Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

Section A

1)Describe the function of one hormone in human behavior.


The hormone oxytocin is a hormone produced in the hypothalamus and released into the
bloodstream by the pituitary gland and into the brain. It is known that this hormone is
secreted during labor and facilitates childbirth, lactation, and initiation of maternal
behaviors. Researchers have also investigated Oxytonic's role in human pairing and social
behavior such as trust. Baumgartner et al (2008) did a study on the role of oxytonic in a
game called the trust game. The aim of the study was to investigate the role of oxytocin
following a breach of trust. There were 49 participants. Participants played a game of trust,
which is used by economists and neuroscientists to study social interaction. Participants
were placed in an fMRI scanner. They receive oxytocin or the placebo through a nasal spray.
The investor (participant 1) receives an amount and must decide to keep it or share it with
the trustee (participant 2). If it is shared, the total amount will increase by 3 times. The
trustee must then decide to pay this amount to share with investors (meaning gaining their
trust) or keep it. (breach of trust). Then, in the second condition, the participants received a
notification that they would be playing the game with the computer, rather than between
people. The participants then received feedback from the researchers in the game. The
participants in the placebo group may show less trust after being told about the betrayal,
and they invest less and do not trust the trustee. The fMRI scans showed decreased
reactivity in the amygdala and caudate nucleus. The ganglia are involved in emotions and
processing emotions in the brain. Since it has many oxytocin receptors, the relationship
between oxytocin and your feelings and behavior toward someone will depend on how
much you trust that person. The caudate nucleus, a component of the basal ganglia, is
associated with memory and has a role in learning and remembering beliefs, which suggests
that once trust is violated it is difficult to trust that person again. Participants in the oxytocin
group continued to invest at the same rate after receiving feedback on the breach of trust,
which may show why people were able to restore trust. Participants with higher oxytocin
levels were more trusting and continued to share money, even after being betrayed,
suggesting that oxytocin is tied to trust.

Horrmone oxytocin là một hormone được sản xuất ở vùng dưới đồi và được giải phóng vào
máu bởi tuyến yên và vào não. Người ta biết rằng homorne này được tiết ra trong quá trình
chuyển dạ và tạo điều kiện cho quá trình sinh nở, cho con bú và bắt đầu hình thành các
hành vi của các người mẹ. Các nhà nghiên cứu cũng đã tìm hiểu vai trò của Oxytonic trong
sự liên qua đến các cặp và hành vi xã hội của con người như sự tin tưởng.
Baumgartner và cộng sự (2008) đã thực hiện một nghiên cứu về vai trò của oxytonic trong
một trò chơi có tên gọi là trò chơi tin tưởng. Mục đích của nghiên cứu là điều tra vai trò của
oxytonic sau khi vi phạm lòng tin. Có 49 người tham gia. Những người tham gia đã chơi một
trò chơi tin cậy, được các nhà kinh tế học và các nhà khoa học thần kinh sử dụng để nghiên
cứu sự tương tác xã hội. Những người tham gia được đặt trong một máy quét fMRI. Họ
nhận được oxytocin hoặc gỉa dược qua đường xịt mũi. Nhà đầu tư (người tham gia 1) nhận
được một khoảng tiền và phải quyết định giữ hoặc chia sẽ nó với người ủy thác (người tham
gia 2). Nếu nso được chia sẽ thì tổng số tiền sẽ tăng lên gắp 3 lần.Sau đó, người ủy thác phải
quyết định trả số tiền này chia sẽ lại với nhà đầu tư ( có nghĩa là đạt được sự tin tưởng của
họ) hoặc giữ lại (vi phạm lòng tin). Sau đó, trong điều kiện thứ hai, những người tham gia
nhận được một thông baod rằng họ sẽ chơi một trò chơi một trò chơi mạo hiểm với một
chiếc máy tính, thay vì là giữa người với người. Những người tham gia sau đó nhận được
phản hồi của các nhà nghiên cứu trong trò chơi.Nhưngx người tham gia vào nhóm giả dược
có thể tỏ ra ít tin tưởng hơn sau khi được cho biết về sự phản bội và họ đầu tư ít hơn và
không tin tưởng vào người ủy thác. Các mã quét fMRI cho thấy sự giảm phản ứng trong
hạch hạnh nhân và nhân đuôi. Các hạch nhân có liên quan đến cảm xúc và xử lý cảm xúc
trong não. Vì nó có nhiều thụ thể oxytocin, Có một mối liên hệ giữa oxytocin và tình cảm và
hành vi của bạn đối với ai đó sẽ phụ thuộc vào mức độ tin tưởng mà bạn dành cho người
đó. Nhân đuôi, một thành phần của hạch cơ bản, được liên kết với trí nhớ và đóng một vai
trò trong việc học hỏi và ghi nhớ sự tin tưởng, điều này cho thấy rằng một khi lòng tin bị vi
phạm, rất khó để tin tưởng người đó một lần nữa. Những người tham gia vào nhóm
oxytocin tiếp tục đầu tư với tỷ lệ tương tự sau khi nhận được phản hồi về sự vi phạm lòng
tin, điều này có thể cho thấy lý do tại sao mọi người có thể khôi phục lòng tin. Những người
tham gia có mức oxytocin cao hơn tin tưởng hơn và tiếp tục chia sẻ tiền, ngay cả sau khi bị
phản bội, cho thấy rằng oxytocin có mối liên hệ với sự tin tưởng.

2)Explain how one principle that defines the cognitive level of analysis may be
demonstrated in one example of researcher (theory or study)
The cognitive level of analysis (CLA) is based on mental processes such as perception,
annotation, language, thinking, and memory. It has to do with how we take in information
from the outside world, how we understand it, and what we use it for. There are three basic
principles for determining the level of cognitive analysis. One of the three principles is
cognitive processes influenced by cultural and social factors. Cognitive tasks as memory are
common, but there will be cross-cultural differences in processing mechanism. An example
of this principle is schemas. A schema is a representation of knowledge based on
experience. It can represent mental knowledge created over time from previous
experiences. It helps us organize information, guides our actions, and can make predictions
about the world. The information that a person is exposed to can be determined by the
socio-cultural background in which they live, such as religious factors, cultural traditions,
beliefs, and morals. This principle has been proved by Bartlett (1932). The aim of this study
was to investigate how memory is influenced by cultural factors. British participants. They
will hear a legendary Native American story called: "War of the Ghosts". To test their
memory of the story, Barlett assigned participants to one of two conditions: "repeated
reproduction" and "serial reconstruction", in which they were asked to remember and
repeat stories for different retention periods.
Bartlett has found that there is no significant difference between the way the groups recall
the story. As the times of retellings increased, the story became shorter and the participants
still remembered the main theme in the story, but they also changed some unfamiliar
elements of the story to fit their own cultural expectations, and the story remains coherent
despite the changes. This study showed the change of cultural alienation into the cultural
familiarity of the participants. It is this that makes the story more relatable given the
experiences of the participants and their cultural backgrounds. Thus, this study supports the
principle that social and cultural factors influence cognitive processes such as differences in
participants and culturally used stimuli that influence mental expressions.

Mức độ phân tích nhận thức (CLA) dựa trên các quá trình tinh thần như nhận thức, sự chú ý,
ngôn ngữ, suy nghĩ và trí nhớ. Nó liên quan đến cách chúng ta tiếp nhận thông tin từ thế giới
bên ngoài, cách chúng ta hiểu nó như thế nào và dùng nó để làm gì. Có 3 nguyên tắc cơ bả
để xác định mức độ phân tích nhận thức. Một trong ba nguyên tác đó là là các quá trình
nhận thức chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá và xã hội. Các nhiệm vụ nhận thức như là
một bộ nhớ phổ biến nhưng nó sẽ có sự khác biệt giữa các nền văn hoá trong cơ chế xử lí.
Một víu dụ cho nguyên tắc này là các lược đồ. Lược đồ là sự thể hiện kiến thức dựa trên
kinh nghiệm. Nó có thể trình bày kiến thức về mặt tinh thần được tạo ra theo thời gian từ
những trải nghiệm trước đây. Nó giúp chúng ta sắp xếp các thông tin, hướng dẫn hành động
của chúng ta và có thể đưa ra những dự đón về thế giới. Những thông tin mà một người tiếp
xúc có thể được xác định bởi nền văn hoá xã hội nơi họ đang sống như các yếu tố tôn giáo,
truyền thống văn hoá, tín ngưỡng, đạo đức. Nguyên tác này đã được chứng minh bởi
Bartlett(1932). Mục đích của nghiên cứu này là điều tra xem trí nhớ bị ảnh hưởng như thế
nào bởi các yếu tố văn hoá. Những người tham gia Anh. Họ sẽ được nghe một câu chuyện
huyền thoại của người Mỹ bản địa nó có tên là:" Cuộc chiến của những hồn ma". Để kiểm
tra trí nhớ của họ về câu chuyện, Btarlett đã phân bố những người tham gia vào một trong 2
điều kiện là: " tái tạo lặp đi lặp lại" và " tái tạo nối tiếp", trong đó họ được yêu cầu phải nhớ
và lặp lại câu chuyện trong các khoảng thời gian lưu giữ khác nhau.
Bartlett đã nhận thấy rằng nó không có sự khác biệt đáng kể giữa cách mà các nhóm nhớ lại
câu chuyện.Khi số lần kể lại câu chuyện tăng lên thì câu chuyện sẽ trwor nên ngắn hơn và
những người tham gia vẫn nhớ chủ đề chính trong câu chuyện nhưng họ cũng đã thay đổi
một số yếu tố không quen thuộc của câu chuyện để phù hợp với mong đợi văn hoá của
riêng họ, và câu chuyện vẫn giữ là một thể mạch lạc mặc dù đã đã thay đổi. Những nghiên
cứu này cho thấy sự thay đổi những điều xa lạ về văn hoá thành những điều quen thuộc về
văn hoá của những người tham gia. Chính điều này đã làm câu chuyện trở nên dể hiểu hơn
theo kinh nghiệm của những người tham gia và nền tảng văn hoá của họ. Như vậy nghiên
cứu này ủng hộ nguyên tắc rằng các yếu tố xã hội và văn hoá ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức như sự khác biệt về người tahm gia và các kích thích được sử dụng về văn hoá ảnh
hưởng đến các biểu hiện tinh thần.

3.Outline social identity theory with reference to one study.


Social identity theory (SIT) is a theory developed by Tajfel and Turner (1979). It studies of
the interplay between the person and social identity. Social identity can be defined as a
conceptual part of self, based on knowledge of membership in social groups. Individuals
strive to maintain a positive self-concept as well as a positive social identity. People make
comparisons between the inner group and the outer group. The inner group is positive and
the outer group is negative. A great experiment for social identity theory is that of Tajfel
(1970) in discrimination between groups (minimum group model). The aim was to
investigate whether male students might exhibit preference group discrimination when they
were assigned to an internal group based on a random task. There were 64 boys
participating from a primary school in the UK. Clusters with different numbers of dots were
projected onto a screen and they were asked to determine the number of dots in each
cluster. The experimenters then assigned the boys to random groups that were divided into
two groups: "overestimates and underestimates. Then, the boys were asked to give rewards
gifts or even money to other boys in the experiment, the researchers found the actions of
boys in the same or different groups. Boys from the same group acted in favor of the group
members. The results showed that boys gave rewards gifts or money to boys in the same
group more than boys in the other groups. Indicating that the boys showed bias between
the in-group and the out-group. Tajfel has demonstrated that a “minimum group” is all that
is needed for individuals to show discrimination against outgroups.

Lý thuyết bản sắc xã hội (SIT) là một lý thuyết được phát triển bởi Tajfel và Turner (1979).
Nó nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và bản sắc xã hội. Bản sắc xã hội có thể
được định nghĩa như một phần khái niệm của bản thân, dựa trên kiến thức về tư cách thành
viên trong các nhóm xã hội. Các cá nhân cố gắng duy trì một quan niệm tích cực về bản thân
cũng như một bản sắc xã hội tích cực. Mọi người so sánh giữa nhóm bên trong và nhóm bên
ngoài. Nhóm bên trong là tích cực và nhóm bên ngoài là tiêu cực. Một thử nghiệm tuyệt vời
cho lý thuyết bản sắc xã hội là của Tajfel (1970) trong việc phân biệt đối xử giữa các nhóm
(mô hình nhóm tối thiểu). Mục đích là để điều tra xem nam sinh có thể biểu hiện sự phân
biệt đối xử theo nhóm ưu tiên khi họ được phân công vào một nhóm nội bộ dựa trên một
nhiệm vụ ngẫu nhiên hay không. Có 64 nam sinh từ một trường tiểu học ở Anh tham gia.
Các cụm có số lượng chấm khác nhau được chiếu lên màn hình và họ được yêu cầu xác định
số chấm trong mỗi cụm. Các nhà thí nghiệm sau đó phân các cậu bé vào các nhóm ngẫu
nhiên được chia thành hai nhóm: "đánh giá quá cao và đánh giá thấp. Sau đó, các cậu bé
được yêu cầu tặng quà phần thưởng hoặc thậm chí tiền cho các cậu bé khác trong thí
nghiệm. Các nhà nghiên cứu nhận thấy hành động của các cậu bé trong các nhóm giống
nhau hoặc khác nhóm. Các nam sinh trong cùng một nhóm có hành động ủng hộ các thành
viên trong nhóm. Kết quả cho thấy các nam sinh cùng nhóm tặng quà hoặc tiền cho các nam
sinh trong cùng một nhóm nhiều hơn các nam sinh trong các nhóm khác. trong nhóm và
ngoài nhóm. Tajfel đã chứng minh rằng một “nhóm tối thiểu” là tất cả những gì cần thiết để
các cá nhân thể hiện sự phân biệt đối xử với những người ngoài nhóm.

Section B

1. Discuss one interaction between cognition and physiology in terms of behaviour.


It seems that perception and physiology are unrelated, but between these two fields there
is one thing in common. These two factors influence the behavior change and these changes
can be seen in different symptoms like amnesia. Amnesia is a symptom defined as the
inability to learn new information or to retrieve information already stored in long-term
memory. The cognitive and physiological inability to cooperate can lead to behavioral
changes, and these changes are evident in this amnesia.
What are cognitive and physiological? Perception is the mental process of acquiring and
processing knowledge and understanding through thought, experience, and senses.
Cognitive processes include perception, attention, thinking, language, and memory. And
physiology is the biological mechanism inside living organism.
Amnesia is the result of an interaction between mental processes and biological
mechanisms. First, amnesia is related to biological causes, which are directly affected by
brain damage. The temporal lobes, inferior cortex, and hippocampus are regions of the
brain that cause amnesia when damaged. Brain damage also greatly affects memory, so
amnesia describes how a biological factor can have detrimental effects on cognitive factors.
The symptoms of amnesia are presented in cognitive terms as long-term and short-term
memory loss. There are two types of amnesia divided according to the difference in
cognitive decline, one is amnesia, meaning the inability to recall or form new information
after memory loss. The second type is retrograde amnesia, which does not allow the patient
to recall old information before the illness.
Amnesia directly interacts with physiology because it is essentially caused by damage to the
hippocampus of the brain. Thus, the physiological effects of amnesia affect cognition,
especially the mental process of memory. There have been a number of studies
demonstrating the relationship of brain damage with memory loss and amnesia such as the
study by Milner and scoville (1957)-HM, Vargha-Khadem et al. (1997) experiments and
experiments KF - Shallice and Warrington (1974).
Milner and Scoville (1957) is an important study in the interpretation of amnesia, a study of
a rare case of Henry Molaison (HM). HM was hit by a cyclist while crossing the street at the
age of 7 and he suffered a severe head injury. And the seizures started when he was 10
years old and it is believed to have originated from the accident. At the age of 27, he had
become so heavy that he could not lead a normal life and medicine could not support him.
He was operated on by brain surgeon William Scoville and treated for epilepsy. After the
surgery, about two-thirds of his gyrus was lost and the temporal lobe was removed. He
became the first subject of Milner and Scoville's research. As a result, HM suffered from
severe amnesia, he couldn't remember any of the 11 years before his surgery. , his long
term memory cannot store anything (new memories are not formed). But his childhood
memories and working memory are still intact. In 1997, researchers also used MRI scans and
resulted in widespread brain damage including the hippocampus, amygdala, and areas near
the hippocampus. As such, this study suggests that the hippocampus has an important role
in transferring memories to long-term memory. In this study it was revealed that the
interplay of cognition is memory and physiology is damaged in the hippocampus in amnesia.
Another study that demonstrated an interaction between the biological causes of amnesia
and its impact on memory was KF - Shallice and Warrington (1974). in which the participant
is KF, a person who was in a motorcycle accident and has memory impairment. In that
accident, his left parietal and occipital lobes were damaged. Observations were made and
researchers gathered the fact that he was able to turn short-term memory into long-term
memory, but only had problems with certain types of short-term memory such as long
numbers as phone number. Ironically, visual and auditory information is not affected. This
information therefore demonstrates that biological factors influence cognitive ability.
Two observational experiments demonstrated this connection using people who
experienced damage to different parts of the brain (physiology) and the type of amnesia or
memory loss it caused (recognition). awake). In summary, these two studies support the
idea of behavioral interactions between cognition and physiology.

Tưởng chừng giữa nhận thức và sinh lý hoc chẳng liên quan tới nhau nhưng giữa hai lĩnh
vực này lại có một điểm chung. Hai yếu tố này ảnh hưởng đến sự thay đổi hành vi và những
+
+

++++++++++++++

++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
++++++++++++++++++++

+
+
+
+
+++
++++++++++
++

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++y có thể được nhìn thấy trong các triệu


chứng khác nhau như chứng hay quên. Chứng hay quên là một triệu chứng được định nghĩa
là không có khả năng học thông tin mới hoặc truy xuất thông tin đã được lưu trữ trong bộ
nhớ dài hạn. Sự mất khả năng nhận thức và sinh lý để hợp tác với nhau có thể dẫn đến
những thay đổi về hành vi và những thay đổi này thể hiện rõ trong chứng hay quên này.
Nhận thức và sinh lí là gì? Nhận thức là quá trình tinh thần tiếp thu, xử lí kiến thức và hiểu
biết thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và các giác quan . Các quá trình nhận thức bao gồm
nhận thức, chú ý, tư duy, ngôn ngữ và trí nhớ. Và sinh lí là cơ chế sinh học bên trong cơ thể
sống.
Chứng hay quên là kết quả của sự tương tác giữa quá trình tâm thần và cơ chế sinh học.
Trước tiên, chứng hay quên liên quan đến nguyên nhân sinh học, nó bị ảnh hưởng trực tiếp
do não bị tổn thương. Thùy thái dương, vỏ não dưới và hồi hải mã là những vùng trong não
sẽ gây ra chứng hay quên khi bị tổn thương. Tổn thương não cũng ảnh hưởng lớn đến trí
nhớ, do đó chứng hay quên mô tả cách một yếu tố sinh học có thể gây ra những tác động
bất lợi cho các yếu tố nhận thức. Các triệu chứng của chứng hay quên được thể hiện dưới
dạng nhận thức là mất trí nhớ dài hạn và ngắn hạn. Có hai loại chứng hay quên được phân
chia theo sự khác biệt về sự suy giảm khả năng nhận thức, một là chứng hay quên trước tuổi
nghĩa là không có khả năng nhớ lại hoặc hình thành thông tin mới sau khi bị mất trí nhớ. Loại
thứ hai là chứng hay quên ngược dòng, nó không cho phép bệnh nhân nhớ lại thông tin cũ
trước khi bệnh.
Chứng hay quên tương tác trực tiếp với sinh lí vì về cơ bản nó là do tổn thương ở vung
hippocami của não. Do đó, các tác động sinh lí tác động của chứng hay quên tác động đến
nhận thức, đặc biệt là quá trình tâm thần của trí nhớ. Đã có một số nghiên cứu chứng minh
mối quan hệ của tổn thương não với mất trí nhớ và chứng hay quên như nghiên cứu của
Milner and scoville( 1957)- HM, Vargha-Khadem và cộng sự. (1997) thí nghiệm và thí nghiệm
KF - Shallice và Warrington (1974).
Milner and Scoville (1957) là một nghiên cứu quan trọng trong việc giải thích về chứng hay
quên, là một nghiên cứu về một trường hợp hiếm gặp của Henry Molaison (HM). HM bị một
người đi xe đạp đâm vào khi băng qua đường vào ănm 7 tuổi và anh bị chấn thương nặng ở
đầu. Và các cơn động kinh bắt đầu vào năm anh 10 tuổi và nó được cho là bắt nguồn từ vụ
tai nạn. Ở tuổi 27 , anh ấy đã trở nên nặng hơn đến nỗi anh ấy không thể có một cuộc sống
binh thường và thuốc men không thể hỗ trợ cho anh. Anh đã được bác sĩ phẫu thuật não
William Scoville đã phẫu thuật và điều trị chứng động kinh. Sau cuộc phẩu thuật là khoảng
2/3 hồi hãi của ông bị mất và thùy thái dương bị loại bỏ. Anh trở thành đối tượng nghiên
cứu đầu tiên của Milner and Scoville. Kết quả là HM mắc hội chứng hay quên trầm trọng,
anh ta không thể nhớ bất kì kí ức nào về khoảng 11 năm về trước khi anh ta phẩu thuật. ,
Long term memory của anh ấy không thể lưu trữ bất cứ thứ gì ( kí ức mới không được hình
thành). Nhưng những kí ức về thời thơ ấu và bộ nhớ làm việc của ông vẫn còn nguyên vẹn.
Vào năm 1997, các nhà nghiên cứu cũng đã sử dụng phương pháp quét mã MRI và kết quả
là tổn thương não lan rộng bao gồm cả hồi hãi mã, hạch hạnh nhân và các khu vực gần hồi
hải mã. Như vậy, nghiên cứu này cho thấy vùng hải mã có một vai trò quan trọng trong việc
chuyển kí ức sang bộ nhớ dài hạn. Trong nghiên cứu này tiết lộ sự tương tác của nhận thức
là trí nhớ và sinh lí là bị tổn thương ở hồi hải mã trong chứng hay quên.
Một nghiên cứu khác chứng minh cho sự tương tác giữa nguyên nhân sinh học của chứng
hay quên và tác động của nó đối với trí nhớ là  KF - Shallice và Warrington (1974). trong đó
người tham gia là KF, một người bị tai nạn xe máy và bị suy giảm trí nhớ. Trong tai nạn đó,
thùy đỉnh và chẩm trái của anh ấy bị tổn thương. Các quan sát đã được thực hiện và các nhà
nghiên cứu đã thu thập được sự thật rằng anh ta có thể biến trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ
dài hạn, nhưng chỉ gặp vấn đề với một số loại trí nhớ ngắn hạn như số dài như số điện
thoại. Trớ trêu thay, thông tin thị giác và thính giác không bị ảnh hưởng. Do đó, thông tin
này chứng minh rằng các yếu tố sinh học có ảnh hưởng đến khả năng nhận thức
Hai thí nghiệm thông qua quan sát đã chứng minh mối liên hệ này bằng cách sử dụng những
người trải qua tổn thương ở các phần khác nhau của não( sinh lí) và loại chứng đãng trí hoặc
mất trí nhớ mà nó mang lại (nhận thức). Tóm lại 2 nghiên cứu này ủng hộ ý tưởng về sự
tương tác giữa nhận thức và sinh lí về mặt hanh vi.

2. Evaluate one model or theory of one cognitive process


This essay will aim to evaluate one of these models of memory. Memory is defined as the
mental process of encoding, storing, and retrieving information. To store information,
memory needs to go through 3 stages: encryption process, storage process, and access
process. At the same time, it also has 3 main models that demonstrate how memory
processes work, including Multistore Model (MSM), Working Memory Model (WM), Levels
of Processing Model (LOP). For this easy, will focus on evaluating the Multistore Model
(MSM).
The multiple-storage memory model (MSM) proposed by Atkinso and Shiffrin's (1968) is a
model that explains their theory of memory. It explains how information flows through
three stores, with each store having capacity and duration: sensory memory (SM), short-
term memory (STM), and long-term memory (LTM).
Sensory memory based on the five senses of sight, hearing, smell, taste, and touch, Sensory
memory is a storage system that stores information in a relative, unprocessed form every
fraction of a second. Unless the information is requested, if not it will not be remembered
and stored, and normally it will be lost. Short-term memory is information that attends
transmitted from the sensory store. Short-term storage can hold memories for a short
period of time, but the length of time it can hold is quite limited. It is just a place for
temporary storage. Information stored in short-term memory lasts a little longer than in
sensory storage. Long-term memory is where the highest amount of information is stored.
This information is stored for a long time, and the information stored can be very diverse;
which may include personal memories, general knowledge, beliefs about self and culture.
What people store in long-term memory may be based on their preferences and what they
are exposed to in their daily lives through their senses. To allow more information to be
stored, it must be noticed to some degree and it must be practiced to be better
remembered.
The multi-store model has a high face value, as the way memory is stored seems to apply to
real life - the more we pay attention to something, the longer it stays in our memory. This
can be supported by a study done by Glanzer and Cunitz (1966). The researchers used the
free recall of the 15-item list in conjunction with the jamming task to show that there are
two processes involved in information retrieval. The researchers displayed 15 lists of 15
words in turn and asked subjects to recall the words under one of three conditions: recall
without delay, 10 seconds delay, and 30 seconds. No delay, the first 5 words and the last
three words are best recalled but with a delay of 10 or 30 seconds where the countdown
object has little effect on the words at the top of the list but the recall of the items then
worse. This shows how the multi-store model is used in a real-life application; Words read
first go into long-term memory, and words read the last stay in short-term memory.
However, this study does not reflect on how we remember things on a daily basis;
Information is often presented in larger quantities, and it is often not conveniently listed.
Another proof for this model is the experiment of Clive wear- Sacks (2007). This is a study
demonstrating the memory processes between Short term memory (STM) and Long term
memory (LTM) related to the Multiple Storage Memory Model (MSM). The study was
conducted by Sacks on Clive Wear. Clive Wear is a musician and he suffers from viral
encephalitis. This caused him to suffer severe damage to his hippocampus, and it causing
him to have severe memory loss. He has anterograde amnesia (impaired memory after a
particular incident) and retrograde amnesia (impaired memory before a particular incident).
He cannot form new memories because his memory can only last from 7-30 seconds.
Information cannot be transferred from STM to LTM. Skills such as listening, speaking,
reading, and writing he can do it. This study has high credibility because it is a factual and
informative case study. But it cannot be generalized to the entire population. This study
indicates that STM and LTM are separate stores because even though the STM exists but the
information cannot enter the LTM. And STM has a certain retention period. It also turns out
that the LMT is much more complex than Atkinson and Shunfin presented because there are
different repositories in the brain to allow for the storage of procedural and motor skills.

Bài luận này sẽ đánh giá về một trong những mô hình của bộ nhớ. Bộ nhớ được định nghĩa
là quá trình tinh thần mã hóa, lưu trữ và truy xuất thông tin. Để lưu trữ thông tin, bộ nhớ
cần trải qua 3 giai đoạn là quy trình mã hóa, quy trinh lưu trữ, quy trinh truy xuất. Đồng
thời, nó cũng có 3 mô hình chính chứng minh cách thức hoạt của các quá trình của bộ nhớ
bao gồm Multistore Model (MSM), Working Memory Model (WM), Levels of Processing
Model (LOP). For this easy, sẽ tập trung vào việc đanh giá Multistore Model (MSM).
Mô hình bộ nhớ đa lưu trữ (MSM) do Atkinso và Shiffrin’s đề xuất (1968) là một mô hình
giải thích lý thuyết về trí nhớ của họ. Nó giải thích cách luồng thông tin qua ba cửa hàng, với
mỗi cửa hàng có năng lực và thời lượng: trí nhớ giác quan(SM), trí nhớ ngắn hạn (STM) và trí
nhớ dài hạn (LTM).
Trí nhớ giác quan dựa trên năm giác quan thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác,
là Một hệ thống lưu trữ lưu giữ thông tin ở dạng tương đối, chưa được xử lý trong từng
phần giây. Trừ khi thông tin được yêu cầu, nếu không nó sẽ không được ghi nhớ và lưu trữ,
và thông thường nó sẽ bị mất.Trí nhớ ngắn hạn là thông tin tham dự được truyền từ kho
giác quan. Kho lưu trữ ngắn hạn có thể lưu giữ những kỷ niệm trong một khoảng thời gian
ngắn, nhưng khoảng thời gian nó lưu lại đó là khá hạn chế. Nó chỉ là một nơi để lưu trữ tạm
thời. Thông tin được lưu trữ trong trí nhớ ngắn hạn tồn tại lâu hơn một chút so với trong
kho lưu trữ giác quan. Bộ nhớ dài hạn là nơi lưu trữ số lượng thông tin cao nhất. Những
thông tin này được lưu trữ trong một thời gian dài, và thông tin được lưu trữ có thể rất đa
dạng; trong đó có thể bao gồm ký ức cá nhân, kiến thức chung, niềm tin về bản thân và văn
hóa. Những gì mọi người lưu trữ trong bộ nhớ dài hạn có thể dựa trên sở thích của họ và
những gì họ tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày thông qua các giác quan của họ. Để cho
phép nhiều thông tin hơn được lưu trữ, nó phải được chú ý ở một mức độ nào đó và nó
phải được luyện tập để được ghi nhớ tốt hơn.
Mô hình đa cửa hàng có giá trị mặt cao, vì cách bộ nhớ được lưu trữ dường như áp dụng
cho cuộc sống thực - chúng ta càng chú ý đến điều gì đó, nó sẽ lưu lại trong bộ nhớ của
chúng ta càng lâu. Điều này có thể được hỗ trợ bởi một nghiên cứu được thực hiện bởi
Glanzer và Cunitz(1966). Các nhà nghiên cứu đã sử dụng việc thu hồi miễn phí danh sách 15
mục kết hợp với nhiệm vụ gây nhiễu để chỉ ra rằng có hai quá trình liên quan đến việc truy
xuất thông tin. Các nhà nghiên cứu đã hiển thị lần lượt 15 danh sách gồm 15 từ và yêu cầu
các đối tượng nhớ lại các từ đó theo một trong ba điều kiện: nhớ lại không chậm trễ, 10 giây
trễ và 30 giây. Không có độ trễ, 5 từ đầu tiên và ba từ cuối cùng được nhớ lại tốt nhất nhưng
với độ trễ 10 hoặc 30 giây trong đó đối tượng đếm ngược sẽ ít ảnh hưởng đến các từ ở đầu
danh sách nhưng việc nhớ lại các mục sau đó kém hơn. Điều này cho thấy mô hình đa cửa
hàng được sử dụng như thế nào trong ứng dụng đời thực; những từ được đọc ra đầu tiên sẽ
chuyển sang bộ nhớ dài hạn, và những từ được đọc ra sau cùng sẽ nằm trong bộ nhớ ngắn
hạn. Tuy nhiên, nghiên cứu này không phản ánh về cách chúng ta ghi nhớ mọi thứ hàng
ngày; thông tin thường được trình bày với số lượng lớn hơn, và nó thường không được đưa
vào danh sách một cách thuận tiện.
Một bằng chứng khác chứng minh cho model này là thí nghiệm của Clive wear- Sacks (2007).
Đây là một nghiên cứu chứng minh các quá trinh bộ nhớ giữa Short term memory (STM) và
Long term memory( LTM) liên quan đến Mô hình bộ nhớ đa lưu trữ (MSM). Nghiên cứu
được thực hiện bởi Sacks on Clive Wear. Clive Wear là một nhạc sĩ và ông bị mắc bệnh viêm
não do nhiễm siêu vi. Điều này đã khiến anh bị tổn thương nghiêm trọng ở vung hãi mã,
khiến anh suy giảm trí nhớ nghiêm trọng. Anh mắc chứng hay quên anterograde (suy giảm
khả năng ghi nhớ sau một sự cố cụ thể) và suy giảm chứng quên ngược dòng. Anh ấy không
thể hình thanh được kí ức mới vì trí nhớ của anh chỉ có thể kéo dài từ 7-30 giây. Không thể
chuyển thông tin từ STM sang LTM. Các các kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết anh ta có thể
thực hiện được nó. Nghiên cứu này có tính tinh cậy cao vì là môt nghiên cứu điển hình thực
tế và có thông tin chuyên sâu. Nhưng nó không thể khai quát cho toan bộ dân số. Nghiên
cứu này chỉ ra STM và LTM các cửa hàng riêng biệt vì mặc dù còn STM nhưng thông tin
không thể vào được LTM. Và STM có thời hạn lưu trưc nhất định. Nó cũng chỉ ra rằng LMT
phức tạp hơn nhiều so với cách mà Atkinson và Shunfin đã trình bày vì có các kho lưu trữ
khác nhau trong não để cho phép lưu trữ các kỹ năng về thủ tục và vận động.

3. Discuss two or more factors influencing conformity


Conformity is the tendency of people to change their thoughts, feelings, and behaviors to
better conform to social norms in order to help them integrate into a group. There are many
factors that affect to conformity. In this essay, we will discuss two factors that influence
conformity are group size and culture.
There are 2 types of compliance. One is Information Compliance, and this is when an
individual turns to members of a group for information about what is true. The other type is
Code Compliance and this is when an individual conforms to be accepted or liked by other
team members. In addition, it is proven that people have a need for social approval and
acceptance.
One factor that affects conformity is group size. In 1956, Asch conducted an experiment to
investigate whether the perceived pressure of the majority could affect the minority in an
explicit experimental set-up. The participants were 50 male university students. Participants
look at a card with three lines (A, B, C) and another card with a single line. They have to say
aloud which of the three lines on the right is the same length as the line on the left. In his
experiment, he used a naive person and six other allies (whose task was to give the same
wrong answer). Asch found that if there was only one person, there was no match. If there
are two people in a group, the conformity increases to 13.6%. If there are three people in a
group, the conformity increases to 31.8%.Asch made variations of the original by changing
the number of alliances. After three people in a group, the percentage did not increase for
those who matched, so it was concluded that the size of the opposition only mattered up to
a certain point. Asch suggests that with larger groups, participants may become resistant to
compliance if they suspect that members of the majority are working together on purpose.
Another factor that affects conformity is cultural norms. In 1996, Bond and Smith performed
a meta-analysis of 133 studies in 17 different countries on the Asch model. They found a
higher degree of relevance in collectivist cultures than in individualist cultures. Conformity
(it mean percentage of wrong answers) ranged from 15% in an experiment with Belgian
students (Doms, 1983) to 58% among Indian teachers in Fiji (Chandra, 1973). They also
found that overall concordance was higher when the majority group was large. Berry (1967)
used a variant of Asch's conformity to investigate whether the concordance rates between
Temne in Sierra Leone in Africa and the Inuits of Baffin Island in Canada could be related to
standards social norms and socialization practices. He found that Temne, who had an
agricultural economy, had a high degree of conformity. This culture emphasizes obedience
in child-rearing practices as it depends on cooperation in farming. On the other hand, Inuits
are hunters and usually hunt alone. So they need to be able to make decisions for
themselves. Parenting practices emphasize independence as it is necessary for this culture.
This may explain why Inuits tend to be less compliant than Temne.
As such, this essay has discussed two factors that affect conformity- situational factors are
group size – unanimity and cultural norms.

Sự phù hợp là xu hướng mọi người thay đổi suy nghĩ, cảm xúc và hanh vi của mình để phù
hợp hơn với các chuẩn mực xã hội nhằm mục đích giúp họ phù hợp với một nhóm. Có nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp. Trong bài luận này sẽ thảo luận về hai yếu tố ảnh hưởng
đến sự phù hợp là quy mô nhóm và văn hóa.
Có 2 loại sự phù hợp. Một là Tuân thủ Thông tin, và đây là khi một cá nhân quay sang các
thành viên của một nhóm để lấy thông tin về những gì là đúng. Loại còn lại là Sự tuân thủ
Quy phạm, và đây là khi một cá nhân tuân thủ để được các thành viên khác trong nhóm
chấp nhận hoặc yêu thích. Ngoài ra, nó được chứng minh rằng mọi người có nhu cầu được
xã hội chấp thuận và chấp nhận.
Một yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp là quy mô nhóm. Năm 1956, Asch đã tiến hành một
thử nghiệm để điều tra xem liệu áp lực nhóm được đa số nhận thức có thể ảnh hưởng đến
thiểu số hay không trong một thiết lập thử nghiệm rõ ràng. Các đối tượng tham gia là 50
nam sinh viên đại học. Những người tham gia nhìn vào một thẻ có ba dòng (A, B, C) và thẻ
khác có một dông duy nhất. Các em phải nói to dòng nào trong ba dòng bên phải có cùng độ
dài với dòng bên trai Trong thí nghiệm của ông, ông sử dụng một người ngây thơ và sáu
người đồng minh khác có nhiệm vụ đưa ra câu trả lời sai giống nhau. Ashc nhận thấy rằng
nếu chỉ có một người, thì không có sự phù hợp. Nếu có hai người trong một nhóm, sự phù
hợp tăng lên 13,6%. Nếu có ba người trong một nhóm, mức độ phù hợp tăng lên
31,8%. Asch đã thực hiện các biến thể của nghiên cứu ban đầu bằng cách thay đổi số lượng
các liên minh. Sau ba người trong một nhóm, tỷ lệ phần trăm không tăng đối với những
người phù hợp, vì vậy người ta kết luận rằng quy mô chống đối chỉ quan trọng cho đến một
thời điểm nhất định. Asch gợi ý rằng với các nhóm lớn hơn, những người tham gia có thể trở
nên phản đối việc tuân thủ nếu họ nghi ngờ rằng các thành viên của đa số đang làm việc
cùng nhau có mục đích.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến sự phù hợp là các chuẩn mực văn hóa. Năm 1996, Bond và
Smith thực hiện phân tích tổng hợp 133 nghiên cứu ở 17 quốc gia khác nhau về mô hình của
Asch. Họ nhận thấy mức độ phù hợp cao hơn trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể
so với các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân. Mức độ phù hợp (tức là phần trăm câu trả
lời sai) dao động từ 15% trong một thí nghiệm với sinh viên Bỉ (Doms, 1983) đến 58% trong
số các giáo viên Ấn Độ ở Fiji (Chandra, 1973). Họ cũng nhận thấy rằng nhìn chung sự phù
hợp cao hơn khi nhóm đa số lớn. Berry (1967) đã sử dụng một biến thể của thử nghiệm về
sự phù hợp của Asch để nghiên cứu xem liệu tỷ lệ phù hợp giữa Temne ở Sierra Leone ở
Châu Phi và Inuits of Baffin Island ở Canada có thể liên quan đến các chuẩn mực xã hội và
thực tiễn xã hội hóa hay không. Ông phát hiện ra rằng Temne, người có nền kinh tế nông
nghiệp, có mức độ phù hợp cao. Nền văn hóa này nhấn mạnh sự vâng lời trong thực hành
nuôi dạy trẻ em bởi vì nền văn hóa này phụ thuộc vào sự hợp tác trong canh tác. Mặt khác,
Inuits là những thợ săn và thường đi săn một mình. Vì vậy, họ cần có khả năng đưa ra quyết
định cho chính mình. Thực hành nuôi dạy trẻ nhấn mạnh tính tự lập vì điều này là cần thiết
trong nền văn hóa này. Điều này có thể giải thích tại sao các Inuits có xu hướng ít tuân thủ
hơn so với Temne.
Như vậy,bài luận này đã thảo luận về hai yếu tố ảnh hưởng đến các yếu tố tình huống phù
hợp (quy mô nhóm và sự nhất trí) và các chuẩn mực văn hóa.

You might also like