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia

Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) năm 1997 đã nêu ra: "năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của
nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các
chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác". Như vậy,
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường
cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy
trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa
rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà
kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ.
Mặt khác, môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch
định chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập
ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế ... có 8
yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm:

 Độ mở cửa kinh tế

 Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà nước vào
hoạt động cạnh tranh

 Tài chính ngân hàng


 Công nghệ: là mức độ đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D); trình
độ công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ

 Cơ sở hạ tầng
21
 Hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung

 Lao động: là số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính linh
hoạt của thị trường lao động

 Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho
nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của luật
pháp và quyền sở hữu.

Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn
để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ,
tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ
đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Theo phân tích và đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) thì sức vươn lên trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa
mạnh, trong khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao tới năng
lực cạnh tranh của các quốc gia và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hưởng
rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá

Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc
đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn so với những sản phẩm hàng
hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt
bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có những năng lực cạnh tranh
của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh sản phẩm đó thấp.

Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu
cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của

22
chủ thể (doanh nghiệp) tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không
chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh
của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.

1.1.2.3.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp


Trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng vững
chắc, ngày càng mở rộng quy mô hoạt động thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để
có thể cạnh tranh trên thị trường. Tiềm lực đó chính là năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp.

"Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp nhờ vào đó có thể tự duy trì vị trí của mình trên thị trường cạnh tranh cũng
như đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ cho việc thực hiện
các mục tiêu của doanh nghiệp".

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 yếu tố chính: giá cả, chất
lượng sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian.

Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải tìm ra các phương án tối
ưu để giảm chi phí, hạ thấp giá thành, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn thời
điểm bán hàng hợp lý nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị trường.

Tăng năng lực cạnh tranh là điều tất yếu của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường

1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

23
Như trên đã nói, cạnh tranh của doanh nghiệp được diễn ra trong suốt quá
trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm cạnh tranh trong việc lựa
chọn các yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và cạnh tranh trong tiêu
thụ sản phẩm. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp bao giờ cũng là
doanh thu và lợi nhuận, nghĩa là nó phụ thuộc trực tiếp vào các sản phẩm đầu ra của
doanh nghiệp. Do đó, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp:

* Giá thành sản phẩm :

FCD F  Q V
Z  V  CD
Q Q

Trong đó: - Z là giá thành sản phẩm

- FCD là chi phí cố định

- V là chi phí biến đổi bình quân

- Q là khối lượng hàng hoá

Căn cứ vào giá thành, các doanh nghiệp sẽ định giá bán cho từng loại sản
phẩm hàng hoá.

* Thị phần của doanh nghiệp.

Thị phần của Công ty có thể hiểu là phần mà Công ty chiếm được trên một thị
trường nào đó. Thị phần được xác định theo công thức sau:

Doanh thu của công ty


Thị phần = x100%
Doanh thu của thị trường

24
Từ đó, ta có công thức tính thị phần từng mặt hàng của Công ty như sau:

Doanh thu mặt hàng i của Công ty


Thị phần mặt
= Doanh thu mặt hàng i của thị x100%
hàng i
trường

Thị phần mà các doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được là chỉ tiêu tổng hợp nhất
thể đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn càng thể hiện
rõ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và duy trì tốt các
năng lực cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm cách chiếm lĩnh thị
phần, mở quy mô tiêu thụ hàng hoá.

* Xác định sức cạnh tranh tương đối của Công ty:

Để đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp một cách tổng hợp
nhất, các nhà kinh tế thường sử dụng công thức sau:

n
K C   ZixCi
i 1

Trong đó: Kc là sức cạnh tranh tương đối.

Zi là hệ số quan trọng của thông số i

Ci là thông số đánh giá sức cạnh tranh thứ i (thang 7 điểm).

Kc chia làm 7 bậc:

1 2 3 4 5 6 7

Kém Yếu TB yếu TB TB khá Khá Cao

25
Qua công thức trên, ta có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp, ưu thế, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ
cạnh tranh.

2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

2.1. Nhân tố giá cả hàng hoá, dịch vụ


Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành và thông qua quan
hệ cung cầu. Người bán hay người mua thoả thuận hay mặc cả với nhau để tiến hành
mức giá cuối cùng để đảm bảo về lợi ích của cả hai bên. Giá cả đóng vai trò quan
trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị
trường có sự cạnh tranh của công cuộc cách mạng doanh nghiệp, khách hàng có
quyền lựa chọn sản phẩm có giá thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh
nghiệp sẽ tăng lên.

Giá cả được thể hiện như một vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh
thông qua việc định giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng hoặc định giá cao.

Với mức giá ngang bằng với mức giá thị trường giúp cho doanh nghiệp giữ
được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp nhằm làm giảm
giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn và hiệu quả kinh tế sẽ cao. Ngược lại,
với mức giá thấp hơn mức giá thị trường thì sẽ thu hút nhiều khách hàng, làm tăng
sản lượng tiêu thụ, doanh nghiệp có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Tuy
nhiên , với bài toán này, doanh nghiệp khó giải nguy cơ thâm hụt lợi nhuận. Mức
giá mà doanh nghiệp áp dụng cao hơn mức giá thị trường nói chung là không có lợi,
nó chỉ sử dụng với các doanh nghiệp có tính độc quyền hoặc với các loại hàng hoá
đặc biệt. Khi đó, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.

Tuỳ thuộc vào đặc điểm thị trường, mỗi doanh nghiệp có các chính sách giá
thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn cho từng thời kỳ kinh doanh sẽ tạo
cho mình một năng lực cạnh tranh tốt và chiếm lĩnh ưu thế.
26
2.2. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm

Điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là phải trả
lời những câu hỏi sau: sản xuất là cái gì? sản xuất như thế nào? Thông qua việc trả
lời các câu hỏi này doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp
lý. Ta có thể khẳng định tầm quan trọng của sản phẩm đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh, là trung tâm của doanh nghiệp, bởi vì , không có sản phẩm thì sẽ không
có hoạt động kinh doanh. Các sản phẩm này có thể là sản phẩm vô hình hoặc sản
phẩm hữu hình. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm ra và
cung cấp sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng được thị trường chấp nhận,
có khả năng tiêu thụ mạnh giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp mình.

Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là phần lớn những doanh nghiệp
đã thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp luôn được hoàn
thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các
thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm
hiện đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng luôn
nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hoá. Việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của các doanh nghiệp không chỉ để đáp
ứng nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn có thể phân tán được rủi ro
trong kinh doanh.

Tuy nhiên, đi đôi với việc đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải thực hiện chiến lược trọng
tâm hoá sản phẩm vào một loại sản phẩm có tính chiến lược nhằm cung cấp cho một
tập khách hàng mục tiêu hoặc thị trường mục tiêu. Trong phạm vi này, doanh nghiệp
có thể tập trung phục vụ khách hàng tốt hơn, nâng cao uy tín trước đối thủ cạnh
tranh. Ngoài chiến lược này, doanh nghiệp cũng phải thực hiện chiến lược cá biệt

27
hoá sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho
khách hàng vào các sản phẩm của mình, nâng cao uy tín doanh nghiệp.

Như vậy, việc xác định đúng đắn cơ cấu sản phẩm sẽ là chỉ tiêu quyết định để
các doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt trên thị trường .

2.3. Chất lượng hàng hoá dịch vụ

Nếu trước kia giá cả sản phẩm là yếu tố khá quan trọng thì ngày nay nó phải
nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá cả
là một trong những giải pháp mang tính hạ sách, nó làm giảm lợi nhuận thu về.
Ngược lại, với một sản phẩm có chất lượng vượt trội với mức giá ngang bằng hoặc
nhiều hơn chút ít thì có khả năng sẽ thu hút khách hàng, tạo thêm năng lực mới cạnh
tranh.

Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng
các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thoả mãn những tiêu chuẩn kỹ thuật
hay những yêu cầu quyết định của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được hình
thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả khi tiêu thụ hàng hoá và chịu
tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, dây truyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ
tay nghề lao động, trình độ quản lý...

Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc biệt trong
nền sản xuất của Việt Nam còn trong tình trạng đang phát triển, phải đương đầu với
quá nhiều đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn hẳn trong việc tạo ra hay
cung cấp sản phẩm có chất lượng cao. Một khi chất lượng sản phẩm không được
đảm bảo đồng nghĩa với doanh nghiệp dần mất đi khách hàng, mất đi thị trường và
nhanh chóng đứng bên bờ phá sản. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển,
một quan niệm mới về chất lượng sản phẩm đã xuất hiện, chất lượng sản phẩm là
chất lượng được chi phối và quyết định bởi khách hàng chứ không phải là các nhà

28
sản xuất hoặc người cung ứng. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn
sự đánh giá của khách hàng lại mang tính khách quan. Đây là một quan niệm mới
xuất phát từ thực tế làm mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết
liệt hơn. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá qua chất lượng sản
phẩm thể hiện ở chỗ:

- Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng
khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống sản phẩm.

- Sản phẩm có chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích
khách hàng tìm đến doanh nghiệp, tạo thị phần lớn cho doanh nghiệp.

- Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài
chính của doanh nghiệp.

2.4. Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hoá dịch vụ

Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây
cũng là giai đoạn bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tiên của qúa trình tiêu
thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối hợp lý, có hiệu quả nhằm mục
đích đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn
hàng, bù đắp chi phí sản xuất thu hồi vốn. Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu
thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một nền móng vững chắc cho việc củng
cố và phát triển nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh việc
tổ chức một mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp đồng thời cũng cần mở rộng và đẩy
mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mại và các dịch vụ sau
bán. Đây là một trong những chiến lược cạnh tranh phi giá cả gây ra sự chú ý và thu
hút khách hàng một cách có hiệu quả. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được tổ chức tốt
sẽ làm tăng sản lượng bán hàng và từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu
hồi vốn nhanh và kích thích sản xuất phát triển.

29
Công tác tiêu thụ tốt là yếu tố quyết định tới uy tín với khách hàng, là chỉ tiêu
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động xúc
tiến bán như tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... là những hình thức tốt
nhất để giới thiệu sản phẩm và qua đó tìm được nhiều bạn hàng cũng như các doanh
nghiệp khác nhằm kết hợp tạo ra sức cạnh tranh lớn mạnh hơn.

2.5. Nhân tố thời gian

Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện nay
làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của con người. Điều này
làm cho chu kỳ sống của sản phẩm nói chung có chiều hướng rút ngắn lại. Đối với
các doanh nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh ngày
nay chính là thời gian và tốc độ chứ không phải là các yếu tố truyền thống như
nguyên vật liệu, lao động... Những thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã
giúp cho những doanh nghiệp biết nắm bắt thời cơ kịp thời sẽ vượt lên trên và là
những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt. Chính vì vậy, để chiến thắng trong
cuộc chạy đua này, các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập thông tin
và xử lý thông tin, nắm bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường,
nhanh chóng tổ chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn trước khi chu kỳ
sống của sản phẩm kết thúc.

Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, cạnh tranh mang tính chất quan trọng, là
mục tiêu của nhiều doanh nghiệp đang hướng tới. Đi trước một bước trong cạnh
tranh là đã giành một phần chiến thắng khá quan trọng trong việc thu hút khách
hàng, mở rộng thị trường, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, khi xây
dựng một chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp thường đề cập tới vấn đề "tốc độ
thị trường", "cạnh tranh dựa trên thời gian" và chú trọng tới vấn đề về chu kỳ sản
phẩm, thời gian nắm bắt, thoả mãn nhu cầu thị trường, thời gian đầu tư, thời gian

30
thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch, giao hàng cũng như tốc độ của công tác
nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới .

2.6. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp

Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là những giải pháp
mang tính dài hạn đối với mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh là điều không
thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó chỉ ra phương hướng cho
mỗi hoạt động. Chiến lược kinh doanh thường được xây dựng trên cơ sở các mục
tiêu kinh doanh, khả năng chủ quan của doanh nghiệp, sự tác động của môi trường
kinh doanh. Đối với mỗi doanh nghiệp, việc xây dựng một chiến lược kinh doanh
đều có tính quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp. Đối với công tác nâng
cao năng lực cạnh tranh thì chiến lược cạnh tranh là một phần trong chiến lược kinh
doanh nói chung, nó sẽ giúp cho doanh nghiệp chiến thắng các đối thủ cạnh tranh
hiện tại để vươn lên giành thị phần, chiếm lĩnh khách hàng, mang lại lợi nhuận cao
hơn,... Với mỗi chiến lược kinh doanh được xây dựng lên không phù hợp với đòi hỏi
của doanh nghiệp và thị trường sẽ làm cho doanh nghiệp không tận dụng được cơ
hội kinh doanh, năng lực cạnh tranh bị suy giảm dẫn đến sự thất bại trong kinh
doanh. Chính vì vậy, để năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá là tốt,
không cách nào khác, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh
doanh phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất.

2.7. Uy tín doanh nghiệp.

Uy tín doanh nghiệp là tài sản vô hình mà không phải bất cứ doanh nghiệp
nào cũng có được, là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Uy tín
doanh nghiệp phải xây dựng và củng cố trên cơ sở mang lại nhiều lợi ích cho xã hội
và cho người tiêu dùng. Uy tín doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, là cơ sở để doanh
nghiệp có thể dễ dàng vươn lên trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, tạo
dựng cho doanh nghiệp một nền móng vững chắc với một tập khách hàng thường

31
xuyên. Uy tín của doanh nghiệp được hình thành sau một thời gian dài hoạt động
trên thị trường và là tài sản vô hình mà doanh nghiệp cần phát huy và sử dụng như
một thứ vũ khí chủ lực trong điều kiện cạnh tranh hiện nay.

3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Thực chất của việc nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra những ưu thế hơn
hẳn về giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng cũng như uy tín sản phẩm, uy tín doanh
nghiệp, uy tín quốc gia nhằm giành được những lợi thế tương đối trong cạnh tranh,
đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa, thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.

Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, chi
phối sự vận động của cơ chế này. Các chủ thể kinh tế nói chung, các doanh nghiệp
nói riêng, đều phải chấp nhận cạnh tranh. Chính vì điều đó mà việc nâng cao năng
lực cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn. Trước hết, doanh nghiệp
muốn có cơ hội tồn tại được trong nền kinh tế thị trường thì cần phải nỗ lực nâng
cao năng lực cạnh tranh. Hiệu quả của việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với
mỗi doanh nghiệp khẳng định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, mặt khác,
nó còn xác định vị thế cho mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh sẽ đồng nghĩa với quá trình xây dựng doanh nghiệp cả về vật chất lẫn tinh
thần, vô hình sẽ tạo cho doanh nghiệp những ưu thế riêng mà doanh nghiệp khác
không có được. Các điều kiện này có thể bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng
tài chính, nguồn nhân lực, uy tín cơ cấu tổ chức... Một trong những ưu thế này sẽ tạo
cho doanh nghiệp những lợi thế trong cuộc cạnh tranh đầy cam go. Cùng với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh là việc doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng tập
khách hàng, hội nhập chung với thị trường quốc tế, từ đó, sẽ tạo ra cho doanh
nghiệp nhiều cơ hội, đem lại những thương vụ kinh doanh đầy hứa hẹn. Việc nâng
cao năng lực cạnh tranh không những khẳng định sự tồn tại và phát triển mà điều
quan trọng hơn cả là nó đem lại cho doanh nghiệp một mức thu nhập ngày càng cao,

32
đảm bảo đời sống và việc làm cho cán bộ công nhân viên trong toàn doanh nghiệp,
góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xã hội hoá nói chung.

Tóm lại, dưới giác độ kinh doanh doanh nghiệp, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh không chỉ phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giảm giá
thành, giá bán sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống tiêu thụ hàng hoá mà còn phải đảm
bảo chất lượng cũng như thời gian và sự thuận tiện cho khách hàng. Đi đôi với việc
phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, những đòi hỏi của người tiêu dùng
ngày càng cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, các doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động marketing tìm hiểu thị trường.
Như vậy, cùng với cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh là một tất yếu khách
quan. Để thắng thế trong các cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải không ngừng
nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá thành, giá bán, chất
lượng sản phẩm...

Ở nước ta, từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Từ cơ chế xin - cho đến chỗ phải
tự giải quyết lấy các vấn đề có tính sống còn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
Nhà nước buộc phải làm quen và chấp nhận cơ chế mới tồn tại cùng với việc nỗ lực
nâng cao sức cạnh tranh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang mở
cửa nền kinh tế, Chính phủ kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thị trường
trong nước có sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp nước ngoài danh tiếng. Chính vì
thế, buộc các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh vì sự tồn tại của doanh nghiệp nói riêng và sự phụ thuộc từ nước ngoài nói
chung.

III.Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần sữa Việt
Nam trong điều kiện hội nhập KTQT
1.Những cơ hội và thách thức đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực

33
1.1.Những cơ hội đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực
1.1.1. Thị trường thế giới
a.Giá các sản phẩm sữa trên thị trường thế giới có xu hướng ngày càng tăng , cho
nên Việt Nam có lợi thế cạnh tranh khi xuất khẩu sản phẩm , giúp tăng thu ngoại tệ
cho đất nước

Giá các sản phẩm sữa trên thị trường thế giới đã tăng trong suốt cả năm 2004.
Chỉ số giá của FAO ( 1990-92=100) đối với sản phẩm sữa đạt 156 điểm trong tháng
11/2004, tăng 26% so với tháng 11/1003, và đạt mức cao nhất kể từ năm 1990 là
năm chỉ số giá của FAO bắt đầu được tính. Giá tăng chủ yếu do nhu cầu tăng ở
Châu Á trong bối cảnh nguồn cung xuất khẩu bị hạn chế và giảm trợ cấp xuất khẩu.

Đối với từng loại sản phẩm, giá xuất khẩu đã tăng như sau: phomát tăng 33%,
bơ tăng 28%, sữa bột tách bơ tăng 20% và sữa bột nguyên chất tăng 17%.

Bảng 1 : Giá sản phẩm sữa xuất khẩu ( USD / tấn FOB )

2003 2004
T.11 T.9 T.10 T.11
Sữa bột tách bơ 1.829 2.100 2.138 2.188
Sữa bột nguyên chất 1.853 2.100 2.113 2.175
Phomát“Cheddar“ 2.075 2.763 2.763 2.763
Bơ 1.554 1.850 1.900 1.988
( Nguồn : www.fao.org)

Giá trên thị trường sữa quốc tế rất nhạy cảm với sự biến động của nguồn
cung. Thị trường tương đối mỏng, với khối lượng mậu dịch chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong sản lượng sữa. Trợ cấp xuất khẩu cũng làm trầm trọng thêm biến động giá bởi
trợ cấp tăng hoặc giảm ngược chiều với biến động giá. Khi giá trên thị trường thế
giới tăng, trợ cấp xuất khẩu cũng giảm tương ứng, khiến giá thị trường tiếp tục tăng.

34
Kể từ đầu năm 2004, trợ cấp xuất khẩu của EU đã giảm tương ứng, khiến giá thị
trường tiếp tục tăng. Kể từ đầu năm 2004, trợ cấp xuất khẩu của EU đã giảm từ 82
USD/tấn xuống còn 38 USD trong tháng 11/2004 đối với sữa bột tách bơ, từ 225
USD xuống còn 170 USD đối với bơ, và từ 120 USD xuống còn 75 USD đối với
phomat “Gouda“. Dự trữ can thiệp ở EU đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ mùa
thu 2002.

Tổng sản lượng sữa thế giới năm 2004 ước tính đạt 611,5 triệu tấn, tăng 1,9%,
so với chỉ tăng 1,1% trong năm 2003, chủ yếu nhờ tăng sản lượng ở Châu Á, Mỹ
Latinh, Niu Dilân.

b.Sản lượng sữa toàn thế giới nhìn chung là tăng, nhưng tăng không đáng kể
Bảng 2 : Sản lượng sữa ( Triệu tấn )
2002 2003 2004
Toàn thế giới 593,6 600,1 611,5
EU 126,7 126,8 125,5
Ấn Độ 84,6 87,0 91,3
Mỹ 77,1 77,2 77,5
Nga 33,5 33,3 31,9
Pakixtan 27,7 28,4 29,1
Braxin 22,8 23,5 24,4
Trung Quốc 14,0 17,5 21,0
Niu Dilân 13,9 14,4 15,0
Ukraina 14,1 13,6 13,6
Ba Lan 11,8 11,9 11,9
Mêhicô 9,6 9,9 10,0
Ôxtrâylia 11,3 10,3 10,0
Áchentina 8,5 7,9 9,5
( Nguồn : www.fao.org)

35
Ở các nước phát triển, sản lượng sữa của Niu Dilân năm 2003/04 ( tháng
6/tháng 5) tăng 4,2% sau khi đã tăng 3,6% trong năm 2002/03. Ngược lại, sản lượng
sữa của Ôxtrâylia năm 2003/04 ( tháng 7/tháng 6 ) giảm 2,5% sau khi đã giảm 8,8 %
trong năm 2002/03, là năm bị hạn hán. Ở Mỹ sản lượng sữa tăng vào cuối năm 2004
do giá sữa trong nước tăng.

Sản lượng sữa ở Canađa năm 2004 phục hồi 3% sau khi giảm liên tục trong 2
năm trước đó, trong khi đó sản lượng của Nhật Bản đạt mức năm 2003. Sản lượng
sữa của EU-25 giảm 1%. 10 nước thành viên mới gia nhập EU ngày 1-5-2004 đã
được điều chỉnh sản lượng sữa theo hạn ngạch sản xuất được phân, và nhanh chóng
đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng EU. Xuất khẩu, chủ yếu từ Ba Lan và Slovakia đã đạt
mức kỷ lục nhờ khác biệt giá đáng kể ở các nước EU-25.

Sản lượng sữa ở Nga trong năm 2004 giảm 4,2% chủ yếu do giảm đàn bò sữa
và nguồn cung thức ăn chăn nuôi bị hạn chế. Ở Ukraina, sản lượng tăng vào cuối
năm và đạt mức năm 2003.

Sản lượng sữa tiếp tục tăng ở hầu hết các nước đang phát triển. Sản lượng sữa
của Trung Quốc năm 2004 ước tính tăng 20%, đạt 21 triệu tấn sau khi có tốc độ tăng
25%/năm trong 2 năm liền trước đó, chủ yếu do sản lượng tính theo đầu người thấp,
nhu cầu tiêu thụ gia tăng, cải thiện tiếp thị và giá sản xuất trong nước có lãi. Ở Ấn
Độ, nước sản xuất sữa lớn nhất thế giới, sản lượng năm 2003/04 ( tháng 4/tháng 3 )
tăng 4,9%. Sản lượng ở Thái Lan và Philíppin cũng tiếp tục tăn trong năm 2004 nhờ
giá sữa thuận lợi ở thị trường trong nước .

Ở Mỹ Latinh, sản xuất sữa phục hồi trong năm 2004 sau khi bị đình đốn và
mất ổn định kinh tế vĩ mô trong nhưng năm gần đây. Đặc biệt, sự phá giá mạnh của
các đồng bản tệ ở một số nước sản xuất chủ yếu đã làm tăng giá xuất khẩu, song làm
mất ổn định thị trường đầu vào của thức ăn gia súc. Ở Áchentina, sản lượng sữa năm

36
2004 phục hồi gần 20% sau khi suy giảm 7% và 11% trong năm 2 năm trước đó. Ở
Braxin, sản lượng sữa nhập khẩu lớn nhất về bơ ( với EU-25 thì đứng hàng thứ 2 ).

Trong những năm gần đây, sữa bột nguyên chất nổi lên thành sản phẩm xuất
khẩu chủ yếu tăng với tốc độ nhanh nhất, có nhu cầu lớn .

1.1.2. Thị trường trong nước :


a.Nhu cầu ngày càng tăng :

Với dân số ngày càng tăng (vào năm 2000, dân số cả nước là 81 triệu người),
đời sống người dân được cải thiện nhiều và người tiêu dùng quen dùng sữa, thì mức
tiêu dùng sẽ còn tăng lên.

Đời sống người dân ngày càng cao (thể hiện qua mức GDP hàng năm là 1999:
5.239.786 VNĐ/người, năm 2001: 6.117.000 VNĐ/người, năm 2003: 7.583.000
VNĐ/người, năm 2004 là 8.694.000 VNĐ/người), nhu cầu sử dụng sữa ngày càng
lớn. Năm 1990 lượng sữa tiêu thụ bình quân/người/năm chỉ đạt 0,47 kg, năm 1995
đã tăng lên đến 2,05 kg, năm 1998 trên 5 kg, năm 2000 là 6,5 kg và năm 2001 là 7,0
kg. Như vậy, so với năm 1990, năm 2001 sức tiêu thụ sữa của cả nước tăng gấp 14,8
lần, tổng lượng sữa tiêu thụ quy ra sữa tươi tương đương 460.000 tấn (Nguồn : Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

b.Nhà nước ta đang tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ngành sữa ( môi trường
chính trị – pháp luật )

Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề sản xuất sữa ngay từ khi hoà bình lập lại,
cho nhập một số bò Lang Trắng Đen của Trung Quốc, sau đó thêm khoảng 1.500 bò
sữa Holstein Frise thuần chủng của Cuba …Song song với việc nhập bò sữa cao sản
từ nước ngoài, trong nhiều năm, Nhà nước đã đầu tư cho nghiên cứu lai tạo bò sữa
với bò lai Sind, và tạo ra bò lai F1 1/2; F2 3/4; F2 5/8 … máu bò Holstein Frise

37
Mới đây, vào ngày 26/04/2005 Bộ trưởng Bộ Công nghiệp đã ký Quyết định
số 22/2005/QĐ-BCN về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp
Sữa Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, theo đó thực hiện một
số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001-
2010, bố trí công nghiệp phải gắn liền với vùng nguyên liệu.

Ngoài ra, Nhà nước ta đã có một loạt các chính sách để phát triển đàn bò, như
mua một con bò sữa thì được hỗ trợ vay 5 triệu, “ xây dựng mô hình công nghệ cao
phát triển đàn bò sữa quy mô cấp xã “, chương trình phát triển bò sữa nông thôn
được triển khai ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

Mặt khác do nhu cầu ngày càng phong phú và tăng cao, trong khi đàn bò sữa
cung cấp không quá 10% nhu cầu chế biến của các nhà máy sữa … Số còn lại phải
nhập khẩu. Cho nên cách đây chưa lâu, đầu tháng 3, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã ký
ban hành Quyết định số 46/2005 điều chỉnh danh mục hàng nhập khẩu áp dụng hạn
ngạch thuế quan. Theo đó , kể từ ngày 1/4 các lô hàng sữa nguyên liệu kể cả chưa cô
đặc hay cô đặc, đều được nhập khẩu tự do, không bị hạn chế về khối lượng như
trước đây.

1.2.Những thách thức đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực
1.2.1.Thị trường thế giới.
a. Phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài

Hiện nay, hầu hết các nhà máy sữa của ta có dây chuyền máy móc toàn được
nhập khẩu từ nước ngoài (chủ yếu là nhập khẩu dây chuyền của hãng Petra Pack của
Thuỵ Sĩ). Các dây chuyền nhập khẩu từ hãng này chủ yếu là những dây chuyền như
thanh trùng, tiệt trùng, máy rót, dây chuyền đóng gói bao bì, dán ống hút …

b.Phụ thuộc nước ngoài về nguyên liệu ( 85% là nhập khẩu )

38
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện sản lượng
sữa Việt Nam đáp ứng chưa được 15% nhu cầu của dân chúng và phải nhập khẩu
85% còn lại.

Mặc dù Nhà nước đã chú trọng vào việc phát triển đàn bò sữa trong nước,
nhưng hàng năm ta vẫn phải nhập khẩu sữa nguyên liệu.Vừa qua còn xảy ra hiện
tượng người nông dân bán bò sữa bằng giá bò thịt, hay cũng có thời gian nhà máy
thì cứ thu mua sữa, nhưng do không có điều kiện bảo quản, có khi người nông dân
còn cho bò uống sữa thay nước.

1.2.2.Thị trường trong nước

a. Nhiều đối thủ cạnh tranh


Môi trường cạnh tranh ngày càng xuất hiện nhiều hãng sữa nội, liên doanh và
nước ngoài, đặc biệt là ở những mặt hàng sữa dành cho trẻ em, phụ nữ mang thai.
Khi tham gia đàm phán vào WTO, mặt hàng sữa cũng là một mặt hàng mà nước
ngoài đòi chúng ta mở cửa thông thoáng hơn nữa. Cho nên trong thời gian tới sẽ còn
xuất hiện nhiều hãng sữa khác vào cạnh tranh quyết liệt với các hãng trong nước.
b. Chăn nuôi bò sữa

Chăn nuôi bò sữa hiện nay còn mang tính chất gia đình, nhỏ lẻ (86 % số hộ có
dưới 10 con bò) , tự phát, nuôi theo phong trào, không nắm vững được kỹ thuật chăn
nuôi. Chính vì thế khi chi phí thức ăn tăng, nhiều hộ chăn nuôi đã thực sự gặp khó
khăn. Nhiều hộ đã giảm đàn, ngưng nuôi, rơi vào cảnh khốn khó.

Kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đàn bò hiện có của nông
dân hiện nay chưa được tốt, còn nhiều hạn chế. Dẫn đến hậu quả là sản lượng và
chất lượng sữa bò không cao.

Ở những nước có khí hậu ôn hoà, đất đai phì nhiêu, người nông dân nuôi bò
sữa quanh năm (cả ngày lẫn đêm), chăn nuôi thả trên đồng cỏ hỗn hợp hoà thảo - họ

39
đậu. Hay ở những nước có mùa đông giá lạnh, thì hơn nửa năm bò sữa nuôi ở
chuồng, nhưng khi mùa xuân tới, đồng cỏ đã xanh tốt, người nông dân tranh thủ thả
bò tận dụng hết mọi tiềm năng của cỏ. Đồng thời họ tranh thủ thu hoạch cỏ để làm
cỏ khô, cỏ ủ dự trữ cho mùa đông. Vụ thu hoạch cỏ của họ cũng khẩn trương, bận
rộn, rầm rộ không kém vụ thu hoạch lúa ở nước ta. Cùng với đồng cỏ còn có hệ
thống sản xuất thức ăn phụ, như ngô, bắp cải, củ quả. Hệ thống sản xuất thức ăn như
vậy rẻ tiền nhất, hợp với sinh lý bò sữa nên đạt năng suất sữa cao nhất.

Còn môi trường tự nhiên ở ta thì chỉ có một số vùng là thích hợp cho việc
chăn nuôi bò sữa, như cao nguyên Mộc Châu, Lâm Đồng ….Vấn đề sản xuất thức
ăn cho bò thì do một phần là ít đất, người nuôi bò không được đào tạo kỹ về kỹ thuật
nuôi bò.

2.Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Sữa Việt
Nam
2.1.Đối với ngành sữa

Phát triển đàn bò sữa đem lại lợi ích lớn không chỉ cho người chăn nuôi mà
còn cho cả nền kinh tế. Chăn nuôi bò sữa tạo công ăn việc làm và làm thay đổi cơ
cấu kinh tế nông thôn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập và mức
sống nông thôn, giảm thiểu tình trạng di dân vào các thành phố.

Hơn nữa việc chăn nuôi bò sữa để thay thế lượng nhập khẩu sữa rất lớn hiện
nay và tương lai, việc thay thế nhập khẩu bằng hàng sản xuất nội địa này có ý nghĩa
tiết kiệm ngoại tệ một cách có hiệu quả. Tuy nhiên lợi thế so sánh trong ngành chăn
nuôi bò sữa rất dễ mất đi nếu như giá cả biến động.

Cho nên chủ trương phát triển đàn bò sữa hiện nay là hợp lý, nhưng để sự
phát triển đó được ổn định cũng còn một số vấn đề phải giải quyết như quy hoạch,
giá cả, kỹ thuật, môi trường.

40
Công ty Vinamilk hiện là Công ty có thị phần lớn nhất nước, Công ty cũng là
một trong số ít doanh nghiệp nhận bao tiêu toàn bộ lượng sữa bò tươi, giúp nông
dân vay tiền nuôi bò và trả bằng sữa. Lực lượng cán bộ kỹ thuật của Vinamilk
thường xuyên đến các nông trại, hộ gia đình kiểm tra, tư vấn hướng dẫn kỹ thuật
nuôi bò sữa cho năng suất và chất lượng cao nhất. Số tiền thưởng và giúp đỡ những
hộ gia đình nghèo nuôi bò sữa lên đến hàng tỷ đồng. Nhờ các biện pháp hỗ trợ,
chính sách khuyến khích, ưu đãi hợp lý, Công ty Vinamilk đã giải quyết việc làm
cho hàng vạn người lao động nông thôn, giúp người nông dân gắn bó với Công ty và
với nghề nuôi bò sữa, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống
của bà con nông dân; nâng tổng số đàn bò sữa từ 31.000 con lên 50.000 con.

2.2.Đối với công ty cổ phần Sữa Việt Nam

Trước đây, khi còn độc quyền thì đương nhiên Vinamilk chiếm 100% thị
phần trong nước, hiện nay Công ty Vinamilk vẫn giữ vị trí số 1 về thị phần trong thị
trường nội địa, doanh thu nội địa hàng năm tăng 22-25%/năm. Tỷ suất lợi nhuận
năm 2004 của Công ty là 29%, dự kiến năm 2005 sẽ tăng khoảng 15% nữa, tương
đương 525 tỷ đồng. Nhưng trong những năm gần đây, từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, ta đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá thị trường có sự định hướng
của Nhà nước, một loạt các Công ty liên doanh, và 100% vốn nước ngoài xuất hiện.
Những Công ty này biết cách xác định thị phần mục tiêu của mình là những gì, và
thực hiện một loạt kế hoạch marketing rất bài bản. Nếu không đổi mới thì doanh
nghiệp sẽ bị mất thị phần khi nước ta ngày càng mở rộng thị trường cho các Công ty
nước ngoài vào. Chúng ta cũng sắp ra nhập WTO (dự kiến là vào đầu năm 2006 ,
Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO) điều này đồng nghĩa với việc Công
ty phải đối mặt với sức ép cạnh tranh để giành giật thị trường tiêu thụ ngày càng lớn
ngay trên sân nhà.

Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực đang là
một xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh

41
của doanh nghiệp là một nhu cầu không thể thiếu.Chính cạnh tranh đã thúc ép các
doanh nghiệp mở rộng và tìm kiếm thị trường với mục tiêu tiêu thụ hàng hoá, đầu
tư, huy động vốn, thu hút lao động, công nghệ, nâng cao kỹ năng lao động, quản lý
trên thị trường quốc tế.

Vinamilk là Công ty cổ phần, nhưng Nhà nước vẫn giữ 51% cổ phần để kiểm
soát (Công ty do Bộ Công nghiệp quản lý). Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
Vinamilk không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về xã hội, chính trị (tạo
công ăn cho hàng vạn người lao động nông thôn).Gần đây Vinamilk lại liên doanh
với tập đoàn sữa hàng đầu Hà Lan Campina để đẩy mạnh hoạt động ra thị trường
quốc tế. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk là yêu cầu tất yếu.

CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ


NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VINAMILK TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

42
I. Khái quát về thị trường sữa và giới thiệu về Công ty Vinamilk
1. Khái quát về thị trường sữa Thế giới và Việt Nam
1.1.Tình hình thị trường sữa Thế giới
a.Sản lượng

Sản lượng sữa thế giới dự đoán sẽ tăng 1% mỗi năm lên 615 triệu tấn. Sản
lượng sữa của các nước đều tăng, trong đó sản lượng của các nước đang phát triển
dự kiến sẽ tăng nhiều nhất, đạt 249 triệu tấn vào năm 2005. Sản lượng của các nước
phát triển và đang quá độ dự kiến sẽ tăng lần lượt 14 triệu tấn và 2 triệu tấn. Hiện
nay, 98% sản lượng sữa của các nước phát triển là sữa bò, trong khi 1/3 sản lượng
sữa của các nước đang phát triển (ĐPT) là sữa các loài vật khác như dê, trâu, cừu và
lạc đà. Sữa các loài động vật khác ngoài bò dự kiến sẽ chiếm 15% tổng sản lượng
sữa thế giới vào năm 2005, so với 13% năm 2000. Số lượng bò sữa và năng suất sữa
tăng sẽ góp phần nâng sản lượng sữa thế giới tăng lên. Năng suất sữa của các nhóm
quốc gia đều tăng, tuy nhiên số lượng bò sữa chỉ tăng ở các nước ĐPT và một số ít
nước phát triển như Niu Di Lân và Ôtxtrâylia.

Nhu cầu sữa ở Châu Á tăng sẽ kích thích sản xuất. Sản lượng sữa của Ấn Độ
sẽ tăng nhanh nhất khu vực và tăng thêm 25 triệu tấn và đạt mức cao nhất thế giới
vào năm 2005. Sản lượng sữa của các nước Châu Á cũng sẽ tăng, đặc biệt là ở
Trung Quốc và Pakixtan. Sản lượng cũng tăng ở Châu Mỹ Latinh và Caribê, tăng 17
triệu tấn tới năm 2005. Động lực chính thúc đẩy sản lượng sữa ở mỗi quốc gia trong
khu vực Mỹ Latinh và Caribê là nhu cầu tăng. Còn ở Châu Phi, sản lượng sữa sẽ
tăng chậm hơn các khu vực khác do điều kiện kinh tế khó khăn ở một số nước nên
nhu cầu không tăng.

Ở các nước phát triển, sản lượng sữa dự kiến sẽ tăng 14 triệu tấn, ở châu Đại
Dương sản lượng dự đoán sẽ tăng 9 triệu tấn và sẽ đạt 251 triệu tấn và 77 triệu tấn
vào năm 2005. Sản lượng sữa ở các nước đang quá độ năm 2005 sẽ tăng 2,5 triệu
tấn so với 10 năm trước đó và tập trung ở các nước Đông Âu.
43
b.Tiêu thụ

Nhu cầu sữa và sản phẩm sữa ở các nước ĐPT dự đoán sẽ tăng 3% năm tới
2005. Ở các nước đang quá độ và các nước ĐPT nhu cầu cũng sẽ tăng. Tiêu thụ sữa
ở các nước ĐPT vẫn còn ở mức thấp, trung bình 42 kg/người/năm, chỉ bằng 20%
mức trung bình ở các nước phát triển. Với thu nhập tăng, tiêu thụ sữa và các sản
phẩm từ sữa ở các nước ĐPT dự đoán sẽ tăng và tăng mạnh nhất là ở Châu Á, nơi sẽ
chiếm gần 60% mức tăng nhu cầu sữa thế giới. Tiêu thụ sữa và sản phẩm sữa trung
bình ở toàn Châu Á, dự đoán sẽ tăng từ 34 kg/người/năm sẽ tăng lên 43
kg/người/năm 2005. Riêng ở Ấn Độ nhu cầu trong nước sẽ tăng 25 triệu tấn chiếm
gần 30% mức tiêu thụ sữa thế giới và nhu cầu cũng sẽ tăng ở một số nước Đông
Nam Á nhưng ở mức tăng thấp hơn.

Ở Châu Mỹ Latinh nhu cầu dự đoán cũng sẽ tăng theo mức thu nhập. Nhu cầu
ở Châu Mỹ Latinh và Caribê sẽ tăng mạnh, thêm 16 triệu tấn vào năm 2005. Trong
khu vực này Braxin và Mêhicô sẽ có mức tăng tiêu thụ cao nhất, còn Achentina,
Chilê và Côlômbia sẽ có mức tăng vừa phải. Nhu cầu ở Châu Phi dự đoán sẽ tăng ít
hơn, thậm chí ở nhiều nước nhu cầu và sản phẩm sữa sẽ tăng chậm hơn mức tăng
dân số do thu nhập không tăng. Tiêu thụ sữa ở khu vực này vốn đã thấp nay có thể
giảm nữa và một số nước sẽ có mức tiêu thụ trung bình chỉ khoảng 10kg/người vào
năm 2005.

Tại các nước phát triển, mức tiêu thụ sữa và sản phẩm sữa đã gần bão hoà, do
vậy sẽ không tăng nhiều và chủ yếu kết hợp với những thay đổi về loại và dạng sản
phẩm sữa kích thích tiêu thụ. Do vậy , mặc dù chiếm phần quan trọng trong tổng
tiêu thụ sữa thế giới vào năm 2005, nhóm quốc gia này sẽ chỉ chiếm 10% mức tăng
tiêu thụ sữa của cả thế giới. Về cơ cấu tiêu thụ trong nhóm này cũng sẽ thay đổi: họ
giảm dần tiêu thụ sữa uống trong khi tăng tiêu thụ phomát. Tiêu thụ các sản phẩm
sữa như thực phẩm chế biến sẵn có thành phần là sữa cũng sẽ tăng lên.

44
Đối với các nước đang quá độ, tổng nhu cầu sẽ chỉ tăng chút ít. Trong nhóm
này, nhu cầu ở Đông Âu sẽ tăng mạnh đặc biệt là ở Ba Lan, nhờ điều kiện kinh tế
khá lên thu nhập của người dân tăng lên và nhu cầu về sản phẩm từ sữa cũng tăng.
c.Mậu dịch

Khoảng 2/3 nhu cầu nhập khẩu sẽ đến từ các nước ĐPT. Trong khi xuất khẩu
sản phẩm sữa từ các nước ĐPT cũng tăng thì những nước này vẫn thiếu cung. Nhu
cầu nhập khẩu ở Đông Nam Á sẽ tăng mạnh. Ngược lại , do sản lượng tăng mạnh
nên nhập khẩu sẽ đến từ các nước ĐPT. Trong khi xuất khẩu sản phẩm sữa từ các
nước ĐPT cũng tăng thì những nước này vẫn thiếu cung. Nhu cầu nhập khẩu ở
Đông Nam Á sẽ tăng mạnh. Ngược lại , do sản lượng tăng mạnh nên nhập khẩu sản
phẩm sữa vào một số nước như Chilê, Braxin sẽ giảm xuống .

Dự đoán các nước phát triển sẽ tiếp tục chiếm phần lớn trong xuất khẩu sản
phẩm sữa vào năm 2005, tuy nhiên nhóm xuất khẩu từ nhóm quốc gia này đang tăng
dần lên. Phần của Niu Di Lân và Ôtxtrâylia trong xuất khẩu sữa thế giới sẽ tăng
mạnh, trong khi Châu Âu sẽ giảm xuống và của Bắc Mỹ sẽ ít thay đổi. Xuất khẩu từ
Châu Đại Dương sẽ tăng nhờ chi phí sản xuất của khu vực này thấp hơn.

Về giá cả các sản phẩm sữa trên thế giới cũng có sự thay đổi. Hiện nay người
tiêu dùng có xu hướng chuyển từ các sản phẩm giầu sữa như sữa bột nguyên kem,
bơ, dầu bơ, sang các sản phẩm trị giá gia tăng như phomát, sữa bột đặc biệt. Sữa bột
là sản phẩm thống trị thị trường thế giới về khối lượng và tiêu thụ các loại sữa đóng
hộp tiện dụng đang tăng lên .

1.2.Tình hình trong nước


1.2.1.Nhu cầu tiêu thụ sữa
Nhu cầu trong nước: Sau những năm đổi mới, đời sống của nhân dân được cải
thiện, nhu cầu tiêu dùng sữa trong nước đang và sẽ tiếp tục tăng nhanh cùng với

45
mức thu nhập của nhân dân và sự hình thành lối sống công nghiệp trong xã hội, đặc
biệt là ở các thành phố, đô thị và các khu vực đang phát triển.

Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ,nếu năm 1990
lượng sữa tiêu thụ bình quân/người/năm chỉ đạt 0,47 kg, thì năm 1995 đã tăng lên
đến 2,05 kg, năm 1998 trên 5 kg, năm 2000 là 6,5 kg và năm 2001 là 7,0 kg. Như
vậy, so với năm 1990, năm 2001 sức tiêu thụ sữa của cả nước tăng gấp 14,8 lần,
tổng lượng sữa tiêu thụ quy ra sữa tươi tương đương 460.000 tấn. Với tốc độ phát
triển kinh tế của đất nước và sự cải thiện chất lượng cuộc sống người dân hiện nay,
nước ta đặt mục tiêu nâng mức sữa tiêu dùng bình quân/đầu người/năm từ 7 kg năm
2001, lên 9 kg vào năm 2005 và 12 kg vào năm 2010.

BIỂU ĐỒ

Nhu cÇu tiªu thô s÷a b×nh qu©n ®Çu ng­êi/n¨m

12
12

10 9
8 7
6 6,5
Kg/ng­êi/n¨m 6 5
4 3
2,05
2
0,47
0
19

19

19
19
19
20 9
20 0

20

20
90

95

97
98
9

01

05

10
0

N¨m

( Nguồn : Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn )

Thị trường xuất khẩu :

46
Theo thống kê của Bộ Thương mại, năm 2003 giá trị xuất khẩu sữa của Việt
Nam là 64 triệu USD. Thị trường xuất khẩu các sản phẩm sữa của Việt Nam chủ
yếu bao gồm các nước: Irắc, Lào, Ý, Mỹ, Canada, Pháp, Nga, Đức, CH Séc, Ba lan,
Trung Quốc… Trong đó, thị trường xuất khẩu sữa lớn nhất là Irắc, tỷ trọng xuất
khẩu sang thị trường này đang sụt giảm từ năm 2003 đến nay. Theo ý kiến của một
số chuyên gia, sự suy giảm này chỉ mang tính tạm thời, dự kiến giá trị xuất khẩu
sang thị trường Irắc sắp tới sẽ phần nào hồi phục khi tình hình chính trị tại đây dần
đi vào ổn định.

1.2.2.Tình hình sản xuất sữa trong nước

Sản lượng sữa nguyên liệu sản xuất trong nước năm 1998 đạt trên 36.000 tấn,
năm 1999 đạt 39.000 tấn, năm 2000 đạt 54.000 tấn và năm 2001 ước đạt 65.000-
70.000 tấn. So với lượng sữa tiêu dùng thì sản xuất sữa nguyên liệu trong nước hiện
nay mới đáp ứng được 10 - 12% nhu cầu tiêu dùng, còn lại khoảng 90% phải nhập
khẩu. Năm 2000, tổng các sản phẩm sữa nhập bằng con đường chính ngạch quy ra
sữa bột khoảng trên 50.000 ngàn tấn, tương đương với 400.000 - 450.000 tấn sữa
tươi. Năm 2002, theo thống kê của Bộ Thương mại, giá trị nhập khẩu các sản phẩm
từ sữa của Việt Nam là 122 triệu USD, năm 2003 là 164 triệu USD, tăng 37% so
với năm 2002 và còn tiếp tục tăng trong năm 2004.

Như vậy, với tình hình sản xuất và tiêu thụ sữa trong nước nêu trên, ngành
sữa Việt Nam còn rất nhiều cơ hội để phát triển sản xuất sữa nội địa thay thế hàng
nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng ngành sữa Việt Nam dự đoán sẽ được duy trì ở mức
20%/năm.

1.2.3.Tình hình cạnh tranh trong ngành

Hiện nay, trên thị trường có 7 công ty chính trong ngành sữa là: Công ty
Vinamilk, Công ty TNHH Cô gái Hà Lan - DutchLady, Công ty TNHH Nestle Việt
Nam, Công ty Nutifood, Công ty Cổ phần Hanoi Milk, Công ty Đại Tân Việt, Công

47
ty F&N, và nhiều công ty có quy mô sản xuất nhỏ khác. Các công ty này hiện đang
cạnh tranh khá gay gắt trên đa số các phân khúc của thị trường.

Đối với các sản phẩm sữa tươi, sữa chua uống, sữa đặc, Vinamilk đang chiếm
vị trí dẫn đầu thị trường.

Đối với các sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng, Vinamilk chiếm khoảng
35% thị trường nội địa. Khoảng 65% thị phần còn lại thuộc các sản phẩm của các
công ty: Dutch Lady, Nestle, Abbot (Hoa Kỳ), Anlene (New Zealand), Dumex,
Mead Johnson (Hoa Kỳ) …

1.2.4.Nguồn nguyên vật liệu

Nguyên vật liệu cho ngành chế biến sữa Việt Nam hiện nay được lấy từ hai
nguồn chính: sữa bò tươi được thu mua từ các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa trong
nước và nguồn sữa bột ngoại nhập.

Nguồn sữa tươi thu mua từ các hộ nông dân chỉ cung cấp được khoảng 10%-
15% nguyên liệu cho các nhà máy trong nước, còn lại 85% nguồn nguyên liệu là sữa
bột nhập ngoại. Hiện nay, các sản phẩm sữa tiêu dùng hàng ngày như sữa tiệt trùng, sữa
bột nguyên kem, sữa bột cho trẻ em và sữa đặc có đường trên thị trường sữa Việt Nam
phần lớn được sản xuất từ sữa bột nguyên liệu nhập khẩu.

Như vậy, nghề chăn nuôi bò sữa của Việt Nam vẫn còn một thị trường rất
rộng lớn để phát triển. Tuy nhiên, nghề nuôi bò sữa hiện nay chỉ ở quy mô nhỏ, sản
lượng thấp, với nhiều thách thức còn tồn tại như: thiếu giống bò sữa tốt, thích hợp
với điều kiện chăn nuôi của Việt Nam, tổ chức sản xuất chưa hợp lý, thiếu tính tập
trung và chuyên nghiệp, trình độ chăn nuôi thấp, thiếu vốn đầu tư dài hạn, thú y và
các dịch vụ kỹ thuật còn hạn chế …

Nhận định được tầm quan trọng và các thách thức đối với ngành nuôi bò sữa,
Thủ Tướng Chính Phủ đã ra quyết định 167 ngày 26/10/2001 về một số chính sách

48
phát triển bò sữa của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010 (phụ lục). Theo đó, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang tiếp tục triển khai các biện pháp phát
triển ngành chăn nuôi bò sữa của Việt Nam đến năm 2010 với mục tiêu đưa tỷ trọng
sữa tươi sản xuất trong nước so với tổng lượng sữa tiêu dùng từ 11,4 % năm 2001,
lên 20% năm 2005, và lên 40% vào năm 2010. Bên cạnh việc hỗ trợ về mặt chính
sách của Nhà nước nêu trên, các công ty sữa cũng đang có những biện pháp hỗ trợ
tích cực cho người nông dân chăn nuôi bò sữa, đồng thời đầu tư xây dựng các mô
hình chăn nuôi bò sữa mới và các cơ sở chế biến sữa ngay tại nguồn nguyên liệu.

Như vậy, dự kiến trong tương lai, ngành sữa Việt Nam sẽ dần giảm tỷ trọng
sữa nguyên liệu nhập khẩu, thay thế vào đó là nguồn nguyên liệu sữa tươi, đảm bảo
chất lượng sản phẩm sữa cho người tiêu dùng và góp phần thúc đẩy các ngành hỗ
trợ trong nước.

2. Quá trình hình thành và phát triển


2.1.Quá trình hình thành và phát triển

Năm 1976, lúc mới thành lập, Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) có tên
là Công ty Sữa - Cà Phê Miền Nam, trực thuộc Tổng cục thực phẩm, bao gồm 4 nhà
máy thuộc ngành chế biến thực phẩm:

o Nhà máy Sữa Thống Nhất;


o Nhà máy Sữa Trường Thọ;
o Nhà máy Sữa Dielac;
o Nhà máy Cà Phê Biên Hoà.

Năm 1982, Công ty Sữa - Cà phê Miền Nam được chuyển giao về Bộ Công
nghiệp thực phẩm và đổi tên thành Xí nghiệp Liên hiệp Sữa - Cà phê - Bánh kẹo I.

Năm 1989, Xí Nghiệp Liên Hiệp Sữa - Cà phê - Bánh kẹo I chỉ còn 3 nhà
máy trực thuộc:

o Nhà máy Sữa Thống Nhất;


49
o Nhà máy Sữa Trường Thọ;
o Nhà máy Sữa Dielac.

Tháng 3/1992, Xí nghiệp Liên Hiệp Sữa - Cà phê - Bánh kẹo I chính thức đổi
tên thành Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) - trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ,
chuyên sản xuất, chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa.

Năm 1994, Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) đã xây dựng thêm một nhà
máy sữa ở Hà Nội để phát triển thị trường tại miền Bắc, nâng tổng số nhà máy trực
thuộc lên 4 nhà máy:

o Nhà máy Sữa Thống Nhất ;


o Nhà máy Sữa Trường Thọ;
o Nhà máy Sữa Dielac;
o Nhà máy Sữa Hà Nội.

Năm 1996, Xí nghiệp Liên doanh Sữa Bình Định tại Qui Nhơn ra đời, góp
phần thuận lợi đưa sản phẩm Vinamilk phục vụ rộng khắp đến người tiêu dùng khu
vực miền Trung.

Năm 2000, Công ty đã tiến hành xây dựng thêm:

o Nhà máy Sữa Cần Thơ;


o Xí nghiệp Kho Vận.
Năm 2002, Công ty xây dựng thêm:
o Nhà máy Sữa Sài Gòn (Saigonmilk);

o Nhà máy Sữa Nghệ An.

Năm 2003, Công ty chuyển sang hình thức Công ty cổ phần, chính thức đổi
tên là Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam.

2.2.Các thành tích đã đạt được

50
Trải qua quá trình hoạt động và phát triển 28 năm qua, Vinamilk đã trở thành
một doanh nghiệp dẫn đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa tại Việt Nam.
Những danh hiệu Vinamilk đã được nhận là:

 Danh hiệu Anh Hùng Lao Động;

 Huân chương Lao động hạng nhất , nhì , ba;

 Liên tiếp đứng đầu “ Topten hàng Việt Nam chất lượng cao “ từ 1997-
2004 ( do bạn đọc báo Sài Gòn Tiếp Thị bình chọn );

 Gần đây nhất Vinamilk được tăng Huân chương Độc Lập hạng 3 vì đã
có thành tích xuất sắc trong sản xuất kinh doanh 5 năm 2000-2004.

3.Mục tiêu, triết lý kinh doanh, cam kết và chính sách chất lượng
3.1.Mục tiêu của công ty

“ Không ngừng phát triển các hoạt động sản xuất, thương mại và dịch vụ
trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận cho các cổ đông,
nâng cao giá trị Công ty và không ngừng cải thiện đời sống, điều kiện làm việc, thu
nhập cho người lao động, đồng thời làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước.
Bên cạnh đó, Vinamilk gắn kết công nghiệp chế biến với phát triển vùng nguyên
liệu nhằm tăng tính độc lập về nguồn nguyên liệu trong hiện tại và tương lai.“

3.2.Triết lý kinh doanh

“ Vinamilk mong muốn trở thành sản phẩm được yêu thích nhất ở mọi khu
vực, lãnh thổ. Vì thế chúng tôi tâm niệm rằng chất lượng và sáng tạo là người bạn
đồng hành của Vinamilk. Vinamilk xem khách hàng là trung tâm và cam kết đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng.“

3.3.Cam kết với khách hàng

51
“ Vinamilk luôn mang đến cho bạn những sản phẩm chất lượng, bổ dưỡng và
ngon miệng nhất cho sức khỏe của bạn. Bạn sẽ không phải lo lắng khi dùng sản
phẩm của Vinamilk. Mọi lứa tuổi, đối tượng đều phù hợp với Vinamilk.“

3.4.Chính sách chất lượng

“ Luôn luôn thoả mãn khách hàng bằng những sản phẩm đảm bảo chất lượng,
ngày càng đa dạng và dịch vụ tốt nhất với giá cả cạnh tranh hợp lý.“

4.Sản phẩm và thị trường


4.1.Sản phẩm Vinamilk hiện có trên 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa
gồm:
Sữa đặc Sữa đậu nành
Sữa bột cho trẻ em và người lớn Kem
Bột dinh dưỡng Phô - mai
Sữa tươi Nước ép trái cây
Sữa chua uống Bánh biscuits
Sữa chua ăn Nước tinh khiết
Cà phê
( Nguồn : www.vinamilk.com.vn)
4.2.Thị trường

Với mục tiêu duy trì vị thế số một trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, đặc biệt
là ngành chế biến sữa tại Việt Nam, Công ty không ngừng đầu tư về chủng loại và
chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày một cao của khách hàng.

Thị trường nội địa: Hiện nay, Vinamilk đang giữ vị trí số 1 về thị phần, chiếm
khoảng 50 - 90% thị phần toàn quốc theo từng mặt hàng, các sản phẩm của
Vinamilk được người tiêu dùng tin tưởng và đánh giá cao. Doanh thu nội địa hàng
năm của Công ty tăng từ 22% - 25%/năm…

52
Thị trường quốc tế: Đến nay, sản phẩm sữa Vinamilk đã và
đang thâm nhập sang các thị trường như : Mỹ, Úc, Canada, Pháp,
Nga, Đức, CH Séc, Balan, Trung Quốc, khu vực Trung Đông, khu
vực Châu Á, Lào, Campuchia…

5.Mạng lưới phân phối

Công ty hiện có trên 1.400 nhà Đại lý cấp 1 rải rộng khắp các
tỉnh thành trong cả nước.

Mạng lưới phân phối sản phẩm trong nước của Vinamilk gồm
3 kênh chính:

Kênh phân phối trực tiếp, bao gồm các cơ quan, trường học,
bệnh viện, siêu thị, khách sạn, quán giải khát;

Kênh phân phối thông qua đại lý cấp 1;

Kênh phân phối thông qua đại lý cấp 2 mà các điểm bán lẻ bao gồm 5.000 đại
lý có mặt ở các phường, xã và 90 nghìn điểm bán lẻ có kinh doanh sản phẩm
Vinamilk, chiếm khoảng 50% từng mặt hàng khác nhau.

Hiện nay, Vinamilk đã có nhà phân phối chính thức tại Mỹ, Châu Âu và tại
Úc.

*Trụ sở chính :
184-186—188 Nguyễn Đình Chiểu , Phường 6 , Quận 3 , TP HCM
Tel: (84.4)9 304 860 - 9 305 197
Fax : (84.4)9 304 880
Email : vinamilk@vinamilk.com.vn
Website : www.vinamilk.com.vn
* Chí nhánh tại Hà Nội

53
191 Bà Triệu , Toà nhà VINCOM B , Quận Hai Bà Trưng , Hà Nội
Tel: ( 84.4) 9742520-9742521
Fax: ( 84.4)9742521

*Chí nhánh tại Đà Nẵng

175 Triệu Nữ Vương , TP. Đà Nẵng

Tel: (84.511) 897222

Fax: (84.511) 897334

* Chí nhánh tại Cần Thơ

86D Hùng Vương , Phường Thới Bình , Quận Ninh Kiều , TP.Cần Thơ

Tel: ( 84.71)811274

Fax: (84.71)827334

(Nguồn: www.vinamilk.com.vn)

Sản phẩm Vinamilk trên toàn cầu :

Hiện nay Vinamilk đã có nhà phân phối chính thức tại Mỹ, Châu Âu và tại Úc

Tại Úc Công ty Trang’s Food Pty.Ltd., 8 Sleigh place .Wetherill park, NSW
2164, Australia là nhà phân phối chính thức.

54
II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Vinamilk trong điều kiện hội nhập
1.Phân tích một số chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của
Công ty
1.1.Nhân tố giá cả
Giá cả được thể hiện như một vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh
thông qua việc định giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng hoặc định giá cao.

Do Vinamilk xác định khách hàng mục tiêu của mình là những người có thu
nhập trung bình và thấp (tầng lớp bình dân, và trung lưu). Cho nên các sản phẩm của
Vinamilk so với sản phẩm cùng loại của các hãng sữa khác đều rẻ hơn. Lấy ví dụ về
mặt hàng sữa trẻ em.

Ví dụ
* Hãng Abbott: ( Lấy loại 400g )
Dành cho trẻ sơ sinh: Similac IQ: 116.000 đồng/ hộp, không có IQ: 100.000
đồng / hộp.
Dành cho trẻ từ 6 tháng – 12 tháng: Gain advance IQ: 113.000 đồng/ hộp.
Dành cho trẻ từ 1 – 3 tuổi: Gain IQ: 95.000 đồng / hộp.
*Hãng Mead&Johnson (Loại 900g)
Dành cho trẻ sơ sinh (từ 0 - 6 tháng): Enfalac có giá 150.200 đồng / hộp.
Dành cho trẻ từ 6 tháng - 12 tháng: Enfa gro có giá 152.700 đồng/ hộp.
Dành cho trẻ từ 1 tuổi trở lên: Enfa Grow có giá 197.600 đồng/hộp.

55
* Còn giá sản phẩm sữa của Công ty Vinamilk (900g)
Dành cho trẻ sơ sinh (từ 0 - 6 tháng): Dielac alpha 1 có giá 90.799 đồng/hộp.
Dành cho trẻ từ 6 tháng - 24 tháng: Dielac alpha 2 có giá 92.900 đồng/hộp.
Dành cho trẻ từ 24 tháng trở lên: Dielac alpha 3 có giá 100.200 đồng/hộp.
* Như vậy nhìn vào ví dụ về sản phẩm sữa dành cho trẻ em, giá của Công ty
Vinamilk rẻ hơn hẳn so với sản phẩm của hãng khác (từ 30.000-40.000đồng/hộp).
Nguyên nhân lý giải cho điều này là do các hãng sữa khác cộng cả chi phí quảng
cáo, thương hiệu vào giá thành sản phẩm. Hơn nữa đối tượng khách hàng mà Công
ty hướng tới là tầng lớp trung lưu và bình dân, giá các sản phẩm của Vinamilk chỉ
tăng cao nhất là 5%, trong khi giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng tới 30-40%, đó là
nhờ vào việc giảm nguyên liệu nhập khẩu và thay thế được 35% nguyên liệu nội địa.
1.2.Sản phẩm và cơ cấu

Một trong những thành công của Vinamilk là đa dạng hoá sản phẩm. Hệ
thống sản phẩm của Vinamilk rất phong phú và đa dạng, đáp ứng nhu cầu của tất cả
các đối tượng khách hàng từ trẻ sơ sinh, trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn, người
có nhu cầu đặc biệt.

Hiện nay, nhu cầu sử dụng thực phẩm ngày càng phong phú, người tiêu dùng
không chỉ cần có sản phẩm tốt, giầu dinh dưỡng là đủ, mà sản phẩm đó còn phải đáp
ứng nhiều nhu cầu khác, chẳng hạn, sản phẩm không có cholesterol cho người cao
huyết áp, bệnh tim mạch; sản phẩm phải giầu canxi cho phụ nữ và những người mắc
chững loãng xương. Ngoài ra, cũng cần sản xuất sản phẩm giá rẻ cho người có thu
nhập thấp, sản phẩm có bao bì khác lạ, vui mắt dành cho thiếu nhi…Nắm bắt được
nhu cầu của thị trường, Vinamilk đã hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu này. Từ mặt
hàng đầu tiên lúc mới thành lập là sữa đặc có đường, đến nay, Vinamilk đã có trên
100 nhãn hiệu bao gồm sữa đặc, sữa tươi, kem, sữa chua, sữa bột và bột dinh dưỡng
các loại, sữa đậu nành, nước ép trái cây các loại … Sản phẩm sữa đặc truyền thống
và đa dạng của Vinamilk gồm có sữa ông thọ, sữa Ngôi sao Phương Nam, sữa

56
Moka, sôcôla … phục vụ cho nhu cầu của mọi đối tượng với các mục đích sử dụng
khác nhau, như dành cho người ăn kiêng, người dưỡng bệnh, pha cà phê, làm sữa
chua, làm bánh …; Sữa tươi tiệt trùng là thức uống bổ dưỡng và cần thiết cho mọi
lứa tuổi, giúp tăng cường sức khỏe và trí tuệ, giúp phát triển chiều cao, đồng thời có
tác dụng giải độc rất tốt, dành cho người làm việc trong môi trường độc hại; Bột
dinh dưỡng Ridielac gồm các loại: Dielac ngọt, thịt, cá, tôm, thịt-cà rốt, thịt-cải bó
xôi, được chế biến phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của trẻ từ 4 tháng tuổi trở
lên. Các sản phẩm bột dinh dưỡng ăn liền, không cần nấu, tiện sử dụng và tiết kiệm
thời gian cho các bà mẹ; Sữa bột Dielac gồm nhiều loại: Dielac Mamma với chất
DHA bổ sung dành cho phụ nữ có thai và đang cho con bú, tăng cường sự phát triển
trí não ngay từ trong bụng mẹ; Dielac 1: Dành cho trẻ từ 1 ngày đến 6 tháng tuổi,
được bổ sung thêm DHA, giúp cho não bộ của trẻ phát triển hoàn thiện hơn và giống
sữa mẹ về mặt dinh dưỡng; Dielac 2: Được bổ sung DHA và chất xơ thực vật, tăng
khả năng hấp thụ canxi, dành cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên; Dielac 3: Được chế biến
với công thức đặc biệt, được bổ sung DHA và chất xơ thực vật, tăng khả năng hấp
thụ canxi, hỗ trợ tiêu hoá, thích hợp cho trẻ trong giai đoạn tăng trưởng từ 1 năm
tuổi trở lên, giúp cơ thể phát triển chiều cao, khoẻ mạnh và cứng cáp; Dielac canxi:
Với hàm lượng canxi sữa cao và không có chất béo, giúp cơ thể dễ hấp thụ canxi,
giúp xương vững chắc, phòng và ngừa bệnh loãng xương lúc tuổi già; Dielac Sure:
Là sản phẩm dinh dưỡng đặc biệt, chứa hàm lượng đạm, béo cao, không chứa đường
lactose, được bổ sung thêm chất Oligofructose, giúp phục hồi nhanh sức khỏe.
Yomilk với nhiều loại cam, chanh, dâu nguyên chất, giúp cho cơ thể luôn khỏe
mạnh, làn da mịn màng, vóc dáng cân đối; Nước ép trái cây gồm nhiều loại: Cam,
đào, táo, cà chua, xoài, ổi… rất giầu vitamin và khoáng chất, mang lại sự sảng
khoái, tăng cường sức đề kháng của cơ thể; Sữa đậu nành cung cấp các chất dinh
dưỡng và lượng đạm cao cho cơ thể, dễ tiêu hoá, không chứa cholesterol, rất tốt cho
những người mắc bệnh tim mạch. Đặc biệt, sữa đậu nành không đường thích hợp
cho những người mắc bệnh tiểu đường và kiêng đường; Kem Vinamilk với nhiều

57
chủng loại bao gồm: kem que, kem ly, kem thố …, với nhiều hương vị thơm ngon
như vani, cốm, sầu riêng, cacao, cam, chanh, dâu, trái cây… dành cho các bạn trẻ.

Trong những năm tới đây, Vinamilk tiếp tục tăng cường đa dạng hoá sản
phẩm, đổi mới liên tục để không những đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng,
mà còn tạo ra nhu cầu của người tiêu dùng.

1.3.Chất lượng sản phẩm

Phần lớn bột nguyên liệu được nhập khẩu (90%), cũng nhập từ các nhà máy
sữa nguyên liệu như các hãng sữa nước ngoài khác. Công thức làm sữa cũng được
đặt ở nước ngoài, hầu như sữa ngoại có thành phần, chất gì thì sữa nội cũng có.
Công nghệ, quy trình sản xuất đóng gói đều trên máy móc thiết bị hiện đại của Châu
Âu. Vì vậy có thể khẳng định sữa nội hoàn toàn tương đương về chất lượng so với
sữa ngoại.

Ông Lê Hồng Xanh, Trưởng phòng thị trường Công ty Vinamilk, đã từng
phát biểu: “ Các nhãn hiệu sữa ngoại luôn thực hiện các hoạt động quảng cáo,
khuyến mãi, dịch vụ bán hàng rất rầm rộ, chi phí này cao hơn rất nhiều so với các
Công ty sữa trong nước và tất nhiên giá bán đã tính luôn chi phí này. Do đó với chất
lượng tương đương nhau nhưng người tiêu dùng Việt Nam đang phải trả tiền cho
các hoạt động quảng cáo khuyếch trương đó “.

1.4.Phân phối

Mạng lưới phân phối rộng khắp, hiện nay Vinamilk có mạng lưới mạnh nhất.
Hệ thống đại lý của Công ty phân thành 2 loại, nhóm các sản phẩm về sữa gồm có
sữa đặc, sữa bột …và nhóm sản phẩm kem, sữa chua, sữa tươi. Với nhóm thứ nhất,
một trong các điều kiện để trở thành đại lý của Công ty là phải giữ cam kết không
bán bất kỳ sản phẩm sữa nào khác.

58
Để làm được điều này, Công ty đã có những ưu đãi đối với đại lý để họ trở
thành những người bạn thân thiết, chung thuỷ với sản phẩm của mình. Trường hợp
vi phạm hợp đồng, Công ty kiên quyết cắt bỏ, để làm gương cho các đại lý khác.

Riêng với nhóm sản phẩm thứ hai … Công ty chủ trương mở rộng rãi và
không hạn chế ngặt nghèo về các điều kiện của đại lý. Bởi vì đây là các mặt hàng
bán trực tiếp đến tay người tiêu dùng, tính cạnh tranh không cao, không phải là mặt
hàng chiến lược của Công ty nên càng mở rộng hệ thống phân phối thì sản phẩm
càng được phổ biến.

Ngoài ra, Công ty còn kết hợp với Viện Dinh dưỡng triển khai chương trình
phòng chống suy dinh dưỡng để giới thiệu sản phẩm đến các huyện, xã; tặng sản
phẩm sữa bột cho các bà mẹ mang thai (tổng trị giá hơn 800 triệu đồng). Thường đối
với đại lý, tuỳ thuộc vào vị trí, địa điểm bán hàng mà Công ty quy định doanh số và
thưởng cho đại lý theo quý và theo tháng.

Hiện nay, hệ thống đại lý của Công ty đã mở rộng và phủ khắp hầu hết các
tỉnh miền Bắc trung bình mỗi tỉnh đều có một hoặc hai đại lý chính thức, thậm chí
có tỉnh có tới 7 đại lý chính thức. Hệ thống nhân viên khảo sát đại lý được thiết lập
có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ thông tin và hàng đến các đại lý tại mỗi khu vực, đồng
thời nắm bắt được nhu cầu tiêu thụ đối với từng mặt hàng tại các khu vực này.

Mục tiêu của Công ty là phủ hàng đến tận từng phường, xã, từng ngõ phố, con
đường. Tại mỗi tỉnh đều có nhân viên tiếp thị cắm chốt tại địa bàn, người này ngoài
lương chính còn được thưởng theo doanh số bán hàng của các đại lý. Điều đó
khuyến khích nhân viên mở rộng thêm đại lý nhỏ, bán lẻ, đưa thương hiệu của Công
ty len lỏi khắp mọi ngõ ngách. Trên mỗi chiếc xe chở hàng, thùng hàng hay bất kỳ
một sản phẩm nào, thương hiệu cũng được dùng làm điểm nhấn để người tiêu dùng
dễ dàng nhận diện sản phẩm của Công ty.

1.5.Hoạt động xúc tiến bán hàng , công tác PR


59
Trách nhiệm với người tiêu dùng thể hiện qua việc đưa ra sản phẩm chất
lượng cao, Công ty Vinamilk cũng trách nhiệm với cộng đồng bằng nhiều hành
động hết sức tốt đẹp. Trong đó, Vinamilk đã tài trợ 750 triệu đồng cho quỹ học bổng
“Vinamilk ươm mầm tài năng trẻ Việt Nam “, trao hàng ngàn xuất học bổng cho học
sinh giỏi các trường trên cả nước. Công ty cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều
chương trình tư vấn dinh dưỡng miễn phí cho khách hàng, hoàn thành các chuyên đề
giáo dục dinh dưỡng và sức khoẻ cho bà mẹ mang thai và trẻ em trên truyền hình,
khám sức khoẻ cho học sinh ở nhiều tỉnh thành; cấp phát sữa miễn phí cho các em
suy dinh dưỡng độ 2. Hầu hết các đợt cứu trợ đồng bào bị thiên tai, công ty
Vinamilk đều tham gia một cách tích cực. Công ty cũng đã ủng hộ 500 triệu đồng
cho Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam, phụng dưỡng 18 Mẹ Việt Nam anh hùng, xây
dựng nhà tình nghĩa tình thương trị giá 1,1 tỷ đồng; tặng Mặt trận tổ quốc TP HCM
120 triệu đồng xây dựng 20 căn nhà tình thương; đầu tư 2 tỷ đồng mỗi năm cho
Chương trình “Phòng chống suy dinh dưỡng quốc gia“.

2.Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk


2.1.Những mặt đã đạt được trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty
a.Vinamilk tăng tổng vốn sở hữu gấp 10 lần

Đó là một trong những thành tích nổi bật của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
( Vinamilk ) - đơn vị vừa được Nhà nước tặng thưởng Huân Chương Độc lập hạng 3
cho tập thể và danh hiệu “ Anh hùng lao động “ cho cá nhân tổng giám đốc Công ty,
bà Mai Kiều Liên – vì đã có thành tích xuất sắc trong lao động, sáng tạo từ năm
1995 đến nay.

Mười năm qua, Vinamilk đã đầu tư 1.169,8 tỷ đồng phát triển quy mô sản
xuất, nâng cấp, đổi mới công nghệ. Xây dựng mới 5 nhà máy chế biến sữa trên 5
vùng trọng điểm của cả nước; tiến hành cuộc “ cách mạng trắng “ bằng việc tạo lập
các vùng nguyên liệu nội địa … Nhờ đó , tốc độ sản xuất và kinh doanh luôn tăng,

60
từ 15-35% /năm. Tỉ suất lợi nhuận trước thuế / nguồn vốn kinh doanh đạt từ 20 %-
30%. Nộp ngân sách Nhà nước 3.080,7 tỷ đồng, tổng vốn sở hữu chủ tăng gấp 10
lần, từ 216 tỷ đồng ( 1992) lên 2015 tỷ đồng năm 2005, thị phần nội địa liên tục
được giữ vững từ 50-90%.

b.Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh 5 tháng năm 2005

Trong năm tháng đầu năm 2005, tuy tình hình kinh tế – xã hội không mấy
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh: giá cả nguyên vật liệu tăng liên tục, tỷ giá đồng
USD, EURO so với đồng Việt Nam không ổn định khiến giá các mặt hàng tăng cao.
Hơn nữa Công ty cũng phải đối đầu với nhiều hãng sữa đa quốc gia, nhưng
Vinamilk vẫn vững vàng vượt qua thách thức, đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh
doanh.

Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế

 Giá trị Tổng sản lượng: đạt 49% kế hoạch năm, tăng 4,4% so với cùng kỳ
năm 2004.

 Doanh thu: đạt 43,4 % kế hoạch năm, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2004.

 Kim ngạch xuất khẩu đạt 29,6 triệu USD trong tổng giá trị hợp đồng đã ký 86
triệu USD năm 2005.

 Nộp ngân sách Nhà nước 108,4 tỷ đồng .

 Thu mua sữa tươi tăng 7,9 % về sản lượng và 15,8% về giá trị so với cùng kỳ
năm 2004.

 Về sản lượng sản phẩm tiêu thụ: mặc dù còn nhiều khó khăn do diễn biến trên
thị trường không thuận lợi trong những tháng đầu năm, song với nỗ lực của
chính mình, Công ty đã tận dụng mọi thời cơ và tiềm năng để đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh. Nhờ đó, tốc độ tiêu thụ các mặt hàng chính vẫn ổn định và

61
đạt hiệu suất tăng trưởng kinh tế cao từ 12,6% đến 29,2%. Đó là tín hiệu lạc
quan, triển vọng phát triển mạnh của một doanh nghiệp mới chuyển sang cơ
chế cổ phần.

c.Vinamilk trúng thầu xuất khẩu 86 triệu đô la Mỹ

Thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm 2005, Vinamilk đã trúng thầu hợp đồng
xuất khẩu trị giá 86 triệu đô la Mỹ với các sản phẩm chủ yếu là sữa bột và bột dinh
dưỡng. Thắng lợi này làm tiền đề cho các kế hoạch xuất khẩu khác của Vinamilk
trong năm 2005. Hiện tại sản phẩm Vinamilk đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên
thế giới như: Mỹ, Canada, Pháp, Nga, các nước khu vực Trung Đông, các nước khu
vực Đông Nam Á … Với tốc độ và năng lực phát triển như hiện nay Vinamilk đã có
thể đảm nhận các hợp đồng xuất khẩu lớn mà không gặp phải một khó khăn nào.
Kim ngạch xuất khẩu cao nhờ vào uy tín nhiều năm liền của Vinamilk với thị trường
nước ngoài và Công ty luôn nghiên cứu phát triển các thị trường mới trong bối cảnh
thương mại quốc tế phát triển nhanh.

Sau rất nhiều những thành công trong việc phát triển mở rộng thị trường sữa
quốc tế và nội địa, Vinamilk đang trở nên mạnh mẽ hơn thông qua việc hợp tác liên
doanh quốc tế với một đối tác Hà Lan - Campina.

Công ty liên doanh được mang tên Công ty Liên Doanh Campina. Bà Mai
Kiều Liên (Vinamilk) được bầu làm Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, Giám đốc điều
hành của Công ty liên doanh là Ông M.Bacon, hiện là Giám đốc của Campina Việt
Nam.

Công ty sẽ tham gia thị trường với những sản phẩm sữa bổ sung giá trị dinh
dưỡng được nhập khẩu và sản xuất tại Việt Nam nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Với sự hợp tác này, người tiêu dùng Việt Nam sẽ được thưởng thức
nhiều loại sản phẩm sữa chất lượng cao.

62
2.2. Những mặt chưa đạt được trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công ty

Bên cạnh những mặt đã đạt được trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh
Công ty vẫn còn tồn tại những điểm yếu, gây hạn chế cho việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty.
a.Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Công ty tuy rộng khắp thị trường toàn quốc
nhưng sự phối hợp giữa các đại lý còn thiếu chặt chẽ. Các hoạt động phân phối tiêu
thụ ở các tổng đại lý còn thụ động, phụ thuộc nhiều vào Công ty đã làm cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty không tiến hành kịp thời, dẫn đến đối thủ
cạnh tranh nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần, làm giảm năng lực cạnh tranh của
Công ty.
b.Hoạt động Marketing chưa được đầu tư đúng mức, lấy ví dụ như hãng sữa
Abbott, hiện nay sản phẩm của họ có giá cao nhất trên thị trường, nhưng vẫn bán
được và doanh thu hàng năm của họ vẫn tăng. Vấn đề về xây dựng thương hiệu ở
đây cũng được đặt ra.

c.Công ty chưa chú trọng đúng mức vào công tác quản lý, quá chú trọng vào công
tác bán hàng, thể hiện qua bảng phân tích tình hình quản lý chi phí của Công ty:

63
BẢNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHI PHÍ CỦA CÔNG TY VINAMILK

Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Chênh lệch


ST thị Tsf ST TT Tsf  % TT Tsf tsf U
trườn
g
1.Tổng doanh 3.809.414 3.746.186 -63.228 -1,7%
thu
2.Tổng chi phí 572.134 15% 504.108 13,5% -68.026 -11,9% -1,5% -1,5% -10% -56193
Chi phí bán 412.886 72,2% 10,8% 397.385 78,8% 10,6% -15.501 -3,8% 6,6% -0,2% -1,9% 7492,4
hàng
Chi phí quản 90.894 15,9% 2,4% 88.405 17,5% 2,4% -2.489 -2,7% 1,6% 0% 0%
lý doanh
nghiệp
Chi phí hoạt 68.372 11,9% 1,8% 18.318 3,7% 0,5% -50.054 -73,2% -8,2% -1,3% 72,2% 48700,4
động tài
chính

( Nguồn : www.bsc.com.vn)

64
Nhận xét :

*Nhìn vào bảng ta thấy tất cả các chỉ tiêu đề của doanh nghiệp đều giảm: doanh
thu giảm -63.228 triệu đồng, tổng chi phí giảm -68.026 triệu đồng. Tốc độ giảm của
tổng chi phí (-11,9%) lớn hơn tốc độ giảm của tổng doanh thu (-1,7%).

*Ở cả 2 kỳ: chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí hoạt động tài chính chiếm tỷ
trọng tương đối nhỏ so với chi phí bán hàng. Hơn nữa chênh lệch 2 kỳ tỷ trọng của chi
phí hoạt động tài chính lại bị giảm: -8,2%. Cho nên ta có thể suy ra 2 khoản này không
phải là hạng mục chính của doanh nghiệp.

Chi phí bán hàng là hạng mục chính, chi phí này chiếm tỷ trọng 72,2% năm
2003 lên 78,8% trong năm 2004.

Mặc dù chi phí bán hàng và chi phí hoạt động tài chính gây ra tình trạng bội chi
(số liệu), nhưng tổng chi phí lại tiết kiệm được -56193 triệu đồng.

Như vậy là chi phí quản lý doanh nghiệp bị giảm sút, trong khi đáng lẽ ra chi phí
này phải là chi phí tăng để quản lý.

*Nhìn tiếp vào bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (phụ lục), ta thấy
tổng lợi nhuận bất thường giảm từ 108525 xuống còn 6061. Như vậy có thể lợi nhuận
giảm là do lợi nhuận từ hoạt động bất thường giảm (doanh nghiệp cần xem lại hoạt
động của doanh nghiệp ?)

*Lý giải cho điều này Bà Mai Kiều Liên, tổng giám đốc của Công ty Vinamilk
đưa ra một nguyên nhân bất khả kháng là do cuộc chiến tranh ở Irắc (thị trường xuất
khẩu chủ lực của Vinamilk) xảy ra trong năm 2003 làm cho doanh thu hàng xuất khẩu
của Vinamilk sụt mạnh. Năm 1998, Vinamik mới xuất khẩu được khoảng 10 triệu
USD, năm 2002 tăng vọt lên 160 triệu USD nhưng năm 2003 sụt xuống còn 72 triệu
USD và năm 2004 chỉ đạt 33 triệu USD, giảm 53% so năm 2003.

65
Đây chính là một thiếu sót lớn về thị trường xuất khẩu của Vinamilk, Irắc là một
thị trường tốt cho xuất khẩu sữa nhưng nếu chỉ tập trung xuất khẩu vào một thị trường
sẽ gặp nhiều rủi ro.Trong chiến lược sản phẩm và thị trường thông qua việc xây dựng
hệ thống sản phẩm phong phú (hiện Vinamilk có 200 sản phẩm sữa và từ sữa), đáp ứng
nhu cầu đa dạng của mọi đối tượng khách hàng từ trẻ sơ sinh đến người lớn, đầu tư
chiều sâu, công nghệ hiện đại, tiến tới trở thành một tập đoàn thực phẩm mạnh tại Việt
Nam .

d.Tình hình nguồn vốn của Công ty:


BẢNG 2 : CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA DOANH NGHIỆP

Đơn vị: triệu đồng .

Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Chênh lệch


ST Thị ST Thị  %
trường trường
Tổng 2.631.571 100% 2.446.897 100% -184.674 -7%
nguồn vốn
1.Nguồn 1.562.036 59,4% 1.855.047 75,8% 293.011 18,8%
vốn chủ sở
hữu
2.Nợ phải 1.069.534 40,6% 591.851 24,2% -477.683 -44,7%
trả .

( Nguồn: www.bsc.com.vn)
Số liệu ở bảng trên cho thấy:
Tổng nguồn vốn của Công ty giảm từ 2.631.571 xuống còn 2.446.897 (= -
184.674) với tỷ lệ giảm là -7%, trong đó:

66
Nguồn vốn chủ sở hữu tăng: 293.011, với tỷ lệ là 18,8%. Điều đó biểu hiện sự
phấn đấu mở rộng sản xuất kinh doanh của Công ty.

Nợ phải trả của Công ty năm 2003 chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn
40,6%, nhưng đến năm 2004 chỉ chiếm 24,2%. Như vậy cơ cấu nguồn vốn của Công ty
giảm là do khoản nợ phải trả giảm.

Để nâng cao năng lực cạnh tranh hơn nữa, Công ty cần phát huy hết khả năng
của vốn tự có, bổ sung thêm các nguồn vốn bên ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó. Có như vậy, Công ty mới có thể đứng vững
và phát triển trên thị trường hiện nay.

Nhìn chung, Công ty Vinamilk có khả năng cạnh tranh với các Công ty khác
trong ngành công nghiệp sữa. Tuy nhiên, ở khâu quản lý chi phí thì năng lực cạnh
tranh của Công ty còn kém. Đặc biệt về chiến lược xây dựng thương hiệu, Công ty còn
yếu so với những Công ty khác. Trong thời gian tới, Công ty cần có biện pháp để khắc
phục tình hình này, nhằm tiết kiệm chi phí hợp lý, xây dựng được thương hiệu mạnh
ngay tại thị trường nội địa để mỗi khi người tiêu dùng nhắc tới sản phẩm sữa là nhắc
tới Công ty Vinamilk, và ngược lại.

67
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VINAMILK

I.Mục tiêu định hướng phát triển của công ty Vinamilk đến năm 2010
1. Định hướng và Mục tiêu phát triển của ngành sữa Việt Nam
1.1.Quan điểm phát triển

a. Huy động nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế để phát triển ngành nhằm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu;

b.Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiến tiến;
Phát triển ngành theo hướng mở, linh hoạt, đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường và yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;

c.Đẩy mạnh phát triển đàn bò sữa có hiệu quả kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh,
hình thành các vùng chăn nuôi bò sữa tập trung trên cơ sở áp dụng rộng rãi tiến bộ kỹ
thuật và các loại giống mới có năng suất và chất lượng cao. Tập trung nghiên cứu để
tuyển chọn được đàn bò chủ lực cho ngành. Đầu tư các nhà máy, xưởng dự trữ thức ăn
(ủ cỏ và các phụ phẩm) và chế biến thức ăn tinh cho bò.

d.Phát triển công nghiệp chế biến sữa theo hướng tăng tỷ lệ sử dụng sữa tươi trong
nước và giảm tỷ lệ sữa bột nhập ngoại. Các cơ sở sản xuất sữa phải có chương trình
đầu tư cụ thể vào việc phát triển đàn bò sữa.

1.2.Mục tiêu của quy hoạch

a.Mục tiêu tổng quát :

Từng bước xây dựng và phát triển ngành Sữa đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu
đến chế biến sản phẩm cuối cùng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước đạt mức bình
quân 8 kg/người/năm vào năm 2005; 10 kg/người/năm vào năm 2010, năm 2020 bình
quân đạt 20 kg/người/năm và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.

68
Việc xây dựng các nhà máy chế biến sữa phải gắn liền với các vùng tập trung
chăn nuôi bò sữa để đến năm 2005 có thể tự túc được 20% và đến năm 2010 tự túc
được 40% nhu cầu sữa vắt từ đàn bò trong nước.

b.Mục tiêu cụ thể :

Phấn đấu tăng sản lượng sữa toàn ngành trung bình 6-7%/năm giai đoạn 2001-
2005 và 5-6%/năm giai đoạn 2006-2010.

Mức tăng trưởng của các sản phẩm cụ thể như sau :

Mức tăng trưởng giai Mức tăng trưởng giai đoạn


đoạn 2001-2005 2006-2010
(%/năm) (%/năm)
Sữa đặc 2% 1%

Sữa bột 15% 10%

Sữa tươi thanh trùng , tiệt 25% 20%


trùng
Sữa chua các loại 15% 15%

Kem các loại 10% 10%

( Nguồn : Bộ Công nghiệp )

69
Dự kiến sản lượng đến năm 2010 ( quy ra sữa tươi ) :

Chỉ Đơn vị 2000 2005 2010 Tăng trưởng


tiêu b/q (%/năm)

1.Số lượng sữa tiêu dùng trong nước : 2001 2006


- -
2005 2010
- Dân Ngàn 77.685,5 83.352 87.758
số người
- Mức Lít/người 5,9 8 10
tiêu
dùng
b/quân
mỗi
người
- Ngàn lít 460.000 667.000 900.000 7,7 6,2
Lượng
sữa
tiêu
dùng
trong
nước
2.Sản lượng sữa xuất khẩu: 2001 2006
- -
2005 2010
- Sữa Tấn 34.400 44.000 56.000 5 5
bột
( Quy (Ngàn lít 258.000 330.000 420.000
ra )
sữa
tươi )
- Sữa Ngàn 1.000 1.104 1.219 2 2
đặc hộp
( Quy Ngàn lít 1.000 1.104 1.219
ra
sữa
tươi )
Cộng Ngàn lít 719.000 998.104 1.321.219 6,8 5,8
1+2
(Nguồn: Bộ Công nghiệp)
70
1.3.Quy hoạch vùng chăn nuôi bò sữa

a.Định hướng phát triển:

Phát triển đàn bò sữa Việt Nam từ nay tới năm 2010 nhằm thay thế một phần
nguyên liệu nhập khẩu là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Sản lượng sữa tươi đạt
được hơn 140 ngàn tấn vào năm 2004 (thay thế được khoảng 20% nguyên liệu nhập),
năm 2010 đạt trên 300 ngàn tấn, tự túc được khoảng 40% nguyên liệu, sau năm 2010
đạt 1 triệu tấn sữa. Năm 2020 tự túc được 50% nguyên liệu sữa tươi.

b.Quy hoạch phát triển đàn bò sữa: Dự kiến đàn bò năm 2005 và 2010 như sau:
Đơn vị : con
Vùng 2005 2010
Tỉnh , thành phố Tổng Bò Tổng Bò
đàn bò vắt sữa đàn bò vắt sữa

1 2 3 4 5
I.Đông Nam Bộ 61.103 27.499 78.591 35.365
Lâm Đồng 4.533 2.000 7.385 3.300
1 2 3 4 5
II.Tây Nam Bộ 9.913 4.461 26.011 11.696
III.Nam Trung Bộ 9.578 4.310 32.270 14.508
IV.Bắc Trung Bộ 12.500 5.625 39.500 17.775
(20.500) (9.225)
V.Đồng Bằng Bắc 21.217 9.545 49.100 22.095
Bộ
VI.Vùng núi phía 18.917 8.512 38.382 17.270
Bắc
Tổng cộng: 137.761 61.952 252.239 113.459
( Nguồn: Bộ Công nghiệp )

71
Năm 2005 cần 128 trạm thu mua sữa, năm 2010 cần 254 trạm. Tổng vốn đầu tư
cho các trạm thu mua là 152,8 tỷ đồng.

Diện tích đất trồng cỏ năm 2005 là 15.600 ha, năm 2010 là 30.200 ha.

1.4.Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp sữa

Đối chiếu với năng lực sản xuất toàn ngành hiện có khoảng 547,3 triệu lít/năm
(quy sữa tươi đã chế biến) và nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng lên theo hàng năm, dự kiến đến
2005 toàn ngành phải đầu tư bổ sung thêm năng lực sản xuất 120 triệu lít và đến 2010
là 248 triệu lít (quy ra sữa tươi chế biến).

Quy hoạch phát triển của ngành công nghiệp chế biến sữa được chia làm hai giai
đoạn: Giai đoạn I: từ năm 2001 đến năm 2005 và giai đoạn II: từ năm 2006 đến năm
2010. Danh mục các dự án đầu tư mở rộng và xây dựng được thể hiện trong Phụ lục 1

Đầu tư xây dựng các dây chuyền sản xuất bao bì sữa, in nhãn mác, công suất
đáp ứng 50% nhu cầu về công suất của các sản phẩm: Công suất giai đoạn I:
75.000.000 m2/năm công suất giai đoạn II: 150.000.000 m2/năm.Vốn đầu tư: Giai
đoạn I: 5 triệu USD, giai đoạn II: 3 triệu USD.

Tổng hợp vốn đầu tư cho phát triển ngành sữa đến năm 2010:

T Hạng mục Đến năm Đến năm


T 2005 (tỷ 2010 (tỷ
đồng) đồng)
1 Phát triển nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi bò 45 100
2 Vốn cho phát triển đàn bò 1.000 1.000
3 Vốn cho các trạm thu mua sữa 51,2 101,6
4 Vốn đầu tư xây dựng các nhà máy sữa 901,25 993,75
Tổng cộng 1997,45 2195,35

( Nguồn: Bộ Công nghiệp)

72
a.Dự kiến cơ cấu nguồn huy động vốn đầu tư
Dự kiến nguồn vốn từ ngân sách và các chương trình của Nhà nước cho phát
triển vùng đàn bò sữa khoảng 10%;

Vốn tín dụng để xây dựng các nhà máy chế biến và phát triển vùng nguyên liệu
tập trung: 50%;

Vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế và doanh nghiệp: 40%.


b.Định hướng phân vùng

Thực hiện Quyết định số 167/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một
số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001-2010,
bố trí công nghiệp phải gắn liền với vùng nguyên liệu. Các cơ sở chế biến tập trung tại
các vùng chăn nuôi bò sữa có quy mô tập trung và có thị trường tiêu thụ lớn, với cự ly
mỗi cơ sở phụ trách một vùng có bán kính từ 100 - 150 km. Các vùng có quy mô đàn
bò không lớn và thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp, bố trí các cơ sở chế biến nhỏ có công
suất khoảng 4.000 - 5.000 tấn/năm với công nghệ chủ yếu là sữa thanh trùng và sữa
chua phục vụ thị trường tại chỗ và cung cấp làm sữa nguyên liệu cho các cơ sở công
nghiệp chế biến lớn. Tại các vùng có khả năng phát triển trồng đậu tương như các tỉnh
miền Tây Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, mở thêm mặt hàng sữa đậu nành, bố
trí xen kẽ với các sản phẩm của các cơ sở công nghiệp chế biến có quy mô lớn, thương
hiệu đã có uy tín.

2. Định hướng và Mục tiêu phát triển của Công ty Vinamilk


2.1.Kế hoạch sản xuất, kinh doanh
2.1.1.Phương án kinh doanh

73
Một số chỉ tiêu cụ thể dự kiến cho năm 2005 (so với năm 2004):

Đơn vị tính: triệu đồng


Năm 2004 Năm 2005 Tỷ lệ
Vốn điều lệ 1.590.000 1.590.000
Doanh thu thuần 3.746.208 4.323.195 115%
Lợi nhuận thuần 464.590 527.025 113%
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu 25,1% 25,2%
Chia cổ tức 225.000 238.500
Lợi nhuận giữ lại 124.500 156.769
Tỷ lệ cổ tức 15% 15%

( Nguồn: Bộ Công nghiệp )


2.1.2. Kế hoạch sản lượng sản xuất

Kế hoạch sản lượng sản xuất trong năm 2005 so với các năm 2003 và 2004 được
liệt kê trong bảng sau:

Sản phẩm ĐVT 2003 2004 2005 Tỷ lệ


(1) (2) (3) (2/1) (3/2)
Sữa đặc các loại 1000 hộp 206.500 230.397 261.535 112% 114%
Sữa bột các loại Tấn 7.110 9.049 10.288 127% 114%
(nội địa)
Sữa tươi , đậu 1000 lít 61.710 73.286 93.110 119% 127%
nành , nước ép
Sữa chua 1000 lít 29.600 36.577 50.400 124% 138%
Kem 1000 lít 2.290 2.354 2.960 103% 126%

( Nguồn: Bộ Công nghiệp )

74
2.1.3. Kế hoạch đầu tư phát triển :Trong năm 2005, Công ty sẽ tiếp tục triển khai thực
hiện các nhóm dự án:

Xây dựng thêm các nhà máy sữa ở một số địa phương có tiềm năng phát triển
về thị trường tiêu thụ và có nguồn nguyên liệu sữa bò tươi.
 Xây dựng nhà máy sản xuất các sản phẩm mới như bia, cà phê …
 Liên doanh xây dựng cao ốc nhằm đa dạng hoá sản phẩm và ngành nghề kinh
doanh.
 Đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và trang thiết bị cho các đơn vị hiện có.

Mức đầu tư cụ thể cho từng dự án được trình bày trong bảng sau:

Đơn vị tính: Triệu đồng

STT Kế hoạch đầu tư Tổng mức Dự kiến


đầu tư trong 2005
1 Đầu tư chiều sâu Máy móc thiết bị cho các nhà 94.704 79.117
máy
2 Nhà máy cà phê Sài Gòn 288.738 150.786
3 Nhà máy Bia Hương Việt 298.300 250.799
4 Nhà máy sữa Đà Nẵng 264.600 42.600
5 Trang trại bò sữa Lâm Đồng 35.185 2.000
6 Nhà máy sữa Nghệ An 74.974 50.429
7 Dây chuyền lon lắp nhà máy Thống Nhất 71.167 33.427
8 Tổng kho nguyên liệu thành phẩm 18.964 16.164
9 Toà nhà Horizon 42.525 42.525
10 Hệ thống ERP 47.250 47.250
11 Nhà máy sữa Tiên Sơn - Bắc Ninh 154.063
12 Nhà máy sữa Tuyên Quang 34.810
Tổng mức đầu tư 1.425.280 715.097
( Nguồn : Bộ Công nghiệp )

75
2.2.Các biện pháp thực hiện kế hoạch
2.2.1.Chiến lược sản phẩm và thị trường

Đa dạng hoá sản phẩm, phát triển thành một tập đoàn thực phẩm mạnh của Việt
Nam.

Vinamilk tiếp tục chiến lược đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc xây dựng hệ
thống sản phẩm phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi đối tượng khách hàng từ
trẻ sơ sinh đến người lớn. Ngoài ra, Công ty xác định đa dạng hoá sản phẩm để tận
dụng công nghệ thiết bị sẵn có, tận dụng hệ thống phân phối để phát triển, tiến tới trở
thành một tập đoàn thực phẩm mạnh ở Việt Nam .

Liên kết để thâm nhập vào thị trường cao cấp.

Trong chiến lược phát triển dài hạn, Vinamilk sẽ kết hợp với một số các tập
đoàn thực phẩm hàng đầu thế giới để cùng nhau hợp tác đầu tư tại Việt Nam với mục
tiêu thu hút nguồn vốn và chất xám cho Vinamilk nói riêng và Việt Nam nói chung,
đồng thời thúc đẩy việc mở rộng thị trường của Việt Nam trong nước cũng như quốc
tế.

2.2.2.Chiến lược marketing

Thương hiệu là yếu tố tiên quyết để Vinamilk tồn tại và phát triển. Do vậy,
Vinamilk đã và đang đầu tư xây dựng thương hiệu để giữ được vị trí của mình trên thị
trường:

 Công ty tập trung cho việc chuyên nghiệp hoá tất cả các bộ phận, từ bộ phận
marketing, quản lý thương hiệu đến chiến lược phân phối.
 Các bộ phận thiết kế, nghiên cứu và phát triển cũng như bán hàng, sản xuất, tiếp
thị … đều nhất quán trong chính sách xây dựng thương hiệu, phối hợp chặt chẽ
để đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện chính sách phát triển thương hiệu.

76
 Tất cả nhãn hiệu của Vinamilk đều có nhân sự chịu trách nhiệm quản lý để theo
dõi.
 Công ty tăng cường việc sử dụng các công ty tư vấn, công ty PR…
 Công ty cũng đầu tư mạnh cho công tác đào tạo kiến thức về quản trị thương
hiệu cho những vị trí này (tham gia các khoá đào tạo về quảng cáo, thương hiệu
của Vietnam Marcom, thuê chuyên gia Thuỵ Điển, Singapore huấn luyện
riêng…)
2.2.3.Chính sách quản lý chất lượng

Sữa là thực phẩm dinh dưỡng, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
con người; do đó, vấn đề chất lượng sữa luôn được Công ty đặt lên hàng đầu:

Công ty luôn chú trọng đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ ở tất cả các khâu:
nguyên liệu, chế biến, thành phẩm, bảo quản và vận chuyển…

Các thiết bị cũ, lạc hậu đã được thay thế bằng thiết bị tiên tiến, hiện đại như thiết
bị sản xuất sữa UHT, sữa đặc, sữa chua hũ, sữa bột và bột dinh dưỡng, sữa chua uống,
nước ép, kem, bánh…

Trong quá trình đầu tư, Công ty luôn hướng tới tính hiện đại, tính đồng bộ, lựa
chọn các nước có công nghệ và thiết bị ngành Sữa phát triển như Thuỵ Điển, Mỹ, Đan
Mạch, Hà Lan, Đức, Thuỵ Sỹ.

Công ty coi trọng yếu tố chuyển giao công nghệ và coi đó là bí quyết của sự
thành công. Từ chỗ áp dụng công nghệ thích nghi, chuyển dần sang làm chủ công nghệ
và cải tiến cho phù hợp vào điều kiện trong nước.

Ngoài ra, Công ty đang triển khai hệ thống công nghệ thông tin toàn Công ty
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày một không ngừng của Vinamilk. Đến nay, tất cả
các nhà máy sữa thành viên của Vinamilk đều áp dụng hệ thống quản lý chất lượng

77
theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2000 và áp dụng các hệ thống đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm như HAACCP, GMP …

2.2.4.Chính sách nguồn nguyên liệu

Mục tiêu đặt ra

 Đối với nguồn nguyên liệu sữa tươi, mục tiêu của Công ty là:

 Mở rộng quy mô các vùng nguyên liệu sữa tươi của mình nhằm thay thế dần
nguồn nguyên liệu ngoại nhập.
 Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu chăn nuôi , khai thác sữa , bảo
quản, vận chuyển đến sản xuất, cung cấp cho người tiêu dùng;
 Đảm bảo giải quyết đầu ra sản phẩm sữa cho nông đan chăn nuôi bò sữa, góp
phần gia tăng nhanh đàn bò sữa tại thành phố Hồ Chí Minh và trong cả nước
theo “định hướng phát triển bò sữa đến năm 2010“ của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.

Cụ thể, Vinamilk dự định tiếp tục đẩy mạnh các hỗ trợ nhằm phát triển nguồn nguyên
liệu bò sữa trong nước lên khoảng 50% trong vòng từ 3 – 5 năm tới, đồng thời phấn
đấu đến năm 2010 nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước sẽ thay thế cho khoảng 40 -
50% nguồn nguyên liệu ngoại nhập để phục vụ cho sản xuất của Công ty.

Chính sách hỗ trợ các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa .

Với các mục tiêu đề ra như trên, Công ty sẽ tiếp tục việc hỗ trợ nông dân chăn nuôi bò
sữa các chính sách sau:

 Hỗ trợ nông dân vay vốn mua con giống để phát triển chăn nuôi bò sữa; hỗ trợ
vốn và kỹ thuật giúp nông dân nâng cao chất lượng con giống, chất lượng
chuồng trại, đồng cỏ… và bao tiêu toàn bộ sản phẩm sữa bò tươi cho nông dân.

78
 Đầu tư phát triển mô hình trang trại chăn nuôi bò sữa kiểu mẫu với kỹ thuật hiện
đại, làm điểm tham quan học tập cho các trang trại và hộ gia đình chăn nuôi bò
sữa; hỗ trợ vốn và hợp tác với các địa phương để tạo ra những vùng chăn nuôi
bò sữa theo công nghệ tiên tiến.

 Phối hợp với các công ty và chuyên gia nước ngoài để mở rộng các chương trình
khuyến nông; hội thảo, tập huấn, cung cấp thức ăn hỗn hợp, các vật dụng cần
thiết trong chăn nuôi bò sữa với giá cả ưu đãi cho các hộ giao sữa cho Công ty.

 Trước tình hình giá thức ăn chăn nuôi có nhiều biến động, Công ty tăng giá thu
mua từ 3.500 đồng/kg lên 4.000 đồng/kg.

Nhờ tổ chức tốt khâu thu mua, sản lượng sữa tươi thu mua trong nước của
Vinamilk mỗi năm một tăng. Nếu như năm 2000, Công ty chỉ mua được hơn
50.848.619 kg, năm 2001: 63.186.000 kg, năm 2002: 73.200.000 kg, năm 2003:
85.663.683. Năm 2004, Công ty thu mua được 89 triệu lít sữa bò tươi nguyên chất
trong nước, tăng 4,1% so với năm 2003.

Đảm bảo chất lượng nguồn nguyên liệu sữa tươi.

Tính đến nay, Vinamilk đã xây dựng hơn 60 đại lý trung chuyển sữa tươi
nguyên liệu, với lượng sữa thu mua trên 260 tấn / ngày, chiếm hơn 80% lượng sữa tươi
trong cả nước.

Công ty đã đầu tư hệ thống kiểm tra chất lượng sữa tươi và xây dựng một đội
ngũ KCS làm nhiệm vụ kiểm tra chất lượng ngay từ khâu đầu vào của nguyên liệu.
Công ty cũng tổ chức tập huấn cho đội ngũ nhân viên này về công tác vệ sinh an toàn
thực phẩm (tập huấn về HACCP), giúp thông tin tư vấn kịp thời cho nông dân về chất
lượng sữa. Tuy nhiên, do phương thức chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam là phương thức
chăn nuôi nhỏ lẻ, trung bình mỗi hộ chăn nuôi từ 3 - 4 con bò vắt sữa, nên khó khăn
cho nhân viên trong việc thu mua và xét nghiệm mẫu kiểm tra chất lượng.

79
2.2.5.Chính sách đối với người lao động

Với chiến lược phát triển của ngành sữa hiện nay, Vinamilk xác định yếu tố
“con người“ sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của Công ty.

Chính sách đối với người lao động:

 Đảm bảo công việc đầy đủ cho người lao động, thu nhập của người lao
động ngày một được cải thiện. Ngoài thu nhập từ lương, người lao động còn có
thêm thu nhập từ lợi nhuận được chia theo tỷ lệ sở hữu của họ trong Công ty nếu
Công ty làm ăn có lãi.
 Thực hiện đầy đủ, quyền lợi và nghĩa vụ đối với người lao động theo
đúng với quy định của pháp luật.
 Có chính sách khen thưởng kịp thời đối với cá nhân và tập thể có công lao
đóng góp cho Công ty, có biện pháp kỷ luật đối với những cá nhân có hành động
ảnh hưởng xấu đến quyền lợi và uy tín Công ty.
 Hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để người lao động tham gia các
khóa đào tạo trong và ngoài nước nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ;
 Đào tạo và sắp xếp nguồn nhân lực phù hợp với tình hình phát triển Công
ty nhằm gia tăng về chất.

Chính sách đào tạo nguồn nhân lực

Công ty đặt mục tiêu đầu tư đào tạo nguồn nhân lực tri thức cao. Một số hoạt động đào
tạo Công ty đã và đang thực hiện:

 Công ty đã và đang chuẩn bị cho nguồn nhân lực trình độ cao trong tương
lai bằng cách gửi con em cán bộ, công nhân viên sang học ở các ngành: công
nghệ sữa và các sản phẩm từ sữa; tự động hoá quy trình công nghệ và sản xuất;

80
máy móc thiết bị sản xuất thực phẩm; quản lý trong ngành sữa. Đến nay, Công
ty đã hỗ trợ cho hơn 50 con em của cán bộ công nhân viên đi học theo diện này.

 Công ty tuyển sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học tại thành
phố Hồ Chí Minh và đưa đi du học chuyên ngành ở nước ngoài.

 Những cán bộ công nhân viên có yêu cầu học tập cũng được Công ty hỗ
trợ 50% học phí cho các khoá nâng cao trình độ và nghiệp vụ.

II. Một số biện pháp đề xuất nhằm nâng cao NLCT của Công ty Vinamilk
1.Về phía Nhà nước:Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành
sữa

Tính đến nay, số cổ phần Nhà nước còn nắm giữ tại Vinamilk là 60,47%. Đợt
bán cổ phần lần thứ ba tới diễn ra, thì phần vốn Nhà nước tại Vinamilk sẽ còn là 51%.
Sở dĩ Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối, là do với tư cách là “đầu ra“ cho đàn bò,
cho đầu tư của người nông dân, nên việc Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối tại
Vinamilk sẽ có lợi hơn cho người nông dân.

Hiện Vinamilk cũng là đơn vị thu mua sữa của người nông dân với khối lượng
lớn nhất trong số các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này. Tỷ lệ nội địa
hoá từ nguồn sữa tươi thu mua trong nước của Vinamilk hiện là 35%.

1.1.Về thị trường

Các doanh nghiệp thực hiện đăng ký nhãn hiệu, mẫu mã và chất lượng sản phẩm
theo quy định. Tăng cường tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc sử dụng
sữa trong việc nâng cao sức khoẻ, tăng cường thể chất. Duy trì và cải tạo giống nòi.
Nhà nước cần thực hiện một chương trình quốc gia về sữa, chẳng hạn chương trình sữa
học đường mà nhiều nước thường hay làm. ( “Chương trình sữa“ cần có được sự bảo

81
trợ của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch Quốc hội, và lập ra Ban
Điều hành cấp quốc gia.)

Cần tổ chức và trang bị những phương tiện chuyên chở, bảo quản sữa một cách
phù hợp, đảm bảo chất lượng sữa và để bán được sữa với giá cao. Nhà nước có những
quy định cụ thể cho nhà máy sữa, về việc thu mua sữa tươi của các nông hộ, tránh ép
giá, ép cấp, ép thời gian, ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của bò cũng như hiệu quả
của ngành.

Phối hợp với Bộ Thương mại và các tham tán thương mại Việt Nam ở nước
ngoài giúp cung cấp thông tin, xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm
sữa.

1.2.Về đầu tư

Về năng lực sản xuất: Tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất đối với các nhà máy
hiện có và đầu tư xây dựng các nhà máy mới để giai đoạn 2006-2010 tăng thêm 22
triệu lít/năm.

Đầu tư nhà máy sản xuất bao bì phục vụ cho ngành Sữa để có thể tự chủ về mẫu
mã, đáp ứng việc thay đổi mặt hàng nhanh, giảm nhập ngoại những công đoạn mà Việt
Nam tự sản xuất được.

Về phân bố sản xuất: Tại các khu vực chăn nuôi bò sữa tập trung như miền
Đông Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, tập trung đầu tư
một số cơ sở sản xuất có quy mô lớn để tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ.

Tổ chức các nhà máy chế biến quy mô nhỏ, công suất 4-5 triệu lít/năm tại những
vùng có quy mô đàn bò sữa nhỏ phân tán ở các tỉnh Trung du miền núi và một số tỉnh
miền Tây Nam Bộ.

82
Củng cố và hiện đại hoá các cơ sở hiện có làm tốt nhiệm vụ nhân giống, tạo
giống bò sữa và dịch vụ con giống cho các hộ nông dân. Tập trung phát triển mạnh đàn
bò sữa trong các hộ nông dân: chăn nuôi quy mô nhỏ kết hợp sản xuất kinh doanh và
chăn nuôi trang trại quy mô vừa và lớn theo hướng sản xuất hàng hoá, ưu tiên phát
triển ở vùng ngoại ô các thành phố, đô thị, khu công nghiệp, dọc đường trục chính
thuận tiện cho thu gom, vận chuyển sữa về nơi chế biến, tiêu thụ. Củng cố xây dựng
các cơ sở thu gom sữa, kết hợp làm tốt đồng thời dịch vụ thú y, thức ăn, phối giống….

1.3.Về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ

Khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu sản phẩm mới, áp dụng công nghệ
mới, đặc biệt nghiên cứu sử dụng nguyên liệu trong nước thay thế nhập khẩu.

Tăng cường hoạt động của các cơ quan nghiên cứu khoa học, xây dựng mối liên
kết bền vững giữa nghiên cứu và ứng dụng khoa học trong sản xuất kinh doanh.

Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo để nâng cao
chất lượng nghiên cứu từ giống, kỹ thuật chăn nuôi, thú y, thức ăn và chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật cho người chăn nuôi.

1.4.Về phát triển vùng chăn nuôi bò sữa

Xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà
nước và Nhà khoa học trên cơ sở bảo đảm lợi ích và trách nhiệm của các chủ thể thông
qua hợp đồng kinh tế dài hạn.

Rà soát quỹ đất hiện có, dành một phần đất phù hợp để hướng dẫn nông dân
phát triển đồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò sữa.

Tạo quỹ hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu bằng việc trích tỷ lệ 2-5% trên giá trị
nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất sữa vào chi phí sản xuất.

83
Nâng cao chất lượng đàn bò sữa: để tiếp tục phát triển đàn bò sữa ở Việt Nam
trong thời gian tới, trước mắt từ nay đến năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã có văn bản hướng dẫn, khuyến khích các địa phương thực hiện chăn nuôi bò
sao cho thích hợp với từng vùng, từng điều kiện cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao. Trước
hết, phải chọn lọc những bò sữa tốt nhất để làm giống và sản xuất sữa; không khuyến
khích phát triển bò sữa ở những vùng mới, những nơi không có điều kiện chăn nuôi bò
sữa và những hộ nông dân chưa được tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi, tổ chức tốt việc
chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đàn bò hiện có. Nông dân đẩy mạnh trồng cỏ, trồng
ngô và các loại thức ăn xanh khác, đồng thời sử dụng tốt nguồn phế phụ phẩm nông
nghiệp làm thức ăn cho đàn bò. Các địa phương cần có chính sách quản lý tốt hệ thống
thu mua sữa và mua hết sữa tươi do người chăn nuôi sản xuất; huy động vốn từ các
nguồn để hỗ trợ chăn nuôi bò sữa thông qua việc hỗ trợ giá sữa tươi sản xuất ra khoảng
từ 300-500 đồng/lít.

Có chính sách, cơ chế gắn chế biến, tiêu thụ sữa với việc phát triển nguyên liệu
sữa tươi trong nước; gắn nghĩa vụ nhập sữa bột (rẻ) với nghĩa vụ nộp thuế cao và cả
nghĩa vụ mua sữa tươi của nông dân. Kinh nghiệm của một số nước, như Thái Lan: các
Công ty mua của nông dân 20kg sữa tươi, thì được nhập 1 kg sữa bột. Các Công ty,
các nhà máy chế biến sữa muốn mở rộng sản xuất (nhập được nhiều sữa bột), thì phải
có các biện pháp cụ thể về kỹ thuật, tổ chức thu gom bảo quản sữa, hỗ trợ sản xuất cho
người nông dân và coi sản phẩm sữa là nguyên liệu hàng đầu.

Học tập những mô hình chăn nuôi thành công của nước ngoài.

Hàng năm tổ chức thi bò sữa theo quy mô tỉnh, khu vực, nhằm khuyến khích
người chăn nuôi bò sữa và tạo điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm.

Giải pháp về thức ăn: diện tích vùng bãi chuyên trồng cỏ, theo định mức 500m2
cỏ cho một con bò sữa. Tổ chức ủ xanh cây ngô vụ đông đã thu bắp để làm thức ăn dự

84
trữ; hướng dẫn sử dụng phụ phẩm nông nghiệp; rỉ mật đường và bổ sung khoáng, làm
thức ăn cho bò sữa.

1.5.Quan tâm đến “sản phẩm đầu ra“, ở đây chủ yếu là sữa tươi

Sữa là một sản phẩm dinh dưỡng, đồng thời cũng là môi trường lý tưởng cho vi
sinh vật phát triển. Hơn nữa, nước ta nóng ẩm, khí hậu dễ thay đổi thất thường, vì vậy
sữa càng nhanh hỏng. Chỉ khoảng 5 giờ sau khi vắt, sữa nếu không được chế biến hoặc
bảo quản lạnh, thì sẽ không còn dùng được nữa. Hiện đàn bò sữa được nuôi phân tán
trong các gia đình nông dân (xung quanh một số thành phố lớn), gia đình không có đủ
các phương tiện, nhân công vận chuyển và bảo quản sữa nên thường phải bán sữa qua
mạng lưới thu gom, gặp nhiều khó khăn (lợi nhuận thấp, bị động và nhiều khi bị ép
cấp, ép giá …). Người tiêu dùng không có được loại sữa chất lượng và vệ sinh đảm
bảo. Mới gần đây thôi, một số Công ty sữa (Vinamilk, Foremost, Netsle) lắp đặt và tổ
chức một số trạm thu gom sữa nhưng số lượng thu mua còn hạn chế, và trong tổ chức
còn nhiều bất cập. Nhà nước cần đầu tư, tăng cường tổ chức các trạm, mở rộng mạng
lưới thu gom, boả quản đặt rải ra ở các địa phương có bò sữa, công suất 1000 đến
2000kg/ngày. Có thể để cho tư nhân tổ chức thu gom, làm lạnh sữa, nếu tổ chức các
trạm thu gom, thì cần gắn liền với các tổ chức nông dân, như Hiệp Hội chăn nuôi bò
sữa, HTX cổ phần chăn nuôi bò sữa …(có sự giúp đỡ của Nhà nước và của Công ty
sữa, như cho vay vốn dài hạn để mua sắm thiết bị, phương tiện, tập huấn kỹ thuật, kỹ
thuật kiểm tra chất lượng sữa.)

1.6. Giải pháp về thú y và vệ sinh thực phẩm

Tổ chức định kỳ tiêm phòng bệnh nhiệt thán, tụ huyết trùng, ký sinh trùng
đường máu, tẩy sán lá gan và kiểm tra lao cho tất cả đàn bò sữa. Hướng dẫn quy trình
kỹ thuật sản xuất sữa sạch, ban hành tiêu chuẩn sữa chất lượng và an toàn, xây dựng
phòng kiểm nghiệm chất lượng và vệ sinh sữa ở các đơn vị sản xuất và tiêu thụ sữa.
Xây dựng các Cửa hàng bán sữa sạch và Đại lý phân phối sữa sạch (đình chỉ các cửa
hàng không đạt tiêu chuẩn)

85
Đào tạo cán bộ kỹ thuật chăn nuôi, thú y, thụ tinh, kiểm nghiệm sữa .. cho địa
phương; định chế độ phụ cấp cho cán bộ kỹ thuật trực tiếp; đào tạo, tập huấn kỹ thuật
chăn nuôi bò sữa năng suất cao, sản xuất sữa sạch.

1.7.Về phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng chương trình và kế hoạch đồng bộ mang tầm chiến lược trong việc
đào tạo đội ngũ cán bộ và thợ lành nghề. Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho các cơ
sở đào tạo nhân lực tại chỗ. Kết hợp các khoa đào tạo chuyên ngành tại các trường đại
học trong nước, có chính sách tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp đúng chuyên ngành
về làm việc cho ngành; cử người đi đào tạo tại những nước có truyền thống về sản xuất
sữa.

1.8.Về huy động vốn

Nguồn vốn ngân sách tập trung đầu tư vào xây dựng các trung tâm giống, các
trung tâm nghiên cứu sản xuất tinh, các viện nghiên cứu và đào tạo đội ngũ gieo tinh
viên, các trường để đào tạo nguồn nhân lực cho ngành sữa.

Nguồn vốn của các doanh nghiệp tập trung vào việc đầu tư phát triển năng lực
chế biến, ứng vốn hỗ trợ một phần vốn cho người chăn nuôi, đầu tư xây dựng các trạm
thu mua sữa tại các khu vực, xây dựng đội ngũ cán bộ phát triển nguồn nguyên liệu.

Huy động tối đa mọi nguồn vốn trong xã hội như vốn tín dụng, vốn thuộc các
chương trình của Nhà nước, huy động từ việc bán trái phiếu, cổ phiếu, vốn FDI, ODA
cho việc đầu tư các dự án chế biến sữa cũng như các dự án đầu tư phát triển vùng
nguyên liệu.

Chính sách của Nhà nước đối với ngành sữa nói chung và đối với Công ty
Vinamilk nói riêng.

2.Về phía doanh nghiệp

86
2.1.Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp
*Chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ giúp phát huy được thế mạnh của doanh
nghiệp, đạt được mục tiêu đề ra, nâng cao năng lực cạnh tranh. Cụ thể:

 Trong chiến lược kinh doanh chung, doanh nghiệp phải xác định được thế
mạnh của mình, không đầu tư dàn trải, luôn đưa yếu tố hội nhập vào trong chiến
lược để chủ động đối phó.

 Về sản phẩm: Trên cơ sở soát lại quy hoạch và chiến lược sản phẩm đã
có, doanh nghiệp nên tiến hành điều chỉnh hoặc xây dựng mới chiến lược sản
phẩm theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, đặt mục tiêu lợi nhuận dài hạn lên
hàng đầu. Sản phẩm phải bám sát nhu cầu của thị trường, phục vụ ngày càng tốt
hơn nhu cầu người tiêu dùng. Trước mắt cần tập trung ưu tiên đầu tư phát triển
các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao và có thị trường đầu ra hiện tại lớn, sau
đó sẽ dần chuyển sang những mặt hàng có giá trị cao. Không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến thiết kết, tạo mẫu, chuyển dần từ những mặt hàng
chất lượng thấp, trung bình sang những mặt hàng chất lượng cao, giá trị lớn.

 Về thị trường: dựa vào khả năng và ưu thế hiện tại của mình, doanh
nghiệp tập trung vào phân đoạn thị trường trọng điểm của mình. Doanh nghiệp
cần làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, tạo được một mạng lưới tiếp thị phân
phối rộng khắp, phản ứng nhanh nhạy trước những thay đổi của đối thủ cạnh
tranh. Sau khi củng cố được phân đoạn của mình, doanh nghiệp mới đặt kế
hoạch mở rộng thị trường sang những khu vực mới hay mặt hàng mới.

 Về phân phối: trong điều kiện công nghệ còn lạc hậu thì chiến lược phân
phối hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh được trong điều kiện hội nhập.
Doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống
phân phối, kể cả chất lượng dịch vụ trước và sau khi bán cho phù hợp với đặc
điểm của thị trường tiêu dùng. Đa dạng hoá các kênh tiêu thụ sản phẩm, nhưng

87
nên cố gắng phát triển kênh phân phối sản phẩm trực tiếp, tránh phụ thuộc vào
các đơn vị trung gian ….Đưa thương mại điện tử vào như một kênh phân phối
mới, năng động, hiệu quả, thường xuyên tiến hành tuyên truyền quảng bá sản
phẩm của mình qua nhiều phương thức khác nhau.

 Về đổi mới công nghệ: doanh nghiệp phải xây dựng kết hoạch từng bước
đổi mới dây chuyền công nghệ để tăng năng suất, hạ giá thành. Đầu tiên, cần lựa
chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng trước nhất
đến chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành đổi mới, nâng cấp trước.

 Về nhân lực: Nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành, quản lý
doanh nghiệp cho người quản lý, trình độ tay nghề của người lao động, chú
trọng phát huy sáng kiến, cải tiến trong hoạt động của doanh nghiệp.

 Về giá cả: sử dụng giá như một công cụ để cạnh tranh (hiện nay
Vinamilk làm rất tốt điều này)

2.2.Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập


Để nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể chủ động hội nhập kinh tế, đối phó
với những tác động xấu của hội nhập đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
một nhận thức đúng đắn về hội nhập, bởi như Tôn Tử nói “ biết người, biết ta, trăm
trận trăm thắng “, chỉ có hiểu rõ về hội nhập thì doanh nghiệp mới có thể hội nhập
thành công. Nên doanh nghiệp bắt buộc phải có nhận thức, tư tưởng về hội nhập. Tư
tưởng đó bao gồm những vấn đề sau:
 Bản chất của hội nhập là gì?
 Tiến trình hội nhập của Việt Nam như thế nào?
 Hội nhập là không thể tránh khỏi. Nó là cơ hội, đồng thời cũng là thách
thức. Không sợ hội nhập, chỉ sợ chuẩn bị không tốt.
 Hội nhập gắn liền với cạnh tranh, nhưng không phải hội nhập thì mới có
cạnh tranh.

88
 Ỷ lại vào bảo hộ tất yếu sẽ bị đào thải.
 Thực sự quyết tâm hội nhập.
 Nhà nước cho cần câu chứ không cho con cá.
 Nhà nước chỉ hỗ trợ chính sách thông thoáng, cải thiện năng lực cạnh
tranh quốc gia.
Những tư tưởng trên phải được doanh nghiệp phổ biến cho toàn thể công nhân
viên trong doanh nghiệp, từ người lãnh đạo quyết định chiến lược của doanh nghiệp
đến anh công nhân vận hành máy bình thường. Chỉ khi tất cả mọi người trong doanh
nghiệp thấm nhuần tư tưởng, họ cảm thấy áp lực của hội nhập đang đến gần, lúc ấy,
mọi người mới thấy nguy cơ, thách thức của hội nhập đe doạ, bức bách họ và học sẽ
phải nỗ lực, cố gắng nhiều hơn vì công việc, nghề nghiệp, vì doanh nghiệp, ngành của
mình. Đồng thời với việc truyền bá tư tưởng về hội nhập, doanh nghiệp cũng phải luôn
bám sát, cập nhật các thông tin về hội nhập như thuế suất, định hướng của Nhà nước,
các cam kết của ta và các đối tác thương mại, thông tin về chính sách thương mại,
chính sách xuất nhập khẩu …để có biện pháp kịp thời đối phó với tình hình, chủ động
phản ứng mau lẹ trước những diễn biến trên thị trường. Doanh nghiệp nên lập ra một
bộ phận chuyên trách thu thập, nghiên cứu và phân tích các thông tin về hội nhập, và
liên quan đến hội nhập sao cho thật nhanh và chính xác. Bởi ngày nay trong thời đại
hội nhập, thì “ thời gian là vàng , còn thông tin là tiền “.
2.3.Phát huy nhân tố con người

Thực tiễn đã chứng minh, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Để phát triển, Công ty phải
hướng tới thị trường, công việc này là công việc của cả tập thể chứ không phải của cá
nhân riêng ai. Tài sản lớn nhất của các Công ty ngày nay không phải là lâu đài hay
công xưởng, mà là ý tưởng, là chất xám của con người, con người làm ra sản phẩm,
máy móc, chứ không phải máy móc “ sản xuất “ ra con người. Việc phát triển nhân tố
con người đóng vai trò then chốt, là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình thực

89
hiện giải pháp kinh doanh của mình, đầu tư vào nguồn nhân lực là hoạt động sinh lời
nhất, hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế Việt
Nam đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì vai trò của nguồn nhân lực lại càng
được đánh giá cao hơn. Bởi vì trong điều kiện nước ta, khi các yếu tố như năng lực
công nghệ và năng lực tài chính còn yếu và thiếu thì nguồn nhân lực dồi dào, thông
minh, cần cù, chăm chỉ chính là lợi thế lớn nhất để Việt Nam hội nhập thành công.
Chính vì thế, công nghiệp Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp sữa nói riêng
phải tập trung phát huy nhân tố con người một cách hiệu quả nhất để khai thác được
những thế mạnh của họ, hạn chế, khắc phục những điểm yếu của người lao động mới
có thể cạnh tranh được thành công khi chúng ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Khi đầu tư cho nguồn nhân lực, Công ty nên thực hiện một số biện pháp sau:

Kiện toàn bộ máy tổ chức, đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ, cải tiến lề
lối làm việc, rèn luyện đạo đức tác phong lao động phải sắp xếp, bố trí lao động một
cách hợp lý đúng người đúng việc, tránh tình trạng chuyên môn một đằng phân công
một nẻo. Sắp xếp lại các phòng ban theo hướng tinh giản gọn nhẹ, năng động và hiệu
quả, xây dựng nội quy làm việc rõ ràng, nghiêm khắc, thưởng phạt phân mình để thúc
đẩy tác phong làm việc công nghiệp cho người lao động. Doanh nghiệp nên quan tâm
đào tạo và đầu tư thích đáng cho cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp. Bởi các thành
viên Ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu
các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan
hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích trước mắt, như
tăng doanh thu lợi nhuận, mà còn cả lợi ích – uy tín lâu dài của doanh nghiệp và đây
cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thế nên, Ban giám đốc phải nắm vững kiến thức không chỉ về kinh tế, quản lý, mà còn
phải có kiến thức cả về công nghệ để bắt kịp tốc độ phát triển của quá trình hội nhập.
Để phát huy bộ phận này đòi hỏi Công ty phải chú trọng vào việc tìm và bồi dưỡng
những cán bộ trẻ có tài, có năng lực, năng động với thời cuộc. ối với người lao động,

90
cần thông qua việc “xã hội hoá giáo dục và đào tạo“, tiến hành đào tạo và tái đào tạo
đội ngũ lao động theo chiến lược sản phẩm đã xác định, theo hướng tỷ trọng lao động
cơ bắp giảm dần và tỷ trọng lao động trí tuệ tăng lên và ngày càng chiếm ưu thế trong
tổng lao động của doanh nghiệp.

Luôn luôn chú ý quan tâm đến nguyện vọng, tâm tư của người lao động, đảm
bảo tính công bằng trong đãi ngộ, và một bầu không khí tập thể hoà thuận, thoải mái
và năng động. Xây dựng một bầu không khí “văn hóa doanh nghiệp“ lành mạnh và phù
hợp với ngành, làm người lao dộng từ trên xuống dưới luôn thấm nhuần tư tưởng, mục
đích hoạt động của doanh nghiệp. Nó sẽ góp phần tạo ra một chất keo gắn bó giữa
những người lao động với nhau và giữa người lao động với Công ty của mình. Từ đó,
có thể thúc đẩy động cơ làm việc, năng lực của người lao động, phát huy năng lực sáng
tạo của người lao động, giúp người lao động tiếp thu được các chuẩn mực đạo đức và
có thái độ hăng hái làm việc, nhằm đạt được mục đích của Công ty, tạo động lực mạnh
mẽ cho sự thành đạt của Công ty.

2.4.Đầu tư hợp lý cho công nghệ

Với tư duy thiển cận, trước mắt thì dường như hoạt động đầu tư khoa học kỹ
thuật công nghệ hiện đại và tăng tỷ suất khấu hao tài sản cố định dẫn đến hệ quả làm
cho giá thành hàng hoá đội lên trong khi giá bán hàng hoá không đổi. Nhưng trong
trung và dài hạn, kỹ thuật, công nghệ mới cho phép các doanh nghiệp tiệm cận trình độ
kỹ thuật - công nghệ trung bình của thế giới, đưa năng suất lao động tăng lên, tạo ra
những sản phẩm với chất lượng cao, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh
tranh, giúp doanh nghiệp chuyển từ thế bị động sang thế chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại là lối thoát ra khỏi suy thoái.
Đấy là một tất yếu không thể đảo ngược, đầu tư công nghệ là bắt buộc, vấn đề đặt ra là
đầu tư công nghệ mới như thế nào? Đầu tư phải phù hợp đúng nơi, đúng chỗ, đúng thời
gian:

91
 Thời gian đầu tư phải thật nhanh chóng, chủ động với diễn biến của thị trường.

 Với lợi thế của người đi sau, Công ty có thể đầu tư mới cho mình những dây
chuyền hiện đại và phù hợp với mình. Đối với các dây chuyền cũ thì tiến hành
nâng cấp những dây chuyền còn tương đối tốt, loại bỏ dần dần những dây
chuyền quá cũ, hao phí nguyên liệu nhiều.

 Đầu tư, hợp tác, liên kết với các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong nước
để phát triển sản phẩm mới, công nghệ mới. Đây là một hình thức đầu tư rất tốt,
đôi bên cùng có lợi, mà hiện nay các doanh nghiệp trong nước còn chưa quan
tâm lắm.

 Đầu tư có chiều sâu, chuyển dần từ những dây chuyền công nghệ sản xuất sản
phẩm có chất lượng trung bình sang dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm
chất lượng cao, giá trị lớn. Đầu tư vào CNTT như một biện pháp hỗ trợ quản lý
cho doanh nghiệp, giảm chi phí hành chính.

 Đầu tư phù hợp với năng lực của mình, trình độ của mình về tiềm lực tài chính
và khả năng nắm bắt kỹ thuật.

 Đa dạng hoá hình thức đầu tư, các doanh nghiệp trong ngành có thể liên doanh,
liên kết cùng đầu tư một dây chuyền, phối hợp với các doanh nghiệp ngoài nước
xây dựng nhà máy mới ….

2.5. Giải pháp về xây dựng thương hiệu và văn hoá kinh doanh

- Về xây dựng thương hiệu cho sản phẩm

Doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình. Điều
này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong kinh doanh quốc tế.
Xây dựng được thương hiệu nổi tiếng góp phần tạo dựng uy tín doanh nghiệp, qua đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

92
- Về văn hoá trong kinh doanh

Doanh nghiệp cần chú trọng giáo dục lề lối tác phong văn hoá, lễ nghi cho cán
bộ trong giao tiếp, đàm phán với phương châm lấy chữ tín làm đầu và là nguyên tắc
kinh doanh. Thực hiện được nền nếp văn hoá kinh doanh chính là góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

KẾT LUẬN

Trong xu thế hội nhập và phát triển toàn cầu, kinh tế Việt Nam nói chung và
ngành sữa nói riêng có những bước phát triển mạnh mẽ. Với truyền thống cần cù, siêng
năng, ham học hỏi cộng với lực lượng lao động dồi dào, bên cạnh việc đáp ứng được
nhu cầu ngày càng lớn trong nước, mới đây mặt hàng sữa và sản phẩm sữa vừa mới
được gia nhập “câu lạc bộ“ những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Công ty đã góp phần
tích cực giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động nông thôn.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển hiện nay, Công ty phải đối mặt với rất
nhiều thách thức mới có thể tồn tại trong nền kinh tế quốc tế với nhiều đối thủ cạnh
tranh. Thách thức lớn nhất của Công ty là nguồn nguyên liệu chưa đáp ứng nhu cầu
sản xuất, thông tin về thị trường còn hạn chế, máy móc thiết bị còn phải nhập khẩu,
hoạt động xuất khẩu còn thiếu chính sách quản lý đồng bộ …Tất cả những yếu tố trên
ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của Công ty Vinamilk.

Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk, không
những bản thân Công ty phải tự mình nỗ lực không ngừng, mà các Bộ ngành liên quan

93
cùng Chính phủ cần có những biện pháp, chính sách hỗ trợ thích đáng để giúp Công ty
lên vị trí xứng đáng với tiềm năng phát triển của Công ty trong quá trình phát triển của
đất nước.

94
Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài : Năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần sữa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế .

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

1.Các trang web :

 www.vinamilk.com.vn

 www.bsc.com.vn

 www.vnexpress.net

 www.google.com

 www.vnn.vn

 www.moi.gov.vn

2.Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê năm 2002 , 2003 .

3.Quyết định số 22/2005/QĐ-BCN về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành công
nghiệp Sữa Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020

4.Tạp chí chăn nuôi

5.Tạo chí nghiên cứu kinh tế .

6.Tạp chí sản xuất và thị trường .

Trang 95

You might also like