Professional Documents
Culture Documents
DC 1
DC 1
DC 1
iii) Dạy học thông qua hoạt động tự học, thực hành, vận dụng của người học để
hình thành, phát triển vững chắc năng lực của người học qua hoạt động.
V) Giáo dục STEM.
I. Giáo dục STEM là gì?
-STEM là một chương trình giảng dạy dựa trên ý tưởng trang bị cho người học
những kiến thức, kĩ năng liên quan đến (các lĩnh vực) khoa học, công nghệ, kỹ
thuật và toán học - theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và người học có
thể áp dụng để giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Thay vì dạy bốn môn
học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô
hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế.
_ STEM là viết tắt của Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering
(Kĩ thuật) và Mathematic (Toán học).
_ Có thể nói, Giáo dục STEM không hướng đến mục tiêu đào tạo để học sinh trở
thành những nhà toán học, nhà khoa học, kỹ sư hay những kỹ thuật viên mà chủ
yếu là trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng để làm việc và phát triển trong thế
giới công nghệ hiện đại ngày nay.
_ Giáo dục STEM tạo ra những con người có thể đáp ứng được nhu cầu công việc
của thế kỷ 21, đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia và có thể tác động
tích cực đến sự thay đổi của nền kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa. “Giáo
dục STEM là một cách tiếp cận liên ngành trong quá trình học, trong đó các khái
niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng ghép với các bài học trong thế giới
thực, ở đó học sinh áp dụng các kiến thức trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và
toán học vào các bối cảnh cụ thể, giúp kết nối giữa trường học, cộng đồng, nơi làm
việc và các tổ chức toàn cầu để từ đó phát triển các năng lực trong lĩnh vực STEM
và khả năng cạnh tranh trong nền kinh kế mới”
_ Những điểm mạnh của giáo dục STEM có thể kể đến:
Thứ nhất, Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận
liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn
môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một
mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học
được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
Thứ hai: Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực giải
quyết vấn đề cho người học. Mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt
trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức
khoa học . Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến
thức thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề và sử dụng chúng để giải quyết
vấn đề đặt ra
Thứ ba: Giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học, đó
là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh,
người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết cách
mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với
tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.
II. Chương trình giáo dục phổ thông mới đề cập đến giáo dục STEM như
thế nào?
2.1. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chương trình môn Hóa
học
_ Các kiến thức trong Hóa học đều có mối quan hệ hữu cơ với các môn học khác
như Toán học, Vật lí, Sinh học.
VÍ DỤ: Cấu tạo nguyên tử, phương trình hóa học, điều chế, thu khí, tính chất
vật lí của các chất… có mối quan hệ đến kiến thức Toán học.
._ Thông qua mô hình STEM, HS được học Hóa học trong một chỉnh thể có tích
hợp với toán học, công nghệ, kỹ thuật và các môn khoa học khác; không những thế
HS còn được trải nghiệm, được tương tác với xã hội, với các doanh nghiệp. Từ đó
kích thích được sự hứng thú, tự tin, chủ động trong học tập của HS; hình thành và
phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù học tập; tạo ra sản phẩm giáo
dục đáp ứng với nhu cầu nguồn nhân lực hiện đại.
2.2. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chương trình môn Công
nghệ.
_ Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Công nghệ phản ánh hai thành
phần là T (technology) và E (engineering) trong bốn thành phần của STEM. Vì
vậy, môn Công nghệ có vai trò quan trọng thể hiện tư tưởng giáo dục STEM trong
chương trình giáo dục phổ thông mới.
_ Sản phẩm, quá trình công nghệ môn học đề cập luôn mang tính tính hợp, gắn với
thực tiễn, liên hệ chặt chẽ với Toán học và Khoa học. Đặc điểm này là cơ sở để
tăng cường giáo dục STEM ngay trong dạy học môn Công nghệ dựa vào các hoạt
động thiết kế kĩ thuật, hoạt động nghiên cứu khoa khọc kĩ thuật.
_ Giáo dục STEM trong môn Công nghệ được thực hiện thông qua dạy học các
chủ đề, mạch nội dung, chuyên đề học tập từ tiểu học tới trung học như mô hình
điện gió, mô hình điện mặt trời, ngôi nhà thông minh, các bài toán thiết kế kỹ thuật
và công nghệ, nghề nghiệp STEM; các dự án nghiên cứu thuộc các lĩnh vực kỹ
thuật cơ khí, hệ thống nhúng, robot và máy thông minh. Khi triển khai chương
trình, giáo dục STEM trong dạy học môn Công nghệ sẽ tiếp tục được mở rộng
thông qua dạy học các chủ đề liên môn giữa các môn học STEM.
2.3. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chương trình môn Toán.
_ Môn Toán là môn học công cụ, phục vụ trong việc dạy học các môn học khác
như Vật lí, Hoá học, Sinh học, Địa lí… Các kiến thức toán học được khai thác,
được sử dụng nhiều trong các môn học khác. Những khai thác có tính đa môn, tích
hợp như vậy vừa mang lại hiệu quả với các bộ môn vừa góp phần củng cố kiến
thức môn Toán, đồng thời góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng toán
học vào thực tiễn.
Ví dụ: Khái niệm trọng tâm của tam giác được đề cập đến trong chương trình
lớp 7 (sau khi học sinh được học tính chất đồng quy của ba đường trung tuyến
trong một tam giác). Khái niệm véc tơ được giới thiệu ở chương trình lớp 10 và
cũng ở đó học sinh được biết tính chất tổng ba véc tơ xuất phát từ trọng tâm của
tam giác đến ba đỉnh của tam giác đó là bằng véc tơ không. Khái niệm lực (và véc
tơ lực) được giới thiệu trong chương trình Vật lý ở THCS. Những khai thác có tính
đa môn, tích hợp giữa giáo dục Toán học và giáo dục Vật lí sẽ giải quyết được
đồng các vấn đề sau:
- Góp phần hiểu rõ và củng cố kiến thức Vật lí. Thay vì những phép tổng hợp
lực phức tạp, học sinh có thể vận dụng kiến thức Toán học để hiểu các kiến thức về
Vật lí.
- Góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng Toán học vào thực tiễn,
đặc biệt vận dụng tổng hợp cả kiến thức về Toán học và Vật lí vào việc giải quyết
những vấn đề trong thực tiễn.
2.4. Các nội dung tích hợp giáo dục STEM trong chương trình môn Tin
học.
Khoa học máy tính yêu cầu và có liên quan rất nhiều đến sự hiểu biết, ứng
dụng, đánh giá các công nghệ của nhiều chuyên ngành khác nhau. Có thể nói tư
duy máy tính, các nguyên tắc cơ bản của tính toán, các cơ sở lý thuyết giải quyết
vấn đề dựa trên máy tính là chìa khóa dẫn đến thành công của các nhánh khoa học
khác như kĩ nghệ, kinh doanh và thương mại trong thế kỷ 21.
Trong giáo dục phổ thông, Tin học là môn học có nhiều cơ hội thể hiện tư
tưởng giáo dục STEM. Môn học này có nhiều điểm chung nhất với đồng thời tất cả
các thành phần của STEM.
- Hướng kiến thức này dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận toán học chặt chẽ,
logic và khoa học.
- Trọng tâm của Khoa học máy tính là "tư duy máy tính" lấy cơ sở lý luận hàn
lâm làm nền tảng kết hợp thực nghiệm và đánh giá, đo đạc số liệu một cách khoa
học.
- Lõi của Khoa học máy tính là phần kiến thức thiết kế, xây dựng, kiểm thử và
đánh giá các lập trình, một kỹ năng đòi hỏi quá trình tiêu chuẩn kỹ thuật.
III. Một vài khó khăn khi triển khai giáo dục STEM trong Chương trình GDPT
mới.
_ Thứ nhất: Rõ ràng rằng việc khai thác, áp dụng những điểm mạnh của Giáo
dục STEM là hết sức có lợi và cần thiết đối với giáo dục phổ thông của chúng ta.
Nhưng trong hoàn cảnh thực tế của đất nước về trình độ và năng lực của đội ngũ
cán bộ quản lý của giáo viên; cơ sở vật chất của các nhà trường; điều kiện kinh
tếxã hội của các địa phương... thì điều đó lại trở nên không đơn giản.
Đặc biệt, có hai yếu tố cần xem xét:
+)Đã chuẩn bị các văn bản cần thiết chỉ đạo triển khai giáo dục STEM ?
+) Cán bộ quản lí các nhà trường phổ thông có thực sự quan tâm đến giáo dục
STEM hay không? Bởi nếu không thì có thể viện dẫn rất nhiều lí do để không áp
dụng.
_ Thứ hai: Vấn đề tích hợp và phát triển năng lực giải quyết vấn đề gắn với thực
tiễn là những vấn đề khó đối với giáo viên hiện nay. Tuy được nhấn mạnh nhiều
trong những năm qua, nhưng thực tế diễn ra ở nhà trường thì chưa được như mong
muốn. Có thể nói giáo dục STEM mới chỉ thực hiện được tại một số nhà trường
phổ thông dưới hình thức thu hút một số học sinh tham gia dự thi đề tài (hay một
sản phẩm nào đó), điển hình là kì thi Intel ISEP được tổ chức hàng năm.
_ Thứ ba: Kiểm tra đánh giá và thi cử cần tương thích với những tư tưởng cơ bản
của Giáo dục STEM. Tuy nhiên nếp nghĩ “thi gì học nấy” là một trở lực lớn trong
việc đưa Giáo dục STEM vào nhà trường phổ thông.