Professional Documents
Culture Documents
Spycology Exam
Spycology Exam
Horrmone oxytocin là một hormone được sản xuất ở vùng dưới đồi và được giải phóng vào
máu bởi tuyến yên và vào não. Người ta biết rằng homorne này được tiết ra trong quá trình
chuyển dạ và tạo điều kiện cho quá trình sinh nở, cho con bú và bắt đầu hình thành các
hành vi của các người mẹ. Các nhà nghiên cứu cũng đã tìm hiểu vai trò của Oxytonic trong
sự liên qua đến các cặp và hành vi xã hội của con người như sự tin tưởng.
Baumgartner và cộng sự (2008) đã thực hiện một nghiên cứu về vai trò của oxytonic trong
một trò chơi có tên gọi là trò chơi tin tưởng. Mục đích của nghiên cứu là điều tra vai trò của
oxytonic sau khi vi phạm lòng tin. Có 49 người tham gia. Những người tham gia đã chơi một
trò chơi tin cậy, được các nhà kinh tế học và các nhà khoa học thần kinh sử dụng để nghiên
cứu sự tương tác xã hội. Những người tham gia được đặt trong một máy quét fMRI. Họ
nhận được oxytocin hoặc gỉa dược qua đường xịt mũi. Nhà đầu tư (người tham gia 1) nhận
được một khoảng tiền và phải quyết định giữ hoặc chia sẽ nó với người ủy thác (người tham
gia 2). Nếu nso được chia sẽ thì tổng số tiền sẽ tăng lên gắp 3 lần.Sau đó, người ủy thác phải
quyết định trả số tiền này chia sẽ lại với nhà đầu tư ( có nghĩa là đạt được sự tin tưởng của
họ) hoặc giữ lại (vi phạm lòng tin). Sau đó, trong điều kiện thứ hai, những người tham gia
nhận được một thông baod rằng họ sẽ chơi một trò chơi một trò chơi mạo hiểm với một
chiếc máy tính, thay vì là giữa người với người. Những người tham gia sau đó nhận được
phản hồi của các nhà nghiên cứu trong trò chơi.Nhưngx người tham gia vào nhóm giả dược
có thể tỏ ra ít tin tưởng hơn sau khi được cho biết về sự phản bội và họ đầu tư ít hơn và
không tin tưởng vào người ủy thác. Các mã quét fMRI cho thấy sự giảm phản ứng trong
hạch hạnh nhân và nhân đuôi. Các hạch nhân có liên quan đến cảm xúc và xử lý cảm xúc
trong não. Vì nó có nhiều thụ thể oxytocin, Có một mối liên hệ giữa oxytocin và tình cảm và
hành vi của bạn đối với ai đó sẽ phụ thuộc vào mức độ tin tưởng mà bạn dành cho người
đó. Nhân đuôi, một thành phần của hạch cơ bản, được liên kết với trí nhớ và đóng một vai
trò trong việc học hỏi và ghi nhớ sự tin tưởng, điều này cho thấy rằng một khi lòng tin bị vi
phạm, rất khó để tin tưởng người đó một lần nữa. Những người tham gia vào nhóm
oxytocin tiếp tục đầu tư với tỷ lệ tương tự sau khi nhận được phản hồi về sự vi phạm lòng
tin, điều này có thể cho thấy lý do tại sao mọi người có thể khôi phục lòng tin. Những người
tham gia có mức oxytocin cao hơn tin tưởng hơn và tiếp tục chia sẻ tiền, ngay cả sau khi bị
phản bội, cho thấy rằng oxytocin có mối liên hệ với sự tin tưởng.
2)Explain how one principle that defines the cognitive level of analysis may be
demonstrated in one example of researcher (theory or study)
The cognitive level of analysis (CLA) is based on mental processes such as perception,
annotation, language, thinking, and memory. It has to do with how we take in information
from the outside world, how we understand it, and what we use it for. There are three basic
principles for determining the level of cognitive analysis. One of the three principles is
cognitive processes influenced by cultural and social factors. Cognitive tasks as memory are
common, but there will be cross-cultural differences in processing mechanism. An example
of this principle is schemas. A schema is a representation of knowledge based on
experience. It can represent mental knowledge created over time from previous
experiences. It helps us organize information, guides our actions, and can make predictions
about the world. The information that a person is exposed to can be determined by the
socio-cultural background in which they live, such as religious factors, cultural traditions,
beliefs, and morals. This principle has been proved by Bartlett (1932). The aim of this study
was to investigate how memory is influenced by cultural factors. British participants. They
will hear a legendary Native American story called: "War of the Ghosts". To test their
memory of the story, Barlett assigned participants to one of two conditions: "repeated
reproduction" and "serial reconstruction", in which they were asked to remember and
repeat stories for different retention periods.
Bartlett has found that there is no significant difference between the way the groups recall
the story. As the times of retellings increased, the story became shorter and the participants
still remembered the main theme in the story, but they also changed some unfamiliar
elements of the story to fit their own cultural expectations, and the story remains coherent
despite the changes. This study showed the change of cultural alienation into the cultural
familiarity of the participants. It is this that makes the story more relatable given the
experiences of the participants and their cultural backgrounds. Thus, this study supports the
principle that social and cultural factors influence cognitive processes such as differences in
participants and culturally used stimuli that influence mental expressions.
Mức độ phân tích nhận thức (CLA) dựa trên các quá trình tinh thần như nhận thức, sự chú ý,
ngôn ngữ, suy nghĩ và trí nhớ. Nó liên quan đến cách chúng ta tiếp nhận thông tin từ thế giới
bên ngoài, cách chúng ta hiểu nó như thế nào và dùng nó để làm gì. Có 3 nguyên tắc cơ bả
để xác định mức độ phân tích nhận thức. Một trong ba nguyên tác đó là là các quá trình
nhận thức chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá và xã hội. Các nhiệm vụ nhận thức như là
một bộ nhớ phổ biến nhưng nó sẽ có sự khác biệt giữa các nền văn hoá trong cơ chế xử lí.
Một víu dụ cho nguyên tắc này là các lược đồ. Lược đồ là sự thể hiện kiến thức dựa trên
kinh nghiệm. Nó có thể trình bày kiến thức về mặt tinh thần được tạo ra theo thời gian từ
những trải nghiệm trước đây. Nó giúp chúng ta sắp xếp các thông tin, hướng dẫn hành động
của chúng ta và có thể đưa ra những dự đón về thế giới. Những thông tin mà một người tiếp
xúc có thể được xác định bởi nền văn hoá xã hội nơi họ đang sống như các yếu tố tôn giáo,
truyền thống văn hoá, tín ngưỡng, đạo đức. Nguyên tác này đã được chứng minh bởi
Bartlett(1932). Mục đích của nghiên cứu này là điều tra xem trí nhớ bị ảnh hưởng như thế
nào bởi các yếu tố văn hoá. Những người tham gia Anh. Họ sẽ được nghe một câu chuyện
huyền thoại của người Mỹ bản địa nó có tên là:" Cuộc chiến của những hồn ma". Để kiểm
tra trí nhớ của họ về câu chuyện, Btarlett đã phân bố những người tham gia vào một trong 2
điều kiện là: " tái tạo lặp đi lặp lại" và " tái tạo nối tiếp", trong đó họ được yêu cầu phải nhớ
và lặp lại câu chuyện trong các khoảng thời gian lưu giữ khác nhau.
Bartlett đã nhận thấy rằng nó không có sự khác biệt đáng kể giữa cách mà các nhóm nhớ lại
câu chuyện.Khi số lần kể lại câu chuyện tăng lên thì câu chuyện sẽ trwor nên ngắn hơn và
những người tham gia vẫn nhớ chủ đề chính trong câu chuyện nhưng họ cũng đã thay đổi
một số yếu tố không quen thuộc của câu chuyện để phù hợp với mong đợi văn hoá của
riêng họ, và câu chuyện vẫn giữ là một thể mạch lạc mặc dù đã đã thay đổi. Những nghiên
cứu này cho thấy sự thay đổi những điều xa lạ về văn hoá thành những điều quen thuộc về
văn hoá của những người tham gia. Chính điều này đã làm câu chuyện trở nên dể hiểu hơn
theo kinh nghiệm của những người tham gia và nền tảng văn hoá của họ. Như vậy nghiên
cứu này ủng hộ nguyên tắc rằng các yếu tố xã hội và văn hoá ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức như sự khác biệt về người tahm gia và các kích thích được sử dụng về văn hoá ảnh
hưởng đến các biểu hiện tinh thần.
Lý thuyết bản sắc xã hội (SIT) là một lý thuyết được phát triển bởi Tajfel và Turner (1979).
Nó nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và bản sắc xã hội. Bản sắc xã hội có thể
được định nghĩa như một phần khái niệm của bản thân, dựa trên kiến thức về tư cách thành
viên trong các nhóm xã hội. Các cá nhân cố gắng duy trì một quan niệm tích cực về bản thân
cũng như một bản sắc xã hội tích cực. Mọi người so sánh giữa nhóm bên trong và nhóm bên
ngoài. Nhóm bên trong là tích cực và nhóm bên ngoài là tiêu cực. Một thử nghiệm tuyệt vời
cho lý thuyết bản sắc xã hội là của Tajfel (1970) trong việc phân biệt đối xử giữa các nhóm
(mô hình nhóm tối thiểu). Mục đích là để điều tra xem nam sinh có thể biểu hiện sự phân
biệt đối xử theo nhóm ưu tiên khi họ được phân công vào một nhóm nội bộ dựa trên một
nhiệm vụ ngẫu nhiên hay không. Có 64 nam sinh từ một trường tiểu học ở Anh tham gia.
Các cụm có số lượng chấm khác nhau được chiếu lên màn hình và họ được yêu cầu xác định
số chấm trong mỗi cụm. Các nhà thí nghiệm sau đó phân các cậu bé vào các nhóm ngẫu
nhiên được chia thành hai nhóm: "đánh giá quá cao và đánh giá thấp. Sau đó, các cậu bé
được yêu cầu tặng quà phần thưởng hoặc thậm chí tiền cho các cậu bé khác trong thí
nghiệm. Các nhà nghiên cứu nhận thấy hành động của các cậu bé trong các nhóm giống
nhau hoặc khác nhóm. Các nam sinh trong cùng một nhóm có hành động ủng hộ các thành
viên trong nhóm. Kết quả cho thấy các nam sinh cùng nhóm tặng quà hoặc tiền cho các nam
sinh trong cùng một nhóm nhiều hơn các nam sinh trong các nhóm khác. trong nhóm và
ngoài nhóm. Tajfel đã chứng minh rằng một “nhóm tối thiểu” là tất cả những gì cần thiết để
các cá nhân thể hiện sự phân biệt đối xử với những người ngoài nhóm.
Section B
Tưởng chừng giữa nhận thức và sinh lý hoc chẳng liên quan tới nhau nhưng giữa hai lĩnh
vực này lại có một điểm chung. Hai yếu tố này ảnh hưởng đến sự thay đổi hành vi và những
+
+
++++++++++++++
++
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
++++++++++++++++++++
+
+
+
+
+++
++++++++++
++
Bài luận này sẽ đánh giá về một trong những mô hình của bộ nhớ. Bộ nhớ được định nghĩa
là quá trình tinh thần mã hóa, lưu trữ và truy xuất thông tin. Để lưu trữ thông tin, bộ nhớ
cần trải qua 3 giai đoạn là quy trình mã hóa, quy trinh lưu trữ, quy trinh truy xuất. Đồng
thời, nó cũng có 3 mô hình chính chứng minh cách thức hoạt của các quá trình của bộ nhớ
bao gồm Multistore Model (MSM), Working Memory Model (WM), Levels of Processing
Model (LOP). For this easy, sẽ tập trung vào việc đanh giá Multistore Model (MSM).
Mô hình bộ nhớ đa lưu trữ (MSM) do Atkinso và Shiffrin’s đề xuất (1968) là một mô hình
giải thích lý thuyết về trí nhớ của họ. Nó giải thích cách luồng thông tin qua ba cửa hàng, với
mỗi cửa hàng có năng lực và thời lượng: trí nhớ giác quan(SM), trí nhớ ngắn hạn (STM) và trí
nhớ dài hạn (LTM).
Trí nhớ giác quan dựa trên năm giác quan thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác,
là Một hệ thống lưu trữ lưu giữ thông tin ở dạng tương đối, chưa được xử lý trong từng
phần giây. Trừ khi thông tin được yêu cầu, nếu không nó sẽ không được ghi nhớ và lưu trữ,
và thông thường nó sẽ bị mất.Trí nhớ ngắn hạn là thông tin tham dự được truyền từ kho
giác quan. Kho lưu trữ ngắn hạn có thể lưu giữ những kỷ niệm trong một khoảng thời gian
ngắn, nhưng khoảng thời gian nó lưu lại đó là khá hạn chế. Nó chỉ là một nơi để lưu trữ tạm
thời. Thông tin được lưu trữ trong trí nhớ ngắn hạn tồn tại lâu hơn một chút so với trong
kho lưu trữ giác quan. Bộ nhớ dài hạn là nơi lưu trữ số lượng thông tin cao nhất. Những
thông tin này được lưu trữ trong một thời gian dài, và thông tin được lưu trữ có thể rất đa
dạng; trong đó có thể bao gồm ký ức cá nhân, kiến thức chung, niềm tin về bản thân và văn
hóa. Những gì mọi người lưu trữ trong bộ nhớ dài hạn có thể dựa trên sở thích của họ và
những gì họ tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày thông qua các giác quan của họ. Để cho
phép nhiều thông tin hơn được lưu trữ, nó phải được chú ý ở một mức độ nào đó và nó
phải được luyện tập để được ghi nhớ tốt hơn.
Mô hình đa cửa hàng có giá trị mặt cao, vì cách bộ nhớ được lưu trữ dường như áp dụng
cho cuộc sống thực - chúng ta càng chú ý đến điều gì đó, nó sẽ lưu lại trong bộ nhớ của
chúng ta càng lâu. Điều này có thể được hỗ trợ bởi một nghiên cứu được thực hiện bởi
Glanzer và Cunitz(1966). Các nhà nghiên cứu đã sử dụng việc thu hồi miễn phí danh sách 15
mục kết hợp với nhiệm vụ gây nhiễu để chỉ ra rằng có hai quá trình liên quan đến việc truy
xuất thông tin. Các nhà nghiên cứu đã hiển thị lần lượt 15 danh sách gồm 15 từ và yêu cầu
các đối tượng nhớ lại các từ đó theo một trong ba điều kiện: nhớ lại không chậm trễ, 10 giây
trễ và 30 giây. Không có độ trễ, 5 từ đầu tiên và ba từ cuối cùng được nhớ lại tốt nhất nhưng
với độ trễ 10 hoặc 30 giây trong đó đối tượng đếm ngược sẽ ít ảnh hưởng đến các từ ở đầu
danh sách nhưng việc nhớ lại các mục sau đó kém hơn. Điều này cho thấy mô hình đa cửa
hàng được sử dụng như thế nào trong ứng dụng đời thực; những từ được đọc ra đầu tiên sẽ
chuyển sang bộ nhớ dài hạn, và những từ được đọc ra sau cùng sẽ nằm trong bộ nhớ ngắn
hạn. Tuy nhiên, nghiên cứu này không phản ánh về cách chúng ta ghi nhớ mọi thứ hàng
ngày; thông tin thường được trình bày với số lượng lớn hơn, và nó thường không được đưa
vào danh sách một cách thuận tiện.
Một bằng chứng khác chứng minh cho model này là thí nghiệm của Clive wear- Sacks (2007).
Đây là một nghiên cứu chứng minh các quá trinh bộ nhớ giữa Short term memory (STM) và
Long term memory( LTM) liên quan đến Mô hình bộ nhớ đa lưu trữ (MSM). Nghiên cứu
được thực hiện bởi Sacks on Clive Wear. Clive Wear là một nhạc sĩ và ông bị mắc bệnh viêm
não do nhiễm siêu vi. Điều này đã khiến anh bị tổn thương nghiêm trọng ở vung hãi mã,
khiến anh suy giảm trí nhớ nghiêm trọng. Anh mắc chứng hay quên anterograde (suy giảm
khả năng ghi nhớ sau một sự cố cụ thể) và suy giảm chứng quên ngược dòng. Anh ấy không
thể hình thanh được kí ức mới vì trí nhớ của anh chỉ có thể kéo dài từ 7-30 giây. Không thể
chuyển thông tin từ STM sang LTM. Các các kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết anh ta có thể
thực hiện được nó. Nghiên cứu này có tính tinh cậy cao vì là môt nghiên cứu điển hình thực
tế và có thông tin chuyên sâu. Nhưng nó không thể khai quát cho toan bộ dân số. Nghiên
cứu này chỉ ra STM và LTM các cửa hàng riêng biệt vì mặc dù còn STM nhưng thông tin
không thể vào được LTM. Và STM có thời hạn lưu trưc nhất định. Nó cũng chỉ ra rằng LMT
phức tạp hơn nhiều so với cách mà Atkinson và Shunfin đã trình bày vì có các kho lưu trữ
khác nhau trong não để cho phép lưu trữ các kỹ năng về thủ tục và vận động.
Sự phù hợp là xu hướng mọi người thay đổi suy nghĩ, cảm xúc và hanh vi của mình để phù
hợp hơn với các chuẩn mực xã hội nhằm mục đích giúp họ phù hợp với một nhóm. Có nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp. Trong bài luận này sẽ thảo luận về hai yếu tố ảnh hưởng
đến sự phù hợp là quy mô nhóm và văn hóa.
Có 2 loại sự phù hợp. Một là Tuân thủ Thông tin, và đây là khi một cá nhân quay sang các
thành viên của một nhóm để lấy thông tin về những gì là đúng. Loại còn lại là Sự tuân thủ
Quy phạm, và đây là khi một cá nhân tuân thủ để được các thành viên khác trong nhóm
chấp nhận hoặc yêu thích. Ngoài ra, nó được chứng minh rằng mọi người có nhu cầu được
xã hội chấp thuận và chấp nhận.
Một yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp là quy mô nhóm. Năm 1956, Asch đã tiến hành một
thử nghiệm để điều tra xem liệu áp lực nhóm được đa số nhận thức có thể ảnh hưởng đến
thiểu số hay không trong một thiết lập thử nghiệm rõ ràng. Các đối tượng tham gia là 50
nam sinh viên đại học. Những người tham gia nhìn vào một thẻ có ba dòng (A, B, C) và thẻ
khác có một dông duy nhất. Các em phải nói to dòng nào trong ba dòng bên phải có cùng độ
dài với dòng bên trai Trong thí nghiệm của ông, ông sử dụng một người ngây thơ và sáu
người đồng minh khác có nhiệm vụ đưa ra câu trả lời sai giống nhau. Ashc nhận thấy rằng
nếu chỉ có một người, thì không có sự phù hợp. Nếu có hai người trong một nhóm, sự phù
hợp tăng lên 13,6%. Nếu có ba người trong một nhóm, mức độ phù hợp tăng lên
31,8%. Asch đã thực hiện các biến thể của nghiên cứu ban đầu bằng cách thay đổi số lượng
các liên minh. Sau ba người trong một nhóm, tỷ lệ phần trăm không tăng đối với những
người phù hợp, vì vậy người ta kết luận rằng quy mô chống đối chỉ quan trọng cho đến một
thời điểm nhất định. Asch gợi ý rằng với các nhóm lớn hơn, những người tham gia có thể trở
nên phản đối việc tuân thủ nếu họ nghi ngờ rằng các thành viên của đa số đang làm việc
cùng nhau có mục đích.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến sự phù hợp là các chuẩn mực văn hóa. Năm 1996, Bond và
Smith thực hiện phân tích tổng hợp 133 nghiên cứu ở 17 quốc gia khác nhau về mô hình của
Asch. Họ nhận thấy mức độ phù hợp cao hơn trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể
so với các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân. Mức độ phù hợp (tức là phần trăm câu trả
lời sai) dao động từ 15% trong một thí nghiệm với sinh viên Bỉ (Doms, 1983) đến 58% trong
số các giáo viên Ấn Độ ở Fiji (Chandra, 1973). Họ cũng nhận thấy rằng nhìn chung sự phù
hợp cao hơn khi nhóm đa số lớn. Berry (1967) đã sử dụng một biến thể của thử nghiệm về
sự phù hợp của Asch để nghiên cứu xem liệu tỷ lệ phù hợp giữa Temne ở Sierra Leone ở
Châu Phi và Inuits of Baffin Island ở Canada có thể liên quan đến các chuẩn mực xã hội và
thực tiễn xã hội hóa hay không. Ông phát hiện ra rằng Temne, người có nền kinh tế nông
nghiệp, có mức độ phù hợp cao. Nền văn hóa này nhấn mạnh sự vâng lời trong thực hành
nuôi dạy trẻ em bởi vì nền văn hóa này phụ thuộc vào sự hợp tác trong canh tác. Mặt khác,
Inuits là những thợ săn và thường đi săn một mình. Vì vậy, họ cần có khả năng đưa ra quyết
định cho chính mình. Thực hành nuôi dạy trẻ nhấn mạnh tính tự lập vì điều này là cần thiết
trong nền văn hóa này. Điều này có thể giải thích tại sao các Inuits có xu hướng ít tuân thủ
hơn so với Temne.
Như vậy,bài luận này đã thảo luận về hai yếu tố ảnh hưởng đến các yếu tố tình huống phù
hợp (quy mô nhóm và sự nhất trí) và các chuẩn mực văn hóa.