Phân Loại Bệnh Quốc Tế Lần Thứ 10 Về Các Rối Loạn Tâm Thần Và Hành Vi

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 100

PHÂN LOẠI BỆNH QUỐC TẾ LẦN THỨ 10 VỀ CÁC RỐI LOẠN

TÂM THẦN VÀ HÀNH VI


PHÂN LOẠI BỆNH QUỐC TẾ LẦN THỨ 10
VỀ CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN VÀ HÀNH VI

(Mô tả lâm sàng và nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán)

The ICD-10 Classification of Mental and Behavioural Disorders


Clinical descriptions and diagnostic guidelines

Người dịch: GS. NGUYỄN VIỆT

LỜI NÓI ĐẦU

Phần “Các rối loạn tâm thần và các rối loạn hành vi” (phần F) của tập phân
loại bệnh quốc tế, biên soạn lần thứ 10 (PLBQT10 (F)) là kết quả rực rỡ của một
quá trình không ngừng hoàn chỉnh cách phân loại và các tiêu chuẩn chẩn đoán
của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) từ hơn 30 năm qua, bắt đầu từ năm 1960.

Hai sự kiện đáng ghi nhớ trong quá trình này là sự ra đời của tập phân loại
bệnh quốc tế 9 năm 1978, phần các rối loạn tâm thần, hay phần V (PLBQT9(V))
và tiếp theo sau, sự ra đời và thành công của tập “chẩn đoán và thống kê các rối
loạn tâm thần”, biên soạn lần thứ 3 (DSM3) của Hội tâm thần học Mỹ (1980). Tập
này đã nêu lên những tiêu chuẩn cụ thể, cần và đủ để chẩn đoán các mục trong
PLBQT9 (V). Cho đến nay, PLBQT9 (V) và DSM3 đã thực sự trở thành cẩm
nang chẩn đoán của số đông các nhà tâm thần học trên thế giới

Trên cơ sở những thành tựu của PLBQT9 (V) và DSM3, TCYTTG chuẩn bị
cho việc biên soạn tập PLBQT10 (F) theo một chương trình hợp tác quốc tế rộng
rãi và dài hạn. Ngay từ 1980 đã bắt đầu xuất hiện những hội nghị quốc tế có liên
quan đến việc biên soạn này. Nhiều bản dự thảo thay nhau ra đời, bản sau hoàn
chỉnh hơn bản trước. Bản (dự thảo năm 1987 được dùng để nghiên cứu lâm
sàng thí điểm (thử nghiệm thực địa) ở hơn 100 Trung tâm nghiên cứu lâm sàng
trong 40 nước trên thế giới. Do điều kiện riêng, năm 1988 ngành tâm thần chúng
ta chỉ tham gia nghiên cứu một phần và đã gửi bản nhận xét tổng quát và đề
nghị sửa đổi của mình cho TCYTTG (GENEVA). Chính trong quá trình tham gia
nghiên cứu này, chúng ta đã dịch bản 1987 ra tiếng Việt và đã tổ chức hai cuộc
tập huấn về PLBQT10 (F) ở Đồ Sơn và Biên Hòa. Bản dịch này là bản dịch thứ 2
của PLBQT10 (F) dịch theo nguyên bản tiếng Anh năm 1992 của TCYTTG.

Tập PLBQT10 (F) này là kết tinh của những cố gắng liên tục trong nhiều
năm của 915 nhà tâm thần học có uy tín ở 52 nước. Do vậy nó phản ánh được
những trường phái và truyền thống chủ yếu về tâm thần học trên thế giới, và từ
đó chắc chắn sẽ được số đông các nhà tâm thần học trên hành tinh chúng ta
nhiệt liệt hoan nghênh.

Tập này được xuất bản trước tiên (1992) nhằm phục vụ chủ yếu cho công
tác chẩn đoán và giảng dạy lâm sàng. Sắp đến sẽ ra đời một tập khác, chi tiết
hơn, dùng riêng cho các nhà nghiên cứu và một tập nữa, giản đơn hơn, dùng
cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Giữa PLBQT 9 (V) và PLBQT10 (F) có một số điểm khác nhau cần đặc
biệt lưu ý:

Tính theo mục ba chữ số thì PLBQT 9 (V) có 30 mục, còn PLBQT10 (F) có
nhiều hơn đến 100 mục, bao gồm hơn 300 rối loạn tâm thần và hành vi.

PLBQT9 (V) phân loại trên cơ sở phân biệt giữa các bệnh tâm căn
(neurosis) và bệnh loạn thần (psychosis) còn PLBQT10 (F) thì phân loại theo
từng nhóm rối loạn có chung một chủ đề lớn hoặc có những nét mô tả lâm sàng
gần nhau. Thí dụ các rối loạn tâm thần căn nguyên thực tổn đều xếp vào các
mục từ F00 đến F09; các rối loạn tâm thần do sử dụng các chất tác động tâm
thần được đưa vào các mục từ F10 đến F19. Trong mỗi chương của PLBQT10
(F) đều có bổ sung các mục mới. Thí dụ trong chương F2 (F20 - F29) có đưa
thêm những mục mới như: Tâm thần phân liệt không biệt định, trầm cảm sau
phân liệt, rối loạn loại phân liệt, các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời, vân vân.

Về mặt thuật ngữ, PLBQT10 (F) dùng từ “rối loạn” chứ không dùng từ
“bệnh” để tránh sự gán ghép vấn đề trầm trọng và phức tạp vào trong từ “bệnh”.
PLBQT10 (F) cũng không dùng các từ tâm sinh, (psychogenic) và tâm thể
(psychosomatic) vì chúng có ý nghĩa khác nhau tùy theo ngôn ngữ mỗi dân tộc
và truyền thống tâm thần học mỗi nước. Các thuật ngữ tật chứng (impairment),
rối loạn chức năng hoạt động (disability) và tổn thiệt (handicap) được dùng theo
định nghĩa của TCYTTG năm 1980 (đã được trình bày trong tập PLBQT10 (F)
này, hơn 10 năm qua, các chuyên viên tâm thần học (tham gia biên soạn) đã
thảo luận sôi nổi và kiên trì về khá nhiều mục, chẳng hạn như. Các hội chứng
tiền triệu trong bệnh tâm thần phân liệt (TTPL), tách các rối loạn loạn thần kinh
cấp và nhất thời ra khỏi bệnh TTPL, các rối loạn phân liệt cảm xúc, các trạng thái
hỗn hợp lo âu và trầm cảm, các rối loạn phân ly và dạng cơ thể, bệnh suy nhược
thần kinh, các rối loạn tâm thần hậu sản, các rối loạn tâm thần khởi phát ở tuổi
trẻ em và thanh thiếu niên...

Như vậy, tập PLBQT10 (F) tuy là một thành công xuất sắc nhưng vẫn có
thể còn chứa đựng một số vấn đề cần thử nghiệm và trao đổi thêm, trong phạm
vi toàn thế giới, để thập kỷ sau, lập PLBQT11 (F) sẽ ra đời với nội dung hoàn
chỉnh hơn.

Trong hoàn cảnh nước ta, dịch và xuất bản kịp thời tập PLBQT10 (F) đã
phục vụ cho các công tác chẩn đoán, điều trị và giảng dạy cũng như cho Hội
thảo quốc gia (12-1992), về chương F4) cũng là một thành tựu đáng kể. Trước
hết đó là công sức của những người dịch, những người biên tập ấn loát đã kiên
trì đóng góp vào việc xuất bản, bản dịch thứ nhất (1988) và bản dịch thứ 2
(1992) này.
Chúng ta không quên công sức của giáo sư N. Sartorius, người đại diện
của TCYTTG và chủ biên tập PLBQT10 (F) này đã tạo điều kiện thuận lợi cho
chúng ta tham gia thử nghiệm thực địa năm 1986.

Chúng ta cũng nhớ đến BS. N. Shinfuku người đã tán thành, động viên và
giúp đỡ chúng ta tổ chức các cuộc hội thảo và tập huấn về PLBQT10 (F) năm
1988 và 1992.

Một nhân tố hết sức quan trọng đã thúc đẩy sự hình thành và ra đời tập
PLBQT10 (F) là sự nhiệt liệt hưởng ứng, liên tục động viên và tích cực ủng hộ
của Viện sức khỏe tâm thần và Bệnh viện tâm thần Trung Ương cũng như của
các bạn đồng nghiệp trong toàn ngành tâm thần, từ Bắc chí Nam.

Tuy nhiên, dù nhận được sự giúp đỡ to lớn đến đâu, bản dịch lần này vẫn
không thể tránh được những sai sót trong hoàn cảnh phải dịch nhiều thuật ngữ
mới lạ, nhiều mục chuyên sâu phức tạp trong một thời gian tương đối ngắn để
phục vụ được kịp thời.

Rất mong nhận được nhiều nhận xét phê bình của các bạn đọc và các bạn
đồng nghiệp để lần tái bản tập PLBQT10 (F) sẽ được sửa chữa hoàn hảo hơn.

THAY MẶT NHỮNG NGƯỜI DỊCH


Giáo sư Nguyễn Việt
Nguyên Viện trưởng Viện sức khỏe tâm thần

Phần 1. F00-F09. CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN THỰC TỔN BAO GỒM
CẢ RỐI LOẠN TÂM THẦN TRIỆU CHỨNG
Nhìn tổng quát phần này

F00. Mất trí trong bệnh Alzheimer.

F01. Mất trí trong bệnh mạch máu.

F02. Mất trí trong các bệnh lý khác được xếp loại ở chỗ khác.

F03. Mất trí không biệt định.


F04. Hội chứng quên thực tổn, không do rượu và các chất tác động tâm
thần khác.

F05. Sảng không do rượu và các chất tác động tâm thần khác.

F06. Các rối loạn tâm thần khác do tổn thương não và rối loạn chức năng
não và bệnh cơ thể.

F07. Các rối loạn hành vi và nhân cách do bệnh lý não, tổn thương não và
rối loạn chức năng não.

F08. Các rối loạn hành vi về nhân cách thực tổn khác do bệnh não, tổn
thương não và rối loạn chức năng não.

F09. Rối loạn tâm thần triệu chứng hoặc thực tổn, không biệt định.

MỞ ĐẦU

Phần này bao gồm những rối loạn tâm thần có chung căn nguyên rõ rệt là
bệnh ở não, chấn thương, hoặc thương tổn khác dẫn tới rối loạn chức năng não.
Rối loạn chức năng có thể là nguyên phát như trong các bệnh lý não, các chấn
thương hoặc các thương tổn tác động trực tiếp hoặc ưu thế trên não; hoặc thứ
phát như trong các bệnh lý hệ thống và các rối loạn tác động lên não do bệnh ở
một trong những cơ quan hoặc những hệ thống của cá thể có liên quan. Các
bệnh lý não do rượu và ma túy, mặc dù về logic thì thuộc về nhóm này, nhưng
được xếp loại ở mục F10 - F19 vì đặt tất cả các rối loạn do các chất tác động
tâm thần vào một mục riêng là tiện lợi cho việc thực hành hơn.

Mặc dù những biểu hiện tâm thần bệnh lý của những bệnh được nêu ở
đây là rộng, những nét chủ yếu của các rối loạn này hình thành hai nhóm chính.
Một mặt, có những hội chứng trong đó, nhưng nét biểu hiện bất biến và nổi bật
nhất hoặc là những rối loạn chức năng hiểu biết như trí nhớ, trí tuệ, học tập hoặc
là những rối loạn chức năng nhận biết như các rối loạn ý thức và sự chú ý. Mặt
khác, có những hội chứng trong đó những biểu hiện rõ rệt nhất thuộc lĩnh vực tri
giác (các ảo giác), nội dung của tư duy (các hoang tưởng) hoặc khí sắc và cảm
xúc (trầm cảm, hưng phấn, lo âu), hoặc toàn bộ mẫu hành vi và nhân cách, trong
khi loạn chức năng nhận thức và giác quan nhẹ và khó xác định. Những rối loạn
của nhóm sau ít gắn bó trong phần này so với nhóm trước bởi vì nhiều rối loạn
của nó về mặt triệu chứng học cũng tương tự như các trạng thái được xếp loại ở
các phần khác (F20 - F29, F30 - F39, F40 F49, F60 - F69) và được thấy xuất
hiện không có các rối loạn chức năng hoặc bệnh lý não rõ rệt. Tuy nhiên sự phát
triển tất yếu của một số bệnh não và bệnh hệ thống có mối quan hệ căn nguyên
đối với sự xuất hiện các hội chứng đó đủ xác định cho việc định hướng lâm sàng
xếp loại của chúng ở đây.

Đa số các rối loạn trong phần này, ít nhất về mặt lý thuyết, có thể khởi phát
ở bất kỳ lứa tuổi nào, có lẽ trừ lứa tuổi thơ ấu. Về mặt thực hành, phần lớn các
rối loạn này có khuynh hướng bắt đầu ở tuổi thành niên hoặc tuổi muộn. Trong
khi một số trong các bệnh này dường như có tính chất tiến triển và không hồi
phục, một số khác lại tiến triển nhất thời hoặc đáp ứng với những trị liệu sẵn có
hiện hành.

Việc sử dụng thuật ngữ “thực tổn” không có hàm ý là các trạng thái thuộc
các nơi khác, trong bảng phân loại này là “không thực tổn” theo nghĩa không có
cơ sở ở não. Theo ngôn ngữ hiện nay, thuật ngữ thực tổn có nghĩa giản đơn là
hội chứng được phân loại phải được qui cho là do một bệnh, một rối loạn não
hoặc bệnh hệ thống được chẩn đoán độc lập. Thuật ngữ “triệu chứng” được sử
dụng cho những rối loạn tâm thần thực thể trong đó sự liên quan của não chỉ là
thứ phát sau một bệnh, hay một rối loạn có hệ thống ngoài não.

Như đã nêu ở trên, trong phần lớn các trường hợp việc ghi chẩn đoán cho
bất kỳ một rối loạn nào trong phần này cũng đòi hỏi phải sử dụng hai mã: một
cho hội chứng tâm thần bệnh lý và một mã khác cho bệnh lý cơ sở. Mà căn
nguyên phải được chọn từ chương thích hợp khác của toàn bộ bảng phân loại
ICD -10.

MẤT TRÍ (Dementia)


Ở đây chỉ mô tả một cách khái quát bệnh cảnh mất trí nhằm nêu ra những
đòi hỏi tối thiểu để chẩn đoán một thể mất trí bất kỳ nào đó và tiếp sau là tiêu
chuẩn chỉ đạo chẩn đoán các thể chuyên biệt hơn.

Mất trí là một hội chứng do bệnh lý não, thường có bản chất mạn tính
hoặc tiến triển, trong đó có sự suy giảm nhiều chức năng cao cấp của vỏ não
bao gồm trí nhớ, tư duy, định hướng, hiểu biết, tính toán, năng lực học tập, ngôn
ngữ và phán đoán. Ý thức không bị lu mờ. Suy thoái tính kiềm chế cảm xúc,
hành vi xã hội hoặc động cơ thúc đẩy thường đi kèm và đôi khi đi trước suy giảm
chức năng nhận thức. Hội chứng này xuất hiện trong bệnh Alzheimer, bệnh lý
mạch máu não, và trong nhiều trạng thái khác tác động nguyên phát hoặc thứ
phát lên não.

Trong việc đánh giá có hay không có hội chứng mất trí cần phải tiến hành
đặc biệt thận trọng nhằm tránh chẩn đoán dương tính sai lầm: các nhân tố động
cơ hoặc cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm, cùng với sự chậm chạp vận động và sự
mệt mỏi chung của cơ thể giải thích sự thất bại trong năng lực thực hiện hơn là
do mất năng lực trí tuệ gây nên.

Mất trí là một suy sụp đáng kể chức năng trí tuệ và thường gây trở ngại
cho các hoạt động sinh sống hàng ngày của cá thể như tắm rửa, mặc quần áo,
ăn, vệ sinh cá nhân, bài tiết và các hoạt động trang điểm. Sự suy giảm ở mức
nào, biểu hiện của nó tùy thuộc rất nhiều vào khung cảnh văn hóa xã hội mà
bệnh nhân đang sống. Những thay đổi trong việc thực hiện vai trò như sự giảm
sút khả năng duy trì hay tlm kiếm một nghề nghiệp, không được sử dụng như
một tiêu chuẩn của mất trí bởi vì có sự khác biệt rộng lớn xuyên văn hóa khi xét
cái gì đó là thích hợp, và bởi vì thường có thể có những sự thay đổi áp đặt từ
bên ngoài khi tìm công việc sẵn có trong một nền văn hóa riêng biệt.

Nếu có triệu chứng trầm cảm song chưa có đủ tiêu chuẩn của một giai
đoạn trầm cảm V(F32.0 - F32.3) chúng có thể được ghi mã bởi con số thứ 5. Sự
có mặt của các ảo giác hoặc hoang tưởng cũng có thể được xử lý tương tự.
.X0 Không có các triệu chứng thêm vào

.X1 Có các triệu chứng khác, ưu thế hoang tưởng

.X2 Có các triệu chứng khác, ưu thế ảo giác

.X3 Có các triệu chứng khác, ưu thế trầm cảm

.X4 Có các triệu chứng hỗn hợp khác.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán

Đòi hỏi đầu tiên cho chẩn đoán là bằng chứng về sự suy giảm của cả trí
nhớ lẫn tư duy đủ để gây trở ngại cho hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của
cá nhân, đã mô tả ở trên. Sự suy giảm trí nhớ là điển hình trong ghi nhận, bảo
tồn và tái hiện thông tin mới, nhưng những tư liệu quen thuộc thu nhận trước kia
cũng có thể mất đi, đặc biệt ở những giai đoạn sau. Mất trí nhiều hơn loạn nhớ:
cũng có sự suy yếu về tư duy và năng lực suy luận và giảm sút dòng tư duy.
Quá trình tiếp thu những tin bị suy yếu, người bệnh cảm thấy khó khăn hơn khi
phải tiếp thu nhiều kích thích cùng một lúc, khi phải trò chuyện với nhiều người,
và khi chuyển sự tập trung chú ý từ chủ đề này sang chủ đề khác. Nếu mất trí là
một chẩn đoán độc nhất, phải có bằng chứng là ý thức còn rõ ràng. Tuy nhiên
một chẩn đoán mê sảng gối lên mất trí là phổ biến (F05. 1). Các triệu chứng và
tật chứng trên phải rõ ràng trong ít nhất 6 tháng để có một chẩn đoán lâm sàng
tin cậy về mất trí.

Chẩn đoán phân biệt. Cần xem xét: Rối loạn trầm cảm (F30 - F39) có thể
biểu hiện nhiều nét của mất trí sớm, đặc biệt sự suy giảm về trí nhớ, tư duy
chậm chạp và mất tính hồn nhiên; mê sảng (F05); chậm phát triển tâm thần nhẹ
hoặc vừa (F70 - F71); các trạng thái hoạt động nhận thức dưới bình thường do
môi trường xã hội nghèo nàn trầm trọng cùng với nền giáo dục hạn chế; những
rối loạn tâm thần y sinh do điều trị thuốc (F06-). 
Mất trí có thể tiếp theo sau bất cứ một rối loạn tâm thần thực tổn nào được
xếp trong phần này, hoặc cùng tồn tại với một số rối loạn đó, đặc biệt là sảng
(xem F05. 1).

F00. MẤT TRÍ TRONG BỆNH ALZHEIMER


Bệnh Alzheimer là một bệnh não thoái hóa nguyên phát, chưa rõ căn
nguyên, với những nét đặc trưng về hóa thần kinh và thần kinh bệnh lý. Khởi
phát thường âm ỉ và tiến triển chậm chạp nhưng vững chắc qua giai đoạn nhiều
năm, có thể ngắn trong vòng 2 - 3 năm nhưng đôi khi có thể lâu hơn nhiều. Khởi
phát có thể ở giữa lứa tuổi thành niên hoặc thậm chí sớm hơn (bệnh Alzheimer
khởi đầu tiền lão), nhưng tần xuất cao hơn ở tuổi già (bệnh Alzheimer khởi đầu ở
tuổi già). Những trường hợp khởi đầu trước tuổi 65 - 70, có khả năng trong tiền
sử gia đình có người bị mất trí tương tự, quá trình phát triển bệnh nhanh hơn và
có những nét ưu thế tổn thương thùy đỉnh và thái dương, bao gồm rối loạn vong
ngôn hoặc rối loạn vong hành. Trong những trường hợp khởi phát muộn hơn,
tiến triển có khuynh hướng chậm hơn và đặc trưng bởi tật chứng lan tỏa nhiều
hơn trong toàn bộ các chức năng vỏ não cao cấp. Bệnh nhân với hội chứng
Down có nhiều nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer.

Có những biến đổi đặc trưng trong não: sự giảm sút đáng kể trong quần
thể nơron, đặc biệt ở các hồi hải mã; chất vô danh; nhân đỏ; vùng vỏ não trán và
thái dương đỉnh; xuất hiện các mảng tơ thần kinh cấu tạo bãi các sợi xoắn kép;
các màng thần kinh (ái bạc) bao gồm nhiều chất amyloid và chứng tỏ sự tiến
triển nhất định trong quá trình phát triển (song cũng có những mảng không chứa
đựng Amyloid); và những thể hốc hạt. Những biến đổi hóa thần kinh cũng được
phát hiện, bao gồm sự giảm sút rõ rệt trong enzyme choline - acetyl -
transferaza, trong bản thân acetylcholine và trong các chất dẫn truyền thần kinh
khác và những chất điều chỉnh thần kinh.
Như đã mô tả từ đầu, các nét lâm sàng phải kèm theo các biến đổi não đã
nói ở trên. Tuy nhiên, ngày nay không phải 2 điều kiện ấy nhất thiết phải tiến
triển song song: điều kiện này có thể hiện diện một cách rõ rệt trong khi điều kiện
kia chỉ xuất hiện tối thiểu. Tuy vậy, với các biểu hiện lâm sàng của bệnh
Alzheimer đôi khi cũng có thể có được chẩn đoán đáng tin cậy chỉ căn cứ duy
nhất trên nền tảng lâm sàng.

Mất trí trong bệnh Alzheimer là không hồi phục được.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán

Những nét sau đây là những yêu cầu cốt yếu để chẩn đoán xác định:

(a) Có biểu hiện mất trí như đã mô tả ở trên.

(b) Khởi phát âm ỉ với sự suy thoái chậm. Trong khi, khởi phát dường như
thường khó xác định kịp thời, thì toàn phát có thể xuất hiện một cách đột ngột.
Đỉnh cao của bệnh có thể xảy ra trong quá trình tiến triển.

(c) Không có bằng chứng lâm sàng, hoặc các phát hiện qua các nghiên
cứu đặc biệt, cho thấy rằng trạng thái tâm thần này là do một bệnh não, hoặc
một bệnh lý hệ thống khác có thể gây mất trí (ví dụ, suy tuyến giáp, tăng canxi
huyết, thiếu vitamin B12, thiếu niacin, giang mai thần kinh, thủy thũng não áp lực
bình thường, hoặc tụ máu dưới màng cứng).

(đ) Không bắt đầu đột ngột, đột quỵ hoặc không có dấu hiệu thần kinh tổn
thương khu trú như liệt nhẹ nửa người, mất cảm giác, thu hẹp thị trường và mất
điều vận xuất hiện sớm trong quá trình bệnh lý (nhưng những hiện tượng ấy có
thể được thêm vào về sau).

Trong một số trường hợp nhất định, những nét của bệnh Alzheimer và mất
trí do mạch máu có thể đồng thời xuất hiện. Trong những trường hợp đó, cả hai
chẩn đoán (và ghi mã) đều được tiến hành. Khi mất trí mạch máu xảy ra trước
bệnh Alzheimer thì không thể chẩn đoán bệnh sau theo bệnh cảnh lâm sàng.
Bao gồm: Mất trí thoái hóa nguyên phát dạng Alzheimer.

Chẩn đoán phân biệt: Cần xem xét: rối loạn trầm cảm (F30 - F39); sảng
(F05); hội chứng quên thực tổn (F04); mất trí nguyên phát khác như trong các
bệnh Pick, bệnh Creuzfeldt-Jacob hoặc bệnh Huntington (F02-); mất trí thứ phát
kết hợp với một số bệnh cơ thể, các trạng thái nhiễm độc v.v... (F02.8); chậm
phát triển tâm thần nhẹ, vừa hoặc nặng (F70-F72).

Mất trí trong bệnh Alzheimer có thể cùng tổn tại với mất trí mạch máu
(được mã hóa F00.2), như khi các giai đoạn mạch máu não (hiện tượng nhồi
máu rải rác) được bổ sung vào bệnh cảnh lâm sàng và bệnh sử gợi ý bệnh
Alzheimer. Các giai đoạn như vậy có thể gây hậu quả tăng đột ngột các biểu
hiện mất trí. Theo các khám nghiệm sau tử vong, cả hai loại mất trí có thể cùng
tồn tại khoảng 10-15% các trường hợp mất trí.

F00.0 Mất trí trong bệnh Alzheimer, khởi phát sớm.

Mất trí trong bệnh Alzheimer bắt đầu trước tuổi 65. Có các biểu hiện quá
trình suy thoái tương đối nhanh với các rối loạn các chức năng vỏ não cao cấp
rõ rệt. Vong ngôn, vong ký, vong độc và vong hành xuất hiện tương đối sớm
trong quá trình mất trí ở hầu hết các trường hợp.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Như với mất trí đã mô tả ở trên với sự khởi phát trước tuổi 65, và thường
các triệu chứng tiến triển nhanh. Bệnh sử gia đình của bệnh Alzheimer là một
nhân tố đóng góp song không nhất thiết phải có để chẩn đoán, như có hội chứng
Down hoặc bệnh tăng sinh mô limphô trong lịch sử gia đình.

Bao gồm: bệnh Alzheimer, kiểu 2 mất trí trước tuổi già, kiểu Alzheimer.

F00.1 Mất trí trong bệnh Alzheimer khởi phát muộn.


Mất trí trong bệnh Alzheimer với khới phát lâm sàng ở sau tuổi 65 và
thường là vào những năm cuối của tuổi 70 hoặc sau nửa, với một sự tiến triển
chậm và thường có tật chứng trí nhớ là nét chính yếu.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán:

Như đối với mất trí đã mô tả ở trên, song cần lưu ý có hoặc không có
những nét phân biệt bệnh này với thể khởi phát sớm (F00.0). 

Bao gồm: bệnh Alzheiper, kiểu 1 mất trí tuổi già kiểu Alzhimer.

F00.2 Mất trí trong bệnh Alzheimer thể không điển hình hoăc thể hỗn
hợp.

Mất trí không phù hợp với sự mô tả và các nguyên tắc chẩn đoán cho cả
F00.0 hoặc F00.1 được xếp loại ở đây; mất trí hỗn hợp Alzheimer và mạch máu
cũng được xếp vào đây.

F00.9 Mất trí trong bệnh Alzheimer, không biệt định.

F01. MẤT TRÍ TRONG BỆNH MẠCH MÁU.


Mất trí mạch máu (trước gọi là xơ động mạch) bao gồm mất trí do nhồi
máu rải rác, được phân biệt với mất trí trong bệnh Alzheimer bởi bệnh sử khởi
phát bệnh, những nét lâm sàng và quá trình tiếp theo. Điển hình, có trong tiền sử
những đợt thiếu máu cục bộ nhất thời với rối loạn ý thức ngắn, liệt nhẹ thoáng
qua hoặc mất thị giác. Mất trí cũng có thể tiếp sau các tai biến mạch máu não
cấp diễn, hoặc ít phổ biến hơn, một cơn đột quỵ nặng duy nhất. Một số tật chứng
về trí nhớ và tư duy sau đó trở nên rõ rêt. Khởi phát, thường ở lứa tuổi muộn
hơn, có thể đột ngột sau một cơn thiếu máu cục bộ đặc biệt, hoặc biểu lộ mất trí
có thể xuất hiện từ từ hơn. Mất trí thường là hậu quả của sự nhồi máu não do
các bệnh lý mạch máu, bao gồm bệnh tăng áp lực mạch máu não. Các cục máu
nhồi thường nhỏ nhưng sau đó tích tụ lại gây hậu quả.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Chẩn đoán được giả định là cả một sự mất trí như đã mô tả ở trên. Nói
chung, tật chứng của chức năng nhận thức thì thất thường, có thể mất nhớ, suy
giảm trí tuệ và những dấu hiệu thần kinh khu trú. Sự thấu hiểu và phán đoán còn
tương đối duy trì. Sự khởi phát đột ngột hoặc một sự suy thoái từng bước cũng
như sự hiện diện của các dấu hiệu thần kinh khu trú làm tăng thêm khả năng
chẩn đoán; trong một số trường hợp, chẩn đoán khẳng định chỉ có thể thực hiện
được nhờ chụp não cắt lớp có máy tính hoặc chủ yếu nhờ khám xét thần kinh
bệnh lý.

Những nét kết hợp là: tăng huyết áp, tiếng thổi động mạch cảnh, giao
động cảm xúc với khí sắc trầm nhất thời; khóc lóc hoặc cười phá và những đợt ý
thức u ám nhất thời hoặc sảng, thường do nhồi máu thêm về sau. Nhân cách
còn tương đối được duy trì, song trong một số trường hợp nhất định, những biến
đổi nhân cách có thể rõ rệt với vô cảm, giải ức chế hoặc làm tăng đậm những
nét nhân cách trước kia như tính vị kỷ, thái độ paranoid hoặc tính cáu bẳn.

Bao gồm: mất trí do xơ động mạch.

Chẩn đoán phân biệt. Cần xem xét: Sảng (F05-); mất trí khác, đặc biệt
trong bệnh Alzheimer (F00-); các rối loạn khí sắc (cảm xúc) (F30-F39); chậm
phát triển tâm thần mức độ nhẹ hoặc trung bình (F70-F71); tụ máu dưới màng
cứng do sang chấn (S06.5), không do sang chấn (162.0).

Mất trí mạch máu có thể cùng tồn tại với mất trí trong bệnh Alzheimer
(được ghi mã F00.2) như khi có bằng chứng về một giai đoạn mạch máu thêm
vào bệnh cảnh lâm sàng và bệnh sử gợi ý bệnh Alzheimer.

F01.0 Mất trí mạch máu khởi phát cấp.

Thường phát triển nhanh tiếp sau các cơn đột quị liên tiếp do nghẽn, lấp
mạch máu não hoặc do xuất huyết. Nguyên nhân chỉ là nhồi máu não lớn duy
nhất thì hiếm thấy hơn.

F01.1 Mất trí do nhồi máu rải rác.


Khởi phát từ từ hơn thể cấp, tiếp sau những đợt thiếu máu cục bộ nhẹ,
gây tích tụ các đám nhồi máu ở nhu mô não.

Bao gồm: mất trí ưu thế vỏ não.

F01.2 Mất trí mạch máu dưới vỏ.

Có thể có bệnh sử cao huyết áp và ổ hủy hoại do thiếu máu cục bộ ở vùng
sâu chất trắng của bán cầu đại não, chẩn đoán lâm sàng có thể nghi ngờ, chẩn
đoán khẳng định nhờ chụp não cắt lớp có máy tính. Vỏ não vẫn thường được
duy trì và điều này ngược với bệnh cảnh lâm sàng có thể rất giống với bệnh
cảnh mất trí Alzheimer (khi sự tiêu hủy myelin lan tỏa trong chất trắng được
chứng minh, có thể sử dụng thuật ngữ “bệnh não Binswanger”).

F01.3 Mất trí mạch máu vỏ và dưới vỏ não hỗn hợp.

Thành phần vỏ não và dưới vỏ hỗn hợp của mất trí do mạch máu có thể
nghi ngờ từ các biểu hiện lâm sàng, các kết quả khám nghiệm (bao gồm cả mổ
tử thi) hoặc cả hai.

F01.8 Mất trí mạch máu khác.

F01.9 Mất trí mạch máu, không biệt định.

F02. MẤT TRÍ TRONG CÁC BỆNH KHÁC ĐƯỢC XẾP LOẠI Ở CHỖ
KHÁC.
Những trường hợp mất trí do hoặc coi như là do những nguyên nhân khác
không phải bệnh Alzheimer hoặc bệnh lý mạch máu não. Khởi phát có thể ở bất
kỳ lứa tuổi nào, song ít khi ở tuổi già.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Có biểu hiện mất trí như đã mô tả ở trên; có các nét đặc trưng của một
trong các hội chứng biệt định như mô tả trong các mục dưới đây.

F02.0 Mất trí trong bệnh Pick.


Có mất trí tiến triển, bắt đâu ở tuổi trung niên (thường giữa tuổi 50 và 60)
đặc trưng bởi những biến đổi tính cách tiến triển chậm và sự giảm sút các quan
hệ xã hội, dẫn tới tật chứng các chức năng trí tuệ, trí nhớ và ngôn ngữ, với vô
cảm, khoái cảm, và (đôi khi) hiện tượng ngoại tháp. Bệnh cảnh bệnh lý thần kinh
là teo não có chọn lọc ở thùy trán và thùy thái dương, nhưng không có tăng các
mảng thần kinh và đám rối tơ thần kinh như vẫn gặp trong não suy thông
thường. Những trường hợp khởi phát sớm có khuynh hướng biểu hiện một quá
trình tiến triển ác tính hơn, các biểu hiện xã hội và hành vi thường đi trước tật
chứng trí nhớ thực sự.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Các nét sau đây cần thiết phải có để chẩn đoán xác định.

(a) Mất trí tiến triển.

(b) Những nét ưu thế của thùy trán như khoái cảm, cùn mòn cảm xúc, tác
phong xã hội thô lỗ, giải ức chế và/hoặc vò cảm hay bồn chồn.

(c) Các biểu hiện tác phong thường đi trước tật chứng trí nhổ rõ rệt.

Các biểu hiện thùy trán rõ rệt hơn thùy thái dương và thùy đỉnh, không
giống như bệnh Alzheimer.

Chẩn đoán phân biệt. Cần xem xét: Mất trí trong bệnh Alzheimer (F00-);
mất trí do mạch máu (F01); mất trí thứ phát do các bệnh khác như giang mai
thần kinh (F02.8); thủy nhũng não áp lực bình thường (đặc trưng bởi sự phát
triển cực kỳ chậm về tâm thần vận động, dáng đi và rối loạn cơ tròn (G91.2);
những rối loạn chuyển hóa và thần kinh khác.

F02.1 Mất trí trong bệnh Creutzfeldt-Jacob.

Mất trí tiến triển với những dấu hiệu thần kinh lan tỏa do những biến đổi
bệnh lý thần kinh đặc hiệu (bệnh não mềm bán cấp) coi như gây nên bởi các tác
nhân lây truyền, Khởi đầu thường xảy ra ở lứa tuổi trung niên hoặc muộn hơn.
Điển hình vào lứa tuổi 50.

Nhưng có thể gặp ở bất kỳ tuổi thành niên nào. Quá trình tiến triển bốn
cấp, dẫn đến tử vong trong vòng 1-2 năm.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Nên nghĩ tới bệnh Creutzfeldt-Jacob tất cả những trường hợp mất trí tiến
triển tương đối nhanh từ nhiều tháng đến một hoặc hai năm và kèm theo hoặc
tiếp theo có những triệu chứng thần kinh phong phú. Trong một số trường hợp,
như thể gọi là teo cơ, các dấu hiệu thần kinh có thể xuất hiện trước khi mất trí
khởi đầu.

Thường có liệt cứng tiến triển của các chi, kèm theo các dấu hiệu ngoại
tháp như run, co cứng và các vận động kiểu múa giật, múa vờn; các dạng khác
có thể gặp: thất điều, mất thị giác, hoặc rung sợi cơ và teo nơron vận động trên.
Bộ 3 triệu chứng bao gồm:

- Mất trí nặng và tiến triển nhanh.

- Rối loạn tháp và ngoại tháp với rung giật cơ và

- Điện não đồ đặc hiệu (3 pha) có giá trị cao cho gợi ý chẩn đoán bệnh
này,

Chẩn đoán phân biệt: Cân xem xét: Bệnh Alzheimer (F00-hoặc bệnh Pick
(F02.0); Bệnh Parkinson (F02.3); Hội chứng Parkinson sau viêm não (G21.3).

Sự tiến triển nhanh và rối loạn vận động sớm nên nghĩ tới bệnh
Creutzfeldt-Jacob.

F02.2 Mất trí trong bệnh Huntington.

Mất trí xuất hiện như một phần của sự thoái hóa lan tỏa của não. Bệnh
Huntington được truyền bởi một gen trội tự thân duy nhất. Các triệu chứng xuất
hiện điển hình trong khoảng tuổi 30 đến 40 tuổi và tần xuất mắc bệnh ở cả hai
giới có vẻ ngang nhau. Trong một tỷ lệ nhất định các trường hợp, các triệu
chứng sớm nhất có thể là trầm cảm, lo âu hoặc paranoid rõ rệt, kèm theo biến
đổi nhân cách. Tiến triển chậm, đưa đến tử vong thường trong khoảng 10 đến 15
năm.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Sự kết hợp các rối loạn vận động kiểu múa giật, mất trí và tiền sử gia đình
có bệnh Huntington là gợi ý nhiều cho chẩn đoán, dù rằng chắc chắn vẫn có
những trường hợp tản phát.

Những động tác dạng múa giật không tự chủ, điển hình ở mặt, tay và vai
hoặc trong dáng đi là những biểu hiện sớm. Chúng thường xảy ra trước mất trí
và hiếm khi thiếu trừ khi mất trí đã quá rõ rệt. Hiện tượng vận động khác có thể
chiếm ưu thế khi sự khởi phát bất thường ở tuổi trẻ (cứng kiểu thể vân) hoặc ở
tuổi già (run khi vận động hứu ý).!

Mất trí được đặc trưng bởi rối loạn ưu thế chức năng thùy trán trong giai
đoạn sớm, với sự duy trì tương đối trí nhớ về sau.

Bao gồm: Mất trí trong múa giật Huntington.

Chẩn đoán phân biệt. Cần xem xét: Những trường hợp múa giật khác;
bệnh Alzheimer, Pick, hoặc Creuzfldt-Jaoob (F00-; F02.0, F02.1).

F02.3 Mất trí trong bệnh Parkinson.

Mất trí phát triển trong quá trình hình thành bệnh Parkinson (đặc biệt ở
những thể nặng). Chưa chứng minh được những nét lâm sàng phân biệt đặc
hiệu. Mất trí (trong bệnh Parkinson) có thể khác với bệnh Alzheimer hoặc mất trí
mạch máu. Tuy nhiên, cũng có thể những biểu hiện của một trong những bệnh
này cũng xảy ra đồng thời với bệnh Parkinson. Điều này chứng minh cho sự xác
định các trường hợp bậnh Parkinson có mất mất trí cần nghiên cứu cho đến khi
vấn đề được giải quyết.
Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Mất trí phát triển ở người mắc bệnh Parkinson rõ rệt, thường là trầm trọng.

Bao gồm: Mất trí trong liệt run

Mất trí trong hội chứng Parkinson.

Chẩn đoán phân biệt: Cần xem xét: Các mất trí thứ phát khác (F02.8); mất
trí do nhồi máu rải rác (F01.1) kết hợp với bệnh tăng huyết áp, hoặc bệnh mạch
máu do đái đường; u não (C70-C72); thủy thũng não áp lực bình thường (G91-
2).

F02.4 Mất trí trong bệnh suy giảm miễn dịch do vi rút ở người (HTV).

Một rối loạn được đặc trưng bởi sự thiếu hụt nhận thức đáp ứng các tiêu
chuẩn chẩn đoán lâm sàng của mất trí, trong khi không có bệnh lý hoặc rối loạn
khác đi kèm ngoài nhiễm HTV có thể giải thích được.

Mất trí do nhiễm HIV biểu hiện điển hình với phàn nàn là hay quên, kém
lanh lợi, khả năng tập trung kém và khó khăn trong việc đọc và giải quyết các
vấn đề. Thường thấy vô cảm, tính sáng ý suy giảm, cô lập khỏi xã hội, ở một số
rất ít bệnh nhân bị nhiễm bệnh, bệnh lý có thể biểu hiện không điển hình như
một rối loạn xúc, một bệnh loạn thần hoặc các co giật. Khám cơ thể thường thấy
run, các động tác lặp đi lặp lại nhanh bị suy giảm, mất thăng bằng, mất điều hòa,
tăng trương lực, tăng phản xạ lan tỏa, các dấu hiệu giải phóng thùy trán dương
tính và suy giảm động tác theo dõi và rung giật của mắt.

Ở trẻ em còn biểu hiện một rối loạn sự phát triển thần kinh kết hợp với
nhiễm HIV được đặc trưng bởi sự chậm phát triển, tăng trương lực, đầu bé và
sự vôi hóa hạch cơ bản. Rối loạn thần kinh thường xuất hiện khi không có các
nhiễm trùng và khối u, điều này không thấy ở người lớn.
Mất trí do nhiễm HTV nhìn chung tiến triển nhanh (nhiều tuần hay nhiều
tháng) đến mất trí toàn bộ nặng, không nói và chết, nhưng không phải luôn luôn
như thế.

Bao gồm: Phức hợp SIDA-mất trí,

Bệnh não hoặc viêm não bán cấp do HIV.

F02.8 Mất trí trong các trạng thái biệt định khác được phân loại ở chỗ
khác.

Mất trí có thể xảy ra như là một biểu hiện hay hậu quả của nhiều bệnh cơ
thể hoặc bệnh não khác nhau.

Để biệt định theo căn nguyên, mã ICD-10 cho các trạng thái dưới đây cần
được bổ sung thêm.

Phức hợp Parkinson-mất trí Guam cũng phải được mã hóa ở đây (có thể
xác định bằng con số thứ 5, nếu cần). Đó là mất trí tiến triển nhanh tiếp theo có
loạn chức năng ngoại tháp và, trong một số trường hợp, xơ cứng cột bên teo cơ.
Bệnh này được mô tả lần đầu tiên ở đảo Guam, nơi xảy ra với tần số cao ở
người bản xứ, nam mắc bệnh nhiều gấp 2 lần nữ; hiện nay được biết nó cũng
xảy ra ở Papua New Guinea và ở Nhật-bản.

Bao gồm: Mất trí trong:

Ngộ độc carbon monoxide (T58)

Nhiễm mỡ não (E75-)

Động kinh (G40-)

Chứng liệt toàn thể của người loạn thần (A52-1)

Thoái hóa gan đậu (bệnh Wilson) (£83.0)

Tăng canxi huyết (F83.5)

Thiểu năng giáp mắc phải (E00; E02)


Nhiễm độc (T36 - T65)

Xơ cứng rải rác (G35)

Giang mai thần kinh (A52.1)

Thiếu niacin (pellagra)(E52)

Viêm tắc thành cục nhiều động mạch (M30.0)

Luput ban đỏ hệ thống (M32-)

Bệnh ngủ do trypanosom (Châu Phi B56 - Mỹ B57)


(trypanosomiasis)

Thiếu vitamine B12 (E53.8)

F03. MẤT TRÍ KHÔNG BIỆT ĐỊNH.


Mục này được sử dụng khi các tiêu chuẩn chung cho chẩn đoán mất trí là
thỏa đáng, song không thể xếp vào một trong các thể đặc biệt nào (F00.0 -
F02.9).

Bao gồm:

- Mất trí tuổi già hoặc trước tuổi già không biệt định cách khác (NOS)

- Loạn thần tuổi già hoặc trước tuổi già không biệt định cách khác (NOS)

- Mất trí thoái hóa nguyên phát không biệt định cách khác (NOS).

F04. HỘI CHỨNG QUÊN THỰC TỔN KHÔNG DO RƯỢU VÀ CÁC CHẤT
TÁC ĐỘNG TÂM THẦN KHÁC.
Hội chứng với tật chứng trí nhớ gần và xa nổi bật. Trong khi hồi ức tức
thời còn duy trì, khả năng học tập các kiến thức mới giảm rõ rệt gây hậu quả
quên thuận chiều và mất định hướng thời gian. Quên ngược chiều với cường độ
khác nhau vẫn có thể biểu hiện nhưng phạm vi của nó có thể thu hẹp theo thời
gian nếu tổn thương hoặc quá trình bệnh lý nằm bên dưới có khuynh hướng hồi
phục. Bịa chuyện có thể có những nét rõ rệt nhưng không phải là nhân tố nhất
thiết phải có. Tri giác và các chức năng nhận thức khác kể cả trí tuệ thường vẫn
được duy trì và làm nền tảng cho rối loạn trí nhớ xuất hiện nổi bật lên. Tiên
lượng của bệnh tùy thuộc vào tiến triển của tổn thương nằm bên dưới (điển hình
là tổn thương của hệ thống dưới đồi - gian não hoặc vùng hải mã); theo nguyên
tắc, có thể phục hồi gần như hoàn toàn.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán,

Để chuẩn đoán xác định cần tìm thấy:

(a) Có tật chứng trí nhớ rõ rệt biểu hiện bằng suy giảm trí nhớ gần (kém
tiếp thu kiến thức mới) quên thuận và ngược chiều và giảm khả năng hồi ức
những kinh nghiệm cũ ngược theo thời gian chúng xuất hiện.

(b) Có bệnh sử hay bằng chứng khách quan của một cơn đột quị hoặc một
bệnh ở não (đặc biệt có xâm phạm đến cấu trúc gian não và thái dương giữa cả
hai bên).

(c) Không mất khả năng tái hiện tức thời (chẳng hạn qua trắc nghiệm lặp
lại đây con số); không có rối loạn chú ý, ý thức và không suy giảm trí tuệ toàn
thể.

Bịa chuyện, thiếu sự thấu hiểu và thay đổi cảm xúc (vô cảm, thiếu sáng
kiến) là những nét bổ sung, mặc dù không nhất thiết phải có trong mọi trường
hợp để định hướng chẩn đoán.

Bao gồm: Hội chứng hay loạn thần Korsakov, không do rượu.

Chẩn đoán phân biệt: Rối loạn này cần phân biệt với các hội chứng thực
tổn khác có suy giảm trí nhớ nổi bật. (Ví dụ mất trí hoặc sảng); phân biệt với
quên phân ly (F44.0); với suy giảm chức năng trí nhớ trong rối loạn trầm cảm
(F30 - F39) và với giả bệnh có phàn nàn mất nhớ (Z76.5).

Hội chứng Korsakov do rượu và ma túy không nên ghi mã ở đây mà nên
để ở khu vực thích hợp (F1x.6).
F05. SẢNG KHÔNG DO RƯỢU VÀ CÁC CHẤT TÁC ĐỘNG TÂM THẦN
KHÁC.
Một hội chứng căn nguyên không đặc hiệu đặc trưng bởi rối loạn đồng thời
ý thức, chú ý, tri giác, tư duy, trí nhớ, tâm thần vận động, cảm xúc và chu kỳ thức
ngủ. Có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng phổ biến nhất là lứa tuổi 60.
Trạng thái sảng là nhất thời và với cường độ giao động; Phần lớn các trường
hợp hồi phục trong vòng 4 tuần hoặc ít hơn.

Tuy nhiên, sảng kéo dài, với sự giao động tới 6 tháng không phải là hiếm,
đặc biệt xuất hiện trong quá trình của bệnh gan mạn tính, bệnh ung thư, hoặc
viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp. Đôi khi sự phân biệt giữa sảng cấp và
bán cấp về lâm sàng là ít thỏa đáng; chỉ nên xem là một hội chứng nhất nguyên
có độ kéo dài biến đổi, và có mức độ trầm trọng thay đổi từ nhẹ đến rất nặng.
Một trạng thái sảng có thể bị thêm chứng mất trí hoặc tiến triển tới mất trí.

Không nên chẩn đoán loại này cho các trạng thái sảng liên quan đến việc
sử dụng các thuốc tác động tâm thần được biệt định ở mục F10 - F19.

Các trạng thái sảng do dùng thuốc (như trạng thái lú lẫn cấp ở người già
do thuốc chống trầm cảm) nên được ghi mã ở đây. Trong các trường hợp như
vậy các thuốc có liến quan nền được ghi bởi mã T thêm vào trong chương XIX
của ICD-10.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán:

Để chẩn đoán xác định, các triệu chứng, nhẹ hoặc nặng, phải có ở mỗi
một lĩnh vực trong các lĩnh vực sau:

(a) Tật chứng về ý thức và sự chú ý (đi từ mù mờ đến hôn mê; giảm khả
năng định hướng tập trung, duy trì và thay đổi sự chú ý).

(b) Rối loạn toàn bộ nhận thức (lệch lạc tri giác, ảo tưởng và ảo giác -
phần lớn là thị giác; suy giảm tư duy trừu tượng và thông hiểu; có hoặc không
kèm theo hoang tưởng nhất thời; nhưng điển hình là tư duy không liên quan ở
mức độ nhất định; suy giảm trí nhớ tái hiện gần và tức thời nhưng trí nhớ xa vẫn
tương đối còn duy trì; mất định hướng về thời gian, và cả về không gian và nhân
vật trong những trường hợp trầm trọng hơn.

(c) Rối loạn tâm thần vận động (giảm hoặc tăng hoạt dộng và những
chuyển đổi bất ngờ từ cái này sang cái kia; thời gian phản ứng tăng; tăng hoặc
giảm dòng ngôn ngữ; phản ứng giật mình tăng lên);

(d) Rối loạn chu kỳ thức - ngủ (mất ngủ, hoặc trong những trường hợp
trâm trạng, mất toàn bộ giấc ngủ hoặc chu kỳ thức ngủ đảo ngược; buồn ngủ
ban ngày; triệu chứng xấu hơn về ban đêm, các giấc mơ hoặc ác mộng quấy rầy
có thể tiếp tục như những ảo giác sau thức giấc);

(e) Rối loạn cảm xúc như trầm cảm, lo âu, lo sợ, cáu kỉnh, khoái cảm, vô
cảm hoặc bàng hoàng ngơ ngác.

Khởi phát thường nhanh, tiến triển dao động trong ngày và toàn bộ thời
gian mắc bệnh dưới 6 tháng. Bệnh cảnh lâm sàng trên đặc trưng tới mức có thể
làm chẩn đoán về sàng khá tin cậy mặc dù nguyên nhân nằm bên dưới không
được xác định rõ ràng. Thêm vào một bệnh sử của bệnh não hoặc bệnh cơ thể
nằm bên dưới, bằng chứng vẻ rối loạn chức năng não cần phải có nếu chẩn
đoán còn nghi ngờ (ví dụ, điện não đồ không bình thường, thường cho thấy hoạt
động sóng cơ bản bị chậm, nhưng không phải lúc nào cũng vậỵ).

Bao gồm: Hội chứng não cấp

Trạng thái lú lẫn cấp (không do rượu)

Loạn thần nhiễm trùng cấp

Phản ứng thực tổn cấp

Hội chứng tâm thần thực thể cấp.

Chẩn đoán phân biệt. Sảng cần được phân biệt với các hội chứng thực
tổn khác đặc biệt với mất trí (FCDO - F03); với các trạng thái loạn thần cấp diễn
nhất thời (F23-); với các trạng thái cấp của tâm thần phân liệt (F20-) hoặc rối
loạn khí sắc (cảm xúc) (F30 - F39) trong đó những nét lú lẫn có thể xuất hiên.
Sảng do rượu và các chất tác động tâm thần khác nên được xếp loại ở mục
thích hợp hơn (F1x.4).

F05.0 Sảng, không gối lên mất tri, như đã mô tả.

Mục này để ghi mã cho trạng thái sảng không gối lên mất trí đã có trước.

F05.1 Sảng gối lên mất trí.

Dùng mã này đối với các trạng thái thỏa mãn các tiêu chuẩn trên, nhưng
phát triển trong quá trình mất trí (FOO - F03).

F05.3 Sảng khác.

Bao gồm: Sảng căn nguyên hỗn hợp

Trạng thái lú lẫn bán cấp hoặc sảng.

F05.4 Sảng, không biệt định.

F06. CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN KHÁC DO TỔN THƯƠNG VÀ RỐI
LOẠN CHỨC NĂNG NÃO VÀ BỆNH LÝ CƠ THỂ.
Mục này bao gồm những trạng thái bệnh hỗn tạp có liên quan về nguyên
nhân với loạn chức năng não do bệnh não nguyên phát, do bệnh hệ thống tác
động thứ phát đến não, do các rối loạn nội tiết như trong hội chứng Cushing
hoặc các bệnh cơ thể khác, và do một số chất độc ngoại lai (loại trừ rượu và ma
túy đã được xếp loại ở mục F10 - F19) hoặc các chất nội tiết. Những trạng thái
này có các nét lâm sàng chung là tự chúng không cho phép làm một chẩn đoán
có căn cứ về một rối loạn tâm thần thực tổn, như là sảng hoặc mất trí. Hơn nữa,
các biểu hiện lâm sàng lại giống hoặc đồng nhất với những rối loạn của những
bệnh không xem như “thực tổn” theo nghĩa đặc thù hẹp của phần này trong bảng
phân loại. Sơ dĩ chúng được xếp ở đây là căn cứ trên giả thuyết rằng chúng trực
tiếp gây ra do một bệnh não hoặc rối loạn chức năng não hơn là do sự kết hợp
tình cờ với bệnh hoặc rối loạn này, hoặc do phản ứng tâm lý đối với các triệu
chứng của nó, giống như các rối loạn giống phân liệt kết hợp với động kinh lâu
năm.

Quyết định phân loại một hội chứng lâm sàng ở đây phải căn cứ vào
những điểm sau:

(a) Bằng chứng có bệnh não, thương tổn hoặc loạn chức năng não hoặc
bằng chứng có bệnh cơ thể hệ thống kết hợp với một trong những hội chứng đã
được liệt kê;

(b) Mối quan hệ về thời gian (nhiều tuần hoặc một vài tháng) giữa sự phát
triển của bệnh nằm bên dưới với sự khởi phát của hội chứng tâm thần.

(c) Sự hồi phục của rối loạn tâm thần tiếp theo sự mất đi hoặc thuyên giảm
của nguyên nhân xem như nằm bên dưới.

(đ) Không có một bằng chứng gợi ý về một nguyên nhân xen kẽ của hội
chứng tâm thần (chẳng hạn bệnh sử gia đình nặng nề hoặc stress thúc đẩy).

Các trạng thái (a) và (b) cho phép chẩn đoán tạm thời, nếu có cả 4 điểm
thì độ chắc chắn phân loại chẩn đoán tăng lên đáng kể.

Các trạng thái sau đây được xem như tăng cường nguy cơ gây ra các hội
chứng đã xếp loại ở đây: động kinh; viêm não thể viên; bệnh Huntington; chấn
thương đầu; ung thư não; ung thư ngoài sọ với ảnh hưỏng xa lên hệ thống thần
kinh trung ương (đặc biệt là ung thư tụy tạng); bệnh mạch máu, tổn thương hoặc
dị dạng não; luput ban đỏ, và các bệnh collagen khác; bệnh nội tiết (nhất là bệnh
suy và cường giáp trạng; bệnh Cushing); các bệnh chuyển hóa (hạ đường huyết,
đái porphyrin, giảm oxy); các bệnh nhiễm trùng nhiệt đới và ký sinh trùng (ví dụ
trypanosomiasis); tác động độc tính của các thuốc không hướng thần
(propranolon, levodopa, methyldopa, steroid, thuốc chống tăng huyết áp, thuốc
chống sốt rét).

Loại trừ: Các rối loạn tâm thần kết hợp với sảng (F05-)
Các rối loạn tâm thần kết hợp với mất trí như đã phân loại ở mục F00 -
F03.

F06.0 Các ảo giác thực tổn.

Trạng thái ảo giác dai dẳng hoặc tái diễn, thường là ảo thanh hoặc ảo thị,
xảy ra trong trạng thái ý thức sáng sủa mà bệnh nhân có thể hay không thừa
nhận. Hoang tưởng có thể hình thành từ các ảo giác, nhưng thường sự thấu
hiểu vốn được duy trì.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Thêm vào những tiêu chuẩn chung trong phần giới thiệu về F06 ở trên là
bằng chứng có những ảo giác dai dẳng hoặc tái diễn ở bất kỳ thể thức nào.
Không có mù mờ ý thức; không có suy giảm trí tuệ đáng kể, không có rối loạn
khí sắc chiếm ưu thế; và không có hoang tưởng chiếm ưu thế.

Bao gồm: Dermatozoenwahn

Trạng thái ảo giác thực tổn (không do rượu)

Loại trừ: Ảo giác do rượu (F10.52)

Bệnh tâm thần phân liệt (F20.-)

F06.1 Rối loạn căng trương lực thực tổn.

Trạng thái giảm (sững sờ) hoặc tăng (kích động) hoạt động tâm thần - vận
động kết hợp với các triệu chứng căng trương lực, các cực của rối loạn tâm thần
vận động có thể xen kẽ nhau. Người ta không rõ là toàn bộ các rối loạn căng
trương lực được mô tả trong tâm thần phân liệt có xuất hiện trong các trạng thái
thực tổn này không. Cũng như vậy, người ta không thể khẳng định có hay không
trạng thái căng trương lực thực tổn có thể xảy ra trong trạng thái ý thức sáng sủa
hoặc bao giờ cũng biểu hiện mê sảng với hậu quả mất nhớ một phần hay toàn
bộ. Điều này đòi hỏi phải thận trọng khi làm chẩn đoán và phải phân biệt cẩn
thận ranh giới giữa trạng thái này mê sảng. Viêm não và ngộ độc carbon
monoxide thường được coi là kết hợp với hội chứng này nhiều hơn các nguyên
nhân thực tổn khác.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán

Phải thỏa mãn những tiêu chuẩn chung xác nhận căn nguyên thực tổn
như đã ghi trong phần giới thiệu F06. Thêm vào đó phải có một trong các tiêu
chuẩn sau đây:

(a) Sững sờ (giảm hoặc mất hoàn toàn vận động tự phát với không nói
một phần hoặc hoàn toàn, phủ định, và tư thế cứng rắn);

(b) Kích động (tăng vận động rõ rệt, có hoặc không có khuynh hướng tấn
công);

(c) Cả hai (chuyển nhanh chóng và bất ngờ từ giảm sang tăng hoạt động).

Các hiện tượng trương lực khác tăng thêm độ tin cậy của chẩn đoán là:
định hình, uốn sáp và hành vi xung động.

Loại trừ Tâm thần phân liệt càng trương lực (F20.2)

Sững sờ phân ly (F44.2)

Sững sờ không biệt định cách khác (R40.1)

F06.2 Rối loạn hoang tưởng thực tổn (giống tâm thần phân liệt).

Một rối loạn trong đó các hoang tưởng dai dẳng hoặc tái diễn chiếm ưu
thế trên bệnh cảnh lâm sàng. Các hoang tưởng có thể kèm theo các ảo giác
nhưng không hạn chế vào nội dung của ảo giác. Những nét gợi ý bệnh tâm thần
phân liệt như ảo giác kỳ lạ, hoang tưởng kỳ quái hoặc rối loạn tư duy cũng có
thể có.

Các nguyên tắc chẩn đoán.

Phải đáp ứng tiêu chuẩn chung cho việc xác định căn nguyên thực tổn
như đã nêu trong lời giới thiệu F06. Ngoài ra phải có các hoang tưởng (bị truy
hại; biến hình bản thân, ghen tuông, hoang tưởng bị bệnh, bản thân hoặc người
khác bị chết). Các ảo giác, các rối loạn tư duy hoặc hiện tượng căng trương lực
lẻ tẻ có thể suất hiện. Ý thức và trí nhớ phải không được rối loạn. Không nên xác
lập chẩn đoán này nếu dữ kiện về căn nguyên thực tổn là không đặc hiệu hoặc
còn giới hạn vào những điều phát hiện như là não thất giãn rộng (được nhận
thấy bằng chụp não cắt lớp có máy tính), hoặc các dấu hiệu thần kinh “nhẹ”.

Bao gồm: Các trạng thái thực tổn paranoid và ảo giác paranoid.

Loạn thần giống tâm thần phân liệt trong động kinh.

Loại trừ: Các rối loạn thần cấp và nhất thời (F23-)

Các rối loạn thần do ma túy (Fix.5)

Rối loạn hoang tưởng dai dẳng (F22-)

Tâm thần phân liệt (F20-)

F06.3 Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn.

Các rối loạn được đặc trưng bởi sự thay đổi khí sắc hay cảm xúc, thường
kèm theo sự thay đổi mức hoạt động toàn bộ, Tiêu chuẩn duy nhất để xếp trạng
thái trên vào phần này là nguyên nhân được coi là trực tiếp của nó gây nên bởi
một bệnh não hoặc rối loạn cơ thể khác, và sự tồn tại của bệnh và rối loạn đó
phải được chứng minh một cách độc lập (chẳng hạn bằng khám xét cơ thể thích
hợp và xét nghiệm labô) hoặc xác định trên cơ sở các thông tin bệnh sử thích
hợp. Rối loạn cảm xúc phải tiếp sau nhân tố được xem là thực tổn và phải được
nhận định không phải là một đáp ứng cảm xúc của một bệnh nhân biết mình bị
bệnh, hoặc có những triệu chứng của một bệnh não trùng hợp.

Trầm cảm sau nhiễm khuẩn (chẳng hạn sau cúm) là một ví dụ phổ biến và
nên được ghi mã ở đây. Hiện tượng khoái cảm nhẹ kéo dài, không đạt đến mức
hưng cảm nhẹ (đôi khi được thấy do điều trị steroid hoặc thuốc chống trầm cảm
chẳng hạn) thì không nên ghi mã ở đây mà nên để ở mục F06.8.
Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Thêm vào các tiêu chuẩn chung xác định căn nguyên thực tổn ghi trong
phần giới thiệu F06, trạng thái bệnh phải đáp ứng những yêu cầu cho chẩn đoán
một trong các rối loạn được ghi ở mục dưới F30 - F33.

Loại trừ:- Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) không thực tổn hoặc không biệt
định (F30-39)

- Rối loạn cảm xúc thuộc bán cầu phải (F07.8)

Những mã 5 chữ số sau đây có thể sử dụng để biệt định các rối loạn lâm
sàng:

F06.30 Rối loạn hưng cảm thực tổn

F06.31 Rối loạn lưỡng cực thực tổn

F06.32 Rối loạn trầm cảm thực tổn

F06.33 Rối loạn cảm xúc hỗn hợp thực tổn.

F06.4 Rối loạn lo âu thực tổn.

Một trạng thái được đặc trưng bởi những nét mô tả chủ yếu của một rối
loạn lo âu lan tỏa (F41.1), rối loạn hoảng sợ (F41.0) hoặc kết hợp cả hai nhưng
nổi lên là hậu quả của một bệnh thực tổn có khả năng gây loạn chức năng não
(ví dụ: động kinh thái dương, nhiễm độc giáp, hoặc u tế bào nhuộm màu).

Loại trừ các rối loạn lo âu không thực tổn hoặc không biệt định (F41).

F06.5 Rối loạn phân ly thực tổn.

Một trạng thái đáp ứng các đòi hỏi của một trong các rối loạn mã F44. (rối
loạn (chuyển di) phân ly) mà cũng thỏa mãn tiêu chí chung của một bệnh căn
thực tổn (như đã mô tả trong Phần giới thiệu của phần này).

Loại trừ: Các rối loạn (chuyển di) phân li không thực tổn hoặc không biệt
định (F44).
F06.6 Rối loạn cảm xúc không ổn định (suy nhược) thực tổn.

Rối loạn được đặc trưng bởi cảm xúc không kiềm chế hoặc cảm xúc
không ổn định rõ rệt và dai dẳng, sự mệt mỏi và một số cảm giác cơ thể khó chịu
(ví dụ: chóng mặt) và các chứng đau được coi là do có bệnh lý thực tổn. Rối loạn
này thường được cho là xuất hiện có liên quan với bệnh lý mạch máu não hoặc
cao huyết áp hơn là do các nguyên nhân khác.

Loại trừ: Các rối loạn dạng cơ thể không thực tổn hoặc không biệt định
(F45-).

F06.7 Rối loạn nhận thức nhẹ.

Rối loạn này có thể xảy ra trước, đồng thời hoặc tiếp theo nhiều bệnh lý
nhiễm trùng và bệnh cơ thể, cả bệnh não lẫn bệnh hệ thống (bao gồm cả nhiễm
HIV). Biểu hiện thần kinh trực tiếp của rối loạn não không nhất thiết phải có, tuy
nhiên có thể gây đau buồn và gây trở ngại cho các hoạt động thông thường.
Ranh giới của loại rối loạn này còn phải xác định một cách chặt chẽ. Khi bệnh cơ
thể kết hợp đã hồi phục, rối loạn nhận thức nhẹ không kéo dài thêm hơn vài
tuần; không xác định chẩn đoán loại này nếu trạng thái bệnh rõ ràng có thể qui
cho một rối loạn tâm thần hay tác phong được phân loại ở bất cứ phần nào khác
của bảng phân loại này.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Nét chính là sự suy giảm hoạt động nhận thức. Nó có thể bao gồm suy
giảm trí nhớ, khó khăn học tập hoặc tập trung suy nghĩ. Các trắc nghiệm khách
quan thường không bình thường. Không chuẩn đoán loại này nếu có các triệu
chứng của các chẩn đoán mất trí (F00-F03), hội chứng quên thực tổn (F04) hoặc
sảng (F05-).

Chẩn đoán phân biệt. Rối loạn này có thể phân biệt với hội chứng sau
viêm não (F07.1) và hội chứng sau chấn động não (F07.2) bởi bệnh căn khác
nhau, bởi phạm vi hẹp hơn của các triệu chứng nói chung nhẹ nhàng hơn và
thường tồn tại ngắn hơn.

F06.8 Các rối loạn tâm thần biệt định khác do tổn thương và rối loạn
chức năng não và do bệnh cơ thể.

Thí dụ như những trạng thái khí sắc không bình thường xuất hiện trong
quá trình điều trị bằng Steroid hoặc các thuốc chống trầm cảm.

Bao gồm: Loạn thần động kinh không biệt định cách khác (NOS).

F06.9 Rối loạn tâm thần không biệt định do tổn thương não và rối
loạn chức năng não và bệnh cơ thể.

F07. CÁC RỐI LOẠN NHÂN CÁCH VÀ HÀNH VI DO BỆNH NÃO, TỔN
THƯƠNG VÀ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG NÃO.
Biến đổi nhân cách và hành vi có thể là một rối loạn di chứng hoặc đồng
thời xảy ra với bệnh não, tổn thương hoặc rối loạn chức năng não. Trong một số
trường hợp, sự khác nhau trong biểu hiện của các hội chứng nhân cách và hành
vi di chứng hoặc đồng thời ấy có thể gợi ý về một thể loại và/hoặc khu trú của
bệnh lý trong não nhưng độ tin cậy của loại chẩn đoán này không được đánh giá
quá cao. Vì vậy, căn nguyên nằm bên dưới thường phải được tìm kiếm qua
những phương tiện độc lập và nếu có thì ghi lại.

F07.0 Rối loạn nhân cách thực tổn.

Rối loạn này được đặc trưng bởi các biển đổi đáng kể các mô hình hành vi
quen thuộc đối với bệnh nhân trước khi bị bệnh. Sự thể hiện của cảm xúc, nhu
cầu và xung động đặc biệt bị tổn thương.

Các chức năng nhận thức có thể bị thiếu sót phần lớn hoặc chỉ riêng trong
lĩnh vực xây dựng kế hoạch cho các hoạt động của mình và không tiên đoán
được những hậu quả cho cá nhân và xã hội, như trong hội chứng gọi là thùy
trán. Tuy nhiên ngày nay người ta biết rằng hội chứng này xuất hiện không chỉ
với thùy trán mà còn với tổn thương các khu vực giới hạn khác của não.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Ngoài một bệnh sử đã được thiết lập hoặc những bằng chứng khác của
bệnh não, tổn thương não hoặc rối loạn chức năng não, việc chẩn đoán xác định
đòi hỏi phải có hai hoặc nhiều hơn nữa các nét sau đây:

(a) Giảm chắc chắn khả năng duy trì các hoạt động có mục đích, đặc biệt
là các hoạt động dài ngày mà khen thưởng bị trì hoãn;

(b) Rối loạn ứng xử cảm xúc, có đặc tính là cảm xúc không ổn định, niềm
vui nông cạn và không xác đáng. (Khoái cảm, bông đùa không thích hợp) và dễ
chuyển sang cáu kỉnh hoặc những cơn ngắn giận dữ và xâm phạm bùng nổ;
trong một số trường hợp vô cảm có thể là nét nổi bật hơn;

(c) Thể hiện nhu cầu và xung động không xét đến hậu quả hoặc qui ước
xã hội (bệnh nhân có thể tiến hành những hành vi gây rối xã hội như trộm cắp,
khêu gợi tình dục không thích hợp, hoặc tham ăn hoặc có thể biểu hiện xem
thường vệ sinh cá nhân).

(d) Các rối loạn nhận thức, dưới dạng đa nghi hoặc ý tưởng paranoid
và/hoặc bận tâm quá đáng đến một chủ đề đơn độc thường là trừu tượng (ví dụ:
tôn giáo, “đúng” và “sai").

(e) Suy giảm rõ rệt về tốc độ và dòng ngôn ngữ với những nét như tính chi
ly, tính quá đại khái, tính lai nhai và hay ghi chép.

(f) Rối loạn hành vi tình dục (thiểu năng tình dục hoặc biến đổi trong ưa
chuộng tình dục).

Bao gồm: Hội chứng thùy trán.

Hội chứng nhân cách động kinh thể viền.

Hội chứng phẫu thuật mở thùy (lobotomy).


Nhân cách giả nhân cách bệnh thực tổn.

Nhân cách giả chậm phát triển thực tổn.

Hội chứng sau thủ thuật cắt chất trắng.

Loại trừ: Biến đổi nhân cách lâu dài sau khi trải qua thảm họa (F62.0).

Biến đổi nhân cách lâu dài sau bệnh tâm thần (F62.1)

Hội chứng sau chấn động não (F07.2),

Hội chứng sau viêm não (F07.1).

Rối loạn nhân cách đặc hiệu (F60-).

F07.1 Hội chứng sau viêm não.

Hội chứng bao gồm sự biến đổi hành vi di chứng sau hồi phục khỏi bệnh
viêm não do vi rút hoặc do vi khuẩn. Các triệu chứng đều không đặc hiệu và thay
đổi tùy theo từng người, tùy tác nhân nhiễm khuẩn và nhất là tùy độ tuổi của
người bệnh ở thời điểm nhiễm khuẩn. Sự khác biệt chính giữa rối loạn này với
rối loạn nhân cách thực tổn là nó thường có khả năng hồi phục.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Những biểu hiện có thể bao gồm khó ở toàn thân, vô cảm hoặc cáu kỉnh,
giảm sút phần nào chức năng nhận thức (khó khăn trong học tập) ngủ kém, ăn
kém, thay đổi trong hoạt động tình dục và năng lực phán đoán xã hội. Có thể có
nhiều rối loạn chức năng thần kinh di chứng, như liệt, điếc, vong ngôn, vong
hành cấu trúc và mất khả năng tính toán.

Loại trừ: Rối loạn nhân cách thực tổn F07.0.

F07.2 Hội chứng sau chấn động não.

Hội chứng xảy ra sau chấn thương ở đầu (mức độ trầm trọng đủ gây trạng
thái mất ý thức) và một số triệu chứng tản mạn như đau đầu, choáng váng
(thường chưa có những nét của chóng mặt thực sự), mệt mỏi, dễ cáu kỉnh, khó
tập trung tư tưởng và khó thực hiện hoạt động trí não, suy giảm trí nhớ, mất ngủ
và giảm sự chịu đựng đối với stress, kích thích cảm xúc hoặc rượu. Những triệu
chứng này có thể kèm thêm các cảm xúc trầm cảm hoặc lo âu hậu quả của sự
mất tự tin, và sợ tổn thương não vĩnh viễn.

Những cảm xúc như vậy làm tăng thêm các triệu chứng nguyên thủy và
tạo nên vòng luẩn quẩn bệnh lý. Một số người trở nên nghi bệnh, luôn tìm kiếm
chẩn đoán và chữa bệnh và có thể đóng vai trò bị bệnh vĩnh viễn. Căn nguyên
của các triệu chứng này không phải bao giờ cũng rõ ràng và cả hai nhân tố tâm
lý và thực tổn đều được đề cập đến để giải thích chúng. Vì vậy, vấn đề phân loại
bệnh cho trạng thái này phần nào không được chắc chắn. Tuy nhiên, người ta ít
nghi ngờ về tính phổ biến và gây đau buồn cho người bệnh của hội chứng này.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Ít nhất phải có ba trong các nét đã mô tả ở trên để chẩn đoán xác định.
Đánh giá thận trọng với những kỹ thuật xét nghiệm (ghi điện não, điện thế kích
thích thân não, hình ảnh não, ghi rung giật nhãn cầu) có thể đưa ra những bằng
chứng khách quan chứng minh cho các triệu chứng nhưng những kết quả này
thường là âm tính. Những lời than phiền của bệnh nhân không nhất thiết phải kết
hợp với đòi hỏi được bồi thường.

Bao gồm: Hội chứng sau đụng dập não (bệnh não)

Hội chứng não sau chấn thương, không loạn thần.

F07.8 Các rối loạn nhân cách và hành vi thực tổn khác do bệnh não,
tổn thương não hoặc rối loạn chức năng não.

Bệnh não, tổn thương não hoặc rối loạn chức năng não có thể gây ra một
loạt các rối loạn về nhận thức, cảm xúc, nhân cách và hành vi nhưng không phải
tất cả các bệnh lý ấy đều có thể xắp xếp theo các mục trên. Tuy nhiên, vì các qui
ước về đặc điểm bệnh học của các hội chứng có thể xếp trong phần này là
không chắc chắn, chúng phải được ghi mã “khác”. Con số thứ năm có thể cho
thêm vào nếu cần thiết, để xác định những đơn thể bệnh riêng - dự kiến là:

- Rối loạn cảm xúc thực tổn bán cầu não phải (biển đổi khả năng hiểu biết
hoặc bày tỏ cảm xúc ở những người có rối loạn bán cầu não phải). Dù bệnh
nhân có thể bề ngoài tỏ ra bị trầm cảm, nhưng thường không có trầm cảm: đó là
biểu hiện của cảm xúc bị hạn chế.

Cũng được ghi mã ở đây:

(a) Bất cứ hội chứng nào khác biệt định nhưng đoán chừng là biến đổi
nhân cách hay hành vi do bị bệnh não, tổn thương não hoặc rối loạn chức nàng
não khác với nhửng hội chứng được ghi ở F07.0-F07.2; và

(b) Các trạng thái bệnh có tật chứng về nhận thức nhẹ nhưng còn chưa tới
mức mất trí trong các rối loạn tâm thần tiến triển như bệnh Alzheimer, bệnh
Parkinson v.v.... Chẩn đoán phải được thay đổi khi có đầy đủ tiêu chuẩn của mất
trí.

Loại trừ: Sảng (F05.-).

F07.9 Rối loạn hành vi và nhân cách thực tổn không biệt định do
bệnh não, tổn thương não, hoặc rối loạn chức năng não.

Bao gồm: Hội chứng tâm thần thực tổn.

F09. RỐI LOẠN TÂM THẦN THỰC TỔN HOẶC TRIỆU CHỨNG KHÔNG
BIỆT ĐỊNH.
Bao gồm: Loạn thần thực tổn không biệt định cách khác.

Loạn thần triệu chứng không biệt định cách khác.

Loại trừ: Loạn thần không biệt định cách khác (F29).
Phần 2. F10 - F19 CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN VÀ HÀNH VI DO SỬ
DỤNG CÁC CHẤT TÁC ĐỘNG TÂM THẦN
Nhìn tổng quát phần này

F10. Các rối loạn, tâm thần và hành vi do sử dụng rượu.

F11. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất có thuốc phiện

F12. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cần sa.

F13. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dung các thuốc an dịu hoặc
các thuốc ngủ.

F14. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cocaine.

F15. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dung các chất kích thích khác
bao gồm cafein.

F16. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất gây ảo giác.

F17. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng thuốc lá.

F18. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các dung môi bay hơi.

F19. Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và sử
dụng các chất tác động tâm thần khác.

Ghi mã bằng chữ số thứ 4 và thứ 5 được sử dụng để biệt định các
trạng thái lâm sàng như sau:

F1x.0 Nhiễm độc cấp.

F1x.1 Sử dụng gây hại.

F1x.2 Hội chứng nghiện

F1x.3 Trạng thái cai.

F1x.4 Trạng thái cai với mê sảng.

F1x.5 Rối loạn loạn thần.


F1x.6 Hội chứng quên.

F1x.7 Rối loạn loạn thần di chứng và khởi phát muộn.

F1x.8 Các rối loạn tâm thần và hành vi khác.

F1x.9 Rối loạn tâm thần và hành vi không biệt định.

MỞ ĐẦU

Phần này bao gồm nhiều rối loạn đa dạng có mức độ trầm trọng khác
nhau (đi từ nhiễm độc không biến chứng và sử dụng gây hại đến các rối loạn
loạn thần và mất trí rõ rệt), nhưng tất cả đều được cho là sử dụng một hay nhiều
chất tác động tâm thần (các chất đó có thể được hoặc không được ngành y tế
cấp đơn).

Chất dùng được chỉ bằng con số thứ 2 và thứ 3 (nghĩa là hai con số đầu
tiên sau chữ F) và con số thứ 4, thứ 5 của mã định rõ các trạng thái lâm sàng.
Để tiết kiệm chỗ, tất cả các chất tác động tâm thần đều được ghi trước, tiếp theo
có mã 4 chữ số; các chữ số này phải được dùng, như đã qui định, cho mỗi một
chất biệt định, nhưng nên lưu ý rằng không phải là cả 4 chữ số đều được áp
dụng cho tất cả các chất.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Có thể nhận dạng chất tác động tâm thần được sử dụng căn cứ vào tài
liệu mà đối tượng tự kể, sự phân tích khách quan các mẫu nước tiểu, mẫu
máu... hoặc các bằng chứng khác (mẫu ma túy mà bệnh nhân có, các dấu hiệu
và triệu chứng lâm sàng hoặc lời kể của những nhân chứng). Người ta khuyên
nên luôn luôn tìm thông tin từ nhiều nguồn bằng chứng có liên quan đến chất
lượng sử dụng.

Các xét nghiệm phân tích khách quan là bằng chứng bắt buộc phải có để
chứng minh là hiện có hoặc gần đây có sử dụng ma túy, tuy rằng chúng chỉ có
giá trị hạn chế xét về mức độ dùng ma túy hiện nay và trong quá khứ.
Nhiều người sử dụng nhiều loại ma túy, tuy nhiên khi có thể được, chuẩn
đoán rối loạn phải được xếp loại theo một chất quan trọng duy nhất (hoặc theo
nhóm chất) đã sử dụng. Thông thường chẩn đoán được làm theo chất ma tuy
đặc biệt hoặc loại ma túy gây ra rối loạn hiện nay. Khi có nghi ngờ, ghi mã chất
ma túy hoặc loại ma túy thường bị lạm dụng nhiều hơn cả, đặc biệt trong các
trường hợp sử dụng liên tục hoặc hàng ngày.

Chỉ trong trường hợp mà phương thức sử dụng ma túy hỗn độn, bừa bãi,
hoặc trong trường hợp có nhiều loại ma túy hỗn hợp rắc rối thì mới dùng mã F19
(rối loạn do sử dụng nhiều loại ma túy).

Sự lạm dụng các chất tác động tâm thần khác như các thuốc nhuận tràng
hoặc aspirin cần được ghi mã theo mục F55- (lạm dụng các chất không nghiện)
dùng con số thứ 4 để định rõ loại chất sử dụng.

Những trường hợp các rối loạn tâm thần (đặc biệt mê sảng ở người cao
tuổi) do các chất tác động tâm thần, nhưng không thấy một rối loạn nào trong
các rối loạn được ghi ở phần này (thí dụ sử dụng gây hại hoặc hội chứng
nghiện) thì phải ghi mã theo mục F00-09. Khi trạng thái mê sảng gối lên một rối
loạn trong phần này, phải ghi mã theo mục F1x.3 hoặc F1x.4.

Mức độ sử dụng rượu có thể được ghi theo mã phụ trong chương XX của
ICD-10: Y90 (bằng chứng có sử dụng rượu được xác định bởi nồng độ rượu
trong máu) hoặc mục Y91- (bằng chứng cá sử dụng rượu được xác định bằng
mức độ nhiễm độc).

F1x.0 Nhiễm độc cấp.

Một trạng thái bệnh nhất thời tiếp theo sau việc sử dụng rượu hoặc chất
tác động tâm thần khác, dẫn đến các rối loạn ý thức, nhận thức tri giác, cảm xúc
hay hành vi hoặc các chức năng và đáp ứng tâm sinh lý khác.

Chẩn đoán này được xem là chuẩn đoán chính chỉ trong các trường hợp
nhiễm độc không đồng thời xuất hiện các vấn đề có liên quan đến việc dùng
rượu hoặc ma túy kéo dài. Nếu có vấn đề như vậy thì phải ưu tiên đặt chuẩn
đoán sử dụng gây hại (F1x1), hội chứng nghiện (F1x2) hoặc rối loạn loạn thần
(F1x5).

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Nhiễm độc cấp thường liên quan chặt chẽ với liều lượng sử dụng (xem
ICD-10 chương XX). Trường hợp ngoại lệ có thể xảy ra ở những người bị bệnh
thực tổn nào đó (ví dụ: suy thận hoặc suy gan) mà liều thấp có thể gây nhiễm
độc nặng không tương xứng với liều dùng. Giải ức chế do hoàn cảnh xã hội
cũng cần được lưu tâm tới (ví dụ: giải ức chế về tác phong trong các bữa tiệc
hoặc lễ hội). Nhiễm độc cấp là một hiện tượng nhất thời. Cường độ của nhiễm
độc giảm dần theo thời gian và hậu quả cuối cùng sẽ biến mất nếu không sử
dụng ma túy thêm nữa. Do đó có thể bình phục hoàn toàn, trừ khi có tổn thương
về tổ chức hoặc có biến chứng khác, phát sinh.

Các triệu chứng nhiễm độc không phải lúc nào cũng phản ánh các tác
động đầu tiên của chất dùng: ví dụ các chất chống trầm cảm có thể gây ra
những triệu chứng kích động hoặc tăng hoạt động và các chất kích thích có thể
dẫn đến hành vi tách rời xã hội và thu mình vào trong. Tác động của các chất
như cần sa và các chất gây ảo giác có thể đặc biệt không lường trước được.
Hơn nữa các chất tác động tâm thần có khả năng gây ra nhiều triệu chứng khác
nhau với liều lượng khác nhau. Ví dụ, rượu với liều lượng thấp có thể rõ ràng
gây hưng phấn hành vi, với liều lượng tăng lên dẫn đến kích động xâm phạm,
còn ở liều rất cao gây ra an dịu rõ rệt.

Bao gbn:- Say rượu cấp trong nghiện rượu

Những cuộc hành trình trắc trở

(Do các chất gây ảo giác)

Say rượu không biệt định cách khác.


Chẩn đoán phân biệt. Lưu ý tổn thương cấp ở đâu, hạ đường huyết. Cũng
cần phải xem xét đến khả năng nhiễm độc như là hậu quả của việc sử dụng
nhiều chất hỗn hợp.

Có thể dùng chữ số thứ 5 của mã để chỉ rõ là sự nhiễm độc cấp phối hợp
với biến chứng não:

F1x.00 Không biến chứng.

Các triệu chứng ở mức độ trầm trọng khác nhau, thường phụ thuộc vào
liều, đặc biệt liều cao.

F1x.01 Với chấn thương và các thương tổn khác của cơ thể.

F1x.02 Với các biến chứng nội khoa khác.

Các biến chứng như nôn ra máu, hít chất nôn.

F1x.03 Với mê sàng.

F1x.04 Với các rối loạn tri giác.

F1x.05 Với hôn mê.

F1x.06 Với co giật.

F1x.07 Nhiễm độc bệnh lý.

Chỉ áp dụng cho rượu. Bắt đầu đột ngột với hành vi tấn công và thường
hung bạo, không điển hình cho cá nhân lúc tỉnh rượu, xảy ra rất sớm sau khi
uống một lượng rượu không đủ gây nhiễm độc cho đa số người.

F1x.1 Sử dụng gây hại.

Phương thức sử dụng chất tác dụng tâm thần gây tổn hại cho sức khỏe.
Có thể tổn hại về mặt cơ thể (như các trường hợp viêm gan do tự tiêm chích các
chất ma túy) hoặc về mặt tâm thần (ví dụ các giai đoạn rối loạn trầm cảm thứ
phát sau khi uống nhiều rượu).

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Chẩn đoán đòi hỏi là sức khỏe tâm thần hoặc cơ thể của người sử dụng
hiện đang bị tổn hại.

Các phương thức sử dụng chất gây hại thường bị những người khác phê
phán và thường kèm theo những hậu quả chống đối xã hội ở nhiều dạng khác
nhau. Việc có một phương thức sử dụng hoặc một chất đặc biệt bị một người
khác hay một nền văn hóa phản đối hoặc dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho
xã hội như bị bắt giam hay vợ chồng cãi lộn, bản thân nó không phải là bằng
chứng của việc sử dụng gây hại,

Nhiễm độc cấp (xem mục F1 X 0) hoặc hiện tượng “khó chịu” bản thân
chúng cũng không phải là bằng chứng đủ về sự tổn hại sức khỏe, đòi hỏi phải có
để ghi mã “sử dụng gây hại”.

Không chẩn đoán sử dụng gây hại nếu có hội chứng nghiện (F1 X 2), rối
loạn loạn thần (FI X 5), hoặc có một thể đặc hiệu khác liên quan đến ma túy hay
rượu.

F1x.2 Hội chứng nghiện

Một nhóm những hiện tượng sinh lý, tập tính và nhận thức ở một người
nào đó có tập tính sử dụng một hay nhiều chất, với ưu tiên cao hơn nhiều so với
các tập tính trước kia đã từng được ưu tiên.

Nét đặc trưng trung tâm để mô tả hội chứng nghiện là một sự thèm muốn
(thường mạnh mẽ, đôi khi rất mãnh liệt) sử dụng các chất ma túy (các chất đó có
thể hoặc không do thầy thuốc cho đơn) rượu, hoặc thuốc lá. Có thể có bằng
chứng là quay lại sử dụng ma túy sau một thời gian cai sẽ làm phục hồi nhanh
chóng hơn các dấu hiệu khác của hội chứng so với những người không nghiện.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Chỉ chẩn đoán xác định nghiện khi có từ 3 trở lên các điều sau đây đã
được trải nghiệm hay biểu lộ vào một lúc nào đó trong vòng 1 năm trở lại đây:
(a) Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng chất ma túy.

(b) Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng ma túy về mặt thời gian
bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng.

(c) Một trạng thái cai sinh lý (xem F1 X 3 và F1 X 4) khi việc sử dụng ma
túy bị ngừng lại hoặc bị giảm bớt, bằng chứng là: hội chứng cai đặc trưng cho
chất ma túy đó; hoặc phải dùng chất ma túy cùng loại (hoặc chất gần giống) với
ý định làm giảm nhẹ hoặc né tránh các triệu chứng cai.

(d) Có bằng chứng về hiện tượng dung nạp thuốc, như cần phải tăng liều
để chấm dứt hậu quả lúc đầu do liều thấp gây ra (ví dụ rõ ràng là những người
nghiện rượu và nghiện thuốc phiện, có thể dùng hàng ngày những liều lượng đủ
để làm mất năng lực hoặc giết chết những người không dung nạp được thuốc).

(e) Dần dần xao nhãng các thú vui hoặc những thích thú trước đây có thể
thay thế cho sử dụng chất ma túy, tăng số thời gian cần để tìm kiếm hay sử dụng
ma túy, hoặc hồi phục khỏi tác động của ma túy.

(f) Tiếp tục sử dụng ma túy mặc dù có bằng chứng rõ ràng về hậu quả tai
hại, như tác hại đối với gan do uống quá nhiều; các trạng thái khí sắc trầm tiếp
theo sau những thời kỳ sử dụng chất ma túy nặng, hoặc tật chứng về chức năng
nhận thức do ma túy, cần phải cố gắng xác định rằng người sử dụng ma túy đã
thực sự biết hoặc được xem như đã biết bản chất và phạm vi của tác hại.

Việc thu gọn phương thức sử dụng chất tác động tâm thần cũng đã được
mô tả như là một nét đặc trưng (ví dụ khuynh hướng uống rượu một cách như
nhau vào những ngày làm việc và những ngày nghỉ cuối tuần, bất kể đến những
lễ nghi xã hội bắt buộc phải có tác phong thích hợp khi uống).

Nét đặc trưng chủ yếu của hội chứng nghiện là phải hoặc đang sử dụng
ma túy hoặc thèm muốn dùng ma túy; trong thời gian cố gắng ngừng hoặc kiểm
soát việc dùng ma túy thì bệnh nhân chủ quan nhận thức được xung động phải
dùng ma túy. Việc đòi hỏi phải có hiện tượng này để chẩn đoán, sẽ loại ra các
bệnh nhân ngoại khoa được cho thuốc phiện để giảm nhẹ đau. Những bệnh
nhân này có thể biểu hiện một trạng thái cai thuốc phiện khi không được cho
thuốc nữa, nhưng họ không có thèm muốn tiếp tục dùng thuốc.

Hội chứng nghiện có thể xuất hiện với một chất thuốc đặc hiệu (ví dụ
thuốc lá hoặc diazepam) với một nhóm thuốc (ví dụ các chất dạng thuốc phiện)
hoặc với một nhóm rộng hơn các chất khác nhau (như ở những người cảm thấy
bắt buộc phải đùng đều đều bất kỳ chất thuốc nào sẵn có và họ thấy đau buồn,
kích động và hoặc các triệu chứng cơ thể của một trạng thái cai khi phải nhịn
thuốc).

Bao gồm: Nghiện rượu mạn tính

Cơn thèm rượu

Nghiện ma túy.

Chẩn đoán hội chứng nghiện có thể xác định rõ thêm nữa bằng chữ số
thứ 5 của mã.

F1x.20 Hiện đang cai.

F1x.21 Hiện đang cai, nhưng ở trong môi trường được bảo vệ (Ví dụ trong
bệnh viện, trong cộng đồng điều trị, trong nhà giam, v.v..).

F1x.22 Hiện theo chế độ duy trì hoặc thay thế có giám sát lâm sàng
(nghiện có kiểm tra) (ví dụ methadone; kẹo nicotine hoặc cao nicôtin).

F1x.23 Hiện đang cai, nhưng được đỉều trị bằng thuốc gây ghét sợ hoặc
ngăn chặn (vi dụ naltrexone hay disulfiram).

F1x.24 Hiện đang dùng ma túy (nghiện chủ động).

F1x.25 Sử dụng liên tục.

F1x.26 Sử dụng từng giai đoạn (cơn thèm rượu).

F1x.3 Trạng thái cai.


Một tập hợp các triệu chứng ở mức độ trầm trọng khác nhau suất hiện khi
cai tuyệt đối hay tương đối một chất đã được sử dụng tái diễn thường là kéo dài
và hoặc với liều cao. Trạng thái cai khởi đầu và tiến triển trong một thời gian
ngắn và liên quan đến loại thuốc và liều dùng ngay trước khi cai. Trạng thái cai
có thể có biến chứng co giật.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Trạng thái cai là một trong các chỉ điểm của hội chứng nghiện (xem F1x2)
và cũng cần lưu ý đến chẩn đoán hội chứng này.

Trạng thái cai phải được ghi mã như là chẩn đoán chính nó có lý do phải
được xem xét và nó đủ trầm trọng để riêng mình nó có quyền đòi hỏi được quan
tâm.

Các triệu chứng cơ thể thay đổi tùy theo chất đã dùng. Các rối loạn tâm lý
(ví dụ lo âu, trầm cảm và các rối loạn giấc ngủ) cũng là những nét phổ biến của
trạng thái cai. Điển hình là bệnh nhân hay kể lại rằng các triệu chứng cai giảm
nhẹ khi dùng lại chất ma túy.

Phải nhớ rằng các triệu chứng cai có thể gây ra bằng các kích thích có
điều kiện/tập nhiễm mà không dùng chất ma túy ngay trước đó. Trường hợp đó
chỉ phải đặt chẩn đoán trạng thái cai nếu trạng thái đó chắc chắn là nghiêm
trọng.

Chẩn đoán phân biệt. Nhiều triệu chứng có trong trạng thái cai cũng có thể
gây ra do các trạng thái tâm thần khác ví dụ trạng thái lo âu và các rối loạn trầm
cảm. Không được lẫn lộn các triệu chứng “khó chịu” đơn giản hoặc triệu chứng
run do các bệnh khác với các triệu chứng của một trạng thái cai.

Chẩn đoán trạng thái cai có thể định rõ thêm bằng cách dùng mã 5 chữ số
sau đây:

F1x.30 Không có biến chứng.


F1x.31 Với co giật.

F1x.4 Trạng thái cai với mê sảng.

Một trạng thái cai nghiện (xem F1x3) với mê sảng là biến chứng (xem tiêu
chuẩn mục F05-).

Sảng run do rượu nên được ghi mã ở đây. Sảng run là một trạng thái lú
lẫn ngộ độc ngắn, nhưng đôi khi đe dọa tính mạng, kèm theo nhiều rối loạn cơ
thể. Thường nó là hậu quả của cai rượu tuyệt đối hoặc tương đối ở những người
nghiện rượu nặng, lâu ngày. Sảng run thường khởi đâu sau khi cai rượu. Trong
một số trường hợp, sảng run xuất hiện trong một giai đoạn uống nhiều rượu,
trường hợp này phải được ghi mã ở đây.

Các dấu hiệu tiền triệu điển hình bao gồm mất ngủ, run, và sợ hãi. Cũng
có thể co giật do cai xuất hiện trước khi bệnh khởi phát.

Tam chứng kinh điển bao gồm ý thức mù mờ và lú lẫn, các ảo tưởng và ảo
giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào và triệu chứng run nặng. Cũng thường có
hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc đảo lộn nhịp thức ngủ và hoạt động thần
kinh tự trị tăng mạnh.

Chẩn đoán trạng thái cai với mê sảng cần sử dụng mã 5 chữ số sau đây
để phân định rõ thêm:

F1x.40 Không có co giật.

F1x.41 Có co giật.

F1x.5 Rối loạn loạn thần.

Một nhóm các hiện tượng loạn thần xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi
sử dụng chất tác động tâm thần và nét đặc trưng là những ảo giác sinh động
(điển hình là ảo thanh, song thường là của nhiều giác quan), hiện tượng nhận
nhầm, các hoang tưởng và/hoặc các ý tưởng liên hệ. (Thường mang tính chất
paranoid hoặc truy hại), rối loạn tâm thần vận động (kích động hoặc sững sờ), và
cảm xúc bất thường đi từ sợ hãi mãnh liệt đến ngơ ngác. Tri giác thường sáng
sủa nhưng cũng có thể có ý thức mù mờ ở mức độ nào đó, nhưng không dẫn
đến lú lẫn nặng. Rối loạn này nếu điển hình sẽ tan đi, ít nhất một phần, trong
vòng một tháng và tan hoàn toàn trong vòng 6 tháng.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Một trạng thái loạn thần xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng
chất ma túy (thường trong vòng 48 giờ) phải được mã hóa ở đây trừ phi nó
không phải là biểu hiện của một trạng thái cai với mê sảng (xem F1x4) hoặc
trạng thái cai xuất hiện muộn. Các trạng thái loạn thần bắt đầu muộn (trên 2 tuần
sau khi dùng thuốc) có thể xuất hiện, nhưng phải ghi mã ở mục F1x75.

Các trạng thái loạn thần do ma túy có thể biểu hiện bằng những triệu
chứng theo nhiều phương thức khác nhau. Các thay đổi đó chịu ảnh hưởng của
loại ma túy đã dùng và nhân cách của người dùng. Đối với những chất kích thích
như cocain và amphetamin thì các trạng thái loạn thần do thuốc nói chung liên
quan chặt chẽ với các liều lượng cao và hoặc với sử dụng kéo dài.

Không chẩn đoán trạng thái loạn thần nếu chỉ thuần túy dựa vào các rối
loạn tri giác hoặc các nhận cảm ảo giác, khi dùng các thuốc có tác dụng gây ảo
giác trước tiên (ví dụ lysergide (LSD), nescaline, cannabis ở liều cao). Trong
trường hợp này cũng như đối với trạng thái lú lẫn, cần lưu ý khả năng chẩn đoán
nhiễm độc cấp (F1x0).

Cũng phải đặc biệt cẩn thận để không chẩn đoán nhầm sang một trạng
thái tâm thần nặng hơn (ví dụ tâm thần phân liệt) khi chẩn đoán loạn thần do ma
túy là thích đáng. Nhiều trạng thái loạn thần do ma túy tồn tại ngắn ngày miễn là
không dùng thèm chất ma túy nữa (trường hợp loạn thần do amphetamin và
cocain). Chẩn đoán sai trong các trường hợp đó có thể gây đau buồn và gây tốn
kém cho bệnh nhân cũng như cho các cơ quan y tế.

Bao gồm: Ảo giác do rượu.


Ghen tuông do rượu.

Paranoia do rượu.

Loạn thần do rượu không biệt định cách khác.

Chẩn đoán phân biệt. Phải xem xét đến khả năng một rối loạn tâm thần
khác bị thúc đẩy hoặc nặng lên do sử dụng ma túy (ví dụ tâm thần phân liệt
(F20-); rối loạn khí sắc (cảm xúc) (F30-F39); rối loạn nhân cách paranoia hoặc
nhân cách phân liệt (F60.0; F60.1). Trong những trường hợp này, chẩn đoán
trạng thái loạn thần do ma túy có thể không thỏa dáng.

Việc chẩn đoán trạng thái loạn thân có thể được biệt định rõ hơn bằng sử
dụng mã 5 chữ số dưới đây:

F1x.50 Giống tâm thần phân liệt.

F1x.51 Hoang tưởng chiếm ưu thế.

F1x.52 Ảo giác chiếm ưu thế (bao gồm cả ảo giác do rượu).

F1x.53 Chủ yếu đa dạng.

F1x.54 Các triệu chứng trầm cảm chiếm ưu thế.

F1x.55 Các triệu chứng hưng cảm chiếm ưu thế.

Fix.56 Trạng thái hỗn hợp.

F1x.6 Hội chứng quên.

Một hội chứng kết hợp với tật chứng mạn tính nổi bật về trí nhớ gần; trí
nhớ xa đôi khi bị suy giảm, trong khi hồi ức tức thời vẫn còn duy trì. Thông
thường rối loạn rõ rệt sự nhận biết về thời gian và trình tự các sự kiện, cũng như
khó khăn trong học tập các kiến thức mới. Bịa chuyện có thể rõ rệt nhưng không
phải lúc nào cũng có. Các chức năng nhận thức khác thường duy trì tương đối
tốt và các thiếu sót về trí nhớ không tương xứng với các rối loạn khác.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Hội chứng quên do rượu hoặc do các chất tác động tâm thần khác được
ghi mã ở đây phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung của một hội chứng quên thực
tổn (xem F04). Nhưng đòi hỏi đầu tiên cho chẩn đoán này là:

(a) Tật chứng về trí nhớ thể hiện trong tật chứng về trí nhớ gần (học tập
kiến thức mới); rối loạn nhận biết về thời gian (sắp xếp lại trình tự thời gian, lồng
nhiều sự kiện tái diễn vào một v.v...);

(b) Không có thiếu sót về Hồi ức tức thời, không có tật chứng vô ý thức,
không có tật chứng về nhận thức tổng hợp;

(c) Tiền sử hoặc bằng chứng khách quan có sử dụng mạn tính (đặc biệt
với liều cao) rượu hoặc chất ma túy,

Những biến đổi nhân cách thường dưới dạng vô cảm và mất sáng kiến và
cũng có thể có xu hướng không tự săn sóc bản thân. Những cái đó không được
coi là điều kiện cần thiết để chẩn đoán.

Mặc dù hiện tượng bịa chuyện có thể rõ ràng song nó không được coi là
đòi hỏi cần thiết tiên quyết để chẩn đoán.

Bao gồm: Hội chứng hoặc loạn thần Korsakov do rượu hoặc chất tác động
tâm thần khác.

Chẩn đoán phân biệt. Cần xem xét: hội chứng quên thực tổn (không do
rượu) (xem F04), các hội chứng thực tổn khác dẫn đến suy giảm trí nhớ rõ rệt (ví
dụ mất trí hoặc mê sảng) (F00-F03, F05-) rối loạn trầm cảm (F31-F33).

F1x.7 Trạng thái loạn thần di chứng và khởi phát muộn.

Một rối loạn trong đó các biến đổi về nhận thức, cảm xúc, nhân cách hoặc
tác phong do rượu hoặc ma túy kéo dài vượt ra ngoài giai đoạn được giả định
hợp lý là do tác động trực tiếp của chất ma túy.

Các nguyèn tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Khởi đầu của rối loạn phải trực tiếp liên quan đến việc sử dụng rượu hoặc
chất tác động tâm thần. Các trường hợp trong đó sự khởi phát xuất hiện muộn
sau những thời kỳ dùng ma túy thì chỉ ghi mã ở đây khi có bằng chứng rõ ràng
và chắc chắn để xem các trường hợp đó là hậu quả di chứng của chất độc. Rối
loạn đó phải biểu hiện một thay đổi hay một sự tăng rõ rệt trạng thái hoạt động
bình thường trước đây.

Rối loạn đó phải kéo dài vượt ra ngoài mọi thời kỳ được coi như là do ảnh
hưởng trực tiếp của ma túy gây ra (xem F1x0, nhiễm độc cấp). Mất trí do rượu
hoặc ma túy không phải luôn luôn không đảo ngược được; sau một giai đoạn
kéo dài của trạng thái cai hoàn toàn, các chức năng trí tuệ và trí nhớ có thể được
cải thiện.

Phải cẩn thận phân biệt rối loạn này với các trạng thái bệnh có liên quan
đến hiện tượng cai (xem F1x3 và F1x4). Phải nhớ rằng trong điêu kiện nào đó,
và với một chất ma túy nào đó, hiện tượng cai có thể xuất hiện sau khi ngừng
thuốc nhiều ngày hoặc nhiều tuần.

Các trạng thái bệnh do các chất ma túy, kéo dài sau khi sử dụng chúng, và
đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán trạng thái loạn thần thì không ghi mã ở đây
(sử dụng F1x5, trạng thái loạn thần). Các bệnh nhân có trạng thái cuối cùng mạn
tính của hội chứng Korsakov nên ghi mã ở mục F1x6.

Chẩn đoán phân biệt: Cần cân nhắc; rối loạn tâm thần có từ trước bị che
lấp bởi sử dụng ma túy lại nổi lên do hậu quả nhạt đi của ma túy (ví dụ lo âu ám
ảnh sợ, rối loạn trầm cảm, tâm thần phân liệt hoặc rối loạn loại phân liệt). Trường
hợp có các cảnh hồi tưởng, cần lưu ý đến các trạng thái loạn thần nhất thời, cấp
(F23-). Cũng cần phải lưu ý đến các tổn thương thực thể và chậm phát triển tâm
thần nhẹ hoặc vừa (F70-F71), các trạng thái đó có thể cùng tồn tại với việc lạm
dụng chất ma túy.
Các mục chẩn đoán này có thể chia nhỏ thêm bằng cách sử dụng mã 5
chữ số sau:

F1x.70 Các cảnh hồi tưởng.

Có thể phân biệt với các trạng thái loạn thần, một phần do chúng có tính
chất từng giai đoạn, thường trong thời gian rất ngắn (nhiều giây hoặc nhiều phút)
và do chúng sao chép (đôi khi chính xác) các nhận cảm liên quan với ma túy
trước đây.

F1x.71 Rối loạn nhân cách hoặc hành vi.

Đáp ứng tiêu chuẩn một rối loạn nhân cách thực tổn (F07-0).

F1x.72 Rối loạn cảm xúc di chứng.

Đáp ứng tiêu chuẩn các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn (F06.3).

F1x.73 Mất trí

Đáp ứng tiêu chuẩn chung của mất trí đã phác họa trong phần giới thiệu
mục F00-F09.

F1x.74 Tật chứng về nhận thức dai dẳng khác.

Một dạng các rối loạn di chứng với tật chứng về nhận thức kéo dài, không
đáp ứng các tiêu chuẩn của hội chứng quên (F1x6) hoặc mất trí (F1x73) do ma
túy.

F1x.75 Trạng thái loạn thần xuất hiện muộn.

F1x.8 Các rối loạn tâm thần và hành vi khác.

Ghi mã ở đây bất kỳ rối loạn nào khác trong đó việc sử dụng ma túy có thể
được nhận dạng là góp phần trực tiếp vào trạng thái bệnh, nhưng không đáp
ứng các tiêu chuẩn dùng để xếp vào bất cứ rối loạn nào nêu trên.

F1x.9 Rối loạn tâm thần và hành vi không biệt định.


Phần 3. F20-F29 BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT, CÁC RỐI LOẠN LOẠI
PHÂN LIỆT VÀ CÁC RỐI LOẠN HOANG TUỞNG
Nhìn tổng quát phần này

F20 Bệnh tâm thần phân liệt

F21 Các rối loạn loại phân liệt.

F22 Các rối loạn hoang tưởng dai dẳng.

F23 Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời.

F24 Rối loạn hoang tưởng cảm ứng.

F25 Các rối loạn phân liệt cảm xúc.

F28 Các rối loạn loạn thần không thực tổn khác.

F29 Bệnh loạn thần không thực tổn không biệt định.

MỞ ĐẦU

Bệnh tâm thần phân liệt, là rối loạn thường gặp nhất và quan trọng nhất
của nhóm này. Rối loạn loại phân liệt có nhiều nét đặc trưng của các rối loạn
phân liệt và có thể có liên quan với chúng về mặt di truyền; tuy nhiên không có
các ảo giác, hoang tưởng và các rối loạn tác phong trầm trọng của bản thân
bệnh tâm thần phân liệt và do vậy không phải lúc nào cũng được thầy thuốc chú
ý đến. Đa số các rối loạn hoang tưởng có lẽ không liên quan với bệnh tâm thần
phân liệt mặc dù có thể khó phân biệt chúng về mặt lâm sàng, đặc biệt trong các
giai đoạn đầu. Chúng là một tập hợp các rối loạn không đồng nhất và khó hiểu,
có thể chia ra một cách thích hợp theo thời gian kéo dài điển hình của chúng
thành một nhóm các rối loạn hoang tưởng dai dẳng và một nhóm rộng hơn các
rối loạn loạn thần cấp và nhất thời. Nhóm sau có vẻ đặc biệt thường gặp ở các
nước đang phát triển. Các nhóm nhỏ phân chia ở đây cần xem như là tạm thời.
Các rối loạn phân liệt cảm xúc được ghi ở phần này mặc dù tính chất của nó
đang còn được tranh luận.
F20. BỆNH TẦM THẦN PHÂN LIỆT.
Các rối loạn phân liệt có đặc điểm chung là sự rối loạn cơ bản và đặc
trưng về tư duy và tri giác và cảm xúc không thích hợp hay cùn mòn. Ý thức còn
rõ ràng và năng lực trí tuệ thường được duy trì mặc dù có một số thiếu sót về
nhận thức có thể xuất hiện trong quá trình tiến triển. Rối loạn đụng chạm đến các
chức năng cơ bản nhất, những chức năng làm cho một người bình thường có
cảm giác về cá tính, tính độc đáo và tính tự điều khiển mình. Những ý nghĩ, cảm
giác và hành vi sâu kín nhất thường được cảm thấy như bị những người khác
biết hay lấy bớt và các hoang tưởng suy đoán có thể phát triển với ấn tượng là
có những sức mạnh tự nhiên hay siêu nhiên đang hoạt động để ảnh hưởng đến
ý nghĩ và hành động của bệnh nhân bằng những phương tiện thường là kỳ lạ.
Họ có thể tự thấy mình là trung tâm của tất cả những gì đang xảy ra. Các ảo
giác, đặc biệt ảo thanh, thường gặp và có thể bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của
đối tượng. Tri giác thường bị rối loạn theo những cách khác nhau: màu sắc hay
âm thanh có vẻ rực rỡ hay ồn ào quá mức hoặc biến đổi về chất và các nét thứ
yếu của các sự vật thông thường có vẻ quan trọng hơn toàn bộ đối tượng hay
hoàn cảnh. Sự bàng hoàng cũng thường thấy lúc ban đầu và thường làm cho
bệnh nhân tin rằng các hoàn cảnh trong đời sống ngày có một ý nghĩa đặc biệt
thường mang tai họa và nhằm duy nhất vào bệnh nhân. Trong rối loạn tư duy
đặc trưng cho bệnh tâm thần phân liệt, các nét ngoài rìa và thứ yếu của một khái
niệm toàn bộ - trong hoạt động tâm thần bình thường bị ức chế - lại được đưa
lên hàng đầu và thay thế những nét quan trọng và thích hợp với hoàn cảnh. Do
vậy tư duy trở nèn mơ hồ, giản lược và mờ tối và biểu hiện qua lời nói đôi khi
khó hiểu. Thường gặp hiện tượng tư duy gián đoạn và tự ý thêm từ trong quá
trình tư duy và tư duy có vẻ như bị một lực lượng bên ngoài thu hút. Nét đặc
trưng của cảm xúc là nông cạn, thất thường hay không thích hợp. Tính hai chiều
và rối loạn ý chí có thể biểu hiện bằng tính ỳ, tính phủ định hay sững sờ, có thể
có căng trương lực. Có thể khởi đầu với tác phong rối loạn trầm trọng hoặc khởi
đầu âm ỉ với các ý nghĩ và hành vi kỳ dị phát triển từ từ. Tiến triển cũng rất khác
nhau và tuyệt nhiên không bắt buộc phải trở thành mạn tính hay suy sụp (cách
tiến triển biệt định theo chữ số thứ 5 của mã). Trong một số trường hợp, nhiều ít
tùy theo các nền văn hóa và dân cư khác nhau, bệnh kết thúc bằng khỏi hoàn
toàn hay gần như hoàn toàn. Hai giới bị bệnh gần như bằng nhau nhưng ở nữ
giới có khuynh hướng khởi đầu chậm hơn.

Mặc dù không xác định được các triệu chứng đặc trưng của bệnh một
cách chặt chẽ, nhằm mục đích thực tiễn, cần chia các triệu chứng nói trên thành
từng nhóm có tầm quan trọng đặc biệt đối với chẩn đoán và thường đi với nhau,
đó là:

(1) Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị
phát thanh;

(2) Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động, có liên quan rõ
rệt với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành
vi hay cảm giác đặc biệt; tri giác hoang tưởng.

(3) Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân hay
thảo luận với nhau về bệnh nhân hoặc các loại ảo thanh khác xuất phát từ một
bộ phận nào đó của thân thể.

(4) Các loại hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn hóa
và hoàn toàn không thể có được như tính đồng nhất về tôn giáo hay chính trị
hoặc những khả năng và quyền lực siêu nhân (thí dụ: có khả năng điều khiển
thời tiết, hoặc đang tiếp xúc với những người của thế giới khác).

(5) Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thoáng
qua hay chưa hoàn chỉnh, không có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý
tưởng quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng.

(6) Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy không liên quan
hay lời nói không thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.
(7) Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng hay uốn
sáp, phủ định, không nói, hay sững sờ.

(8) Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các
đáp ứng cảm xúc cùn mòn hay không thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội
hay giảm sút hiệu xuất lao động xã hội; phải rõ ràng là các triệu chứng trên
không do trầm cảm hay thuốc an thần kinh gây ra.

(9) Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập
tính cá nhân biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ
mê mải suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Yêu cầu thông thường của một chẩn đoán bệnh nhân tâm thần phân liệt là
ít nhất phải có một triệu chứng rất rõ (nếu ít rõ trường phải hai triệu chứng hay
nhiều hơn nữa) thuộc vào một trong các nhóm liệt kê từ (a) đến (d) ở trên hoặc
các triệu chứng thuộc vào ít nhất là hai trong các nhóm liệt kê từ (e) đến (h), các
triệu chứng ở trên phải tồn tại rõ ràng trong phần lớn khoảng thời gian một tháng
hay lớn hơn. Các trạng thái đáp ứng các yêu cầu về triệu chứng nói trên nhưng
thời gian ít hơn một tháng (dù có điều trị hay không) phải chẩn đoán trước tiên
như rối loạn loạn thần cấp giống phân liệt (F23.2) và sẽ phân loại là bệnh tâm
thần phân liệt nếu các triệu chứng kéo dài trong thời gian lâu hơn.

Hối cứu lại có thể thấy rõ là có một giai đoạn tiến triển trong đó các triệu
chứng và tác phong như thiếu quan tâm trong lao động, trong hoạt động xã hội
và trong hình dáng và vệ sinh cá nhân cùng với lo âu lan tỏa, trầm cảm và ưu tư
nhẹ, đi trước các triệu chứng loạn thần hàng tuần hoặc có khi hàng tháng. Do
khó xác định thời gian khởi đầu, tiêu chuẩn thời gian một tháng chỉ áp dụng đối
với các triệu chứng đặc trưng kể trên chứ không áp dụng cho bất cứ giai đoạn
tiến triển không loạn thần nào.
Không được chẩn đoán là tâm thần phân liệt nếu có các triệu chứng trầm
cảm hay hưng cảm mở rộng trừ khi đã rõ là các triệu chứng phân liệt xuất hiện
trước các rối loạn cảm xúc. Nếu cả các triệu chứng phân liệt lẫn cảm xúc cùng
phát triển và cân bằng nhau thì phải chẩn đoán là rối loạn phân liệt cảm xúc
(F25.-) dù rằng các triệu chứng phân liệt bản thân nó đã xác minh cho chẩn đoán
bệnh tâm thần phân liệt. Không chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt khi có bệnh
não rõ rệt hoặc bệnh nhân đang ở trong trạng thái nhiễm độc ma túy. Các rối
loạn tương tự phát triển trong khi có bệnh động kinh hay bệnh não khác phải ghi
theo mã F06.2 và các rối loạn do các chất ma túy gây ra thì ghi theo mã F1x.5.

Các kiểu tiến triển.

Tiến triển của các rối loạn phân liệt cần được sắp xếp theo các mã 5 chữ
số sau đây:

F20.x0 Liên tục

F20.x1 Từng giai đoạn với thiếu sót tăng dần

F20.x2 Từng giai đoạn với thiếu sót ổn định

F20.x3 Từng giai đoạn có thuyên giảm

F20.x4 Thuyên giảm không hoàn toàn

F20.x5 Thuyên giảm hoàn toàn

F20.x8 Tiến triển khác

F20.x9 Thời kỳ theo dõi dưới một năm.

F20.0 Tâm thần phân liệt thể Paranoid.

Đây là thể bệnh tâm thần phân liệt thường gặp nhất ở đa số các nơi trên
thế giới. Chiếm ưu thế trong bệnh cảnh thường là các hoang tưởng tương đối ổn
định, thường có ảo giác kèm theo, đặc biệt loại ảo giác thính giác và rối loạn tri
giác. Các rối loạn về cảm xúc, ý chí, ngôn ngữ và các triệu chứng căng trương
lực không nổi bật.

Thí dụ về các triệu chứng Paranoid phổ biến nhất:

(a) Các hoang tưởng bị truy hại, liên hệ, dòng giõi cao sang, sứ mênh đặc
biệt, cơ thể biến hình hay ghen tuông;

(b) Các ảo thanh đe dọa bệnh nhân hay ra lệnh hoặc các ảo giác thính
giác không có dạng lời nói như huýt còi, vo ve hay cười cợt;

(c) Các ảo giác khứu giác hay vị giác hay ảo giác về tình dục hoặc các
cảm giác cơ thể khác. Ảo giác thị giác cũng có thể xuất hiện nhưng hiếm khi
chiếm ưu thế.

Rối loạn tư duy có thể rõ ràng trong các trạng thái cấp nhưng nó không
ngăn cản các hoang tưởng hay ảo giác điển hình, rõ ràng như đã mô tả. Thường
cảm xúc ít cùn mòn hơn các thể tâm thần phân liệt khác, nhưng thường gặp tính
phi lý ở mức độ nhẹ của rối loạn khí sắc như cáu kỉnh, giận dữ đột ngột, nghi
ngờ. Các triệu chứng âm tính như cảm xúc cùn mòn và ý chí suy yếu cũng
thường thấy nhưng không chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.

Tâm thần phân liệt thể Paranoid có thể tiến triển từng giai đoạn với thuyên
giảm một phần hay hoàn toàn hoặc mạn tính. Trong loại tiến triển mạn tính các
triệu chứng phong phú kéo dài trong nhiều năm và khó phân biệt các giai đoạn
kín đáo. Thời gian khởi đầu có khuynh hướng chậm hơn các thể thanh xuân và
căng trương lực.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Các tiêu chuẩn chung chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (xem từ phần
mở đầu đến F20 ở trên) phải được thỏa mãn. Ngoài ra, các ảo giác và / hoặc
hoang tưởng phải nổi bật và các rối loạn cảm xúc, ý chí và lời nói và các triệu
chứng căng trương lực tương đối kín đáo. Thông thường các ảo giác thuộc các
loại mô tả ở (b) và (c) ở trên.
Hoang tưởng hầu hết có thể thuộc bất cứ loại nào tuy nhiên các hoang
tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động và hoang tưởng bị truy hại các loại là
đặc trưng nhất.

Bao gồm: Tâm thần phân liệt Paraphrenia.

Chẩn đoán phân biệt: Điều quan trọng là loại trừ các bệnh loạn thần do
dộng kinh hay do chất ma túy và nhớ rằng hoang tưởng bị truy hại có trọng
lượng yếu trong chẩn đoán, đặc biệt đối với những người thuộc một số nước và
một số nền văn hóa.

Loại trừ: Trạng thái Paranoid thoái triển (F22.8) Paranoia (F22.0).

F20.1 Tâm thần phân liệt thể thanh xuân.

Một thể tâm thần phân liệt trong đó các biến đổi cảm xúc nổi bật lên, các
hoang tưởng và ảo giác thoáng qua và rời rạc, tác phong vô trách nhiệm và
không lường trước, thường có tính điệu bộ. Cảm rác hời hợt, không thích hợp và
thường kèm theo cười khúc khích và tự mãn, mỉm cười một mình hoặc kiểu
cách, cau có, điệu bộ chơi khăm, than phiền nghi bệnh và những câu lặp lại. Tư
duy lộn xộn, lời nói dông dài và rời rạc. Có khuynh hướng sống cô độc, hành vi
hình như thiếu mục đích và thiếu cảm xúc. Thể bệnh tâm thần phân liệt này
thường bắt đâu giữa các tuổi 15 và 25 và có khuynh hướng tiên lượng xấu, do
các triệu chứng âm tính tiến triển nhanh, đặc biệt cảm xúc cùn mòn và mất ý chí.

Thêm vào đó các rối loạn cảm xúc, ý chí và tư duy thường nổi bật lên. Ảo
giác và hoang tưởng có thể có nhưng không nổi bật. Do mất động cơ, quyết định
và mục tiêu cho nên hành vi của bệnh nhân trở thành thiếu mục đích một cách
đặc trưng. Sự bận tâm một cách hời hợt và điệu bộ vào tôn giáo, triết học và các
chủ đề trừu tượng khác có thể làm cho người nghe càng khó hiểu khi theo dõi
dòng suy nghĩ của bệnh nhân.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán


Các tiêu chuẩn chung cho chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (xem từ
phần mở đầu đến F20 ở trên) cần phải được thỏa mãn.

Thông thường thể thanh xuân được chẩn đoán đâu tiên đối với thanh thiếu
niên hay người thành niên trẻ. Nhân cách tiền bệnh lý có đặc tính đặc trưng là
tính hơi nhút nhát và cô độc, nhưng không nhất thiết phải có như vậy. Để cho
chẩn đoán thể thanh xuân đáng tin cậy cần phải có một thời gian hai hay ba
tháng theo dõi liên tục để đảm bảo là các tác phong đặc trưng mô tả ở trên vẫn
còn duy trì.

Bao gồm: - Tâm thần phân liệt hỗn loạn.

- Hebephrenia

F20.2 Tâm thần phân liệt thể căng trương lực.

Các rối loạn tâm lý vận động nổi bật lên là nét chủ yếu và chiếm ưu thế và
các cực của rối loạn có thể thay nhau như tăng động và sững sờ, hoặc vâng lời
tự động và phủ định. Các dáng điệu và tư thế không tự nhiên có thể duy trì trong
thời gian dài. Các giai đoạn kích động dữ dội có thể là một nét đặc trưng của
bệnh cảnh.

Do những lý do chưa được hiểu rõ, thể căng trương lực của bệnh tâm
thần phân liệt hiện nay hiếm thấy ở các nước công nghiệp mặc dù vẫn còn
thường gặp ở các nơi khác. Các hiện tượng căng trương lực này có thể kết hợp
với một trạng thái giống mộng (mê mộng) với những hoạt cảnh ảo giác sinh
động.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán

Các tiêu chuẩn chung cho chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (xem từ
phần mở đầu đến F20 ở trên) cần phải được thỏa mãn. Các triệu chứng căng
trương lực riêng lẻ có thể xuất hiện nhất thời trong bối cảnh của bất cứ thể lâm
sàng nào khác của bệnh tâm thần phân liệt. Nhưng muốn chắc chắn là tâm thần
phân liệt thể căng trương lực thì một hay nhiều tác phong sau đây phải chiếm ưu
thế trong bệnh cảnh:

(a) Trạng thái sững sờ (giảm rõ rệt tính phản ứng đối với môi trường, giảm
các vận động và hoạt động tự phát) hoặc trạng thái không nói;

(b) Trạng thái kích động (hoạt động vận động rõ ràng là không mục đích,
không chịu ảnh hưởng các kích thích bên ngoài);

(c) Tư thế bất thường (tự ý chấp nhận và duy trì những tư thế không thích
hợp hay kỳ dị);

(d) Tính phủ định (chống đối, động cơ không rõ ràng, với tất cả chỉ dẫn
hay ý định làm cho bệnh nhân cử động hoặc bệnh nhân cử động theo hướng
ngược lại);

(e) Sự cứng đờ (duy trì một tư thế cứng đờ và chống lại các cố gắng làm
chuyển động tư thế ấy);

(f) Uốn dẻo như sáp (duy trì chân tay và thân mình theo những tư thế do
người ngoài áp đặt);

(g) Các triệu chứng khác như vâng lời tự động (tự động làm theo những
chỉ dẫn của người khác) và nói lặp lại các từ hay các câu.

Trong trường hợp bệnh nhân không tiếp xúc được mà có biểu hiện rối loạn
tác phong căng trương lực, chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt có thể xem như
tạm thời cho đến khi xuất hiện rõ ràng các triệu chứng khác. Cũng rất quan trọng
khi đánh giá căng trương lực không phải là những triệu chứng quyết định bệnh
tâm thần phân liệt. Một hay nhiều triệu chứng căng trương lực cũng có thể xuất
hiện sau một bệnh não, một rối loạn chuyển hóa, một chứng nghiện rượu hay
nghiện ma túy, cũng có thể xuất hiện trong các rối loạn cảm xúc.

Bao gồm: - Sững sờ căng trương lực

- Giữ nguyên dáng phân liệt


- Căng trương lực phân liệt

- Uốn sáp phân liệt.

F20.3 Tâm thần phân liệt thể không biệt định.

Thể này bao gồm các trạng thái đáp ứng các tiêu chuẩn chung cho chẩn
đoán bệnh tâm thần phân liệt (xem từ phần mở đầu đến F20 ở trên), nhưng
không tương ứng với bất cứ thể nào đã mô tả ở trên (F20.0 - F20.2), hoặc biểu
hiện đồng thời những tiêu chuẩn của nhiều thể mà không có một nhóm các nét
đặc trưng cho chẩn đoán nào chiếm ưu thế rõ rệt. Thể này chỉ được dùng cho
các trạng thái loạn thần (loại trừ tâm thần phân liệt di chứng F20.5, và trầm cảm
sau phân liệt, F20.4) và sau khi đã cố gắng sắp xếp vào một trong ba thể phân
liệt mô tả ở trên nhưng không được.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Thể lâm sàng này phải dành cho những rối loạn:

(a) Đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt;

(b) Không thỏa mãn các tiêu chuẩn chẩn đoán của các thể Paranoid,
thanh xuân hay căng trương lực;

(c) Không thỏa mãn các tiêu chuẩn chẩn đoán của tâm thần phân liệt thể
di chứng hay thể trầm cảm sau phân liệt.

Bao gồm: Tâm thần phân liệt không điển hình.

F20.4 Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt.

Một giai đoạn trầm cảm, có thể kéo dài, xuất hiện như hậu quả của một
bệnh tâm thần phân liệt. Một số triệu chứng phân liệt vẫn còn phải tồn tại nhưng
không còn chiếm ưu thế trong bệnh cảnh. Các triệu chứng phân liệt kéo dài có
thể là “dương tính” hay “âm tính” mặc dù các triệu chứng âm tính thường gặp
hơn. Người ta không biết chắc và điều này không quan trọng cho chẩn đoán là
đến mức độ nào các triệu chứng trầm cảm chỉ đơn thuần bị bộc lộ do các triệu
chứng loạn thần ban đầu biến mất (hơn là do chúng mới phát sinh) và đến mức
độ nào chúng là một thành phần nội tại của bệnh tâm thần phân liệt hơn là một
phản ứng tâm lý đối với bệnh. Hiếm khi chúng trầm trọng hay mở rộng đến mức
đáp ứng được các tiêu chuẩn của một giai đoạn trầm cảm nặng (F32.2 và F32.3)
và nhiều lúc khó quyết định triệu chứng nào của bệnh nhân do trầm cảm và triệu
chứng nào do thuốc an thần kinh hoặc do ý chí suy yếu hay cảm xúc cùn mòn
của bản thân bệnh tâm thần phân liệt. Rối loạn trầm cảm này kèm theo nguy cơ
tự sát ngày càng tăng.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Chẩn đoán chỉ được làm nếu:

(a) Bệnh nhân có một bệnh tâm thần phân liệt đáp ứng các tiêu chuẩn
chung cho chẩn đoán tầm thần phân liệt (xem từ phần mở đầu đến F20 ở trên)
trong vòng 12 tháng qua;

(b) Một số triệu chứng tâm thần phân liệt còn tồn tại; và

(c) Các triệu chứng trầm cảm nổi bật lên làm cho bệnh nhân rất khó chịu,
đáp ứng ít nhất các tiêu chuẩn của một giai đoạn trầm cảm (F32.-) và tồn tại ít
nhất hai tuần. Nếu bệnh nhân không còn triệu chứng phân liệt nào nữa thì phải
chẩn đoán là một giai đoạn trầm cảm (F32.-). Nếu các triệu chứng phân liệt còn
phong phú và nổi bật thì phải duy trì chẩn đoán theo một thể tâm thần phân liệt
thích ứng (F20.0, F20.1, F20.2 hay F20.3).

F20.5 Tâm thần phân liệt thể di chứng.

Một giai đoạn mạn tính trong tiến triển bệnh tâm thần phân liệt trong đó có
sự tăng tiến rõ rệt từ một giai đoạn sớm (bao gồm một hay nhiều thời kỳ với
những triệu chứng loạn thần đáp ứng các tiêu chuẩn chung chẩn đoán tâm thần
phân liệt mô tả ở trên) đến một giai đoạn muộn hơn với nét đặc trưng là có
những triệu chứng “âm tính” kéo dài nhưng không nhất thiết phải là không hồi
phục.
Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Muốn có một chẩn đoán đáng tin cậy, những yêu cầu sau đây phải được
đáp ứng:

(a) Những triệu chứng phân liệt “âm tính” nổi bật lên, tức là: sự chậm chạp
tâm lý vận động, hoạt động kém, cảm xúc cùn mòn, tính bị động và thiếu sáng
kiến, ngôn ngữ nghèo nàn về lượng hay về nội dung, nghèo nàn trong giao tiếp
không dùng lời như biểu hiện nét mặt, tiếp xúc bằng mắt, âm điệu lời nói và tư
thế, kém chăm sóc cá nhân và kém hoạt động xã hội;

(b) Trong quá khứ chắc chắn có ít nhất một giai đoạn loạn thần rõ rệt, đáp
ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt;

(c) Một thời kỳ ít nhất một năm trong đó cường độ và tần số các triệu
chứng phong phú như hoang tưởng và ảo giác chỉ còn tối thiểu hoặc giảm nhẹ
về cơ bản và hội chứng “âm tính” của tâm thần phân liệt vẫn tồn tại.

(d) Không có trạng thái mất trí hay bệnh lý thực tổn nào khác; không có
trầm cảm mạn tính hay trạng thái lưu viện đủ để giải thích các tật chứng âm tính.

Nếu không thu thập được những thông tin thích hợp về tiền sử của bệnh
nhân, do đó không thể xác định là các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân
liệt đã được thỏa mãn ở một lúc nào trong quá khứ, có thể cần phải làm một
chẩn đoán tạm thời về tâm thần phân liệt thể di chứng:

Bao gồm: - Tâm thần phân liệt mạn tính không biệt định.

- Trạng thái phân liệt di chứng.

F20.6 Tâm thần phân liệt thể đơn thuần.

Một trạng thái không thường gặp với tác phong kỳ dị phát triển âm thầm
nhưng tăng dần với mất khả năng đáp ứng các yêu cầu xã hội và sự sút kém
trong tất cả các việc làm; hoang tưởng và ảo giác không rõ ràng và các biểu hiện
loạn thần không rõ bằng các thể thanh xuân Paranoid và căng trương lực của
bệnh tâm thần phân liệt. Các nét đặc trưng âm tính của tâm thần phân liệt thể di
chứng (thí dụ như cảm xúc cùn mòn, ý chí giảm sút...) xuất hiện không có các
triệu chứng loạn thần rõ rệt nào đi trước. Với sự tiếp xúc xã hội ngày càng nghèo
nàn, đối tượng trở thành sống lang thang, thu mình lại, ăn không ngồi rồi, và
sống không mục đích.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Thể đơn thuần của tâm thần phân liệt là một chẩn đoán khó làm và không
đáng tin cậy chút nào vì nó phụ thuộc vào việc phải chứng minh sự tiến triển
chậm, tăng dần của các triệu chứng âm tình đặc trưng cho tâm thần phân liệt thể
di chứng (xem F20.5 ở trên) và không có trong bệnh sử ảo giác, hoang tưởng
hoặc các biểu hiện khác của một giai đoạn loạn thần xuất hiện sớm hơn, và
những biến đổi có ý nghĩa trong tác phong cá nhân, biểu hiện sự mất quan tâm
đáng kể, sự biếng nhác và sự cách ly xã hội.

Bao gồm: Tâm thần phân liệt đơn thuần. 

F20.8 Các thể tâm thần phân liệt khác.

Bao gồm: - Tâm thần phân liệt thể loạn cảm giác bản thể

- Rối loạn dạng phân liệt không xếp cách khác.

Loại trừ: - Rối loạn giống phân liệt cấp (F23.2)

- Tâm thần phân liệt chu kỳ (F25.2)

- Tâm thần phân liệt tiềm tàng (F23.2).

F20.9 Tâm thần phân liệt không biệt định.

F21. RỐI LOẠN LOẠI PHÂN LIỆT


Một rối loạn với các đặc điểm như tác phong kỳ dị, tư duy và cảm xúc khác
thường giống như trong bệnh tâm thần phân liệt, nhưng không có những nét bất
thường rõ rệt và đặc trưng của bệnh tâm thần phân liệt ở bất cứ giai đoạn nào
của bệnh. Không có một rối loạn nào là rối loạn điển hình hay ưu thế nhưng bất
cứ rối loạn nào sau đây cũng có thể có:

(a) Cảm xúc không thích hợp hay hời hợt (bệnh nhân có vẻ lạnh lùng và
cách biệt);

(b) Tác phong hay hình dáng bề ngoài lạ lùng, kỳ quái hay đặc biệt;

(c) Ít tiếp xúc với những người khác và có khuynh hướng xa lánh xã hội;

(d) Tin tưởng kỳ dị hay tư duy thần bí ảnh hưởng đến tác phong và mâu
thuẫn với những tiêu chuẩn của nhóm văn hóa dưới;

(e) Hoài nghi hay ý tưởng Paranoid;

(f) Các nghiền ngẫm ám ảnh không có sự chống đỡ bên trong thường có
nội dung sợ dị hình, tình dục hay xâm phạm;

(g) Những nhận cảm tri giác không thường gặp bao gồm các ảo tưởng cơ
thể - giác quan hay ảo tưởng khác, giải thể nhân cách hay tri giác sai thực tại;

(h) Tư duy và lời nói mơ hồ, chi ly, ẩn dụ, quá chải chuốt hay định hình
biểu hiện bằng ngôn ngữ kỳ dị hay bằng cách khác nhưng không rời rạc quá
đáng. 

(i) Có những giai đoạn gần như loạn thần thỉnh thoảng xuất hiện nhất thời
với ảo tưởng, ảo thanh hay ảo giác khác, tất cả đều mãnh liệt, và những ý tưởng
giống hoang tưởng thường xuất hiện không do kích thích bên ngoài.

Rối loạn tiến triển mạn tính với cường độ khi tăng khi giảm. Thỉnh thoảng
lại chuyển sang bệnh tâm thần phân liệt rõ rệt. Không có thời kỳ khởi đầu rõ ràng
và thường tiến triển như một rối loạn nhân cách. Thường gặp hơn ở những cá
nhân có quan hệ với bệnh nhân phân liệt về mặt di truyền và được xem như
thành phần của “Phổ” di truyền của bệnh tâm thần phân liệt.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Mục đích chẩn đoán này không nên dùng rộng rãi vì nó không có ranh giới
rõ ràng với thể đơn thuần bệnh tâm thần phân liệt hoặc với rối loạn nhân cách
dạng phân liệt hay Paranoid. Nếu áp dụng chẩn đoán này thì phải có ba hay bốn
nét trong những nét điển hình liệt kê ở trên, có thường xuyên hay có từng thời
kỳ, ít nhất trong hai năm. Đối tượng phải chưa bao giờ có đầy đủ những tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt. Trong lịch sử gia đình có một người
thân thuộc trực hệ bị bệnh tâm thần phân liệt sẽ cho thêm trọng lượng vào chẩn
đoán nhưng không phải là một tiêu chuẩn tiên quyết.

Bao gồm: - Tâm thần phân liệt ranh giới

- Tâm thần phân liệt tiềm tàng

- Phản ứng phân liệt tiềm tàng

- Tâm thần phân liệt tiền loạn thần

- Tâm thần phân liệt tiền chứng

- Tâm thần phân liệt giả tâm căn

- Tâm thần phân liệt giả nhân cách bệnh

- Rối loạn nhân cách loại phân liệt.

Loại trừ: - Hội chứng Asperger (F84.5)

- Rối loạn nhân cách dạng phân liệt (F60.1).

F22. RỐI LOẠN HOANG TƯỞNG DAI DẲNG.


Nhóm này bao gồm một số các trạng thái trong đó hoang tưởng kéo dài là
nét lâm sàng đặc trưng duy nhất hay chủ yếu nhất và không thể phân loại vào
các bệnh loạn thần thực tổn phân liệt hay cảm xúc. Có lẽ các trạng thái này
không đồng nhất và không có liên quan chắc chắn với bệnh tâm thần phân liệt.
Tầm quan trọng tương đối của các nhân tố di truyền, đặc điểm nhân cách và
hoàn cảnh sinh sống trong cơ chế sinh bệnh của chúng là không chắc chắn và
có lẽ dễ thay đổi.

F22.0 Rối loạn hoang tưởng.

Đặc điểm của nhóm rối loạn này là sự phát triển hoặc của một hoang
tưởng đơn độc hoặc của một nhóm các hoang tưởng có liên quan với nhau
thường dai dẳng và đôi khi tồn tại suốt đời. Nội dung của hoang tưởng rất khác
nhau thường là hoang tưởng bị hại, nghi bệnh hay tự cao nhưng có thể là hoang
tưởng kiện cáo hay ghen tuông hoặc tin tưởng mình có dị hình, hoặc người khác
nghĩ rằng mình thực sự hay có vẻ có chứng loạn dục đồng giới. Đặc biệt không
có các triệu chứng tâm thần bệnh lý khác nhưng triệu chứng trầm cảm có thể có
từng thời kỳ, ảo giác khứu giác và ảo giác xúc giác có thể xuất hiện trong một số
trường hợp. Những triệu chứng không tương hợp với chẩn đoán là ảo thanh
dưới dạng tiếng nói rõ ràng và kéo dài, các triệu chứng phân liệt như hoang
tưởng bị kiểm tra và cảm xúc cùn mòn và các triệu chứng rõ ràng về một bệnh
não. Tuy nhiên những ảo thanh nhất thời hoặc thỉnh thoảng xuất hiện này đặc
biệt ở bệnh nhân cao tuổi, cũng không loại trừ chẩn đoán này miễn là chúng
không điển hình cho bệnh tâm thần phân liệt và chỉ là một phần nhỏ trong toàn
bộ bệnh cảnh lâm sàng. Bệnh thường khởi đầu ở thời kỳ giữa lứa tuổi thành
niên nhưng đôi khi, đặc biệt trong trường hợp có hoang tưởng cơ thể có dị hình,
có thể khởi đầu ở thời kỳ đầu lứa tuổi thành niên. Nội dung và thời điểm xuất
hiện của hoang tưởng thường có thể có liên quan đến hoàn cảnh sinh sống của
đối tượng, thí dụ hoang tưởng bị truy hại trong những thành viên các nhóm thiểu
số. Ngoài những hành vi và thái độ có liên quan trực tiếp đến hoang tưởng hay
hệ thống hoang tưởng thì cảm xúc, lời nói và tác phong đều bình thường.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Hoang tưởng phải là đặc điểm lâm sàng duy nhất hay thấy rõ nhất. Chúng
phải tồn tại ít nhất ba tháng và phải mang tính chất “cá nhân” rõ rệt hơn là tính
chất “văn hóa dưới”. Các triệu chứng trầm cảm hay cả một giai đoạn trầm cảm
phát triển đầy đủ (F32.-) có thể xuất hiện từng thời kỳ miễn là hoang tưởng vẫn
tồn tại trong những lúc không có rối loạn cảm xúc. Phải chắc chắn là không có
bệnh não, không có ảo thanh hay chỉ có từng lúc và không có triệu chứng phân
liệt trong bệnh sử (hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị phát thanh, v.v...).

Bao gồm: Paranoia

Loạn thần Paranoid Paraphrenia (muộn)

Trạng thái Paranoid

Loại trừ: Rối loạn nhân cách Paranoid (F60.0)

Loạn thần Paranoid tâm sinh (F23.3)

Phản ứng Paranoid (F23.3)

Tâm thần phân liệt Paranoid (F20.0).

F22.8 Các rối loạn hoang tưởng dai dẳng khác.

Đây là mục di chứng của các rối loạn hoang tưởng dai dẳng không đáp
ứng các tiêu chuẩn của rối loạn hoang tưởng (F22.0). Cần ghi mã này cho các
rối loạn trong đó các hoang tưởng có kềm theo ảo thanh dai dẳng hoặc kèm theo
các triệu chứng phân liệt chưa thỏa mãn đầy đủ các tiêu chuẩn bệnh tâm thần
phân liệt (F20.-). Tuy nhiên các rối loạn hoang tưởng kéo dài ít hơn ba tháng vẫn
phải ghi mã theo (F23.-), ít nhất cũng ghi tạm thời.

Bao gĩm: Ám ảnh sợ dị hình hoang tưởng

Trạng thái Paranoid thoái triển

Paranoid kiện cáo.

F22.9 Rối loạn hoang tưởng dai dẳng, không biệt định.

F23. CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN CẤP VÀ NHẤT THỜI,


Hiện nay chưa có sẵn thông tin lâm sàng có hệ thống có thể cung cấp một
cách hướng dẫn dứt khoát để phân loại các rối loạn loạn thần cấp, và do đó các
cứ liệu còn hạn chế và truyền thông lâm sàng phải dùng để thay thế không đưa
ra được những khái niệm có thể định nghĩa rõ ràng và tách biệt với nhau. Trong
khi thiếu một hệ thống nhiều trục đã được thử nghiệm, phương pháp dùng ở
đây, nhằm tránh sự mơ hồ trong chẩn đoán, là xây dựng một thứ tự các chẩn
đoán phản ánh thứ tự ưu tiên dành cho các nét chủ chốt đã được lựa chọn của
rối loạn. Thứ tự ưu tiền dùng ở đây là:

(a) Khởi đầu cấp (trong vòng 2 tuần) là nét định nghĩa cho toàn nhóm.

(b) Có những hội chứng điển hình.

(c) Có Stress cấp kết hợp.

Tuy nhiên việc phân loại cũng được sắp xếp sao cho những người không
đồng ý với thứ tự ưu tiên này còn có thể xác định các rối loạn loạn thần cấp với
một trong các nét biệt định.

Cũng cần kiến nghị rằng khi nào có thể nên phân loại thêm thời kỳ khởi
đầu cho tất cả các rối loạn của nhóm này nếu áp dụng được.

- Khởi đầu cấp được định nghĩa như là một sự biến đổi từ một trạng thái
không có những nét loạn thần sang một trạng thái loạn thần bất thường rõ rệt
trong vòng 2 tuần hay ngắn hơn. Có một số bằng chứng cho rằng khởi đầu cấp
thường kết hợp với kết thúc tốt và có thể cho rằng khởi đầu càng đột ngột thì kết
thúc càng tốt hơn. Do vậy cần kiến nghị rằng, khi nào thích hợp, khởi đầu đột
ngột (trong vòng 48 giờ hay ngắn hơn) nên được biệt định.

- Các hội chứng điển hình được chọn lựa trước tiên là trạng thái biến đổi
nhanh chóng và khác nhau ở đây gọi là “đa dạng” được xem là nổi bật trong các
trạng thái loạn thần cấp ở nhiều nước, và thứ đến là sự xuất hiện các triệu
chứng phân liệt điển hình.

- Stress cấp kết hợp cũng cần được biệt định, với chữ số thứ 5 nếu muốn,
do sự gắn liền truyền thống của nó với loạn thần cấp. Tuy nhiên bằng chứng hạn
chế sẵn có cho thấy rằng một tỷ số đáng kể các rối loạn loạn thần cấp xuất hiện
không có Stress kết hợp do đó cần ghi chép dự phòng là có hay không có
Stress. Stress cấp kết hợp có nghĩa là các triệu chứng loạn thần đầu tiên xuất
hiện trong vòng 2 tuần sau một hay nhiều sự kiện được xem như là gây Stress
cho đa số người ở trong hoàn cảnh tương tự, trong phạm vi nền văn hóa của
người hữu quan. Các sự kiện điển hỉnh là tang tóc, mất bạn đời hay mất việc
làm mà không lường trước được, kết hôn hay sang chấn tâm lý trong chiến đấu,
bị khủng bố, bị tra tấn. Những vấn đề hay khó khăn tồn tại lâu ngày không được
gộp vào bối cảnh này và xem như một nguồn gốc gây Stress.

Thông thường bệnh khỏi hoàn toàn trong vòng từ 2 đến 3 tháng, lắm lúc
trong vài tuần hay vài ngày và chỉ có một tỷ số nhỏ bệnh nhân có rối loạn này
chịu các trạng thái dai dẳng và gây tật chứng. Tiếc thay hoàn cảnh tri thức hiện
nay không cho phép tiên lượng sớm tỷ số những bệnh nhân không được bình
phục nhanh chóng này.

Các mô tả lâm sàng và hướng dẫn chẩn đoán này viết ra với nhận định
rằng chúng sẽ được các nhà lâm sàng sử dụng để làm chẩn đoán khi phải xác
định và điều trị bệnh nhân trong vài ngày hay vài tuần của thời kỳ khởi đầu của
rối loạn mà không biết rối loạn này sẽ tồn tại bao lâu. Do vậy một số điều nhắc
nhở về các ranh giới thời gian và sự chuyển tiếp từ rối loạn này sang rối loạn
khác đã được đưa vào nhằm báo động cho những người ghi chép chẩn đoán
phải giữ cho chúng được cập nhật.

Thuật ngữ của rối loạn cấp này cũng không chắc chắn như tình trạng phân
loại bệnh của chúng nhưng người ta đã cố gắng dùng những từ giản đơn và
quen thuộc. “Rối loạn loạn thần” được dùng như một từ thuận tiện cho tất cả các
thành viên của nhóm này có thâm một từ định chất để chỉ rõ nét xác định chủ
yếu của mỗi loại riêng biệt như thứ tự đã ghi ở trên.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Không một rối loạn nào trong nhóm thỏa mãn các chỉ tiêu của giai đoạn
hưng cảm (F30.-) hay giai đoạn trầm cảm (F32.-) mặc dù biến đổi cảm xúc và
các triệu chứng cảm xúc cá nhân có thể đôi lúc nổi bật lên.

Các rối loạn này cũng được xác định là không có nguyên nhân thực tổn
như các trạng thái chấn động não, mê sảng hay mất trí. Trạng thái bàng hoàng,
lo lắng, không chú ý đến cuộc nói chuyện trước mắt cũng thường gặp nhưng
nếu các triệu chứng trên đậm nét và kéo dài đến nỗi gợi ý đến trạng thái mê
sảng hay mất trí căn nguyên thực tổn thì chẩn đoán phải hoãn lại cho đến khi sự
theo dõi đã làm sáng tỏ điều này. Cũng như vậy các rối loạn ở F23.- không được
chẩn đoán nếu có nhiễn độc ma túy hay rượu. Tuy nhiên nếu mới sử dụng rượu
hay cần sa nhiều hơn trước một tý chẳng hạn mà không có bằng chứng bị nhiễm
độc nặng hay mất định hướng thì không thể loại trừ chẩn đoán của một trong
những rối loạn loạn thần cấp này.

Điều quan trọng là phải ghi chú rằng chỉ tiêu 48 giờ hay 2 tuần không phải
đưa ra như thời gian của rối loạn trầm trọng tối đa mà như là thời gian các triệu
chứng loạn thần trở nên rõ rệt làm gián đoạn ít nhất một số mặt của đời sống và
lao động hàng ngày đỉnh cao của rối loạn có thể đạt đến về sau cả hai trường
hợp: các triệu chứng và rối loạn chỉ trở nên rõ rệt theo những thời gian đã định
với ý nghĩa là chúng thường đưa bệnh nhân đến tiếp xúc với một tổ chức cứu
trợ nào đó hay cơ quan y tế. Các giai đoạn tiên triệu với lo âu, trầm cảm, cách ly
xã hội hoặc tác phong bất thường nhẹ không làm cho đủ tiêu chuẩn để đưa vào
các giai đoạn thời gian này.

Một chữ số thứ 5 có thể dùng để chỉ rõ rối loạn loạn thần cấp có kết hợp
với Stress cấp hay không.

F23.x0 Không kết hợp với Stress cấp.

F23.x1 Có kết hợp với Stress cấp.


F23.0 Rối loạn loạn thần cấp đa dạng không có các triệu chứng của
tâm thần phân liệt.

Một rối loạn loạn thần cấp trong đó ảo giác, hoang tưởng và rối loạn tri
giác xuất hiện rõ ràng nhưng cũng thay đổi rõ rệt, thay đổi từ ngày này sang
ngày khác hoặc từ giờ này sang giờ khác. Cũng thường gặp hiện tượng náo
động cảm xúc với những nhận cảm mãnh liệt và nhất thời về hạnh phúc và say
mê hoặc lo âu và cáu kỉnh. Bệnh cảnh biến đổi đa dạng và không ổn định là nét
đặc trưng và mặc dù từng lúc có thể xuất hiện các triệu chứng loạn thần hay
cảm xúc của cá nhân, vẫn không có đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán của giai
đoạn hưng cảm (F30.-), giai đoạn trầm cảm (F32.-) hay tâm thần phân liệt
(F20.-). Rối loạn này đặc biệt có thể khởi đầu đột ngột (trong vòng 48 giờ) và
triệu chứng mất nhanh, trong một tỷ số lớn các trường hợp không có Stress thúc
đẩy rõ rệt.

Nếu các triệu chứng kéo dài hơn 3 tháng thì phải thay đổi chẩn đoán (rối
loạn hoang tưởng dai dẳng (F22.-) hay rối loạn loạn thần không thực tổn khác
(F28.-) có thể làm chẩn đoán thích hợp nhất).

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để có chẩn đoán xác định:

(a) Khởi đầu phải cấp (từ trạng thái không loạn thần sang trạng thái loạn
thần rõ rệt trong vòng 2 tuần hay ngắn hơn);

(b) Phải có nhiều loại ảo giác hay hoang tưởng thay đổi cả thể loại lẫn
cường độ từ ngày này sang ngày khác hoặc trong cùng một ngày.

(c) Phải có một trạng thái cảm xúc thay đổi tương tự

(d) Mặc dù có nhiều triệu chứng khác nhau không một triệu chứng nào
xuất hiện đủ kiên định để trở thành tiêu chuẩn chẩn đoán của bệnh tâm thần
phân liệt (F20.-) hoặc giai đoạn hưng cảm hay trầm cảm (F30.-) hay (F32.-)
Bao gồm: Cơn hoang tưởng không có các triệu chứng tâm thần phân liệt
hay không biệt định.

Loạn thần dạng chu kỳ không có các triệu chứng của tâm thần phân liệt
hay không biệt định.

F23.1 Rối loạn loạn thần đa dạng cấp với các triệu chứng của tâm
thần phân liệt.

Một rối loạn loạn thần cấp đáp ứng các tiêu chuẩn mô tả cho rối loạn loạn
thần da dạng cấp (F23.0) nhưng trong đó các triệu chứng phân liệt điển hình
cũng kiên định xuất hiện.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để xác định chẩn đoán các tiêu chuẩn (a), (b) và (c) biệt định cho rối loạn
loạn thần đa dạng cấp (F23.0) phải có đầy đủ; thêm vào đó các triệu chứng đáp
ứng các tiêu chuẩn của tâm thần phân liệt (F20.-) phải xuất hiện trong đa số thời
gian từ khi hình thành một bệnh cảnh loạn thần rõ rệt.

Nếu các triệu chứng phân liệt kéo dài hơn một tháng phải đổi sang chẩn
đoán bệnh tâm thần phân liệt (F20.-).

Bao gồm: Cơn hoang tưởng với các triệu chứng của tâm thần phân liệt.

Loạn thần dạng chu kỳ với triệu chứng của tâm thần phân liệt.

F23.2 Rối loạn loạn thần cấp giống phân liệt.

Một rối loạn loạn thần cấp trong đó các triệu chứng loạn thần tương đối ổn
định và đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (F20.-)
nhưng xuất hiện dưới một tháng. Cảm xúc biến đổi và không ổn định ở một mức
độ nào đó nhưng không vượt quá phạm vi mô tả cho rối loạn loạn thần đa dạng
cấp (F23.0).

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.


Để có chẩn đoán xác định:

(a) Khởi đâu của các triệu chứng loạn thần phải cấp (hai tuần hay ngắn
hơn từ một tháng không loạn thần sang một trạng thái loạn thần rõ rệt);

(b) Các triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần
phân liệt (F20.-) phải xuất hiện trong đa số thời gian từ khi hình thành một bệnh
cảnh loạn thần rõ rệt;

(c) không có đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán các rối loạn loạn thần đa dạng
cấp.

Nếu các triệu chứng phân liệt tồn tại hơn một tháng, phải đổi sang chẩn
đoán bệnh tâm thần phân bệt (F20.-).

Bao gồm: Tâm thần phân liệt cấp (không biệt định).

Rối loạn dạng phân liệt ngắn

Loạn thần dạng phân liệt ngắn

Bệnh loạn thần mê mộng

Phản ứng phân liệt.

Loại trừ. Rối loạn hoang tưởng thực tổn (giống phân liệt) (F06.2)

Rối loạn dạng phân liệt không biệt định cách khác (F20.8)

F23.3 Các rối loạn loạn thần cấp khác chủ yếu hoang tưởng.

Các rối loạn loạn thần cấp trong đó các nét lâm sàng chủ yếu là hoang
tưởng hay ảo giác tương đối ổn định nhưng không đáp ứng đầy đủ các tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (F20.-). Phổ biến là hoang tưởng bị
truy hại hay liên hệ và ảo giác thường là thính giác (tiếng nói trực tiếp nói với
người bệnh).

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để có chẩn đoán xác định:


(a) Khởi đầu của các triệu chứng loạn thần phải cấp (hai tuần hay ngắn
hơn từ một trạng thái không loạn thần sang một trạng thái loạn thần rõ rệt).

(b) Hoang tưởng hay ảo giác phải xuất hiện trong đa số thời gian từ khi
hình thành một trạng thái loạn thần rõ rệt; và

(c) Các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (F20.-), cũng như
rối loạn loạn thần đa dạng cấp (F23.0) đều không được đáp ứng đầy đủ.

Nếu các hoang tưởng kéo dài hơn 3 tháng phải đổi sang chẩn đoán rối
loạn hoang tưởng dai dẳng (F22.-). Nếu chỉ có ảo giác kéo dài hơn 3 tháng phải
đổi sang chẩn đoán rối loạn loạn thần không thực tổn khác (F28).

Bao gồm: Phản ứng Paranoid

Loạn thần Paranoid tâm sinh.

F23.8 Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời khác.

Bất cứ rối loạn loạn thần cấp nào khác không thể phân loại theo bất cứ
mục nào trong F23 (như các trạng thái loạn thần cấp trong đó các hoang tưởng
hay ảo giác rõ rệt có xuất hiện nhưng chỉ tồn tại trong tỷ số thời gian ngắn), phải
được ghi theo mã này. Các trạng thái kích động không biệt định cũng phải ghi
theo mã này nếu không có thông tin chi tiết hơn về trạng thái tâm thần của người
bệnh, miễn là không có bằng chứng về một nguyên nhân thực tổn.

P23.9 Rối loạn loạn thần cấp và nhất thời không biệt định.

Bao gồm: Loạn thần phản ứng (ngắn) không biệt định cách khác.

F24. RỐI LOẠN HOANG TƯỞNG CẢM ỨNG.


Rối loạn hoang tưởng hiếm gặp, hoang tưởng chia sẻ giữa hai người hay
có khi nhiều người vốn có mối liên quan gần gũi về tình cảm. Chỉ có một người
có rối loạn loạn thần thật; các hoang tưởng từ người này cảm ứng sang người
kia và thường mất đi khi họ xa cách nhau. Bệnh loạn thần của thành viên chiếm
ưu thế thường gặp nhất là bệnh tâm thần phân liệt nhưng không nhất thiết hoặc
lúc nào cũng phải như thế. Cả hoang tưởng cội nguồn của thành viên ưu thế lẫn
hoang tưởng cảm ứng của thành viên kia thường mạn tinh và có chủ đề bị truy
hại hay tự cao. Các hoang tưởng chỉ truyền cho nhau theo cách này trong những
hoàn cảnh không thông thường, gần như lúc nào cũng vậy những người hữu
quan ấy luôn có mối liên hệ chặt chẽ bất thường và bị cách ly với những người
khác do các điều kiện ngôn ngữ văn hóa hay địa lý. Cá nhân có hoang tưởng
cảm ứng thường cũng là người phụ thuộc hay người phục vụ cho người có bệnh
loạn thần thật.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Chỉ có thể làm chẩn đoán rối loạn hoang tưởng cảm ứng nếu:

(a) Có hai hay nhiều người cùng chia sẻ một hoang tưởng hay một hệ
thống hoang tưởng và ủng hộ lẫn nhau trong điều tin này;

(b) Họ có mối liên hệ chặt chẽ bất thường theo cách mô tả ở trên;

(c) Có bằng chứng về thời gian hay về bối cảnh khác là hoang tưởng đã
được cảm ứng do thành viên bị động đã tiếp xúc với thành viên chủ động.

Ảo giác cảm ứng không thường gặp nhưng nếu có cũng không phủ định
chẩn đoán. Tuy nhiên nếu có những lý lẽ để tin rằng hai người tuy sống chung
nhưng có những rối loạn loạn thần độc lập thì không được ghi theo mã số ở đây.
Kể cả khi một số trong những hoang tưởng của họ là những hoang tưởng chia
sẻ.

Bao gồm:- Điên tay đôi

- Paranoid cảm ứng hay rối loạn loạn thần cảm ứng.

- Loạn thần hòa hợp.

Loại trừ: Điên đồng thời.


F25. CÁC RỐI LOẠN PHÂN LIỆT CẢM XÚC.
Đó là những rối loạn từng giai đoạn trong đó các triệu chứng cảm xúc lẫn
phân liệt đều nổi bật trong cùng một giai đoạn của bệnh, thường là đồng thời
nhưng ít nhất cũng cách nhau khoảng vài ngày. Mối liên quan của chúng với
những rối loạn cảm xúc điển hình (F30 đến F39) và với các rối loạn phân liệt
(F20-F24) là không chắc chắn. Chúng được coi như là một thể loại riêng bởi vì
chúng rất phổ biến nên không thể bỏ qua được. Các trạng thái khác, trong đó
các triệu chứng cảm xúc gối lên hoặc là một phần của bệnh tâm thần phân liệt
có từ trước hoặc trong đó chúng cùng tồn tại hay xen kẽ với các loại khác của rối
loạn hoang tưởng dai dẳng thì xếp loại theo thể loại thích ứng (F20-29). Các
hoang tưởng hay ảo giác không phù hợp với khí sắc trong các rối loạn cảm xúc
(F30.2, F31.2; F31.5, F32.3 hay F33.3) bản thân chúng không xác minh cho
chẩn đoán rối loạn phân liệt cảm xúc.

Những bệnh nhân có các giai đoạn phân liệt cảm xúc tái diễn, đặc biệt ở
những người có những triệu chứng thuộc loại hưng cảm nhiều hơn là trầm cảm
thường được thuyên giảm hoàn toàn và hiếm khi phát triển sang trạng thái dị tật.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Một chẩn đoán rối loạn phân liệt cảm xúc chỉ được đặt ra khi cả hai triệu
chứng phân liệt rõ rệt và cảm xúc rõ rệt đều nổi bật đồng thời hoặc cách nhau
vài ngày trong cùng giai đoạn của bệnh và khi vì lẽ đó giai đoạn của bệnh không
đáp ứng những tiêu chuẩn hoặc của bệnh tâm thần phân liệt hoặc của giai đoạn
trầm cảm, hay giai đoạn hưng cảm. Thuật ngữ không được áp dụng cho những
bệnh nhân chỉ biểu hiện các triệu chứng phân liệt và cảm xúc như ở những giai
đoạn khác nhau của bệnh. Thí dụ thường gặp ở bệnh nhân phân liệt có các triệu
chứng trầm cảm tiếp theo sau một giai đoạn loạn thần (xem thể trầm cảm sau
phân liệt F20.4). Một số bệnh nhân có những giai đoạn phân liệt cảm xúc tái diễn
có thể thuộc loại hưng cảm hoặc thuộc loại trầm cảm hoặc cả hai loại hỗn hợp.
Những người khác thì bị một hoặc hai giai đoạn phân liệt cảm xúc xảy ra xen kẽ
của những giai đoạn hưng cảm hay trầm cảm điển hình. Trong trường hợp thứ
nhất rối loạn cảm xúc phân liệt là chẩn đoán thích hợp. Trong trường hợp thứ hai
sự xuất hiện của một giai đoạn phân liệt cảm xúc bất thường không làm mất giá
trị của chẩn đoán rối loạn cảm xúc lưỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm tái diễn,
nếu bệnh cảnh lâm sàng vẫn điển hình về nhiều mặt.

F25.0 Rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm.

Một rối loạn trong đó các triệu chứng tâm thần phân liệt và các triệu chứng
hưng cảm cả hai đều nổi bật trong cùng một giai đoạn của bệnh. Khí sắc bất
thường, thường có dạng hưng phấn, kèm theo tự đánh giá bản thân quá cao và
ý tưởng khuyếch đại, nhưng đôi khi kích động hoặc cáu kỉnh rõ hơn và kèm theo
tác phong xâm phạm và ý tưởng bị truy hại. Trong cả hai trường hợp đều có sự
tăng năng lượng, hoạt động quá mức, sự tập trung chú ý bị rối loạn, và mất khả
năng ức chế xã hội bình thường. Có thể có những hoang tưởng liên hệ, tự cao
hay truy hại, nhưng các triệu chứng phân liệt khác điển hình hơn vẫn cần phải có
để xác định chẩn đoán, ví dụ: người bệnh có thể nhấn mạnh rằng những ý nghĩ
của họ bị phát thanh hay bị quấy nhiễu hoặc bệnh nhân bị các lực lượng xa lạ
đang kiểm tra họ, hoặc bệnh nhân có thể thuật lại các loại tiếng nói khác nhau đã
được nghe hoặc biểu hiện các ý tưởng hoang tưởng kỳ lạ chứ không phải đơn
thuần chỉ là các hoang tưởng tự cao hay bị truy hại. Nhiều lúc phải hỏi kĩ để xác
định là đối tượng thực sự nhận cảm những hiện tượng bệnh lý chứ không phải
đơn thuần nói đùa hoặc nói ẩn dụ. Các rối loạn phân liệt cảm xúc loại hưng cảm
thường là những bệnh loạn thần phong phú, với khởi đầu cấp. Mặc dù tác phong
thường bị rối loạn nặng nề, việc phục hồi hoàn toàn thường xuất hiện trong vài
tuần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Khí sắc hưng phấn phải nổi bật lên hoặc có sự kết hợp giữa khí sắc hưng
phấn ít rõ rệt với tính cáu kỉnh hoặc tính kích động tăng lên. Trong cùng một giai
đoạn bệnh có ít nhất một hay tốt hơn là hai triệu chứng tâm thần phân liệt điển
hình rõ ràng (như biệt định đối với bệnh tâm thần phân liệt ở F20.-), các nguyên
tắc chỉ đạo chẩn đoán mục từ (a) đến (d) phải có rõ ràng. Mục này phải áp dụng
cả cho một giai đoạn phân liệt cảm xúc đơn độc loại hưng cảm và cho một rối
loạn tái diễn trong đó đa số các giai đoạn là phân liệt cảm xúc, loại hưng cảm.

Bao gồm: Loạn thần phân liệt cảm xúc, loại hưng cảm.

Loạn thần dạng phân liệt, loại hưng cảm.

F25.1 Rối loạn phân liệt cảm xúc, loại trầm cảm.

Một rối loạn trong đó các triệu chứng bệnh tâm thần phân liệt và trầm cảm
cả hai đều nổi bật lên trong cùng một giai đoạn của bệnh. Khí sắc trầm thường
kèm theo nhiều triệu chứng trầm cảm đặc trưng hoặc tác phong bất thường như
chậm chạp, mất ngủ, mất năng lượng, ăn mất ngon, sút cân, thu hẹp các mối
quan tâm, giảm sút sự tập trung, các ý tưởng bị tội, thất vọng và tự sát. Đồng
thời hay trong cùng một giai đoạn có những triệu chứng tâm thần phân liệt điển
hình hơn; ví dụ người bệnh có thể nhấn mạnh rằng các ý tưởng của họ đang bị
phát thanh hay bị quấy nhiễu hoặc những lực lượng xa lạ đang tìm cách kiểm tra
họ. Bệnh nhân có thể khẳng định họ đang bị rình mò hay bị âm mưu chống lại và
tác phong của họ không chứng minh cho điều này. Bệnh nhân nghe những tiếng
nói không chỉ thuầnn túy gièm pha hoặc buộc tội mà còn nói đến việc giết họ, mà
còn thảo luận với nhau để xử lý việc này. Các giai đoạn phân liệt cảm xúc loại
trầm cảm thường ít phong phú và ít dễ sợ hơn là các giai đoạn phân liệt cảm xúc
loại hưng cảm, nhưng chúng có khuynh hướng kéo dài lâu hơn và tiên lượng ít
thuận lợi hơn. Mặc dù đa số các bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, một số có khả
năng chuyển sang dị tật phân liệt.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Phải có trầm cảm nổi bật kèm theo ít nhất hai triệu chứng trầm cảm đặc
trưng hoặc kết hợp với hành vi tác phong dị thường như đã ghi trong giai đoạn
trầm cảm (F32.-); trong cùng một giai đoạn ít nhất phải có một và tốt hơn có hai
triệu chứng tâm thần phân liệt điển hình xuất hiện rõ ràng (như đã biệt định cho
tâm thần phân liệt (F20-), nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán mục (a) đến (d).

Mục này phải áp dụng cho một giai đoạn phân liệt cảm xúc đơn độc loại
trầm cảm và cho một rối loạn tái diễn trong đó đa số các giai đoạn là phân liệt
cảm xúc, loại trầm cảm.

Bao gồm: Loạn thần phân liệt cảm xúc, loại trầm cảm

Loạn thần dạng phân liệt, loại trầm cảm.

F25.2 Rối loạn phân liệt cảm xúc, loại hỗn hợp.

Ghi mã ở đây các rối loạn trong đó các triệu chứng phân liệt (F20.-) cùng
tồn tại với những triệu chứng của một rối loạn cảm xúc lưỡng cực hỗn hợp
(F31.6).

Bao gồm: Tâm thần phân liệt chu kỳ

Loạn thần phân liệt và cảm xúc hỗn hợp.

F25.8 Các rối loạn phân liệt cảm xúc khác. 

F25.9 Rối loạn phân liệt cảm xúc không biệt định.

Bao gồm: Loạn thần phân biệt cảm xúc không biệt định cách khác.

F28. CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN KHÔNG THỰC TỔN KHÁC.

Cân phải ghi theo mã này các rối loạn loạn thần không đáp ứng các tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt (F20.-) hoặc các thể loạn thần của các
rối loạn cảm xúc (F30-F39) và các rối loạn loạn thần không đáp ứng các tiều
chuẩn về triệu chứng để chẩn đoán rối loạn hoang tưởng dai dẳng (F22.-).

Bao gồm: Loạn thần ảo giác mạn tính không biệt định cách khác.

F29. LOẠN THẦN KHÔNG THỰC TỔN KHÔNG BIỆT ĐỊNH.

Bao gồm: Loạn thần không biệt định cách khác


Loại trừ: Loạn thần không biệt định cách khác (F99)

Loạn thần thực tổn hay triệu chứng không biệt định cách khác (F09).

Phần 4. F30-F39 RỐI LOẠN KHÍ SẮC (CẢM XÚC)


Nhìn tổng quát phần này

F30 Giai đoạn hưng cảm

F31 Rối loạn cảm xức lưỡng cực.

F32 Giai đoạn trầm cảm.

F33 Rối loạn trầm cảm tái diễn.

F34 Các trạng thái rối loạn khí sắc (cảm xúc) dai dẳng.

F38 Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) khác.

F39 Rối loạn khí sắc (cảm xúc) không biệt định.

MỞ ĐẦU

Mối quan hệ giữa căn nguyên, triệu chứng, các quá trình sinh hóa cơ bản,
sự đáp ứng với điều trị, và kết thúc của những rối loạn khí sắc (cảm xúc), chưa
được hiểu biết đầy đủ để có thể phân loại chúng, theo cách mà mọi người đều
có thể thừa nhận được. Tuy nhiên vẫn phải thử đưa ra một cách phân loại và
trình bày ở đây với hy vọng ít nhất nó có thể được chấp nhận, vì đó là kết quả
của quá trình tham vấn ý kiến rộng rãi.

Trong những rối loạn này, rối loạn cơ bản là một sự thay đổi khí sắc hay
cảm xúc thường chuyển sang trầm cảm (có hay không có lo âu kèm theo) hoặc
chuyển sang hưng phấn. Sự thay đổi khí sắc này thường kèm theo một sự thay
đổi toàn bộ hoạt động, và đa số các triệu chứng khác hoặc thứ phát hoặc được
hiểu một cách dễ dàng trong bối cảnh của các thay đổi nói trên. Đa số những rối
loạn này có khuynh hướng tái diễn và khởi đầu các giai đoạn của từng cá nhân
thường có liên quan đến các sự kiện hoặc hoàn cảnh gây stress. Phần này có
liên quan đến các rối loạn khí sắc ở tất cả các nhóm tuổi; do vậy các rối loạn
xuất hiện ở trẻ em và thanh thiếu niên cần được ghi theo mã ở đây.

Các tiêu chuẩn chính để phân loại các rối loạn cảm xúc đã được chọn lựa
theo những lý do thực tiễn, chúng cho phép xác định dễ dàng các rối loạn lâm
sàng thường gặp. Các giai đoạn đơn độc đã được tách ra khỏi các rối loạn của
giai đoạn lưỡng cực và nhiều rối loạn giai đoạn khác, bởi vì một số lớn các bệnh
nhân chỉ có một giai đoạn bị bệnh và mức độ trầm trọng được đưa lên trước, do
đòi hỏi về điều trị và dự phòng của các cơ sở nhiều cấp khác nhau. Cần phải
hiểu rằng các triệu chứng đưa ra ở đây như là “cơ thể” cũng có thể được gọi là
“sầu uất” “sinh thể” “sinh học” hoặc “nội sinh” và tính chất khoa học của hội
chứng này trong trường hợp nào đó vẫn phải tranh luận phần nào. Hy vọng rằng
việc đưa nó vào đây sẽ là một sự đánh giá phê phán rộng rãi về lợi ích của việc
tách nó ra. Cách phân loại được sắp đặt sao cho hội chứng cơ thể này có thể
được ghi nhận tùy thích, nhưng cũng có thể bỏ đi mà không mất chút thông tin
nào khác.

Sự phân biệt giữa các mức độ trầm trọng khác nhau vẫn còn là một vấn
đề; 3 mức độ nhẹ, vừa và nặng được biệt định ở đây là vì nhiều nhà lâm sàng
muốn có nó để sử dụng.

Các thuật ngữ “hưng cảm” và “trầm cảm nặng” được sử dụng trong bảng
phân loại này là để mô tả cực đối lập của phổ cảm xúc; “hưng cảm nhẹ” được sử
dụng để mô tả một trạng thái ở trung gian không có hoang tưởng, ảo giác hoặc
không làm gián đoạn hoàn toàn hoạt động bình thường, hưng cảm nhẹ thường
(chứ không phải luôn luôn thấy ở những bệnh nhân đang lâm vào hoặc ra khỏi
trạng thái hưng cảm.
F30. GIAI ĐOẠN HƯNG CẢM
Ba mức độ trầm trọng đã được biệt định ở đây là thành phần của những
đặc điểm cơ bản phổ biến của khí sắc hưng phấn và sự tăng tốc và tăng lượng
của hoạt động cơ thể và tâm thần. Mỗi phần chia nhỏ nìa mục này chỉ được sử
dụng cho một giai đoạn hưng cảm đơn độc. Nếu trước hoặc sau có những giai
đoạn cảm xúc khác (trầm cảm hưng cảm, hoặc hưng cảm nhẹ) thì rối loạn phải
được ghi mã theo mục rối loạn cảm xúc lưỡng cực (F31.-)

Bao gồm: rối loạn lưỡng cực.

giai đoạn hưng cảm đơn độc.

F30.0 Hưng cảm nhẹ.

Hưng cảm nhẹ là mức độ nhẹ hơn của hưng cảm (F30.1) trong đó các bất
thường về khí sắc và tác phong quá dai dẳng và nặng đến nỗi không có thể đưa
vào khí sắc chu kỳ (F34.0) nhưng không có ảo giác và hoang tưởng kèm theo.
Trong hưng cảm nhẹ có tăng khí sắc nhẹ và dai dẳng (kéo dài ít nhất nhiều
ngày), tăng năng lượng và hoạt động, và thường có cảm giác thoải mái và có
hiệu suất cơ thể lẫn tâm thần rõ rệt. Bệnh nhân dễ chan hòa, ba hoa, suồng sã,
tăng tình dục, và giảm nhu cầu ngủ. Các triệu chứng này thường có nhưng
không đến mức độ làm gián đoạn trầm trọng công việc hoặc làm cho xã hội
ruồng bỏ.

Thông thường bệnh nhân dễ chan hòa khoái cảm nhưng có thể trở nên
cáu kỉnh, tự phụ và thô lỗ.

Khả năng tập trung và sự chú ý có thể bị suy giảm, do vậy làm giảm khả
năng yên tâm khi làm việc hoặc thư giãn, giải trí, nhưng điều này có thể không
ngăn cản được bệnh nhân quan tâm đến những hoạt động và những mạo hiểm
hoàn toàn mới, hoặc tiêu pha hơi nhiều.

Các nguyên tắc chỉ đạo chuẩn đoán.


Nhiều nét trình bày ở trên phù hợp với sự tăng hoặc sự thay đổi khí sắc và
tăng hoạt động, phải xuất hiện ít nhất nhiều ngày liên tục, phải biểu hiện tới mức
độ dai dẳng hơn so với sự mô tả rối loạn khí sắc chu kỳ (F34.0). Có trở ngại
đáng kể đối với công việc hay hoạt động xã hội là phù hợp với chuẩn đoán hưng
cảm nhẹ, nhưng nếu có sự phá vỡ trầm trọng hoặc hoàn toàn những hoạt động
đó, thì nên chẩn đoán là trạng thái hưng cảm (F30.1 hoặc F30.2).

Chẩn đoán phân biệt. Hưng cảm nhẹ bao gồm một loạt những rối loạn về
khí sắc và mức độ hoạt động giữa khí sắc chu kỳ (F34.0) và hưng cảm (F30.1 và
F30.2). Tăng hoạt động, không nghỉ (và thường sút cân) cần được phân biệt với
những triệu chứng giống như thế xảy ra trong bệnh cường giáp trạng và bệnh
chán ăn tâm thần; trạng thái biểu hiện sớm của “trầm cảm kích động” đặc biệt ở
tuổi trung niên muộn có thể bề ngoài giống như hưng cảm nhẹ với tính chất cau
có khác nhau. Những bệnh nhân có triệu chứng ám ảnh nặng có thể có một số
hoạt động về đêm để hoàn thành những nghi thức dọn dẹp nhà cửa, nhưng cảm
xúc của họ thường ngược lại với những điều như đã mô tả ở đây.

Khi một giai đoạn ngắn của hưng cảm nhẹ xuất hiện như là giai đoạn đầu
hoặc hậu quả của hưng cảm (F30.1 và F30.2). Thì thường không cần phần biệt
riêng rẽ hưng cảm nhẹ.

F30.1 Hưng cảm không có các triệu chứng loạn thần.

Khí sắc tăng cao không tương xứng với hoàn cảnh riêng của đối tượng và
có thể thay đổi từ vui vẻ vô tư đến kích động gần như không thể kiểm tra được.
Sự hưng phấn thường kèm theo tăng năng lượng, đưa đến hoạt động thái quá,
nói nhanh và giảm nhu cầu ngủ. Mất khả năng kiềm chề xã hội thông thường,
chú ý không thể duy trì được, thường đãng trí rõ rệt. Tự cao quá mức, ý tưởng
khuyếch đại hoặc quá lạc quan được bộc lộ một cách tự do.

Các rối loạn tri giác có thể xảy ra, như đánh giá màu sắc một cách đặc biệt
rực rỡ (thường là đẹp) bận tâm đến những chi tiết tinh vi về bề mặt hay cấu trúc
và nhạy cảm chủ quan về ranh giới. Bệnh nhân có thể lao vào những mưu đồ
ngông cuồng không thực tế, tiêu tiền một cách liều lĩnh, hoặc trở nên công kích,
đam mê si tình, hoặc đùa tếu trong những tình huống không thích hợp. Trong
một vài giai đoạn hưng cảm, khí sắc cau có, ngờ vực hơn là hưng phấn. Cơn
đầu xảy ra phổ biến nhất ở lứa tuổi 15-30, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ
tuổi nào từ trẻ em lớn đến tuổi 70 hoặc 80.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Giai đoạn hưng cảm phải kéo dài ít nhất 1 tuần và phải đủ nặng làm gián
đoạn nhiều hay ít công việc và hoạt động xã hội thông thường. Thay đổi khí sắc
phải kèm theo tăng năng lượng và nhiều triệu chứng đã nêu ở trên (đặc biệt nói
nhanh, giảm nhu cầu ngủ, tính tự cao và lạc quan quá độ).

F30.2 Hưng cảm có các triệu chứng loạn thần.

Bệnh cảnh lâm sàng là một thể nặng của hưng cảm như đã mô tả ở mục
F30.1. Tự đánh giá quá mức và ý tưởng tự cao có thể phát triển thành hoang
tưởng, và sự cáu kỉnh và ngờ vực có thể trở thành hoang tưởng bị hại. Trong
những trường hợp nặng các hoang tưởng tự cao hay tôn giáo về nguồn gốc hay
vai trò có thể nổi bật và tư duy phi tán, nói nhanh có thể làm cho người khác
không thể hiểu được bệnh nhân. Hoạt động thể lực mạnh và kéo dài và kích
động có thể dẫn đến xâm phạm hoặc hung bạo và xao nhãng ăn uống và vệ sinh
cá nhân có thể dẫn đến trạng thái mất nước và lơ là bản thân nguy hiểm. Nếu
cần thiết, hoang tưởng hoặc ảo giác có thể được biệt định là có hoặc không phù
hợp với khí sắc. 

“Không phù hợp” được hiểu là gồm các hoang tưởng và ảo giác trùng lập
về mặt cảm xúc như những hoang tưởng liên hệ không có nội dung tội lỗi hoặc
tố cáo, hoặc những tiếng nói nói với bệnh nhân về những sự việc nào đó không
có ý nghĩa cảm xúc đặc biệt.
Chẩn đoán phân biệt. Một trong những vấn đề phổ biến nhất là phân biệt
rối loạn này với bệnh tâm thần phân liệt, đặc biệt nếu các giai đoạn phát triển bỏ
qua trạng thái hưng cảm nhẹ và bệnh nhân chỉ được xem xét lúc cao điểm của
bệnh khi các hoang tưởng mở rộng, lời nói không hiểu được và kích động dữ dội
có thể làm mờ đi rối loạn cảm xúc cơ bản. Bệnh nhân hưng cảm, đáp ứng tốt với
thuốc an thần kinh có thể có vấn đề chẩn đoán phân biệt tương tự, vào giai đoạn
người bệnh đã trở lại mức bình thường cả hoạt động cơ thể và tâm thần nhưng
vẫn còn hoang tưởng hoặc ảo giác. Những ảo giác hoặc hoang tưởng nhất thời
như đã biệt định cho bệnh tâm thần phân liệt (F20-) cũng có thể được phân loại
như là rối loạn không phù hợp với khí sắc; nhưng nếu những triệu chứng trên đó
chiếm ưu thế và kéo dài, thì chẩn đoán rối loạn phân liệt cảm xúc có thể thích
hợp hơn.

Bao gồm: sững sờ hưng cảm.

F30.8 Các giai đoạn hưng cảm khác.

F30.9 Giai đoạn hưng cảm, không biệt định.

Bao gồm: hưng cảm không biệt định khác (NOS).

F31. RỐI LOẠN CẢM XÚC LƯỠNG CỰC.


Rối loạn này có đặc điểm là những giai đoạn lặp đi lặp lại (ít nhất là 2 lần),
trong đó các mức độ khí sắc và hoạt động của bệnh nhân bị rối loạn đáng kể,
trong một số trường hợp rối loạn biểu hiện bằng tăng khí sắc, tăng năng lượng
và tăng hoạt động (hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ) và trong một số trường hợp
khác là sự hạ thấp khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt động (trầm cảm).
Điểm đặc trưng là bệnh thường hồi phục hoàn toàn giữa các giai đoạn, và tỷ lệ
mắc bệnh ở hai giới gần như bằng nhau hơn so với các rối loạn khí sắc khác. Vì
rằng những bệnh nhân chỉ có những giai đoạn hưng cảm tái diễn tương đối hiếm
và giống với (theo bệnh sử gia đình, nhân cách tiền bệnh lý, tuổi khởi phát, và
tiên lượng bệnh dài hạn) những người cũng có ít nhất các giai đoạn trầm cảm
nhất thời, những bệnh nhân như vậy được phân loại như là lưỡng cực (F31.8).

Các giai đoạn hưng cảm thường bắt đầu đột ngột và thường kéo dài từ hai
tuần đến 4-5 tháng (thời gian trung bình khoảng 4 tháng). Trầm cảm có khuynh
hướng kéo dài lâu hơn (thời gian trung bình khoảng 6 tháng), mặc dù hiếm thấy
kéo dài trên 1 năm, trừ trường hợp ở những người cao tuổi. Các giai đoạn của
cả hai loại rối loạn thường xảy ra sau các sự kiện gây stress trong đời sống hoặc
sang chấn tâm thần khác, nhưng sự có mặt của stress này không thiết yếu để
dùng làm chẩn đoán. Giai đoạn đầu tiên có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào từ trẻ
đến già. Tần số các giai đoạn bệnh và mô hình thuyên giảm và tái phát cả hai
đều rất đa dạng, mặc dù với thời gian thuyên giảm có khuynh hướng ngày càng
ngắn hơn và trầm cảm có khuynh hướng trở thành phổ biến hơn và kéo dài hơn
sau tuổi trung niên.

Mặc dù khái niệm ban đầu về “loạn thần hưng trầm cảm” cũng bao gồm
những bệnh nhân chỉ bị trầm cảm, thuật ngữ “rối loạn hoặc loạn thần hưng trầm
cảm” được sử dụng chủ yếu hiện nay như một từ đông nghĩa với rối loạn lưỡng
cực.

Bao gồm: bệnh loạn thần hoặc phản ứng hưng trầm cảm,

Loại trừ: rối loạn lưỡng cực, giai đoạn hưng cảm đơn độc (F30.-), khí sắc
chu kỳ (F34.0).

F 31.0 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hưng cảm nhẹ

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Giai đoạn hiện nay phải có đầy đủ các tiêu chuẩn cho hưng cảm nhẹ
(F30.0); và
b) Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác (hưng cảm nhẹ,
hưng cảm, trầm cảm, hoặc hỗn hợp) trước đây.

F31.1 Rối loạn càm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hưng cảm
không có các triệu chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Giai đoạn hiện nay phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của hưng cảm không
có các triệu chứng loạn thần (F30.1); và

b) Ít nhất phải có một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác (hưng cảm nhẹ,
hưng cảm, trầm cảm, hoặc hỗn hợp) trong quá khứ.

F31.2 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hưng cảm có
các triệu chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của hưng cảm có các
triệu chứng loạn thần (F30.2); và

b) Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác (hưng cảm nhẹ,
hưng cảm, trầm cảm hoặc hỗn hợp) trong quá khứ.

Nếu cần thiết, hoang tưởng hoặc ảo giác có thể biệt định là phù hợp hoặc
không phù hợp với khí sắc (xem F30.2).

F31.3 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nhẹ
hoặc vừa.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:


a) Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm
cảm hoặc nhẹ (F32.0) hoặc vừa (F32.1); và

b) Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm nhẹ, hưng
cảm, hoặc hỗn hợp trong thời gian quá khứ.

Chữ số thứ 5 có thể được dùng để biệt định có hoặc không có các triệu
chứng cơ thể trong giai đoạn trầm cảm hiện nay.

F31.30 Không có triệu chứng cơ thể.

F31.31 Có các triệu chứng cơ thể.

F31.4 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng,
không có các triệu chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của 1 giai đoạn trầm
cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần (F32.2); và

b) Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm nhẹ, hưng
cảm, hoặc hỗn hợp trong thời gian trước đây.

F31.5 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng
có các triệu chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm
cảm nặng có các triệu chứng loạn thần (F32.3); và

b) Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm nhẹ, hưng cảm
hoặc hỗn hợp trong quá khứ.
Nếu cần thiết, hoang tưởng hoặc ảo giác có thể được biệt định là phù hợp
hoặc không phù hợp với khí sắc (xem F30.2).

F31.6 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hỗn hợp.

Bệnh nhân đã có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm, hưng
cảm nhẹ hoặc hỗn hợp trong quá khứ, và hiện tại biểu lộ hoặc pha trộn hoặc
thay đổi nhanh chóng các triệu chứng hưng cảm, hưng cảm nhẹ và trầm cảm.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Mặc dù hình thái điển hình nhất của rối loạn cảm xức lưỡng cực bao gồm
những giai đoạn trầm cảm và hưng cảm thay thế nhau và cách nhau bằng
những thời kỳ khí sắc bình thường, các giai đoạn này cũng thường thấy khí sắc
trầm kèm theo hoạt động thái quá và nói nhiều vào những ngày hay tuần cuối;
hoặc khí sắc hưng cảm và ý tưởng tự cao, kèm theo kích động, mất năng lượng
và giảm dục năng. Triệu chứng trầm cảm và hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm có
thể chuyển đổi một cách nhanh chóng từ ngày này sang ngày khác và từ giờ này
sang giờ khác.

Chỉ có thể làm chẩn đoán rối loạn cảm xúc lưỡng cực hỗn hợp nếu cả 2
nhóm triệu chứng đều nổi bật trong phần lớn giai đoạn hiện tại của bệnh và nếu
giai đoạn này kéo dài ít nhất 2 tuần.

Loại trừ: giai đoạn rối loạn cảm xúc hỗn hợp đơn độc (F38.0).

F31.7 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại thuyên giảm.

Bệnh nhân đã có ít nhất một giai đoạn cảm xúc hưng cảm, hưng cảm nhẹ
hoặc hỗn hợp trong quá khứ và thêm vào đó ít nhất một giai đoạn cảm xúc khác:
hưng cảm nhẹ, hưng cảm, trầm cảm, hoặc hỗn hợp, nhưng hiện nay bệnh nhân
không có một rối loạn cảm xúc nào đáng kể và không có như vậy trong nhiều
tháng.
Tuy nhiên bệnh nhân có thể tiếp nhận điều trị để làm giảm nguy cơ xuất
hiện các giai đoạn rối loạn trong tương lai.

F31.8 Các rối loạn cảm xúc lưỡng cực khác.

Bao gồm: rối loạn lưỡng cực II.

các giai đoạn hưng cảm tái phát.

F31.9 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, không biệt định.

F32. GIAI ĐOẠN TRẦM CẢM.


Trong các giai đoạn trầm cảm điển hình thuộc 3 loại được mô tả dưới đây
nhẹ (F32.0), vừa (F32.1) và nặng (F32.2 và F32.3) bệnh nhân thường có khí sắc
trầm, mất mọi quan tâm, và thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt mỏi
và giảm hoạt động. Phổ biến là mệt mỏi rõ rệt chỉ sau một cố gắng nhỏ. Những
triệu chứng phổ biến khác là:

a) giảm sút sự tập trung và sự chú ý.

b) giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.

c) những ý tưởng bị tội và không xứng đáng (kể cả ở trong giai đoạn nhẹ).

d) nhìn vào tương lai ảm đạm và bi quan.

e) ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát.

f) rối loạn giấc ngủ.

g) ăn ít ngon miệng.

Khí sắc giảm thay đổi ít từ ngày này sang ngày khác và thường không
tương ứng với hoàn cảnh, cơn có thể biến đổi đặc biệt trong ngày càng về sau
càng rõ. Cũng như với giai đoạn hưng cảm các bệnh cảnh lâm sàng có biến đổi
rõ rệt tùy theo cá nhân và những biểu hiện không điển hình là đặc điểm phổ biến
ở tuổi thanh thiếu niên. Trong một số trường hợp, lo âu, buồn phiền kích động
thỉnh thoảng có thể nổi bật hơn là trầm cảm và sự thay đổi cảm xúc có thể bị che
đậy bởi những nét thêm vào như là cau có, lạm dụng rượu, tác phong kịch tính
và các triệu chứng sợ ám ảnh và triệu chứng ám ảnh có từ trước tăng lên, hoặc
bị che đậy tới lo âu nghi bệnh.

Đối với những giai đoạn trầm cảm thuộc 3 mức độ thường cần phải có ít
nhất 2 tuần để làm chẩn đoán, nhưng cũng có thể cần thời gian ngắn hơn nếu
triệu chứng nặng bất thường và khởi phát nhanh.

Một số triệu chứng trên có thể rõ rệt và phát triển những nét đặc trưng,
các triệu chứng đó được nhiều người coi là có ý nghĩa lâm sàng đặc biệt. Những
ví dụ điển hình nhất của các triệu chứng cơ thể này đó là: (xem lời mở đàu ở
phần này) mất quan tâm hay ham thích trong những hoạt động thường ngày gây
thích thú; không có phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi trường xung
quanh thường có thể làm cho vui thích; buổi sáng thức giấc trước giờ thường
ngày 2 giờ hoặc sớm hơn; trạng thái trầm cảm thường xấu hơn vào buổi sáng;
chứng cớ khách quan về sự chậm chạp tâm lý vận động, hoặc kích động (được
người khác nhận thấy hoặc kể lại); ăn mất ngon rõ rệt; sút cân (thường qui định
là hụt đi 5% hoặc nhiều hơn trọng lượng cơ thể tháng trước); mất dục năng rõ
rệt. Thông thường, hội chứng cơ thể này không được xem như có, trừ phi
khoảng 4 trong số những triệu chứng trên có chắc chắn.

Các mục giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0), vừa (F32.1) và nặng (F32.2 và
F32.3) được mô tả chi tiết hơn ở dưới đây chỉ được sử dụng cho một giai đoạn
trầm cảm đơn độc (đầu tiên). Các giai đoạn trầm cảm có thêm về sau nên phân
loại theo một trong các mục nhỏ của rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.-).

Các mức độ trầm trọng này được biệt định để bao trùm nhiều loại trạng
thái lâm sàng, gặp ở các thể khác nhau trong thực hành tâm thần học.

Bệnh nhân với các giai đoạn trầm cảm nhẹ thường gặp trong các cơ sở
chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế chung, còn các đơn vị điều trị bệnh nhân
tâm thần nội trú thì chữa nhiều hơn những bệnh nhân bị trầm cảm mức độ nặng,
Các hành vi tự hủy hoại kết hợp với những rối loạn khi sắc (cảm xúc), phổ
biến nhất là tự đầu độc bằng thuốc đã được kê đơn, cần phải được ghi theo mã
phụ của chương XX-ICD 10 (X60-X84). Các mã này không đòi hỏi phải phân biệt
giữa ý định tự sát và suýt tự sát, bởi vì cả 2 loại này đều nằm trong mục chung
về tự hủy hoại.

Phân biệt giữa các giai đoạn trầm cảm nhẹ, vừa và nặng dựa vào một sự
phán đoán lâm sàng phức tạp, cần tính đến số lượng, loại và mức độ trầm trọng
của triệu chứng hiện có. Phạm vi của các hoạt động xã hội và nghề nghiệp
thường là một điểm hướng dẫn chung có ích trong khi xác định các mức độ trầm
trọng của giai đoạn trầm cảm nặng; nhưng các ảnh hưởng cá nhân, xã hội, văn
hóa làm gián đoạn mối quan hệ mềm mại giữa mức độ trầm trọng của các triệu
chứng và hiệu suất xã hội là đủ phổ biến và mạnh mẽ để làm cho việc đưa hiệu
suất xã hội thành một tiêu chuẩn chủ yếu của mức độ trầm trọng trở nên không
thận trọng.

Sự có mặt của mất trí (F00-F03) hoặc chậm phát triển tâm thần (F70-F79)
không loại trừ chẩn đoán về một giai đoạn trầm cảm còn có thể điều trị được,
nhưng do khó giao tiếp với bệnh nhân, có thể cần phải dựa vào những triệu
chứng cơ thể có thể quan sát khách quan để làm chẩn đoán như chậm chạp tâm
thần vận động, mất ngon miệng, sút cân và rối loạn giấc ngủ.

Bao gồm: những giai đoạn của phản ứng trầm cảm đơn độc, trầm cảm
nặng (không có các triệu chứng loạn thần), trầm cảm tâm sinh hoặc trầm cảm
phản ứng (F32.0, F32.1 hoặc F32.2).

F32.0 Giai đoạn trầm cảm nhẹ.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Khí sắc trầm, mất quan tâm và thích thú tăng mệt mỏi thường được coi là
những triệu chứng điển hình nhất của trầm cảm, và ít nhất phải có hai trong
những triệu chứng đó, cộng thêm ít nhất là hai trong số những triệu chứng khác
đã được mô tả ở mục (F32.-) để chẩn đoán xác định. Không có triệu chứng nào
trong số đó ở mức độ nặng. Thời gian tối thiểu của cả các giai đoạn khoảng 2
tuần.

Bệnh nhân với trầm cảm nhẹ thường buồn chán bởi các triệu chứng đó,
khó tiếp tục công việc thường ngày và hoạt động xã hội, nhưng có khả năng
không dừng hoạt động hoàn toàn.

Chữ số thứ 5 có thể được sử dụng để biệt định sự có mặt của hội chứng
cơ thể;

F32.00 Không có các triệu chứng cơ thể.

Phải có đù tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nhẹ và có ít hoặc không
có triệu chứng cơ thể.

F32.01 Có các triệu chứng cơ thể.

Phải có đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nhẹ và cũng có 4 hoặc
nhiều hơn các triệu chứng cơ thể. (Nếu chỉ có 2 hoặc 3 triệu chứng cơ thể,
nhưng chúng nặng một cách bất thường, thì sử dụng mục này có thể được chấp
nhận).

F32.1 Giai đoạn trầm cảm vừa.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng điển hình nhất đặc trưng cho giai đoạn
trầm cảm nhẹ (F32.0), cộng thêm ít nhất 3 (và tốt hơn 4) những triệu chứng
khác. Nhiều triệu chứng có thể biểu hiện rõ rệt, nhưng điều này không nhất thiết
nếu có rất nhiều loại triệu chứng khác nhau. Thời gian tối thiểu của cả giai đoạn
này vào khoảng 2 tuần.

Bệnh nhân với giai đoạn trầm cảm vừa sẽ thường có nhiều khó khăn để
tiếp tục hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc công việc gia đình.
Chữ số thứ 5 có thể được sử dụng để biệt định sự xuất hiện của các triệu
chứng cơ thể.

F32.10 Không có các triệu chứng cơ thể.

Có đầy đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm vừa và có ít triệu chứng
cơ thể.

F32.11 Có các triệu chứng cơ thể.

Có đầy đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm vừa và có 4 hoặc nhiều
hơn các triệu chứng cơ thể. (Nếu chỉ có 2 hoặc 3 triệu chứng cơ thể, nhưng
chúng trầm trọng khác thường thì việc sử dụng mục này có thể được chấp
nhận),

F32.2 Giai đoạn trầm cảm nặng, không có các triệu chứng loạn thần.

Trong giai đoạn trầm cảm nặng, người bệnh thường biểu lộ buồn chán
nặng hoặc kích động, trừ khi biểu hiện chậm chạp rõ nét. Mất tự tin hoặc cảm
thấy vô dụng hoặc tội lỗi dường như chiếm ưu thế. Tự sát là hành vi nguy hiểm
rõ ràng trong những trường hợp đặc biệt trầm trọng, ở đây thấy rằng hội chứng
cơ thể hầu như luôn luôn có mặt trong giai đoạn trầm cảm nặng.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Có 3 trong số những triệu chứng điển hình để khẳng định giai đoạn trầm
cảm nhẹ và vừa (F32.0, F32.1), cộng thêm ít nhất 4 triệu chứng khác, và một số
phải đặc biệt nặng. Tuy nhiên, nếu những triệu chứng quan trọng như kích động
hoặc chậm chạp rõ nét bệnh nhân có thể không muốn hoặc không thể mô tả
nhiều triệu chứng một cách chi tiết. Trong những trường hợp như vậy, việc phân
loại toàn bộ một giai đoạn trầm trọng có thể vẫn còn được chấp nhận. Giai đoạn
trầm cảm thường kéo dài ít nhất 2 tuần, nhưng nếu các triệu chứng đặc biệt
nặng và khởi phát rất nhanh thì có thể làm chẩn đoán này trước 2 tuần.
Trong giai đoạn trầm cảm nặng, người bệnh có thể ít khả năng tiếp tục
được công việc xã hội, nghề nghiệp hoặc công việc gia đình, trừ phi ở phạm vi
rất hạn chế.

Mục này chỉ được sử dụng cho các giai đoạn trầm cảm nặng đơn độc
không có các triệu chứng loạn thần kèm theo, còn các giai đoạn về sau phải sử
dụng mục rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.-).

Bao gồm: các giai đoạn đơn độc của trầm cảm kích động sầu uất hoặc
trầm cảm sinh thể không có các triệu chứng loạn thần.

F32.3 Giai đoạn trầm cảm nặng kèm theo các triệu chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Một giai đoạn trầm cảm nặng thỏa mãn các tiêu chuẩn đã nêu ra trong
mục F32.2 ở trên và trong đó có các hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ trầm
cảm. Các hoang tưởng thường bao gồm những ý tưởng tội lỗi, thấp hèn, hoặc
những tai họa sắp xảy ra, trách nhiệm bệnh nhân phải gánh chịu. Những ảo
thanh hoặc ảo khứu thường là giọng kết tội hoặc phỉ báng hoặc mùi rác mục
hoặc thịt thối rữa. Sự chậm chạp tâm thần vận động nặng có thể dẫn đến sững
sờ. Nếu cần, hoang tưởng hoặc ảo giác có thể được phân rõ là phù hợp hoặc
không phù hợp với rối loạn khí sắc (xem mục F30.2).

Chẩn đoán phân biệt: Sững sờ trầm cảm phải được phân biệt với tâm thần
phân liệt căng trương lực (F20.2) với sững sờ phân ly (F44.2) và với dạng sững
sờ thực tổn. Mục này chỉ được sử dụng cho những giai đoạn rối loạn đơn độc
trầm cảm nặng có kèm theo các triệu chứng loạn thần; cho những giai đoạn về
sau phải sử dụng mục rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.-).

Bao gồm: các giai đoạn đơn độc trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn
thần, trầm cảm loạn thần, loạn thần trầm cảm tâm sinh, loạn thần trầm cảm phản
ứng.

F32.8 Các giai đoạn trầm cảm khác.


Chỉ gộp vào đây những giai đoạn không phù hợp với sự mô tả dành cho
giai đoạn trầm cảm từ mục F32.0 - F32.3, nhưng một ấn tượng chẩn đoán chung
đã chỉ ra chúng là trầm cảm thực thụ. Thí dụ như sự pha trộn luôn thay đổi các
triệu chứng trầm cảm (đặc biệt các dạng cơ thể) với những triệu chứng không có
giá trị chẩn đoán như căng thẳng, lo lắng buồn chán và hỗn hợp các triệu chứng
trầm cảm cơ thể với đau đớn hoặc mệt nhọc dai dẳng không do nguyên nhân
thực tổn (đôi khi gặp ở bệnh nhân đa khoa).

Bao gồm: trầm cảm không điển hình các giai đoạn đơn độc của trầm cảm
“ẩn” không biệt định cách khác. 

F32.9 Giai đoạn trầm cảm, không biệt định

Bao gồm: trầm cảm không biệt định cách khác.

rối loạn trầm cảm không biệt định cách khác.

F33 RỐI LOẠN TRẦM CẢM TÁI DIỄN.


Rối loạn đặc trưng bởi lặp đi lặp lại những giai đoạn trầm cảm đã được
biệt định như giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0), vừa (F32.1), hoặc nặng (F32.2 và
F32.3), không hề kèm theo trong bệnh sử những giai đoạn độc lập tăng khí sắc
và tăng hoạt động, có đủ tiêu chuẩn của một cơn hưng cảm (F30.1 và F30.2).
Tuy nhiên mục này vẫn còn được sử dụng nếu có những giai đoạn ngắn tăng
hoạt động, tăng khí sắc nhẹ đủ tiêu chuẩn của một cơn hưng cảm nhẹ (F30.0)
xảy ra ngay sau một giai đoạn trầm cảm (đôi khi gây nên bởi điều trị trầm cảm).
Tuổi khởi phát bệnh, mức độ trầm trọng, thời gian kéo dài và tần số các giai
đoạn trầm cảm rất khác nhau. Nhìn chung, giai đoạn đầu xảy ra muộn hơn so
với rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trung bình phát bệnh vào tuổi 50. Tùy cá nhân,
các giai đoạn cũng có thể kéo dài 3-12 tháng (trung bình khoảng 6 tháng) nhưng
tái phát ít thường xuyên hơn. Thường có sự phục hồi hoàn toàn giữa các giai
đoạn, nhưng một số ít bệnh nhân có thể phát triển thành trầm cảm dai dẳng, chủ
yếu ở tuổi già (đối với số người đó mục này vẫn còn phải sử dụng). Tùy cá nhân,
các giai đoạn, ở bất cứ mức độ nào, cũng thường bị thúc đẩy bởi các sự kiện
căng thẳng trong cuộc sống; trong nhiều nền văn hóa, cả các giai đoạn riêng
biệt, lẫn trầm cảm kéo dài, ở nữ gặp nhiều hơn nam 2 lần.

Nguy cơ ở một bệnh nhân có rối loạn trầm cảm tái diễn, sẽ có một giai
đoạn hưng cảm không bao giờ mất hoàn toàn, tuy bệnh nhân đã trải qua nhiều
giai đoạn trầm cảm. Nếu có một giai đoạn hưng cảm xuất hiện thì chẩn đoán
phải chuyển sang mục rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

Giai đoạn trầm cảm tái diễn có thể chia nhỏ như dưới đây bằng cách trước
tiên định rõ giai đoạn hiện hành là loại nào và (nếu sẵn có đủ thông tin) loại
chiếm ưu thế trong tất cả các giai đoạn.

Bao gồm: các giai đoạn tái diễn của phản ứng trầm cảm, trầm cảm tâm
sinh, trầm cảm phản ứng, rối loạn cảm xúc theo mùa (F33.0 hoặc F33.1).

Các giai đoạn tái diễn của trầm cảm nội sinh, trầm cảm nặng, loạn thần
hưng trầm cảm (pha trầm cảm), loạn thần trầm cảm phản ứng hoặc tâm sinh,
trầm cảm loạn thần, trầm cảm sinh thể (F33.2 hoặc F33.3).

Loại trừ: các giai đoạn trầm cảm ngắn tái diễn (F38.1).

F33.0 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nhẹ.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Phải có đủ tiêu chuẩn cho một rối loạn trầm cảm tối diễn (F33.-) và giai
đoạn hiện nay phải đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0); và

b) ít nhất 2 giai đoạn kéo dài tối thiểu 2 tuần lễ và phải cách nhau nhiều
tháng không có rối loạn khí sắc đáng kể. Nếu không, chẩn đoán phải là rối loạn
khí sắc (cảm xúc) tái diễn khác (F38.1).

Chữ số thứ 5 có thể sử dụng để biệt định sự có mặt của các triệu chứng
cơ thể trong giai đoạn hiện nay:
F33.00 Không có các triệu chứng cơ thể (xem mục F32.00)

F33.01 Có các triệu chứng cơ thể (xem F32.01)

Nếu cần, có thể biệt định 1 loại chiếm ưu thế trong các giai đoạn trước đây
(loại nhẹ, vừa, nặng, không rõ).

F33.1 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn vừa.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:

a) Phải có đủ tiêu chuẩn cho một rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.-) và giai
đoạn hiện nay phải có đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm mức độ vừa
(F32.1); và

b) ít nhất hai giai đoạn phải kéo dài tối thiểu 2 tuần và phải cách nhau
nhiều tháng không có rối loạn khí sắc đáng kể

Nếu không, chẩn đoán phải để ở mục rối loạn khí sắc (cảm xúc) tái diễn
khác (F38.1).

Chữ số thứ 5 có thể sử dụng để biệt định sự có mặt của các triệu chứng
cơ thể trong giai đoạn hiện tại:

F33.10 Không có các triệu chứng cơ thể (xem F32.10)

F33.11 Có các triệu chứng cơ thể (xem F32.11).

Nếu cần, có thể phân định một thể loại ưu thế trong các giai đoạn trước
(loại nhẹ, vừa, nặng, không rõ).

F33.2 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng không có
các triệu chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác định:


Tải bản FULL (291 trang): https://bit.ly/2NzTGlC
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
a) Phảỉ có đủ tiêu chuẩn cho 1 rối loạn trầm cảm tái diễn (F32.-) và giai
đoạn hiện tại phải có đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nặng không kèm
theo các triệu chứng loạn thần (F32.2); và

b) ít nhất hai giai đoạn phải kéo dài tối thiểu 2 tuần lễ và phải cách nhau
nhiều tháng không có rối loạn khí sắc đáng kể.

Nếu không, chuẩn đoán phải đặt ở mục rối loạn khí sắc (cảm xúc) tái diễn
khác (F38.1).

Nếu cần, có thể biệt định rõ một thể loại ưu thế trong các giai đoạn trước
(loại nhẹ, vừa, nặng, không rõ).

F33.3 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng có các triệu
chứng loạn thần.

Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.

Để chẩn đoán xác dịnh:

a) Phải có đủ tiêu chuẩn cho một rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.-) và giai
đoạn hiện tại phải có đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm nặng có các
triệu chứng loạn thần (F32.3); và

b) ít nhất hai giai đoạn phải kéo dài tối thiểu 2 tuần và phải cách nhau
nhiều tháng không có rối loạn khí sắc đáng kể.

Nếu không, chẩn đoán phải đặt ở mục rối loạn khí sắc (cảm xúc) tái diễn
Tải bản FULL (291 trang): https://bit.ly/2NzTGlC
khác (F38.1). Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Nếu cần, có thể biệt định rõ hoang tưởng hoặc ảo giác phù hợp hoặc
không phù hợp với khí sắc (xem F30.2).

Nếu cần có thể biệt định rõ một thể loại chiếm ưu thế trong các giai đoạn
trước đây (loại nhẹ, vừa, nặng, không rõ).

F33.4 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại thuyên giảm.
Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán

Để chẩn đoán xác định:

a) Phải có đủ tiêu chuẩn cho một rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.-) trước
đây, nhưng trạng thái hiện nay phải không đủ tiêu chuẩn cho một giai đoạn trầm
cảm ở bất kỳ mức độ nào hoặc bất kỳ một rối loạn nào khác trong mục F30-F39;

b) ít nhất hai giai đoạn phải kéo dài tối thiểu 2 tuần và phải cách nhau
nhiều tháng không có rối loạn khí sắc đáng kể.

Nếu không, chẩn đoán phải đặt ở mục rối loạn khí sắc (cảm xúc) tái diễn
khác (F38.1).

Mục này còn có thể được sử dụng nếu bệnh nhân đang tiếp nhận điều trị
để làm giảm nguy cơ bị các giai đoạn rối loạn về sau.

F33.8 Các rối loại trầm cảm tái diễn khác

F33.9 Rối loạn trầm cảm tái diễn, không biệt định.

Bao gồm: trầm cảm đơn cực không biệt định cách khác (NOS).

F34. CÁC RỐI LOẠN KHÍ SẮC (CẢM XÚC) DAI DẲNG.
Các rối loạn khí sắc dai dẳng và thường dao động, trong đó các giai đoạn
riêng biệt ít khi hay không khi nào nặng đến mức xem như là các giai đoạn hưng
cảm hoặc trầm cảm nhẹ. Bởi vì chúng kéo dài liên tục và đôi khi kéo dài phần
lớn cả cuộc đời thành niên của đối tượng, cho nên chúng gây ra đau buồn chủ
quan và rối loạn chức năng hoạt động đáng kể. Tuy nhiên ở một số trường hợp
những giai đoạn đơn độc hay tái diễn của rối loạn hưng cảm hay rối loạn trầm
cảm hoặc nặng hoặc nhẹ có thể cộng thêm vào một rối loạn cảm xúc dai dẳng.
Các trạng thái rối loạn cảm xúc dai dẳng được xếp loại ở đây đúng hơn là ở rối
loạn nhân cách, vì rằng có những bằng chứng từ các nghiên cứu về gia đình cho
thấy chúng có liên quan về mặt di truyền với các rối loạn cảm xúc, và do chúng

4097141

You might also like